Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Lịch sử
Lời giới thiệu:
Nhân dịp Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH tổ chức Hội ngộ Binh chủng thường
niên vào tháng 7/2015 tại Thủ đô Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, Ban Kỹ
Thuật xin được hân hạnh giới thiệu với
Quý Độc giả và Quý ACE cựu quân nhân SĐND về trang điện tử mới được
thành lập “Trang
Nhảy Dù Washington, D.C. [GĐMĐVN Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận]”
Cũng nhân dịp
này, BKT xin được hân hạnh giới thiệu bộ sách “Binh chủng Nhảy Dù –
20 năm chiến sự” do các tác giả Đại úy Võ Trung Tín và Đại úy Nguyễn
Hữu Viên thực hiện. Đây là bộ sách nói về Chiến sử của Sư Đoàn Nhảy
Dù Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ ngày thành lập. Bộ sách gồm 3 phần,
kính mời Quý vị theo dõi phần Mục lục bên dưới. Trân trọng. --BKT.
****** ||| ******
MỤC LỤC
B. PHẦN B - CHIẾN SỰ
1.
Trận Điện Biên Phủ (13-3-1954 đến
7-5-1954)
2.
Tình Hình Việt Nam Sau Hiệp Định Geneve
3. Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng (23-5-1955 đến 6-12-1955)
4.
Chiến
Dịch Hoàng Diệu (từ 21/9 đến 24-10-1955)
5.
Chiến Dịch Nguyễn Huệ
(từ 1-1- đến 17-2-1956)
6.
Binh Biến ngày 11-11-1960
7.
Trận
Phước Thành (18 - 19-9-1961)
8.
Trận Ấp Bắc (2 - 3-1-1963)
9.
Trận Tân Châu Hồng Ngự (2 đến 4-3-1964)
10.
Trận Bình Giả
(3-12-1964 - 3-1-1965)
11.
Trận Hắc Dịch (9/2 đến 10-2-1965)
12. Trận Ba Gia (28-5-1965 đến 2-6-1965)
13.
Trận Đồng Xoài (9
đến 20-6-1965)
14.
Trận Đức Cơ (4-8-1965 - 15-8-1965)
15.
Chiến dịch Ia Drang - Thần Phong 7 (14 - 18-11- 1965)
16.
Hành
Quân Thần Phong 11 (28/1 – 6-3-1966)
17.
Đại Bàng 800
(12-11-1966)
18.
Hành Quân Liên Kết 81 (16/2 đến 22-2-1967)
19. Lam Sơn 54–Khu Phi Quân Sự (18-27-5-1967)
20.
Trận Dak To
(đồi 1416) (3 – 22-11-1967)
21.
Tổng Công Kích Năm Mậu Thân (từ
ngày 29-1-1968)
22.
Mặt Trận Sài Gòn (30-1-1968)
23.
Mặt Trận
Quảng Trị (30-1-1968)
24.
Mặt Trận Huế (30-1-1968)
25. Mặt Trận Khe Sanh (1 - 15-4-1968)
26.
Mặt Trận Ashau (19/4 –
17-5-1968)
27.
Trận Mậu Thân đợt hai (từ ngày 5-5-1968)
28.
Trận Gò Nổi (Tây Ninh) (19-5-1969)
29.
Chiến Dịch Bình Tây (Từ
ngày 27-3-1970)
30.
Hành Quân Toàn Thắng 42 (29/4 – 22-7-1970)
31. Hành Quân Toàn Thắng 43 (1/5– 30-6-1970)
32.
Hành Quân Toàn
Thắng 45 (6/5 – 30-6-1970)
33. Hành Quân Lam Sơn 719 (8/2 đến 6-4-1971)
34.
Trận đánh Căn Cứ
Hỏa Lực 6 (4/4 đến 17-4-1971)
35.
Trận đánh Căn Cứ Hỏa Lực 5
(24/5 - 19-6-1971)
36.
Mùa Hè Đỏ Lửa
37.
Mặt Trận Tây Nguyên
(17/3 - 28-5-1972)
38.
Mặt Trận Bình Long (2/4 - 8-6-1972)
39.
Mặt Trận Quảng Trị (30/3 - 15-9-1972)
40.
Trận Thường Đức (18/8 -
8-11-1974)
41.
Trận Ban Mê Thuột (10/3 - 16-3-1975)
42.
Trận
Khánh Dương (19/3 - 1-4-1975)
43.
Trận Phan Rang (1/4 -
17-4-1975)
44.
Trận Long Khánh (9/4 – 21 -4-1975)
C. PHẦN C: CÁC VỊ TƯ LỆNH SĐND
TIỂU SỬ CÁC TÁC GIẢ
(Võ Trung Tín & Nguyễn
Hữu Viên)
******40******
40. Trận Thường Đức (18/8 - 8-11-1974)
Trận Thường Đức
(Từ ngày 18/8 đến ngày 8/11/1974)
Sau khi Hiệp Định Paris được ký
kết vào cuối tháng 1/1973, tình hình chiến cuộc Việt Nam tạm lắng
dịu. Hai Sư đoàn Tổng trừ bị (Nhảy
Dù
và Thủy Quân Lục Chiến) vẫn còn bị lưu giữ tại Quân Khu 1. Lấy Quốc
Lộ 1 làm ranh giới, Sư đoàn Nhảy Dù trấn giữ phía Tây, dọc theo hành
lang dãy Trường Sơn, và trách nhiệm luôn phần bảo vệ an ninh Quốc Lộ
1, từ cây số 17 ra tới bờ sông Thạch Hãn (tỉnh Quảng Trị). Sư đoàn
Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) trấn giữ phía Đông từ Quốc Lộ 1 ra đến bờ
biển, và từ sông Mỹ Chánh ra đến tận Cổ Thành Quảng Trị ở phía Bắc.
Các đơn vị thuộc Sư đoàn Nhảy Dù chiếm những cao điểm tới tận chân
dãy Trường Sơn, các căn cứ Anne (Động Ông Đô), Barbara (đã giành lại
được trong cuộc tổng phản công tái chiếm Quảng Trị). Đây là 2 căn cứ
chiến lược chế ngự toàn vùng hành quân.
Từ An Lỗ, cây số 17
(căn cứ Hiệp Khánh, Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù) về phía Nam là trách
nhiệm của các đơn vị cơ hữu thuộc Quân Ðoàn 1. Sư đoàn 1 Bộ Binh
trấn đóng ở phía Bắc đèo Hải Vân. Phía Nam là trách nhiệm của Sư
đoàn 3 và Sư Ðoàn 2 Bộ Binh. Cả hai khu vực Bắc và Nam đèo Hải Vân
đều có các đơn vị Biệt Động Quân, Địa Phương Quân, và Nghĩa Quân
trấn giữ.
Đối đầu với Sư đoàn Nhảy Dù là Sư Ðoàn 325 Trị
Thiên của Bắc Việt. Tuy danh xưng là Sư Ðoàn Trị Thiên, nhưng thực
ra bộ đội của Sư đoàn này rất trẻ và nói toàn giọng Bắc. Tình hình
tổng quát tại Quân Khu 1 sau ngày ký hiệp định tương đối yên tĩnh.
Vào những tháng cuối năm 1974, sau khi trao đổi tù binh với Hoa
Kỳ xong xuôi, Bắc Việt không ngần ngại bắt đầu vi phạm Hiệp Định Ba
Lê để thực hiện ý đồ xâm lăng thôn tính miền Nam bằng võ lực. Qua
các cuộc trắc nghiệm xem phản ứng của Hoa Kỳ bằng cách mở cuộc tấn
công vào tỉnh Phước Long cuối năm 1974, và một số thị trấn khác
thuộc Quân Khu 3. Thấy Hoa Kỳ không có phản ứng, cộng sản Bắc Việt
bắt đầu tung các đơn vị chủ lực vào cuộc xâm lược Miền Nam Việt Nam.
Bộ đội, pháo binh, cơ giới của họ ngang nhiên ào ạt di chuyển trên
đường mòn HCM vào các quân khu 2 và 3 hàng hàng lớp lớp giữa ban
ngày, không cần ngụy trang ẩn nấp như xưa.
Song song với việc
chuyển quân, CSBV mở mặt trận lớn đầu tiên tại Vùng 1 Chiến Thuật
với ý đồ cầm chân các đơn vị tổng trừ bị của QLVNCH. Hai Sư đoàn 304
và 324 Bắc Việt, cùng các Trung đoàn pháo, chiến xa bất thần đánh
chiếm quận Thường Đức thuộc tỉnh Quảng Nam. Là một điểm chiến lược
nhờ địa thế núi rừng hiểm trở.
Thường Đức là một trong 9 quận
của tỉnh Quảng Nam (Đức Dục, Quế Sơn, Thường Đức, Hiếu Đức, Đại Lộc,
Duy Xuyên, Điện Bàn, Hòa Vang và Hiếu Nhơn), được thành lập năm
1962, tách ra từ quận Đức Dục, nằm trong thung lũng Hà Tân, một khu
vực nghèo nàn khô cằn sỏi đá ở phía Tây Nam Đà Nẵng khoảng 40km. Và
phía Tây là vùng rừng núi trùng điệp chạy dài tới biên giới Việt-Lào
khoảng 50km có dãy núi Hà Tân và Khe Ba thoải dần về phía Đông. Phía
Bắc có dãy Tiên Sơn, An Điềm, kéo dài từ đỉnh 776 tới đỉnh 1062.
Phía Nam cách khoảng 1.5km là dãy núi Hữu Trinh cao 848m. Phía Đông
và Đông Bắc khoảng 4km là dãy núi Ba Khe, chạy sát ra sông Vu Gia,
chia cắt Thường Đức thành khu vực độc lập. Đây là tiền đồn chiến
lược bảo vệ căn cứ quân sự và phi trường Đà Nẵng, một trong những
căn cứ lớn nhất của VNCH.
Năm 1974, Quân Đoàn I đã bố trí Sư
đoàn 3 Bộ Binh trấn giữ tỉnh Quảng Nam và một phần tỉnh Quảng Tín.
Sư đoàn này có ba Trung đoàn cơ hữu là Trung đoàn 2, Trung đoàn 56
và Trung đoàn 57. Trung đoàn 2 phụ trách khu vực Gò Nồi và quận Đức
Dục. Trung đoàn 56 chịu trách nhiệm về hai quận Quế Sơn và Thăng
Bình. Trung đoàn 57 là Trung đoàn trừ bị.
Hai nơi hiểm yếu và chịu áp lực nặng nhất là Nông Sơn và Thường
Đức, được giao cho Liên Đoàn 14 BĐQ. Liên đoàn này có 3 Tiểu
đoàn là 77, 78 và 79. Tiểu đoàn 78 đóng ở Nông Sơn và Tiểu đoàn
79 đóng ở Thường Đức. Thường nhật quận lỵ Thường Đức do hai Đại
đội Địa Phương Quân bảo vệ. Vào giữa tháng 6 năm 1974, khi được
tin cộng quân có thể tấn công Thường Đức, Tiểu đoàn 79 mới được
đưa từ Quảng Ngãi về trấn giữ vị trí này.
Địa hình quanh
Thường Đức rất hiểm yếu, ba bề là núi cao, có nhiều dốc dựng
đứng. Phía Đông bằng phẳng, từ quận Điện Bàn trên giao điểm Quốc
Lộ 1, Liên tỉnh lộ 4 chạy dọc theo sông Vu Gia dẫn vào Thường
Đức dài khoảng 40km, đường sá rất hiểm trở. Quận lỵ Thường Đức
nằm ngay ngã tư Liên tỉnh lộ 4 và Quốc Lộ 14 và cũng là nơi hợp
lưu của hai con sông Côn (dân địa phương gọi là sông Con) và
sông Vu Gia (sông Cái) nước sâu, chạy dài từ Tây sang Đông. Cầu
Hà Tân bắc qua sông Côn, nối liền quận lỵ sang sân bay Đại An.
Hai con sông này vào khoảng tháng 5 và tháng 6 nước cạn, nhiều
đoạn có thể lội qua được. Chính phủ VNCH cho thành lập quận này
nhằm cắt đứt con đường 14, không cho cộng quân sử dụng để di
chuyển vào Nam. Vùng chung quanh đường 14 có bộ lạc Katu sinh
sống.
Trước kia Lực Lượng Ðặc Biệt (LLĐB) Hoa Kỳ đã xây
dựng và để lại một căn cứ phòng thủ chiến lược với hệ thống giao
thông hào liên hoàn trong căn cứ cùng với 35 lô-cốt nửa chìm nửa
nổi, mỗi lô-cốt rộng 4m, xây dựng bằng xi-măng cốt thép bao bọc
hai lớp bao cát đặt ngang ở giữa, nhiều công sự có nắp và một hệ
thống nhà hầm và hầm ngầm. Khu truyền tin, chỉ huy pháo binh,
bệnh viện, kho đều nằm sâu trong lòng đất. Trong khu vực nhà
ngầm được chia thành nhiều phòng. Lực lượng VNCH ở Thường Đức có
Tiểu đoàn 79 Biệt Động Quân Biên Phòng, hai Đại đội Địa Phương
Quân, một Đại đội Cảnh Sát Dã Chiến, một Trung đội Viễn Thám và
16 Trung đội Nghĩa Quân, tất cả đặt dưới sự chỉ huy của Trung tá
Nguyễn Quốc Hùng, quận trưởng.
Về mặt chiến lược Thường
Đức còn là một vị trí quan trọng xuất phát các cuộc hành quân
trinh sát, khống chế con đường tiếp liệu Trường Sơn Đông mà CSBV
vừa mới khai dựng sau ngày ký hiệp định 27/1/1973. Từ phía Bắc
quân dụng và chiến cụ theo đường mòn HCM đưa từ A-Lưới đến
A-Shau qua Trào đến Bến Giàng nằm trên LTL-4 cách Thường Đức
không xa. Tại đây quân CSBV có những kho lẫm tồn trữ quân dụng
tiếp tế cho mặt trận Quân Khu 5.
Về chính trị, với việc
chiếm đóng Thường Đức, Hà Nội có thể đánh giá được phản ứng của
Hoa Kỳ và khả năng tăng viện viện trợ quân sự cho Sài Gòn. Về
quân sự, Hà Nội có thể đánh giá khả năng phản kích, cơ động và
hỏa lực yểm trợ của chủ lực VNCH ở Quân Khu 1, đặc biệt là lực
lượng tổng trừ bị cơ động chiến lược (Nhảy Dù).
Đối với
Việt Nam Cộng Hòa, trận chiến Thường Đức đánh dấu việc vi phạm
ngưng bắn của CSBV đã đến một mức độ nghiêm trọng mới. Thường
Đức trở thành quận lỵ đầu tiên của VNCH rơi vào tay cộng sản sau
ngày ngưng bắn. Đại Lộc và Đà Nẵng sẽ bị đe dọa nghiêm trọng từ
hướng Tây chỉ cách thung lũng sông Vu Gia.
Lực
lượng địch tham chiến gồm có:
- SĐ324B gồm các
Trung đoàn 29, Trung đoàn 6 & Trung đoàn 803 di chuyển từ phía
Tây tỉnh Quảng Trị xuống tỉnh Quảng Nam
- SĐ304 Điện
Biên, Tư lệnh là Trương Công Phê, Chính ủy là Trần Bình chỉ huy
trực tiếp trận chiến. Gồm 3 Trung đoàn 66, 24 & 36 vừa tham gia
trận đánh chiếm căn cứ Dak Pek ở phía Bắc tỉnh Kontum vào giữa
tháng Năm đã bí mật di chuyển vào khu vực Thường Đức.
-
Trung đoàn 31 thuộc SĐ2 CSBV tăng viện vào lúc cuối trận chiến
- 2 Tiểu đoàn bộ đội địa phương Quảng-Đà
- Một Trung
đoàn Pháo và 3 chiếc Chiến Xa.
Lực lượng địch quân tham
gia tác chiến chính yếu ở Thường Đức là Sư đoàn 304 với Trung
đoàn 66 được tăng cường Trung đoàn 29 (còn gọi là Trung đoàn
3)/Sư đoàn 324, Tiểu đoàn 1/Lữ Đoàn 219 Công Binh, một Đại đội
hỏa tiễn A72 (SA-7) và một Đại đội hỏa tiễn B72 (AT-3), tất cả
từ QĐ2 cùng hai Tiểu đoàn bộ đội địa phương Quảng-Đà. Các đơn vị
của QĐ2CSBV đã được chuyển vận trên con đường chiến lược mới mở
Đông Trường Sơn từ thung lũng Ba Lòng (Quảng Trị) xuống. Riêng
Trung đoàn 3/Sư đoàn 324 vừa mới được di chuyển từ thung lũng A
Shau (Thừa Thiên) xuống tham gia đánh trận Dak Pek, sau đó đã cơ
động trở lại Quảng Nam để tham gia chiến dịch Thường Đức.
SA-7 và AT-3 đều được gọi là “hỏa tiễn” (hỏa tiễn), nhưng
công dụng khác nhau. SA-7 là hỏa tiễn phòng không, chống máy bay
hoặc Trực thăng, nhỏ gọn, dài khoảng 1.47m với đường kính 70mm
nằm trong một ống phóng ngắn có thể bắn từ trên vai. AT-3 được
chế tạo để chống thiết giáp (xe tăng, thiết vận xa) hoặc bắn vào
các công sự chiến đấu kiên cố.
Trận Thường Đức do cán bộ
Sư đoàn 304CSBV trực tiếp chỉ huy. Trong cuộc họp chuẩn bị giữa
Bộ Chỉ Huy Sư đoàn 304 với bộ chỉ huy Quân Khu 5 CSBV, đã có
việc trao đổi kinh nghiệm sử dụng pháo bắn thẳng có hiệu lực cao
ở Nông Sơn. Tư lệnh Sư đoàn 304 CS khẳng định sẽ tiêu diệt
Thường Đức với hỏa lực hùng hậu của Bộ Tư Lệnh B5 yểm trợ gồm
cấp số trang bị pháo 85ly và 105ly gấp đôi của Sư đoàn 2 CSBV
lại có thêm súng cối 160ly có sức công phá lớn, yểm trợ đắc lực
cho bộ binh xung phong.
Quân Đoàn 2 CS tổ chức một bộ
phận tiền phương đi cùng với Sư đoàn 304 do Ðại tá VC Hoàng Đan,
phó tư lệnh quân đoàn phụ trách.
Với nhiệm vụ tấn công
chi khu quận lỵ Thường Đức, thử thách quan trọng đối với Sư đoàn
304 là việc chuyển vận đưa vũ khí đạn dược vào trận chiến. Hai
tổ trinh sát từ hai hướng hoạt động gởi về báo cáo các kế hoạch
mở đường. Sau khi cân nhắc, cán bộ chỉ huy Quân Đoàn 2 CSBV và
Sư đoàn 304 quyết định mở đường từ Trào vào bến Hiên. Con đường
này cộng sản Bắc Việt phải làm mới 45km, còn 21km dựa vào con
đường VNCH làm dở dang đã bỏ từ lâu, sửa lại là xe pháo đi được,
việc bảo đảm bí mật đưa lực lượng vào chiến dịch cũng tốt hơn.
Ngoài việc ghép thuyền chở pháo, và các loại vũ khí cộng quân
còn đóng nhiều bè chuối, bè nứa để vận chuyển đạn và gạo vào
chiến dịch.
Đoạn đường từ bến Hiên vào Thường Đức dài
17km, phía VNCH thường đưa thám báo ra phục kích, cộng quân chưa
thể sửa ngay được. Giai đoạn đầu, cộng quân phải dùng thuyền, bè
chở pháo đạn xuôi sông Côn rồi dùng sức người đưa pháo lên chiếm
lĩnh trận địa. Quân Đoàn 2 CSBV và Sư đoàn 304 hạ quyết tâm đến
ngày 20-7 phải làm xong đường để đưa các lực lượng chính yếu vào
đánh chiếm Thường Đức.
Sau hơn một tháng vật lộn với con
đường, đêm 17 tháng 7/1974, các xe pháo của cộng quân đã bí mật
kéo vào tập trung ở thôn Hiên. Các đại pháo 122mm của Sư đoàn
304 được bố trí trong các làng bản không có người ở, vì dân đã
bỏ đi từ lâu, nay biến thành rừng. Cối 160mm vào tới vị trí an
toàn cách căn cứ Thường Đức 3km. Bộ đội và dân công lại đưa pháo
85mm vượt qua một bãi sình lầy lên điểm cao 118 để bắn trực tiếp
vào Thường Đức.
Bộ Chỉ Huy Sư đoàn 304 đặt tại phía Đông
Nam núi Hà Sống, tại đây có thể quan sát rõ bộ binh xung phong
lên Thường Đức. Sư đoàn 304 chia thành ba mũi tiến công vào
Thường Đức: Trung đoàn 66 với Tiểu đoàn 7, 8 và 9 tấn công vào
các vị trí VNCH ở trung tâm chi khu quận lỵ, bộ đội địa phương,
dân quân du kích tấn công vào các thôn xung quanh quận lỵ, Trung
đoàn 29 của Sư đoàn 324 chiếm lĩnh các cao điểm ngăn chận viện
binh ở vòng ngoài dọc theo phía Bắc LTL-4.
Lực
lượng bạn:
1. Tiểu đoàn 79 Biệt Động Quân Biên
Phòng, Thiếu tá Hà Văn Lầu Tiểu đoàn trưởng và Đại úy Trương
Đình Sinh TĐP
2. Hai Đại đội Địa Phương Quân
3. Một Đại
đội Cảnh Sát Dã Chiến
4. Một Trung đội Viễn Thám
5. 16
Trung đội Nghĩa Quân
6. LĐIND do Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh
làm Lữ Đoàn Trưởng gồm 3 Tiểu Ðoàn 1, 8, 9ND và TÐ1PBND
-
Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, Thiếu tá Ngô Tùng Châu làm Tiểu đoàn trưởng
- Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù, Thiếu tá Nguyễn Quang Vân làm Tiểu đoàn
trưởng
- Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù, Thiếu tá Nguyễn Văn Nhỏ làm
Tiểu đoàn trưởng
- Tiểu Ðoàn 1 PBND, Thiếu tá Nguyễn Bá Trí
làm Tiểu đoàn trưởng
7. LĐIIIND do Trung tá Lê Văn Phát
làm Lữ Đoàn Trưởng gồm 3 Tiểu Ðoàn 2, 3, 6ND và TÐ3PBND
-
Tiểu Ðoàn 2 Nhảy Dù, Thiếu tá Nguyễn Ðình Ngọc làm Tiểu đoàn
trưởng
- Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù, Thiếu tá Lã Quý Trang làm Tiểu
đoàn trưởng
- Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù, Thiếu tá Nguyển Hữu Thành
làm Tiểu đoàn trưởng
- Tiểu Ðoàn 2 PBND do Thiếu tá Nguyễn
Văn Thông làm TĐT.
Vị trí Chi Khu Thường Đức
Diễn Tiến:
Trước khi tấn công Thường
Đức, vào trưa ngày 18-7-1974 cộng quân tung Trung đoàn 36/Sư
đoàn 308 CSBV với sự tăng cường của 2 Tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 2
CSBV và Tiểu đoàn 10 Đặc Công tấn chiếm Nông Sơn, nằm hai bên bờ
sông Tỉnh Yên, cách quận lỵ Đại Lộc chỉ 16km do Tiểu đoàn 78 BĐQ
trấn giữ. Cộng quân đã tràn ngập căn cứ Nông Sơn. Sư đoàn 3 VNCH
liền đưa Trung đoàn 2, một pháo đội 155ly, một pháo đội 175ly và
một chi đoàn của Thiết đoàn 11 Kỵ Binh đánh chiếm lại, nhưng
thất bại và bị thiệt hại nặng. Bộ Tư Lệnh QĐ1 phải điều động
Liên Đoàn 12 BĐQ (gồm ba Tiểu đoàn 21, 37 và 39) vào thay Trung
đoàn 2 mới tái chiếm được.
Ngày 29/7/1974 cộng quân mở
cuộc tấn công vào quận Đức Dục do Tiểu đoàn 21 BĐQ trấn giữ và
bắn hỏa tiễn vào phi trường Đà Nẵng, cùng lúc cho Trung đoàn 29
tấn công và pháo kích vào Chi Khu Thường Đức. Khởi sự cộng quân
đã pháo kích để triệt hạ các công sự phòng thủ bên trong Chi Khu
và tấn công các vị trí tiền đồn của Tiểu đoàn 79 BĐQ trấn giữ.
Kho đạn của quận lỵ bị bốc cháy, Chi Khu Thường Đức mất liên lạc
với ba vị trí tiền đồn của Nghĩa Quân, Điạ Phương Quân và hai vị
trí tiền đồn của Biệt Ðộng Quân nhưng pháo binh từ Đồi 52 gần
Đại Lộc yểm trợ hữu hiệu, gây nhiều thiệt hại cho quân cộng sản.
Sau đó, Trung đoàn 66 CSBV tấn công trực diện vào hướng
chính của Chi Khu, dùng bộc phá mở hàng rào, Tiểu đoàn 7 CSBV bị
một Trung đội ĐPQ chận đứng với một khẩu đại liên 50 (đại liên
12.7mm) ở Trước Hà. Cộng quân dùng pháo 85ly bắn trực xạ diệt
được khẩu đại liên 50 của Trung đội ĐPQ, Tiểu đoàn 7 CSBV tiếp
tục khai triển đưa lực lượng vào đột phá nhưng cũng không thành
công. Hướng Tiểu đoàn 9 CSBV, mặc dù chiến đấu rất dữ dội, nhưng
mở đến hàng rào thứ tư thì bị lính BĐQ đánh trả mạnh mẽ. Cộng
quân bị thương vong quá nhiều phải dừng lại. Phía VNCH phản ứng
rất nhanh, Không Quân VNCH từ Đà Nẵng bay lên đã ném bom chính
xác vào ngay hàng rào. Khi Bắc quân bắn nát một lô-cốt và chuyển
sang lô-cốt khác, TĐ79 BĐQ lập tức đưa quân bám lấy lô-cốt sập,
bắn chận không cho quân BV tiến lên.
Sáng sớm hôm sau,
ngày 30/7/1974 CSBV pháo dữ dội và tấn công vào chi khu Thường
Đức, Chi Khu Trưởng bị thương nặng do đạn pháo nhưng quân ta vẫn
giữ vững được phòng tuyến, các binh sĩ VNCH tiếp tục anh dũng
đánh bật các đợt tấn công của Bắc quân. Phi cơ quan sát của VNCH
phát hiện một đoàn quân xa và pháo binh của VC di chuyển trên
liên Tỉnh Lộ số 4 phía Tây Thường Đức, Không quân VNCH từ Đà
Nẵng đã được gọi đến oanh kich tiêu diệt được 3 chiến xa và
nhiều quân xa của địch.
Đây là trận đánh hiệp đồng binh
chủng cường tập rất mạnh của Trung đoàn 66 CSBV và sau nhiều đợt
pháo bắn yểm trợ cho nhiều đợt bộ binh tấn công nhưng vẫn không
thành công trước sự chống trả vô cùng anh dũng, quyết liệt của
những người lính VNCH được Không Quân từ Đà Nẵng lên yểm trợ đắc
lực.
Sau hai ngày đêm tấn công quyết liệt, Trung đoàn 66
vẫn không “mở cửa” được trong khi bị thiệt hại nặng nề, phải
dừng lại củng cố đội hình. Đêm 30/07 Nguyễn Chánh, Tư lệnh phó
Quân Khu 5, phải ra mặt trận để chấn chỉnh lại đội ngũ và quyết
định đưa pháo vào gần để bắn trực xạ.
Ngày 31/7/1974 sau
những đợt pháo tập khủng khiếp, Trung đoàn 66 CSBV liên tục đưa
lực lượng tiến sát vào vòng đai phòng thủ nhưng Tiểu đoàn 79 BĐQ
cùng ĐPQ/NQ Thường Đức chống trả rất dữ dội khiến cộng quân bị
thương vong rất nhiều mà hàng rào vào quận lỵ vẫn chưa mở được.
Thiếu tá Hà Văn Lầu, Tiểu đoàn trưởng 79 BĐQ yêu cầu dội pháo
ngay lên hầm chỉ huy của ông. Các công sự phòng thủ cũng như hệ
thống giao thông hào đều sụp đổ dưới những đợt pháo kích liên
tục của quân CSBV nhưng lính mũ nâu vẫn giữ được căn cứ và sau
cùng cộng quân cũng chiếm được bãi đáp Trực thăng phía ngoài
đồng thời bố trí quân trên các cao điểm để chế ngự Tỉnh lộ 4 ở
phía Đông Thường Đức chờ quân đội VNCH phản công theo đúng chiến
thuật “đánh điểm diệt viện.” Trước sự thiệt hại nặng nề của
Trung đoàn 66, Sư đoàn 304 phải ra lệnh cho Trung đoàn ngừng
tiến công và chuyển sang phòng ngự giữ bàn đạp đã chiếm được.
Trong ngày này Quân cộng sản cũng pháo vào các vị trí của
Trung đoàn 2BB và Pháo Binh đóng tại Đại Lộc. Sau khi tổn thất
nặng ở trận Đức Dục vài tuần trước Trung đoàn 2BB đang được tái
bổ sung và huấn luyện ở phía tây Đại Lộc, một pháo đội 175ly
được di chuyển ra quận Hiếu Đức để yểm trợ cho Thường Đức.
Sau đợt tấn công đầu tiên của quân CS, Trung tá Quận Trưởng
Nguyễn Quốc Hùng tuy bị thương gãy chân nhưng vẫn báo cáo về Đà
Nẵng là giữ được Thường Đức và yêu cầu tăng viện. Bộ Chỉ Huy Chi
Khu Thường Đức ráo riết huy động binh lính củng cố các công sự
phòng thủ. Phát hiện được lực lượng đang bao vây Thường Đức là
bộ đội chủ lực CSBV vừa di chuyển từ Quảng Trị vào, Không Quân
VNCH đã được gọi tới oanh kích dữ dội vào đội hình vây lấn của
địch quân.
“Tôi nhớ ơn anh người lính
chiến - Tháng ngày bảo vệ xóm làng tôi
Những kẻ hy sinh trên
trận tuyến - Ngàn sau còn nhớ mãi không thôi...”
(Lê Chiến, Khóa 8/72 Ðồng Ðế)
Tại chi khu Thường Đức, tổn thất của Biệt Ðộng Quân và các đơn
vị trú phòng ngày càng gia tăng trong khi việc tải thương không
thực hiện được do hỏa lực phòng không ác liệt của cộng quân.
Tướng Trưởng điều động một Chi đoàn chiến xa M-48 từ Tân Mỹ phía
Bắc Hải Vân vào Đà Nẵng làm trừ bị cho Tướng Hinh khi tình hình
trở nên nghiêm trọng.
Ngày 1/8/1974 để giải tỏa áp lực
địch, Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3BB đã thành lập
một Chiến đoàn đặc nhiệm gồm Trung đoàn 2BB và Thiết đoàn 11 Kỵ
Binh từ Đại Lộc đi dọc theo Tỉnh lộ 4 tiến về Thường Đức.
Ngày 3/8/1974, Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 2BB bắt được một
tù binh Bắc Việt ở phía Đông Thường Đức, theo cung từ của tù
binh này cho biết Trung đoàn 29 CSBV đã chiếm giữ các cao điểm
1235 và 1062 để chế ngự tỉnh lộ 4 giữa Thường Đức và Đồi 52 ở
phía Tây Đại Lộc, con đường tiếp liệu và tiếp viện cho Thường
Đức trong khi Trung đoàn 66 của Sư đoàn 304 được tăng cường lực
lượng chuẩn bị dứt điểm Thường Đức.
Bắt đầu đợt tấn công
mới. Pháo binh CS, đã hạ nòng bắn tập trung diệt từng lô-cốt một
của căn cứ. Không Quân VNCH đã gởi phi pháo đến yểm trợ và trọng
pháo tác xạ dữ dội vào các vị trí quân CS. Nhưng rút được kinh
nghiệm của đợt tấn công trước, đội hình bộ binh cộng quân áp sát
mục tiêu hơn và có công sự chu đáo nên tránh được thương vong
nặng như lần trước. Đạn pháo bắn thẳng phá tung những lô-cốt còn
lại, sau đó cối 160mm nện chính xác vào khu trung tâm rồi pháo
chuyển lần hướng dẫn cho bộ đội tiến tới. Mặc dầu được tăng
cường Tiểu đoàn 1/57, Chiến đoàn của Trung đoàn 2 tiến rất chậm
trước sự kháng cự của Trung đoàn 29 CSBV và hỏa lực pháo binh
hùng hậu của cộng quân dọc theo các cao điểm 1235 và 1062 cạnh
LTL4. Trong khi tại Thường Đức, tình hình trở nên nguy kịch khi
lính Biệt Ðộng Quân sắp cạn kiệt đạn dược cũng như lương thực.
Không Quân VNCH cố gắng thả dù tiếp tế khẩn cấp vào ngày 5 tháng
8 nhưng do hỏa lực phòng không ác liệt của Bắc Việt, tám kiện
hàng tiếp tế đều rơi ngoài chu vi phòng thủ. Một oanh tạc cơ
A-37 bị bắn rớt khi định tiêu hủy các kiện hàng tiếp tế không
may rơi vào khu vực do quân CSBV kiểm soát.
Lo ngại về
mối đe dọa nguy hiểm lớn cho Đà Nẵng từ hướng Tây của Đại Lộc,
Tướng Trưởng khẩn cầu trực tiếp với Đại tướng Cao Văn Viên cho
Lữ Đoàn I Nhảy Dù từ Sài Gòn ra tăng viện đồng thời ra lệnh cho
Lữ Đoàn III Nhảy Dù đang phòng thủ phía tây Huế chuẩn bị di
chuyển vào Quảng Nam, nhưng các hoạt động này đã không còn kịp
để cứu vãn tình thế cho Thường Đức. Mặc dầu liên tục pháo vào
Thường Đức từ ngày 29 tháng 7, cường độ pháo trong đêm 6 tháng 8
gia tăng mạnh với trên 1,200 đạn pháo. Ở hướng chính của căn cứ,
cộng quân dùng bộc phá liên tục để mở ngõ, nhưng binh sĩ VNCH
trong hầm ngầm chui ra các lô-cốt đã bị sập, bắn trả quyết liệt.
Đến 7 giờ sáng ngày 6 tháng 8/1974, Địch quân vẫn chưa vào được
quận lỵ. Suốt một ngày và đêm 6 tháng 8/1974 chiến đấu liên tục,
Tiểu đoàn 9 CSBV đã mở được cửa đột phá và đánh chiếm được một
số lô-cốt tuyến chiến hào thứ nhất. Nhưng khi phát triển vào
trung tâm, các mũi tiến công của cộng quân bị khựng lại trước hệ
thống hỏa lực dày đặc của Binh Sĩ VNCH. TĐ79 BĐQ cùng lính Ðịa
Phương Quân, Nghĩa Quân ở Thường Đức quyết không đầu hàng nên đã
chiến đấu vô cùng quyết liệt, đánh trả các cuộc xung phong của
bộ đội CSBV đến người lính cuối cùng và viên đạn cuối cùng.
Trên trời, máy bay A-37 của Không Quân VNCH liên tục quần
thảo bắn phá và bổ nhào trút bom đánh ngay vào khu vực hàng rào
căn cứ, chi viện cho quân đồn trú ở Thường Đức giữ vững khu vực
còn lại. Những người lính mũ nâu anh hùng của Tiểu đoàn 79 BĐQ
tiếp tục đẩy lui một đợt tấn công nữa vào đêm này.
Đến 1
giờ sáng ngày 7-8, cộng quân chuyển hướng tiến công của Tiểu
đoàn 9 thành hướng chủ yếu. Đến 5 giờ 30 phút ngày 7 tháng 8 năm
1974, sau khi củng cố lực lượng và bố trí lại đội hình, Trung
đoàn 66 mở đợt tấn công cuối cùng đánh chiếm quận lỵ Thường Đức.
Hỏa lực của pháo binh CS bắn chi viện cho Tiểu đoàn 8 tiếp tục
mở cửa. Bộc phá nổ cuốn theo lớp hàng rào cuối cùng. Những người
lính BĐQ, ĐPQ và NQ còn sống sót rút vào lô-cốt ngầm bắn ra như
điên như dại, chống cự quyết liệt. Tiểu đoàn 9 đã chiếm được khu
Địa Phương Quân và tiến xuống khu cảnh sát, quận lỵ. Tiểu đoàn 7
từ hướng tây bắc đã sang hướng Tiểu đoàn 9, đột phá vào khu Biệt
Ðộng Quân. Lúc 8 giờ 30 phút ngày 7 tháng 8/1974, Sư đoàn 304 đã
tràn ngập cứ điểm Thường Đức. Tiểu đoàn trưởng BĐQ báo cáo mở
đường máu rút lui trước khi liên lạc bị mất vào trưa ngày 7
tháng 8.
Thường Đức trở thành quận lỵ đầu tiên của Việt
Nam Cộng Hòa rơi vào tay quân Bắc Việt sau ngày ngừng bắn và một
cơ hội cho Hà Nội đánh giá phản ứng và khả năng yểm trợ cho VNCH
của Hoa Kỳ khi chiến sự bắt đầu leo thang.
Do chủ quan về
khả năng chiến đấu của chủ lực cơ động cùng pháo binh hùng hậu
yểm trợ, Trung đoàn 66 của Sư đoàn 304 đã phải trả một giá khá
đắt, thiệt hại nặng nề với 75% quân số thương vong khi bị Tiểu
đoàn 79 BĐQ cùng các người lính ĐPQ/NQ và CSDC của chi khu
Thường Đức được sự yểm trợ tích cực và hữu hiệu của Không Quân
VNCH từ phi trường Đà Nẵng đã chận đứng và đánh bật hàng loạt
các đợt tấn công kéo dài suốt 9 ngày đêm. Các người lính VNCH đã
không chịu đầu hàng mà chiến đấu cho đến viên đạn cuối cùng, cho
đến giọt máu cuối cùng. Nhưng sự hy sinh anh dũng này đã đi vào
quên lãng do địa thế hẻo lánh, không được nhiều người biết đến.
Sư đoàn Nhảy Dù tham chiến:
Ngày
8/8/1974, Lữ Đoàn I Nhảy Dù cùng 3 Tiểu đoàn trực thuộc 1, 8, &
9ND được khẩn cấp không vận đến vùng hành quân Đại Lộc bằng phi
cơ C-130, một ngày sau khi Thường Đức thất thủ, trong khi các
thiết bị nặng như đại bác 105ly và xe cộ được đưa ra bằng tàu
của Hải Quân. Sau khi nghỉ đêm tại Quận Hiếu Đức, sáng hôm sau
Lữ Đoàn I ND di chuyển bằng đoàn xe GMC hướng về quận Đại Lộc,
qua Ái Nghĩa, cầu Chìm. Đoàn xe dừng tại đây, mọi người ba-lô
súng đạn gọn ghẽ, khai triển đội hình từ từ tiến vào vùng hành
quân.
Ngày 11/8/1974 Lữ Đoàn III Nhảy Dù cùng 3 Tiểu đoàn
2, 3 & 6 được lệnh di chuyển bằng phi cơ từ phi trường Phú Bài
xuống phi trường Đà Nẵng trách nhiệm án ngữ ở quận Hiếu Ðức sau
khi bàn giao khu vực trách cho Liên đoàn 15 Biệt Động Quân/Quân
Khu 1.
Bộ Tư Lệnh Sư đoàn Nhảy Dù và Chuẩn tướng Lê Quang
Lưỡng (Tư Lệnh Sư đoàn Nhảy Dù) cũng di chuyển đến Đà Nẵng đặt
bản doanh tại phi trường Non Nước ở phía Nam Đà Nẵng. Trên vùng
đồi núi chập chùng nằm phía bắc thung lũng sông Vu Gia, Liên
Tỉnh Lộ 4 gồ ghề và ngoẳn nghèo nối liền Thường Đức với khu vực
đồng bằng duyên hải, 2 bên trái phải là 2 dãy núi cao chót vót
trùng điệp chạy chụm lại, 2 dãy núi gặp nhau tại một khe núi rất
hẹp, có tên là Ba khe, với ngọn đồi 52 trọc đỏ ối nằm ngay yết
hầu con đường độc đạo chạy từ Đại Lộc vào Thường Đức, vào sâu
nữa là vùng Bến Giàng rồi Khâm Đức.
Biết Quân Lực VNCH sẽ
tìm cách chiếm lại Thường Đức, Địch quân đã có ý đồ từ lâu cho
Trung đoàn 29 chiếm giữ những ngọn đồi ở phía Nam của dãy núi.
Dọc hai bên sườn đồi, hầm hố được xây dựng rất kiên cố. Họ cưa
cột nhà của dân chúng đem gác thành khung chữ A, tháo tôn trên
mái nhà đặt lên mặt, rồi tấn đất cát chặt lên trên. Từng chiếc
hầm kiên cố, nếu một quả đạn 105ly có nổ trên nắp hầm cũng chả
ăn thua gì, địch vẫn ngồi bên dưới ung dung kéo thuốc lào.
Địch đã xây dựng hệ thống phòng thủ này từ lâu lắm rồi. Họ
đã khống chế toàn vùng từ khuya, nhưng vẫn để cho con đường độc
đạo này thông thương qua lại, dân chúng vẫn ra vào, quân ta vẫn
đi lại lui tới tưởng như vô sự. Nhưng nếu thử tung một toán
trinh sát lấn sâu sang bên lộ thử xem, địch quân đang nằm trong
đó. Cho nên khi địch lật úp bàn tay thì toàn bộ lực lượng Sư
đoàn 3BB và Biệt Động Quân tan tác trong nháy mắt. Vị Sĩ quan
Đại đội trưởng ĐĐ/BĐQ trấn thủ đồi 52 khi chạy thoát về gặp Nhảy
Dù, chỉ còn có một người lính mang máy PRC-25 đi theo, ông ta
vẫn chưa kịp hoàn hồn. Cách Liên Tỉnh Lộ 4 khoảng 6km về phía
Bắc, đồi 1235 nằm ở phía đông Thường Đức là đỉnh cao nhất, trong
khi Đồi 1062 cách đó khoảng 2km về phía Nam có vị trí chiến lược
quan trọng có thể quan sát khống chế toàn bộ khu vực Liên Tỉnh
Lộ 4 và thung lũng sông Vu Gia từ Thường Đức kéo dài cho đến Đại
Lộc. Theo con đường độc đạo ngoằn ngoèo, những toán quân của Sư
đoàn 3 Bộ Binh, của Biệt Động Quân đang nhớn nhác di tản từ
Thường Đức ra. Nương theo đoàn binh lính là những dân lành, gồng
gánh bồng bế nhau tìm đường thoát hiểm. Những loạt đại bác 130ly
của địch từ núi sâu bắn rải theo đoàn người dọc trên mặt lộ. Mỗi
khi một cụm khói bốc lên, đoàn người lại ngã xô xuống. Khi cụm
khói tan đi, có dáng người loạng choạng đứng lên lê lết bước, có
dáng người vẫn nằm yên một chỗ phơi thây trên mặt đường.
Trung đoàn 29 CSBV đã đóng chốt trên những ngọn đồi nằm sát Liên
Tỉnh Lộ 4 và đã thiết lập một đài quan sát pháo binh ở trên đỉnh
1062 để có thể pháo chính xác vào các vị trí của Việt Nam Cộng
Hòa trong khu vực Đại Lộc và kiểm soát tất cả mọi chuyển động
trên Tỉnh lộ 4.
Lữ Đoàn I Nhảy Dù được giao cho nhiệm vụ
chiếm lại đồi 1062 cùng các ngọn đồi lân cận tiếp giáp với Liên
Tỉnh Lộ 4 trong khi Lữ Đoàn III Nhảy Dù bảo vệ Đà Nẵng ở hướng
Tây qua quận Hiếu Đức. Các Tiểu đoàn Nhảy Dù thay phiên nhổ từng
chốt cộng quân bám chặt trong những hốc núi trong suốt một tháng
trời, Lữ Đoàn I Nhảy Dù tiến dần lên Đồi 1062. Sau khi các cánh
quân của Nhảy Dù đã vào tuyến xuất phát. Chuẩn tướng Lê Quang
Lưỡng, Tư lệnh SĐND cho các đơn vị tiến dọc theo đường đỉnh dãy
núi Sơn Gà rồi trực chỉ Thường Đức. Nỗ lực chính là Lữ đoàn I
Nhảy Dù. Trong khi đó Lữ đoàn 3 lục soát xung quanh thung lũng
Đại Lộc, và làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng.
Về
phía CSBV,Trung đoàn 29 bị tổn thất quá nặng phải lùi dần về sau
nên Quân Khu 5 cộng sản phải điều động Trung đoàn 31 của Sư đoàn
2 CSBV vào thay cho Trung đoàn 66 đang giữ Thường Đức để đơn vị
này ra tăng cường cho Trung đoàn 29 để làm chậm lại bước tiến
của những người lính Nhảy Dù. Cộng quân cũng đã đưa Trung đoàn
24 của Sư đoàn 304 từ Quảng Trị vào đến chiến trường vào đầu
tháng 9/1974 để tăng cường cho mặt trận.
Sáng ngày 18/8,
ba Tiểu đoàn 1ND, 8ND và 9ND vượt tuyến xuất phát, BTL/SĐ Nhảy
Dù cũng đã tung các đơn vị Đại đội 19, 21 và 27 Đa Năng hoạt
động để đánh lạc hướng tình báo địch. (12 Đại đội Đa Năng là
những Đại đội thiện chiến ưu tú của SĐND, được tổ chức ngoài bản
cấp số. Quân số rút ra từ các đơn vị thống thuộc và được huấn
luyện khả năng tác chiến như một Đại đội độc lập).
Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh, LĐT/LĐIND ra lệnh Tiểu đoàn 8 tiến
theo Tỉnh Lộ 4, dọc bờ sông Vu Gia bảo vệ cánh trái trục tiến
quân tiến chiếm làng Hà Nha 1 và Hà Nha 2 ở phía Đông đồn Địa
Phương Quân cũ (trên cao điểm 52). Thiếu tá Nguyễn Quang Vân,
Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 8 chuyển lệnh cho Đại úy Phạm Văn
Hiệu dàn Đại đội 83 xung phong thần tốc tấn công thẳng vào làng
Hà Nha để giải tỏa đồn Địa Phương Quân. Khi Trung đội 1/83,
Trung đội trưởng là Thiếu úy Hoàng Văn Tiến vào gần tới bờ làng
thì quân CS Bắc Việt đồng loạt khai hỏa. Các binh sĩ Dù bắn trả
mãnh liệt. Trung Ðội 2 do Thiếu úy Nghiêm Sĩ Thành chỉ huy nhào
vô cứu bồ vừa bắn vừa hô xung phong vang rền làm địch hoảng hốt
bỏ chạy hết. Nhờ đó tổ khinh binh của Tiến nhảy vào chiếm được
bờ làng, Đại úy Hiệu bảo Thành ngưng tác xạ, và Thiếu úy Tiến
dẫn toàn bộ Trung đội vào mục tiêu và bung rộng về phía Tây bờ
làng.
Sau 40 phút giao tranh, Đại đội 83 hoàn toàn làm
chủ làng Hà Nha. Đại úy Hiệu cho bố trí, binh sĩ canh gác cẩn
mật, đào hầm hố củng cố vị trí chiến đấu. Kết quả tịch thu vài
súng cá nhân vì quân số địch cỡ một Trung đội, cộng quân chỉ
chống trả yếu vì thấy các binh sĩ Dù đánh giặc hăng hái và bị
nhiều mặt tấn công. Địch tức giận thua trận nên dùng đại bác
không giật từ các cao điểm bên kia bờ sông bắn trực xạ vào làng
Hà Nha. Xạ trường quan sát của địch thật là chính xác.
Trong khi binh sĩ Đại đội 83 đào hầm hố, gài mìn Claymore, mìn
chiếu sáng, đặt lính gác giặc, Đại úy Phạm Văn Hiệu điều chỉnh
hỏa tập cận phòng với Sĩ quan tiền sát, anh cận vệ dọn cơm cho
Hiệu ăn ở cái bàn nhỏ trước một ngôi nhà tranh. Hiệu thấy trời
sáng trăng, sợ địch ở đỉnh cao bên kia sông trông thấy, nên bảo
dọn vào nhà. Vừa ăn được nửa chén cơm thì nghe “đùng” một tiếng,
cái bàn gỗ trước nhà bị nguyên một trái SKZ-57ly không giật.
Hiệu giật mình! Nếu sớm chừng 5 phút thì nguyên tổ chỉ huy của
Đại đội 83 đã bị tan tành. Sau đó địch khai hỏa tứ phía, sơn
pháo trực xạ từ các đỉnh núi bên kia sông, hỏa tiễn 122ly, đại
bác 130ly liên tục pháo kích vào làng Hà Nha. Dứt tiếng pháo thì
cả Tiểu đoàn địch đồng loạt tấn công biển người vào Đại đội 83.
Nhờ đã chuẩn bị hố chiến đấu vững chắc, các binh sĩ Nhảy Dù
đã bắn trả mãnh liệt. Hiệu cho súng cối 60ly bắn yểm trợ sơ
khởi, Sĩ quan tiền sát gọi bắn các hỏa tập cận phòng. Thiếu úy
Hoàng Văn Tiến và Thiếu úy Nghiêm Sĩ Thành ra lệnh bấm mìn
claymore, hàng loạt địch ngã gục, súng đại liên M-60 và súng cá
nhân AR-15 bắn tới tấp. Hết lớp này tới lớp khác, quân CS Bắc
Việt cứ nhào tới định tràn ngập mục tiêu làng Hà Nha. Tiến và
Thành thật can đảm, hai Sĩ quan này ra ngay tuyến ngoài đốc thúc
binh sĩ chống cự. Nhưng những loạt đạn vô tình đã kết liễu đời
hai người hùng trai trẻ của Đại đội 83. Đây là hai Sĩ quan đầu
tiên của Tiểu đoàn 8ND ngã xuống trên mặt trận Thường Đức, mở
đường cho năm Sĩ quan Trung đội trưởng sau đó theo chân Tiến ra
đi không hẹn ngày về. Đại úy Hiệu điều động Trung Ðội 3 của
Thiếu úy Lê Mậu Sức qua trám lỗ hổng, nhưng Sức cũng bị thương
nặng (phải di tản). Chỉ còn Chuẩn úy Thạch Huôn và Đại úy Hiệu
đốc thúc các binh sĩ Dù cố thủ. Cầm cự đến trời sáng thì địch
rút lui để lại rất nhiều vũ khí, xác địch và một số tù binh.
Trong lúc đó, Tiểu Ðoàn 1 do Thiếu tá Ngô Tùng Châu chỉ huy, đi
cánh phải của Lữ Đoàn, tiến chiếm mục tiêu đầu là cao điểm Đông
Lâm, rồi theo đường đỉnh dãy Sơn Gà tiến về hướng Tây tới 1062.
Đây là một đồn bót cũ, địa thế xung quanh trống trải, dọc dài
xuống tận chân núi. Các Đại đội tiến quân dưới cơn mưa pháo của
quân CS Bắc Việt, họ phải xung phong thần tốc bám sát và đánh
cận chiến để địch không sử dụng được các bãi pháo mà họ đã chuẩn
bị sẵn. Thiếu tá Nguyễn Văn Quý (Tiểu đoàn Phó) chỉ huy 2 Đại
đội thanh toán các tổ cảm tử quân Việt Cộng đang đóng chốt trên
những điểm cao, những hốc đá cheo leo dọc theo dãy Sơn Gà. Một
trở lực lớn là quá nhiều mìn bẫy (thuộc loại “mìn hơi” làm bằng
nhựa nhỏ cỡ hộp thịt ba lát). Loại mìn này có thể hủy diệt 2
chân nếu dẫm phải. Tại đây Đại đội 11 bị tổn thất 2 chiến sĩ vì
mìn hơi này. Hôm sau, Lữ Đoàn phải tăng phái toán rà mìn của Đại
đội 1 Công Binh Dù để mở đường. Mục tiêu Đông Lâm được chiếm
lĩnh dễ dàng vì không có lực lượng phòng ngự của địch. Tuy nhiên
các chiến sĩ Dù vẫn gặp khó khăn trước những tấn công lẻ tẻ bằng
súng đại bác không giật từ những hốc đá. Một toán tiền quân của
Đại đội 11 đã diệt được toán tiền sát viên pháo binh của địch
gồm 2 người đã chết do cụt chân vì mìn hơi và một người còn sống
với đầy đủ máy truyền tin, bản đồ, và địa bàn. Từ đó vị trí các
lực lượng bạn không còn bị pháo kích chính xác nữa. Sau khi
chiếm được Đông Lâm, hai Đại đội 11 và 14 trực chỉ tới mục tiêu
B.
Tiểu Ðoàn 9ND giữ trục chính, đi dọc theo cánh đồng
rộng phía Bắc sông Vu Gia, chiếm lĩnh dãy đồi thấp có rừng chồi
che phủ. Từ dãy đồi thấp phía Nam dãy Sơn Gà, Trung úy Nhơn, Đại
đội trưởng Đại đội 92, Trung úy Thăng, Đại đội trưởng Đại đội
94, Đại úy Trọng, Đại đội trưởng Đại đội 91, cùng Đại đội 93 của
Đại úy Tường phải băng qua một cánh rừng tràm để đến đồi 383 rồi
mới tiến sát tới đỉnh 1062. Các chiến sĩ của Tiểu Ðoàn 9 không
sao qua đến được bìa rừng dưới chân núi Đông Lâm, vì hỏa lực từ
cứ điểm B1 trên sườn núi chế ngự. Cứ điểm này vô cùng kiên cố,
vừa ở cao, vừa được che chở bởi các tảng đá lớn chồng lên nhau.
Tiểu Ðoàn 9 đã dùng rất nhiều phi pháo nhưng vẫn không tiêu diệt
được. Đại úy Tửu bị thương chân nên Đại úy Đinh Văn Tường (Tức
Tường Ruby) từ Đại đội 90 ra thay thế.
Từ đỉnh Đông Lâm,
Tiểu Ðoàn 1 nhờ lợi thế hơn 2 cánh quân bạn, nên tiến quân tốc
độ cũng nhanh hơn. Do đó Tiểu Ðoàn 1 từ cao điểm đã bảo vệ hữu
hiệu sườn phải cho Lữ Đoàn. Qua sự phối hợp hàng ngang với Tiểu
Ðoàn 9, Tiểu Ðoàn 1 đã cho lệnh Đại Ðội 11 đánh bọc hậu phía sau
xuống cứ điểm B1, nơi địch đang cầm chân tiền quân của Tiểu Ðoàn
9. Xuyên qua thung lũng, Ðại úy Thể dẫn quân tấn công vào phía
sau B1 một cách bất ngờ ở ngay sau lưng địch. Đối diện với cộng
quân là Tiểu Ðoàn 9 Dù đang bị cầm chân ở tại dốc đá. Nhờ lợi
thế cao, Đại Ðội 11 để lại một Trung đội ở B để đóng chốt và giữ
ba-lô cho các Trung đội khác. Thành phần còn lại tập trung hỏa
lực, xung phong đánh thần tốc và tràn ngập cứ điểm B1. Quân CS
Bắc Việt hoảng hốt xả chốt chạy tán loạn, chỉ trong vòng 2 tiếng
đồng hồ, Đại đội 11 đã kiểm soát hoàn toàn các đỉnh đá ở phía
Nam của B. Chốt B1 được giải tỏa dễ dàng với chiến lợi phẩm là 1
súng cối 61ly, 1 thượng liên, 7 súng AK, 4 khẩu B-40, 1 điện
thoại, một số đạn 72ly nhưng không tìm được súng. Sau này Tiểu
Ðoàn 11 của Trung tá Lê Văn Mễ dùng nơi đây làm chỗ đóng quân
tạm thời cho Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn.
Tiểu đoàn 1
Nhảy Dù tấn công 1062:
Trời sẩm tối, chờ bắt tay
với Tiểu Ðoàn 9 không được, Đại đội 11 phải tạm đóng quân đêm
tại B và B1. Đêm đó, đặc công địch bò trở lại đột kích B1 bằng
B-40 rồi bỏ chạy. Chuẩn úy Tuyến Trung đội trưởng bị hy sinh.
Sáng hôm sau 20/8/1974, địch pháo kích mạnh mẽ bằng đạn 122ly
vào B và B1 nhưng không chính xác nên không bị tổn thất. Khoảng
11 giờ trưa, Thiếu tá Quý và Đại đội 14 bắt tay với Tiểu Ðoàn 9
cũng xuất hiện và đóng chốt tại B2. Kế đó, TĐ1ND tiếp tục tiến
về cứ điểm C, một tiền đồn mạnh mẽ của quân CS Bắc Việt. Đại đội
14 đi đầu và chạm địch. Thiếu tá Nguyễn Văn Quý đi với cánh quân
bọc hậu là Đại đội 11 của Đại úy Thể. Một phần vì địa thế hiểm
trở, thêm vào đó yếu tố bất ngờ không còn nữa. Địch đã chuẩn bị
sẵn sàng với hầm hố kiên cố để đón Đại đội 14. Lại thêm rừng cây
cổ thụ cao lớn, ta sử dụng pháo binh rất khó vì sợ đạn chạm ngọn
cây nổ từ cao gây thương tích cho quân bạn. Suốt 3 ngày cầm cự,
Đại đội 14 không thể tiến lên được đành phải án binh tại chỗ.
Thiếu tá Quý đẩy Đại đội 11 thọc sâu về phía Tây rồi từ đó tiến
đánh C bằng hướng Nam. Quân Bắc Việt trên cao, quân ta dưới
thấp, nhưng nhờ hốc đá nên Đại đội 11 bám sát tiến lần vào cách
mục tiêu C khoảng 200m, và phải dừng lại vì sợ lọt vào tầm lựu
đạn. Tiểu Ðoàn 1 sử dụng đại bác 57ly và súng cối 81ly để có thể
bắn chính xác vào mục tiêu. Thiếu tá Quý cho tập trung 5 khẩu
đại liên M-60 chờ cho Tiểu đoàn bắn hơi cay để địch chạy ra khỏi
hầm trú ẩn, thì tập trung hỏa lực mạnh mẽ bắn phủ đầu địch. Đại
đội 14 bất thần xuyên nhanh qua yên ngựa để chiếm C, từng tổ 3
người bò dưới hỏa lực tiến vào mục tiêu dùng lựu đạn ném vào
phòng tuyến địch, rồi lập tức xung phong chiếm hầm hố địch làm
đầu cầu. Kế đó họ bung rộng ra đánh chiếm từng hầm một. Thừa
thắng Thiếu tá Quý đẩy Đại đội 14 qua thẳng 1062, nhưng mọi dự
tính không xảy ra như mong muốn, và cũng từ đó Đại đội 11 và Đại
đội 14 phải trả giá rất đắt.
Sau khi địch tháo chạy vì sự
tấn công quá dũng mãnh của các chiến sĩ thiện chiến Tiểu Ðoàn 1
Nhảy Dù, hai Đại đội 11 và 14 chia nhau bố trí lập vị trí phòng
thủ sơ khởi để ngăn ngừa địch phản công. Một trận mưa cối sơn
pháo 120ly của Bắc quân bủa xuống, tiếng nổ vang khắp rừng già,
khói phủ mù mịt trận địa. Nhờ bung rộng và hầm hố kiên cố của
địch để lại, nên binh sĩ ta tránh được thiệt hại nặng nề bởi
trận mưa pháo tập trung và chính xác này. Càng tiến gần về 1062,
địa thế càng hiểm trở, rừng rậm hơn, cây to nhiều hơn, sườn càng
dốc đứng hơn. Từ cứ điểm C nhìn lên mục tiêu, ở cao hơn 2 vòng
cao độ (theo bản đồ quân sự tương đương 20m). Cách xa chừng
150m, ta thấy rõ địch đang lố nhố chạy tới chạy lui tăng cường
phòng thủ. Thiếu tá Quý gọi xin pháo binh bắn “cắm chỉ” lên mục
tiêu đó ngày và đêm. Đây được gọi là mục tiêu D, một trong 5
đỉnh của 1062. Giữa C và D là một thung lũng (eo yên ngựa) sâu
khoảng hơn 20m. Như vậy quân ta nếu tấn công mục tiêu D, ít nhất
phải vượt lên một dốc đứng cao tới hơn 40m. Từ D, địch thỉnh
thoảng bắn trực xạ bằng đại bác và thượng liên xuống mục tiêu C,
nhưng không gây thiệt hại đáng kể nào cho quân bạn.
“Anh Nhảy Dù về từ Quảng
Trị - Ba-lô, súng đạn tới Cầu Chìm
Nhận đồ tiếp tế trên chiến
lũy - Nghe hờn sông núi dậy trong tim”
(Lê Chiến, Khóa 8/72 Ðồng Ðế)
Lúc này Tiểu Ðoàn 8 và 9 còn cách quá xa 1062, chỉ có Tiểu Ðoàn
1 là gần và đang ở cao điểm, không ai bảo vệ cạnh sườn để tiếp
ứng kịp thời. Địa thế địch hiểm trở dễ thủ khó công. Địch chuẩn
bị chiến trường đợi ta với những trận địa pháo và hầm hố kiên
cố.
Đỉnh 1062 có 5 đỉnh nhỏ. Năm đỉnh nhỏ này nằm theo
thế liên hoàn, yểm trợ cho nhau bằng hỏa lực dễ dàng. Diện tích
rộng khoảng 2 Đại đội mới bao phủ nổi. Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù quyết
định đột kích đêm và lợi dụng gió Đông làm một trận hỏa công.
Lực lượng xung kích gồm 2 Trung đội với Thiếu úy Lê Văn Bá chỉ
huy một Trung đội thuộc Đại đội 14 và Thiếu úy Trần Thanh Quang
chỉ huy một Trung đội của Đại đội 11. Đây là 2 Sĩ quan xuất sắc
đã từng lập nhiều thành tích chiến thắng cho Tiểu đoàn. Đại đội
11 làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng kịp thời cho lực
lượng tấn công. Tần số liên lạc thuộc nội bộ của Đại đội 11 do
Thiếu tá Quý trực tiếp chỉ huy. Hỏa lực yểm trợ gồm súng cối
60ly và 81ly đã được chuẩn bị yếu tố tác xạ sẵn sàng.
Sáu
giờ chiều, ánh sáng mặt trời trong rừng già đã tắt hẳn. Hai
Trung đội bắt đầu xuất phát. Thiếu úy Quang dẫn Trung đội đi bên
trái, Trung đội Thiếu úy Bá bên phải. Họ giữ đội hình đi song
song và cách nhau khoảng từ 30 đến 40m. Pháo Binh 105ly của ta
vẫn đều đều bắn cắm chỉ trên mục tiêu để địch lo trốn trong hầm,
không ngóc đầu lên quan sát quân ta đang di chuyển. Một giờ, hai
giờ, rồi 3 giờ trôi qua. Tình hình vẫn yên tĩnh, một thứ im lặng
ngộp thở, vì mọi người đều lo cho số phận của đồng đội của mình.
Hệ thống liên lạc vẫn tốt, Thiếu úy Quang thì thầm trong máy:
- Rất gần địch, tiếng chửi thề của chúng nó nghe rõ mồn một,
đích thân
- Được! Cẩn thận nghe Quang! Thiếu tá Quý trả
lời nho nhỏ trong máy với giọng Huế chay.
Bỗng nghe một
loạt đạn nổ bên phải rồi im lặng. Pháo Binh ngưng tác xạ, hai
cánh quân vừa bắn vừa hô xung phong vang rền cả núi rừng hoang
vu. Lửa bắt đầu cháy trên mục tiêu, nhiều nhất là bên cánh Thiếu
úy Quang. Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù xin Pháo Binh chuyển
tác xạ về hướng Tây để bắn chận quân địch. Tiếng của Quang vang
trong máy:
- Chiếm được đỉnh rồi đích thân! Hầm quá nhiều
và kiên cố, làm toàn bằng cây to. Mấy đứa con đang bung rộng chờ
cánh quân bên phải!
Trời tối đen như mực, vẫn chưa liên lạc được Thiếu úy Bá. Mười
lăm phút sau, Thiếu tá Quý đứng dưới mục tiêu C thấy trên D có
từng cụm lửa lóe lên chen lẫn trận địa pháo bằng súng cối sơn
pháo 120ly của địch.
Tiếng của Quang vang lên trong máy:
- Chúng pháo dữ quá đích thân, nhưng hầm hố kiên cố, không
sao!
Rồi hàng loạt tiếng đạn AK-47 kêu rít, tiếng Quang
hét trong máy:
- Chúng nó phản công, đông lắm! Cho Pháo
Binh bắn trên đầu tôi, tụi nó đông như kiến! Mau lên! Pháo! Pháo
mau lên!
Ban đêm trời tối, Đại đội 11 trừ bị cho Quang và
Bá đang ở lưng đồi yên ngựa. Trung đội Thiếu úy Bá thì không
liên lạc được ngay từ loạt đạn đầu, sau này mới biết được Bá và
4 binh sĩ đã hy sinh vì mìn claymore (Việt Cộng lấy của Sư Ðoàn
3 Bộ Binh) ngay từ lúc đó.
Thiếu tá Ngô Tùng Châu (Tiểu
đoàn trưởng) bảo Quý:
- Nếu thấy không được thì bảo Quang
rút về, đừng hy sinh nhiều, ta sẽ tìm cách khác.
Nhưng
Quang không nghe lệnh (hoặc không thể nghe lệnh!). Hai Trung đội
đột kích của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù đã gặp sự kháng cự phản công
quá mãnh liệt, quân số địch rất đông. Từ đỉnh cao, khe núi, và
các địa đạo trong rừng cây ùa ra như đàn ong vỡ tổ! Lính Nhảy Dù
ria bắn không nghỉ tay. Trước khi gần hết đạn, Quang gọi Thiếu
tá Quý phải kêu Pháo Binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu thí
quân, quyết liều sống chết với quân CSBV. Thiếu úy Quang đã tập
trung đạn của các binh sĩ bị thương, bảo họ rút, còn Quang thì ở
lại bắn tới hết đạn và anh dũng hy sinh trên mục tiêu D. Đáng
phục thay một Sĩ quan can trường, biết hy sinh bảo vệ thuộc cấp
và làm tròn bổn phận với núi sông.
Các đạn pháo CVT đã
sát hại 10 phần địch và 3 phần quân bạn. Xác địch và ta nằm ngổn
ngang trên đỉnh đồi 1062. Trung đội của Thiếu úy Quang 15 chiến
sĩ anh dũng hy sinh.
Đại đội 14 của Trung úy Về bị kẹt
cứng ở yên ngựa nhỏ hẹp giữa mục tiêu C và mục tiêu D, hỏa lực
Việt Cộng phủ kín từ D và 1062. Đại đội 14 tổn thất mỗi lúc một
nhiều mà không tiến được bước nào. Pháo Binh Dù được sử dụng tối
đa nhưng địa thế núi cao cây rậm Pháo Binh phải bắn góc độ cao
mới “gõ” vào 1062 được, nhưng với độ chính xác thật ít.
Thiếu tá Quý lại dùng kế cũ, dương đông kích tây, đẩy Đại đội 11
về Tây để tấn công 1062 từ chính Nam nhằm giải tỏa áp lực Đại
đội 14 như trường hợp đánh mục tiêu C. Nhưng lần này sự việc
không như lần trước, Đại đội 11 vừa mới đến triền núi phía Nam
của 1062 thì địch dùng súng cối 82ly từ góc đồi phía Tây bắn một
cách dữ dội, Đại đội 11 bị hy sinh một tiền sát viên và 4 binh
sĩ chưa kể một số bị thương.
Rạng sáng, sau khi sử dụng
Pháo Binh và súng cối 81ly tối đa tối đa, Đại đội 11 dàn 3 Trung
đội tấn công 1062 từ chính Nam. Hai bên quần thảo gần 6 tiếng
đồng hồ, cuối cùng Đại đội 11 chiếm được đỉnh 1062. Nhưng chưa
đầy 10 phút, quân Bắc Việt đã từ D1 và D2 đồng loạt khai hỏa
bằng đủ loại vũ khí phủ trùm 1062. May nhờ hệ thống giao thông
hào của địch để lại nên cũng giảm bớt phần nào tổn thất.
Thượng liên cộng quân bắn liên hồi từ nhiều vị trí, và nhất là
đạn súng cối 61ly của địch. Ngay đợt pháo đầu Thiếu úy Huỳnh Huê
đã bị thương. Đỉnh 1062 trước đó đã bị phi pháo quần nát từ rậm
rạp nay chỉ còn lại một đồi trọc với đất cát vàng cày xới tung
tóe. Đại đội 11 không chịu nổi phải rút về triền núi phía Nam,
Huê kéo xuống được còn xác Thiếu úy Quang bị cháy đen.
Tổn thất Đại đội 11: Thiếu úy Quang và 15 binh sĩ hy sinh. Ba
mươi bảy bị thương trong đó có hai Sĩ quan Trung đội trưởng là
Thiếu úy Huỳnh Huê và Thiếu úy Quách An. Trong khi đó Đại đội 14
cũng cố gắng xuyên thủng chốt địch trong hốc đá ở yên ngựa để
lên 1062 bắt tay với Đại đội 11, nhưng mọi dự tính không thành.
Trung úy Về bị thương, Trung úy Bằng, Đại đội Phó Đại đội 11 qua
thay, hai ngày sau cũng bị tử thương vì lựu đạn địch. Eo yên
ngựa giống như một khúc xương kẹt ngay cổ họng, thật khó nuốt vô
cùng. Riêng Đại đội 12 của Trung úy Thọ và Đại đội 15 của Đại úy
Lộc đi với Thiếu tá Ngô Tùng Châu vẫn lục soát và làm thành phần
trừ bị ở Đông Lâm. Trung úy Thọ bị thương do pháo kích, Trung úy
Khánh (Truyền Tin) ra thay cũng bị tử thương. Vài hôm sau, Tiểu
Ðoàn 8 của Thiếu tá Vân vào thay. Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù rút về Hà
Nha dưỡng quân và bổ sung quân số.
Xa Luân Chiến,
Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù xông trận:
Theo kế hoạch,
Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù được điều động lên thay thế Tiểu đoàn 1 Nhảy
Dù để tiếp tục đánh chiếm 1062. Cuộc chiến trở nên khốc liệt hơn
khi Tiểu đoàn 8 rời bỏ Hà Nha, chuyển lên núi để thay thế cho
đơn vị bạn tấn công địch quân trên các cao điểm.
Địch vào
trận với lợi thế trên sân nhà, họ lợi dụng tối đa địa thế, địa
hình. Khi quân ta vừa băng qua một trảng trống thì bị địch
nghênh cản rất mạnh mẽ, nếu nhìn chung quanh có những tảng đá
lớn chênh vênh trên sườn núi thì đừng có dại dột chạy vào ẩn
nấp, sau lưng tảng đá là một bãi mìn gài sẵn. Địch từ vị trí
thuận lợi trên cao nhìn xuống thấy rõ từng người lính đang hút
thuốc, đang nấu nướng, địch dùng súng cối 61ly bắn vào quân ta.
Khi TĐ8ND lên thay thế TĐ1ND để tiến chiếm cao điểm 1062,
sức lực của đơn vị cũng đã sứt mẻ phần nào, còn lại bao nhiêu
sinh lực ta dồn vào cú chót, được ăn cả ngã về không. Đỉnh 1062
là một nấm mộ tập thể khổng lồ, chôn không biết bao nhiêu sinh
mạng của cả hai bên. Mỗi khi quân ta vừa chiếm được 1062, thì
lập tức địch dội pháo, điên cuồng xông lên quyết chiếm lại cho
bằng được. Cả hai bên mất đi dành lại đỉnh 1062 nhiều lần, không
ai chịu nhường ai.
Thiếu tá Tiểu Ðoàn Trưởng Nguyễn Quang
Vân, cho Đại Ðội 84 của Đổng Văn Minh và 83 của Phạm Văn Hiệu
làm 2 mũi dùi tấn công sườn phải phía Đông 1062. Chờ phi pháo
dập nát đỉnh đồi, rồi trời vừa chợp sáng Thiếu tá Vân dẫn Đại
đội 81 của Đại úy Võ Thế Hùng và Đại đội 82 của Trung úy Đỗ Việt
Hùng (Hùng ốm), xuất phát từ chân đèo Thường Đức leo lên dọc
theo đường đỉnh về hướng Bắc, mục tiêu là đồi 1062.
Các
binh sĩ Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù leo dốc đứng (độ nghiêng 70 độ) đồng
loạt tiến về mục tiêu. Đứng trên 1062, ta thấy có 5 đỉnh nhỏ nằm
gần nhau, làm thành hình tròn theo thế liên hoàn; mặt hướng về
Tỉnh Lộ 4 thì dốc thẳng đứng, rất khó leo. Cộng quân thường dùng
giàn thung ném một lần hàng chục quả lựu đạn xuống mỗi khi quân
ta tấn công vào mặt này. Còn các hướng khác thì có 4 đỉnh nhỏ
che chở nên 1062 quả là một địa thế dễ thủ khó công. Từ Tỉnh Lộ
4 muốn leo lên 1062 phải qua những đỉnh nhỏ 126, 383, xuyên qua
những yên ngựa chập chùng như sóng gợn. Hai Đại Ðội 83 và 84 do
Thiếu tá Trần Toán chỉ huy đi băng qua khu vực Tiểu Ðoàn 9 Nhảy
Dù tới mục tiêu C của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, bọc vòng lên đỉnh cao
bên dãy Sơn Gà để từ mục tiêu C băng qua yên ngựa đánh lên 1062.
Đại đội 81 của Đại úy Hùng và 82 của Trung úy Hùng ốm lợi dụng
đêm tối lén bò lên đánh vào sườn dốc đứng (vì mặt này địch chỉ
phòng thủ hời hợt chúng cho là ta không thể nào dám vào hướng
này, vì sẽ làm mồi cho lựu đạn. Ba giờ khuya xuất phát tấn công,
sau khi cho phi pháo dập nát đỉnh đồi, Hiệu, Minh, và Hùng dẫn
đầu các cánh quân trèo lên ngọn 1062, Đại đội 82 của Trung úy
Hùng “ốm” làm thành phần trừ bị. Đoạn đường gai góc hiểm trở,
những binh sĩ Dù dùng kế dương đông kích tây, lợi dụng địch đang
phân tán phòng thủ và bị phi pháo dập liên tục, Hùng, Minh, và
Hiệu chia từng tổ 3 người bò lên đỉnh núi, diệt từng chốt nhỏ,
rồi leo lên. Đây là những giây phút đùa với tử thần, mà cái chết
đến với họ bất cứ lúc nào. Nếu một trái lựu đạn của địch thả
trúng, hay bị trượt chân xuống, họ có thể chết tan xác. Trèo lên
vách đá dựng đứng, cao hàng trăm thước, trước khi tới miệng hầm,
họ dùng lựu đạn tiêu diệt các chốt địch. Những người binh sĩ
Nhảy Dù gan dạ, anh hùng của các Đại Ðội 81, 82, 83, và 84 này
đã phải tránh được từ 5 đến hàng chục quả lựu đạn do địch từ
trên cao ném xuống. Muốn sống, muốn chiếm được đồi 1062, họ phải
vừa quan sát, vừa trèo, và vừa tránh né, làm sao để những trái
lựu đạn đừng nổ trên nón sắt hay nổ ở lưng chừng núi.
Không phải ai cũng được bình an lên tới đỉnh núi. Một quả lựu
đạn đã rơi trúng nơi trú ẩn của Thiếu úy Đoàn Tấn và Chuẩn úy
Đến thuộc Đại đội 81 khiến hai anh bị thương vong. Lúc quả lựu
đạn vừa rơi tới, Thiếu úy Tấn định nhào lại lấy thân mình che
cho đồng đội, nhưng không kịp nữa. Quả lựu đạn đã nổ tung, khiến
hai người bị trúng nhiều mảnh vào chỗ hiểm. Riêng Trung úy Thạch
và Thiếu úy Hà Mai Trường, thuộc Đại đội 84 của Minh, vì hăng
hái leo lên nên cũng bị thương. “Cái giá” để chiếm được đồi 1062
thực sự là một cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các
chiến sĩ Dù đã gặp phải từ trước tới nay. Năm Tiểu đoàn Dù bị
tổn thất nặng, nặng nhất là Tiểu Ðoàn 3 của Thiếu tá Võ Thanh
Đồng, quân số hao hụt gần 50 phần trăm. Đại úy Hiệu dẫn Đại đội
83 xuyên qua Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù, tiến về mục tiêu C thay thế
Đại đội 11 của Đại úy Trần Văn Thể. Thể bảo Hiệu: Sư Ðoàn Điện
Biên 304 đó, phải cẩn thận vì địch có lợi thế cao và hầm hố kiên
cố. Trên trục tiến quân có rất nhiều chướng ngại vật, cây cối um
tùm, và địch đã gài nhiều mìn bẫy. Cộng quân dùng giàn ná phóng
hàng chục quả lựu đạn xuống thật nguy hiểm vô cùng. Địch cũng
bắn trực xạ bằng đại bác hoặc sơn pháo, vì thế các Đại đội 81
(cánh trái), Đại đội 84 (cánh phải), cùng Đại đội 83 đã thử đột
kích đêm nhưng không kết quả. Địch chỉ ngồi trên cao đạp những
tảng đá và liệng lựu đạn chầy xuống làm những chốt đóng gần bị
thương hằng ngày. Quân số các Đại đội cứ hao hụt dần. Thiếu tá
Nguyễn Quang Vân thường gọi máy đốc thúc nhưng vì địa thế quá
hiểm trở nên các Đại đội cứ dậm chân tại chỗ.
Sang ngày
thứ 4 sau ngày thay Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, vì không thể theo đường
đỉnh yên ngựa tấn công, nên lợi dụng ban ngày địch không chú ý,
Đại úy Hiệu dẫn quân tiến theo đường thông thủy giữa 2 đỉnh 1062
và đồi Không Tên ở phía Nam 1062. Khi tiền quân Đại đội 83 tiến
còn cách 1062 khoảng 50m thì địch nghe động nhưng không phát
giác là có nguyên Đại đội. Cộng quân bắn dọa (vì không ngờ quân
ta dám leo dốc cao) xuống thung lũng với thượng liên, B-40,
nhưng vô hiệu nhờ các tảng đá lớn 2 bên sườn núi che chở, và
đồng thời các Đại đội 81, Đại đội 84 bắn yểm trợ khiến địch phải
phân tán mỏng để phòng thủ. Vị trí đóng quân giữa TĐ8ND và địch
quân chỉ cách nhau khoảng 50m, đôi bên giữ thế cài răng lược gờm
nhau đã suốt 2 tuần lễ, chờ cho đối phương sơ hở là thịt ngay.
Tinh thần mọi người luôn căng thẳng, chỉ sơ suất một giây lát là
vong mạng.
Lúc 8.30 tối, cộng quân từ cao điểm hai ngọn
đồi 1062 bất thần tấn công xuống 2 mặt, các chiến sĩ Nhảy Dù
phản công quyết liệt, và gọi Pháo Binh tác xạ cận phòng dội ngay
lên đầu địch. Quân CS thấy Nhảy Dù chống trả quyết liệt và pháo
binh tác xạ dữ dội nên chúng rút lui.
Sáng hôm sau địch
quân tấn công ban ngày, vì biết Nhảy Dù ở sát nách, chúng cần
phải bứng gốc mới mong giữ được 1062. Các Đại đội 81, 83 và 84
cho các chốt bung rộng ra và bám sát tuyến địch. Tất cả các
tuyến đều chạm địch. Trung úy Vũ Đức Tiềm, một Trung đội trưởng
bị tử thương. Đại úy Đồng Văn Minh và Thiếu úy Hà Mai Trường bị
thương nặng phải di tản.
Gần 1 tháng quần thảo Ta và địch
đều bị tổn thất nặng quanh đỉnh 1062. Chiếm xong lại mất, mất
rồi thì chiếm lại bằng mọi giá. Ngày 19/9/1974 LĐIND quyết định
tấn chiếm đỉnh đồi 1062, ra lệnh cho các đơn vị lui lại 200m để
phi pháo và pháo binh tác xạ liên tục từ 6.00 đến 7.30 giờ cho
địch quân không ngốc đầu nổi. Sau đó tất cả đơn vị xung kích
Nhảy Dù xung phong tràn lên mục tiêu. Một số lớn cộng quân run
rẩy quỳ lạy đầu hàng. Họ được đối xử tử tế, băng bó vết thương,
cho ăn uống và thuốc hút. Họ nói “chúng tôi nghe tuyên truyền
rằng lính Dù các anh ác ôn hung dữ lắm, sao hôm nay các Anh đối
xử tốt với chúng tôi quá vậy?”
Sau đó TĐ8ND bung rộng ra
lục soát quanh đỉnh đồi tìm thấy trên 300 xác giặc bắt sống thêm
7 tù binh tịch thu gần 200 khẩu súng đủ loại... Sau khi thu dọn
chiến trường, TĐ8ND phối trí các đơn vị chiếm giữ các cao điểm
và cho binh sĩ bố phòng chuẩn bị địch quân tấn công trả đũa. Nhờ
vào địa thế cộng quân làm sẵn các công sự nên các chiến sĩ Dù
cũng đỡ phải vất vả.
Khoảng 2.00 giờ chiều, địch quân bắt
đầu pháo tập dữ dội vào 1062 cho đến chiều tối, sau đó tung 3
Trung đoàn 29, 24 và 66 của SĐ Điện Biên, đơn vị thiện chiến số
một của Tướng Giáp, tăng cường Trung đoàn 31 thuộc SĐ2 CSBV
quyết tâm tràn ngập và chiếm lại cứ điểm 1062, khắp các tiền đồn
đều chạm địch.
Đến 1.00 giờ đêm ngày 20/9, cộng quân ào
ạt tấn công vào 1062. Nhờ chuẩn bị trước, TĐ8ND gọi pháo binh
tác xạ vào các điểm hỏa tập tiên liệu cận phòng nên các chiến sĩ
TĐ8 vẫn giữ vững phòng tuyến. Đến 4 giờ chiều, Trung đoàn Sông
Hồng tung thêm lực lượng trừ bị cuối cùng vào trận chiến. Vào
giờ này, lực lượng địch bu quanh 1062 dầy đặc như ruồi bu quanh
viên kẹo.
Lữ đoàn I ND ra lệnh TĐ8ND lui binh về sau
khoảng 200 thuớc, dùng phi pháo tiêu diệt địch quân đang bao
quanh đỉnh 1062 đông như kiến. Sau các phi vụ oanh kích của
Không Quân VNCH, TĐ8ND trở lại tấn kích tái chiếm ngọn đồi chiến
lược này, đồng thời tung thêm các đơn vị Đa Năng và Trinh sát
xâm nhập sâu vào các hốc đá, khe núi chỉ điểm các vị trí đặt
pháo của địch nên pháo binh và không quân phản pháo chính xác
tiêu diệt được Bộ chỉ huy Trung đoàn Sông Hồng đầu não của VC
tại phía Đông Bắc của đồi 1062 khiến địch quân phải tháo lui, bỏ
lại chiến trường trên 200 xác chết, nhiều súng cộng đồng và cá
nhân, bắt sống 40 tù binh thuộc Trung đoàn Sông Hồng.
Ngày 2/10/1974 quân CSBV dự định thêm một lần nữa tấn công biển
người để tái chiếm căn cứ 1062 nhưng bị Không quân VNCH và pháo
binh ND yểm trợ hỏa tập kịp thời và chính xác vào các ngọn đồi
383 và 126 gây tổn thất cho địch trên 250 nhân mạng.
Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù tham chiến:
Sau đó,
áp dụng chiến thuật xa luân chiến, Tiểu Ðoàn 3ND do Thiếu tá Lã
Quý Trang (Tiểu đoàn trưởng) và Thiếu tá Trương Văn Vân (Tiểu
đoàn Phó), được lệnh vào thay Tiểu Ðoàn 8. Vừa ở đồi 1062 khoảng
một vài ngày thì Tiểu Ðoàn 3ND bị địch trở lại phản công ào ạt.
Phía Bắc Việt định tái chiếm đồi này bằng chiến thuật tiền pháo
hậu xung. Một số sơn pháo của họ bắn trực xạ từ sườn núi đối
diện.
Ngày 29/10/1974, chiều hôm đó trận địa im tiếng
súng, tình hình các nơi yên tĩnh, nhưng binh sĩ canh gác tiền
đồn thấy nhiều lá cây di động trông rất khả nghi. Thiếu tá Vân
ra lệnh cho các đơn vị trực thuộc báo động đề cao cảnh giác,
kiểm soát các tuyến phòng thủ, gài mìn Claymore và canh gác cẩn
thận, sẵn sàng tư thế đề phòng địch tấn công bất ngờ. Bỗng súng
nổ liên hồi ở khu vực của Đại đội Đa Năng của Đại úy Ngụy Văn
Đàng. Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn đứng trên đỉnh 1062 theo dõi chăm chú
trận đánh. Cối 75ly và sơn pháo của địch từ những cao độ phía
Tây Bắc bắn từng nhịp 4 trái và bộ đội Bắc Việt từ hướng đó đồng
loạt tiến vào. Cộng quân dùng chiến thuật biển người, chẳng điều
động, ẩn núp gì cả. Lính Nhảy Dù đồng đứng dậy khỏi giao thông
hào bắn trả mãnh liệt. Súng bắn không cần nhắm, lựu đạn ném
không cần lấy đà. Hàng hàng lớp lớp cộng quân rơi rụng.
Cuộc tấn công kéo dài trong nhiều đợt. Bộ đội Bắc Việt đồng loạt
tấn công vào tuyến phòng thủ của Đại đội Đa Năng đang đóng tiền
đồn tại đỉnh yên ngựa 1062 và ngọn đồi không tên. Hằng trăm lính
của Sư đoàn Điện Biên cùng ào lên 1062 một lượt. Họ giành giật
trên mảnh đất cằn cỗi, tan hoang để tìm kiếm thức ăn. Họ tìm
những bịch gạo sấy, thịt hộp, C-Ration, cuối đường của giải
phóng “Mỹ ngụy” là sự tranh giành những hộp thịt được làm tại
Mỹ!
Thiếu tá Vân nghe tiếng Đại úy Đàng hét trong máy xin
pháo binh và phi cơ bắn lên đỉnh đồi, vì địch đã tràn ngập! Hai
bên phải đánh cận chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn, nhưng địch
nhiều quá, cứ liều chết nhào tới tấn công. Đại úy Đàng và anh em
trong Đại đội cầm cự, xông xáo, tả xung hữu đột, người nào trên
mình cũng bị nhiều vết thương, áo ướt đầy máu. Đàng nguyên là Sĩ
quan cận vệ của Trung tướng Nguyễn Viết Thanh.
“Giặc qua sông Côn về Thường
Đức
Trong cơn gió lạnh cuối Trường Sơn”
(Lê Chiến, Khóa 8/72 Ðồng Ðế)
BCH Tiểu đoàn gọi 3 phi tuần khu trục dội bom Napalm xuống đốt
cháy sườn đồi. Sau đó, từng đợt pháo binh bắn hỏa tập trợ chiến.
Sau khi pháo dứt, những cán binh Bắc Việt lại tràn lên thấy Đàng
bị thương nặng còn ngất ngư vì trúng nhiều mảnh, anh dùng hơi
tàn rút súng định tự sát, thì người anh bị đạn ghim như lông
nhím. Đàng ngồi chết trân mà đôi mắt hãy còn trợn trừng không
khuất phục.
Đại Ðội 34 của Trung úy Võ Thiện Thư, lên
tiếp ứng thì gặp địch tràn tới đánh tơi bời thật hung hiểm vô
cùng! Ðịch hô: “Hàng sống chống chết”, nhưng Thư cứ hăng máu lấy
M16 quạt và kêu pháo binh bắn đạn nổ chụp lên đầu để cùng chết
chung với 5 phần địch 1 phần bạn. Một mình Tiểu Ðoàn 3ND mà phải
cầm cự với cả Trung đoàn của Sư Ðoàn 304, địch cho các đơn vị
thay phiên tấn công gần một ngày. Các Sĩ quan dũng mãnh của Tiểu
Ðoàn 3ND như Trung úy Võ Thiện Thư, Thiếu úy Tô Văn Nhị đã gọi
pháo binh bắn lên đầu để cùng chết chung với hằng trăm xác địch.
Do áp lực địch quá mạnh, lực lượng phòng thủ 1062 của Nhảy Dù
phải rút khỏi cứ điểm này (ĐĐ Đa Năng, ĐĐT là Đại úy Ngụy Văn
Đàng và 34ND, ĐĐT là Trung úy Võ Thiện Thư cùng 7 Sĩ quan Trung
đội trưởng và trên 140 HSQ&BS bị hy sinh vì pháo địch). Mặc dù
có những công sự do cộng quân đã chuẩn bị các “lô-cốt” bằng
những khúc cây kiên cố, tuy nhiên địch quân quá đông, phía Nhảy
Dù rút lui để dụ địch tập trung vào đỉnh 1062, sau đó dùng “hỏa
công” đốt cháy toàn khu ác liệt này bằng bom Napalm và bằng các
viên đạn lửa bắn vào bãi lau sậy.
Ngày 1/11/1974, CSBV
tái chiếm đỉnh đồi 1062. Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù được lệnh vào vùng
tiếp ứng cho TĐ3ND. Tiểu đoàn 9 dàn quân thành hai mũi ĐĐ93 của
Đại úy Đinh Văn Tường và ĐĐ92 của Trung úy Nhơn tấn công từ trên
cao đánh xuống. Trong lúc đó, bên sườn dốc đứng phía dưới, Trung
tá Nhỏ cùng Đại úy Trần Ngọc Chỉ bày trận thế nghi binh để cho
địch quân tưởng là ta tấn công mặt này. Địch quân dùng giàn
thung bắn thư rơi khiêu chiến “Thách ngụy Dù lên đánh”.
Vì biết địch quân lợi dụng hầm hố kiên cố trên đỉnh 1062, pháo
binh của ta không làm gì được, Đại úy Tường cho phóng lựu đạn
cay lên buộc địch quân phải chui ra khỏi hầm sau đó gọi phi pháo
thả bom Napalm hỏa thiêu đỉnh đồi 1062 đồng thời xua quân bao
vây nguồn tiếp tế và nước, khiến địch quân chịu không nổi phải
bỏ chạy. Ta và địch giằng co đỉnh đồi này nhiều lần, quân số đôi
bên đều bị tiêu hao nhiều. Trung úy Nhơn bị thương cả hai chân
vì đạp phải mìn hơi.
Ngày 8/11/1974, lực lượng Nhảy Dù
phản công tái chiếm lại 1062 và lập tuyến phòng thủ quanh sườn
núi. Dẹp tan các chốt lẻ tẻ của địch và thu nhặt xác các quân
nhân Nhảy Dù bị tử trận trong thời gian trước đó. Nhờ thời tiết
giá lạnh nên các xác không bị hư hủy.
Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù
sau hai tuần nghỉ ngơi và chỉnh trang lại được đưa vào vùng phía
Bắc của 1062, Thiếu tá Phú (biệt hiệu Phú “đen”) sử dụng tối đa
các phi tuần A-37 oanh kích tối đa mục tiêu và áp dụng chiến
thuật đánh địch bất ngờ và kín đáo bằng cách tung hai Đại đội 11
& 15 nương theo đường thông thủy tiến vòng lên phía Bắc thay vì
đi theo yên ngựa rồi bất thần quay lại tấn công chớp nhoáng vào
D1 và D2. Vì hướng tấn công ngoài sự tiên liệu, Bắc quân chỉ chú
trọng phòng thủ hướng về 1062, nên chỉ tới trưa là Đại đội 15
thanh toán xong D1 và Đại đội 11 chiếm xong D2 với tổn thất được
xem như nhẹ, Đại đội 15 bắt sống 2 tù binh, tịch thu 2 thượng
liên, và một số súng cá nhân. Đại đội 11 thu được 1 súng cối
61ly và một số súng cá nhân. Sau đó Bắc quân tháo lui vì chịu
không nổi phi pháo của Việt Nam Cộng Hòa ngày đêm dập vào các
điểm trú quân của họ. Bộ chỉ huy cộng quân thấy khó giữ 1062,
nên ra lệnh rút lui trong đêm tối, rồi bọc qua sông Vu Gia, đánh
bất ngờ vào Bộ Chỉ Huy của Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù đóng gần Hà Nha.
Thiếu tá Trần Công Hạnh tân Tiểu đoàn trưởng, cùng Tiểu đoàn trừ
đóng ở làng Hà Nha 1. Còn Thiếu tá Nguyễn Văn Phương (Tiểu đoàn
Phó), chỉ huy 2 Đại đội ở bên kia sông, phải tả xung hữu đột mới
phá được vòng vây.
Sáng hôm sau, Thiếu tá Phương cho các
Đại đội tung ra lục soát, Chuẩn úy Tạ Thái Bảo dẫn Trung đội
tiến chiếm vị trí chốt mà địch đã đặt thượng liên bắn vào Tiểu
đoàn 2. Vừa báo cáo chiếm chốt xong thì nghe tiếng “Ầm”, tiếp
theo là bụi cát bay mù nơi anh vừa chiếm. Chuẩn úy Bảo hy sinh
bởi quả đạn pháo kích từ đỉnh đồi cao gần chân đèo Thường Đức.
Thiếu tá Phương phái Thiếu úy Tăng Thành Lân chỉ huy Trung đội
chiếm lại chốt trên đồi nhỏ đó. Lân gọi pháo binh bắn nát rồi
dẫn quân xung phong tiêu diệt toàn bộ địch trên cao điểm này.
Anh chuẩn bị lại hầm hố cẩn thận đề phòng địch phản công. Nhưng
khoảng 20 phút sau, địch lại bắn sơn pháo ngay đồi và Thiếu úy
Lân cũng bị hy sinh. Thiếu tá Phương lập tức kêu phi pháo đánh
vào điểm đặt súng của địch, hai bên giằng co nhưng không ai đến
vùng tử địa đó nữa.
Vài hôm sau, khi Tiểu đoàn 2 được
lệnh chiếm đỉnh 126 để bảo vệ đèo Thường Đức và gặp sự kháng cự
mạnh mẽ của Bắc quân đang bám trụ tại đây. Sau nhiều đợt xung
phong của các chiến sĩ Tiểu đoàn 2, địch đành phải rút chạy bỏ
lại hàng chục vũ khí đủ loại. Phía bên Nhảy Dù cũng bị hy sinh
ba Sĩ quan tài giỏi là Trung úy Thịnh, Thiếu úy Trần Đại Thanh,
và Thiếu úy Lê Hải Bằng. Sau đó Thiếu tá Trần Công Hạnh lên làm
Tiểu đoàn trưởng thực thụ và bạn cùng khóa 20 là Trần Tấn Hòa về
làm Tiểu đoàn Phó.
Tiểu đoàn 7ND do Thiếu tá Nguyễn Lô
(Tiểu đoàn trưởng), và Thiếu tá Nguyễn Văn Quý, từ Tiểu đoàn 1
trở về, làm Tiểu đoàn Phó, được lệnh nửa đêm cấp tốc tiến đánh
suối Ba Khe. Các chiến sĩ Nhảy Dù dùng chiến thuật dương Đông
kích Tây cho chủ lực đánh bọc phía sau lưng khiến địch rối loạn
hàng ngũ, rút chạy chém vè, để lại hơn 200 vũ khí đủ loại, hậu
cần bị phá hủy, và toàn bộ Tiểu đoàn bị tiêu diệt. Đại úy Tú
Trinh, người hùng diệt tăng ở Quảng Trị, đã bị thương trong trận
này. Trước đó Nguyễn Lô đã đứng trên đỉnh Đông Lâm thuộc dãy Sơn
Gà tuyên bố nhất định chiến thắng để mừng Tết và anh đã thực
hiện lời nói một cách quá xuất sắc. Tiểu đoàn 11ND tiến lên đỉnh
1062 thay cho Tiểu đoàn 9 rút về Non Nước dưỡng quân và tái
trang bị.
Đến cuối năm 1974 thì Sư đoàn Nhảy Dù rút quân
về quận Đại Lộc nghỉ ngơi, bổ sung thiệt hại và chuẩn bị cho
chiến dịch kế tiếp, chỉ để lại Tiểu đoàn 1 và 7 Dù đóng ở khu
vực Đồi 52 và núi Đông Lâm cách Đồi 1062 khoảng 4km về phía
đông, thường xuyên đưa các toán tuần tiểu vào khu vực Đồi 1062
và sử dụng hỏa lực pháo binh để ngăn chận sự xâm nhập của cộng
quân. Kể từ đây, tình hình quân sự tại cả hai phía Nam và Bắc
đèo Hải Vân hoàn toàn yên tĩnh cho đến khi SĐND bắt đầu rút quân
khỏi Quân Khu I khoảng trung tuần tháng 3/1975.
Tổng Kết tổn thất trong 3 tháng giao tranh:
Từ
khi khởi đầu chiến dịch Thường Đức vào ngày 15 tháng 8 liên tục
trong ba tháng chiến đấu ác liệt quanh khu vực đồi 1062, các đơn
vị Nhảy Dù đã bị thiệt hại đến 50 phần trăm quân số, với gần 500
chết và 2,000 bị thương. Sư đoàn Nhảy Dù sử dụng luân phiên tổng
cộng 7 Tiểu đoàn trong chiến dịch này và đến giữa tháng 11 có
đến 6 Tiểu đoàn hoạt động trong khu vực Đồi 1062.
Ba
Trung đoàn CSBV (24, 29, 66) gần như bị xóa tên với 2,000 bộ đội
chết và 5,000 bị thương. Cả hai bên đều kiệt sức sau một chiến
dịch đẫm máu.
Nhảy Dù: 500 chiến sĩ hy sinh 2000 bị
thương
Cộng sản: 2000 chết, 5000 bị thương (tài liệu:Col.
William E. Le Gro trong VietNam from Cease Fire to Capitulation)
Những kẻ hy sinh trên
trận tuyến
Ngàn sau còn nhớ mãi không thôi...
Tài liệu tham khảo:
- Đời Chiến Binh của Trương Dưỡng xuất bản tại California
1999
- Chiến Tranh Việt Nam toàn tập của Nguyễn Ðức Phương,
nxb Làng Văn Canada 2001
- Bạo Lực Cách Mạng Và Chiến Dịch
Ðột Kích Chiến Lược Năm 1974 của Mê Kông trên trang nhà
vietnam.ictglobal.net
- Phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù.
Bài liên Hệ
Trận Thường Đức, Cuộc thư hùng NAM-BẮC cuối cùng
Bảng hướng dẫn đến các chương (bấm vào các con số sẽ đi thẳng đến chương đó):
01 |
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 |
21 |
22
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37 |
38 |
39 |
40 |
41 |
42 |
43 |
44
Mục lục
******41******
41. Trận Ban Mê Thuột (10/3 - 16-3-1975)
Trận Ban Mê Thuột
(Từ ngày 10/3 đến 16/3/1975)
Buôn Ma Thuột (hay Ban Ma Thuột)
là tỉnh lỵ của tỉnh Đắc-lắc (Darlac) và là thành phố lớn nhất ở vùng
Tây Nguyên Việt Nam. Buôn Ma
Thuột
gốc tiếng Ê-Đê, nghĩa là "bản hoặc làng của Ama Thuột", xuất phát từ
tên gọi buôn của A-ma-Thuột - tên một vị tù trưởng giàu có và quyền
uy nhất vùng; để rồi từ đây hình thành nên các buôn làng xung quanh,
phát triển thành thành phố Buôn Ma Thuột ngày hôm nay.
Thuở
xưa, đây là vùng đất của người Ê-Đê Kpă với khoảng 50 nhà dài Ê-Đê
nằm dọc theo suối Ea Tam do tù trưởng A-Ma-Thuột cai quản. Với lợi
thế là trung tâm của Đắc-lắc cũng như toàn Tây Nguyên, một vị trí có
tầm chiến lược về quân sự và kinh tế của cả vùng, lại nằm gọn trên
một cao nguyên đất đỏ màu mỡ và bằng phẳng. Năm 1904, khi tỉnh
Đắc-lắc được thành lập, Buôn Ma Thuột được chọn làm cơ quan hành
chính của tỉnh này thay cho Bản Đôn.
Ngày 5 tháng 6 năm 1930,
Khâm sứ Trung Kỳ ra nghị định thành lập thị xã Buôn Ma Thuột. Dưới
thời Việt Nam Cộng Hòa thị xã này có tên là Buôn Ma Thuột.
Ngày 10 tháng 3 năm 1975, Việt Cộng bất ngờ tấn công Buôn Ma Thuột,
mở đầu cho chiến dịch Hồ Chí Minh, dẫn tới việc thôn tính toàn cõi
VNCH.
Bản đồ Thị xã Buôn Ma Thuột
Từ sau ngày ký Hiệp Ðịnh Paris ngừng bắn 27/1/1973 tình hình
Việt Nam tương đối yên tĩnh. Tháng 6-1973 Quốc hội Mỹ biểu quyết
cắt ngân khoản cho tất cả các hoạt động quân sự tại Ðông Dương
Việt-Miên-Lào. Ðầu tháng 7-1973 Nixon ký thành đạo luật áp dụng
từ giữa tháng 8-1973 cấm hoạt động quân sự của Mỹ trên toàn cõi
Ðông Dương. Tháng 10-1973 Quốc Hội ra đạo luật hạn chế quyền
Tổng thống về chiến tranh, Tổng thống phải tham khảo ý kiến Quốc
Hội trước khi gửi quân đi tham chiến.
Cộng sản Bắc Việt
nhận thấy thời cơ đã đến, bèn thay đổi đường lối đấu tranh từ
chính trị sang bạo lực. Trước hết tiến đánh các đồn bót lẻ tẻ,
sửa chữa và tu bổ hệ thống đường mòn HCM. Tại Quân khu 1, lấn
chiếm một số căn cứ của Việt Nam Cộng Hòa, tháng 9, tháng 10 một
số đơn vị thuộc tỉnh Thừa Thiên phải di tản. Năm 1973 Bắc Việt
vẫn chưa phục hồi sau trận Mùa Hè 1972, chưa thể tổ chức được
cuộc tấn công qui mô lớn.
Sau khi ký Hiệp định Paris, Bắc
Việt cho khởi công xây tuyến đường xa lộ hành lang 613, song
song với đường mòn Hồ Chí Minh nhưng nằm trong địa phận Việt Nam
Cộng Hòa từ Ðồng Hới cho tới Lộc Ninh gọi là “Xa Lộ Đông Trường
Sơn”, đến đầu 1975 thì công trình hoàn thành dài 1,200km gồm 5
hệ thống đường dài 5,500km, 21 đường trục ngang dài 1,020km. Dọc
theo xa lộ Ðông Trường Sơn là hệ thống ống dẫn dầu dài 1,445km
qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh, đủ sức tiếp dầu cho hàng chục nghìn
xe cơ giới các loại. Bắc Việt huy động hàng nghìn xe ủi đất,
hàng vạn bộ đội, công nhân, thanh niên xung phong, dân công...
ngày đêm phá núi san đèo, xây cống, lắp đường, dựng cầu... đường
rộng 8m. Các xe vận tải cỡ lớn, các chiến xa loại nặng chạy được
hai chiều với tốc độ cao cả bốn mùa, đã ngày đêm chuyển hàng
trăm nghìn tấn vũ khí đạn dược quân trang quân dụng cho chiến
trường.
Bắc Việt đã xử dụng 16,000 xe vận tải để chuyên chở binh khí, kỹ
thuật, đạn dược, lương thực chuẩn bị cho chiến trường miền Nam
trong
suốt hai năm 1973 và 1974. Đường dây liên lạc hữu tuyến cũng đã
kéo dài tới Lộc Ninh. Từ Hà Nội đã nói chuyện thẳng được với
nhiều chiến trường.
Ngày 22-5-1974 Hạ Viện Mỹ phủ quyết
đề nghị gia tăng quân viện 1.4 tỷ Mỹ Kim cho Việt Nam Cộng Hòa
của Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện, tới 23/9/1974 Lưỡng Viện Quốc Hội
Mỹ đồng thanh chấp thuận Quân viện cho Việt Nam Cộng Hòa là 700
triệu, như vậy từ 1/7/1974 VNCH chỉ nhận được một nửa số quân
viện cần thiết, trong số 700 triệu này thì 300 triệu đã được
dùng để trả lương cho nhân viên cơ quan DAO (Phòng Tùy Viên Quân
Sự).
Tướng Nga Kulikov, Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng Nga
tới Hà Nội xúi giục Bắc Việt tấn công xâm chiếm Miền Nam và hứa
giúp thêm vũ khí đạn dược. Cuối tháng 10-1974 Bộ Chính Trị Bắc
Việt quyết định kế hoạch tác chiến năm 1975. Văn Tiến Dũng đã
xác nhận trong Đại Thắng mùa xuân:
“Quyết tâm chiến lược
của Bộ chính trị được thể hiện trong kế hoạch chiến lược hai năm
1975-1976: Năm 1975, tranh thủ bất ngờ, tiến công lớn và rộng
khắp, tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành Tổng công kích, Tổng
khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam.”
“Võ Nguyên
Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương, kết luận xác định khu vực và
mục tiêu chiến trường Tây nguyên làm chiến trường chủ yếu trong
cuộc tiến công lớn và nhiệm vụ chiến dịch, hướng phát triển, sử
dụng lực lượng, gợi ý về cách đánh, nhấn mạnh đến phương châm
mạnh bạo, bí mật, bất ngờ, phải nghi binh rất nhiều để làm cho
địch tập trung sự chú ý vào bảo vệ phía Bắc Tây nguyên.”
Như thế Bắc Việt đã chuẩn bị đánh Buôn Ma Thuột từ bốn tháng
trước trong khi ta không có một nhận định hoặc tin tức tình báo
nào rõ rệt. Ngày 13/12/1974 Bắc Việt đưa ba Sư đoàn tấn công
Phước Long, đến ngày 7/1/ 1975 tỉnh này hoàn toàn lọt vào tay
địch.
Sau khi tỉnh lỵ Phước Long thất thủ CSBV yên chí
thấy phía Mỹ không phản ứng. Sau đó ngày 8/1/1975 Lê Duẫn nói
“tình hình đã sáng tỏ, chúng ta quyết tâm hoàn thành kế hoạch 2
năm”. Nhân khi cùng Phạm Hùng ra Bắc họp vào tháng 11-1974,
Tướng Trần Văn Trà, Tư Lệnh mặt trận B2/CSBV đưa ý kiến nên tấn
công Buôn Ma Thuột thay vì Kontum hay Pleiku, để khởi đầu chiến
dịch tấn chiếm Nam Việt Nam, được Bộ Tổng Tham Mưu Bắc Việt chấp
thuận với khẩu hiệu “Mạnh bạo, bí mật và nghi binh”. Để tấn công
Buôn Ma Thuột, cộng quân chuẩn bị 5 Sư đoàn chính quy, một Trung
đoàn Thiết Giáp, Pháo Binh, Phòng Không, Truyền Tin và Công Binh
với tổng số bộ đội lên đến 80,000 người.
Sau trận Phước
Long, Bộ TTM ta biết chắc cộng sản sẽ đánh lớn tại Cao Nguyên
nhưng chưa biết chắc chỗ nào vì chúng nghi binh tối đa, ta không
đoán được ý định của địch, theo Tướng Hoàng Văn Lạc “trước khi
Văn Tiến Dũng vào Nam, Giáp đã dặn dò Dũng phải nghi binh thật
nhiều để đánh lạc hướng ta”.
Tình hình chính trị quân sự
Việt Nam Cộng Hòa 1975 rất là bi đát. Năm 1967 quân phí tại Việt
Nam là 20 tỷ Mỹ Kim, năm 1968 lên 26 tỷ, năm 1969 lên 29 tỷ, hai
năm 1970-71 rút xuống còn 12 tỷ mỗi năm. Khi Mỹ đã rút gần hết
chỉ còn 24,200 người trong năm 1972 thì Việt Nam phải một mình
gánh vác chiến trường với tiền viện trợ ngày một bị cắt giảm.
Năm 1973 viện trợ quân sự là 2.1 tỷ, năm 1974 chỉ còn 1.4 tỷ,
năm 1975 tụt xuống còn 700 triệu trong đó 300 triệu để trả lương
cho nhân viên Phòng Tùy Viên Quân Sự (DAO) của Mỹ.
Ðảng
Dân chủ nắm đa số tại Quốc Hội Mỹ chủ trương rút quân bỏ Việt
Nam không cần đếm xỉa gì tới bạn đồng minh cũng như danh dự cho
nước Mỹ. Họ tìm sơ hở của Cộng Hòa để phá phách kiếm phiếu, Dân
Chủ thường mị dân, o bế dân nghèo, giới bình dân khố rách áo ôm,
đám trốn quân dịch, phản chiến... để lấy lòng; họ thắng lợi đúng
lúc người dân chống đối chiến tranh Việt Nam dữ dội. Ðảng nọ phá
đảng kia, miền Nam Việt Nam chết oan vì bị nằm giữa cái thế trâu
bò húc nhau giữa Cộng Hòa và Dân Chủ.
Hậu quả của của
việc cắt giảm quân viện khiến chúng ta lâm vào tình trạng thiếu
hụt, năm 1972 một số lớn xăng dầu đạn dược đã được dốc vào mùa
hè đỏ lửa. Hậu quả là Không Quân đã phải cho hơn 200 phi cơ
ngưng bay vì thiếu nhiên liệu, giảm số giờ bay yểm trợ huấn
luyện 50%, thám thính giảm 58%, phi vụ trực thăng giảm 70%. Hải
quân cũng cắt giảm hoạt động 50%, 600 tầu chiến các loại nằm ụ.
Ðạn dược chỉ còn đủ đánh tới tháng 5, tháng 6-1975, hỏa lực giảm
60%.
Năm 1972 ta xử dụng 66 ngàn tấn đạn một tháng, từ
tháng 7-1974 đến tháng 3-1975 ta chỉ còn xử dụng 18 ngàn tấn một
tháng, thiếu thuốc men, số tử thương tăng cao, tinh thần binh sĩ
xuống thấp.
Ngày 9/8/1974 Nixon từ chức mang theo những
lời hứa hẹn với Tổng thống Thiệu xuống tuyền đài.
Việt
Nam Cộng Hòa nay đang đứng trước nguy cơ sụp đổ, thù trong giặc
ngoài. Ðồng Minh thì phản bội, lãnh đạo bất tài, tham ô, sợ
chết... kẻ thù thừa nước đục thả câu xua đại binh tấn công như
vũ bão.
Tin tức Tình Báo về cuộc điều quân của
địch:
Trong phần trình bày về trận chiến tại Cao
nguyên, Đại tướng Cao Văn Viên đã phân tích về kế hoạch tấn công
của CSBV như sau: “cộng sản chuẩn bị kế hoạch quân sự của họ
trong sự tin tưởng và phấn khởi vì thái độ yên lặng của Hoa Kỳ
từ sau biến cố Phước Long. Nhiều biến chuyển và hoạt động của
địch cho thấy Vùng II sẽ là mặt trận mở màn cho các cuộc tấn
công sắp đến của CS.”
Vào cuối tháng 1/1975, Sư đoàn 320
CSBV hoạt động tại Đức Cơ được báo cáo là đang di chuyển về
hướng Nam của Cao nguyên Đắc-Lắc. Quân đoàn 2 liền báo động
nhưng không có hành động nào đáng kể ngoài một số phi vụ oanh
kích các đoàn xe tiếp tế của địch. Suốt trong tháng Hai, nhiều
đoàn xe tiếp tế của CQ gồm hàng trăm chiếc vận tải bị phát giác
và bị tấn công bằng Không quân VNCH. Các bằng chừng khác là các
Sư đoàn CSBV như 312, 314, 316 cũng được báo cáo là đã di chuyển
xuống miền Nam, nhưng đến đâu thì chưa được xác nhận. Sư đoàn
316 CSBV sau đó bị phát giác là tiến về Buôn Ma Thuột bằng đường
Nam Lào.
Những cuộc hành quân truy lùng tin tức địch đã
được thực hiện liên tục. Các đơn vị Nghĩa Quân (NQ) và Cảnh Sát
Quốc Gia (Cảnh Sát Quốc Gia) tại Buôn Ma Thuột vào cuối tháng 2
năm 1975, đã phát giác dấu xích xe tăng T-54 của địch. Các đơn
vị Nghĩa Quân và Cảnh Sát Quốc Gia Bản Đôn cũng đã cung cấp tin
tức về sự di chuyển của quân cộng sản Bắc Việt trong khu vực
Bandon. Các tin tình báo của những tình báo viên trong những
tháng 2 và 3/1975, khi đi khai thác lâm sản ở khu vực phía tây
thị xã (Bandon) và Tây Nam thị xã 62km cũng đã báo cáo cho Bộ Tư
Lệnh Quân Đoàn, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Darlac tin tức về các đường
dây điện thoại, ống dẫn dầu và dấu xích chiến xa T-54 của cộng
quân.
Ngày 14/2/1975, 7 chiếc xe be khai thác lâm sản,
trong lúc làm cây ở khu vực Nam Tây-Nam thị xã Buôn Ma Thuột
82km đã bị cộng quân cưỡng chiếm, các nạn nhân cũng đã khai
trình Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh và Phòng 2 Tiểu Khu
những tin tức về lực lượng cộng quân.
Tháng 2/1975, một
nữ cán binh thuộc Trung đoàn 25 Địa Phương của cộng quân ra hồi
chánh với một đơn vị thuộc tiểu khu Darlac đã cung cấp tin tức
về Sư đoàn F10 của cộng quân đang di chuyển về khu vực Nam thị
xã Buôn Ma Thuột, đồng thời cho biết Trung đoàn 25 Địa Phương sẽ
mở chiến dịch tại khu vực Khánh Dương, nằm trên Quốc lộ 21, ranh
giới gữa Khánh Dương và Phước An-Buôn Ma Thuột.
Ngày 5
tháng 3, 1975 một cuộc phục kích tại phía đông Buôn Dak Gang
cách bắc Đức Lập 10km. Lực lượng chi khu đã bắt được một tù binh
thuộc Sư đoàn F10 cộng sản Bắc Việt, và tài liệu tiết lộ Bắc
quân sẽ đại tấn công Quảng Đức và Buôn Ma Thuột để mở đầu chiến
dịch Tây Nguyên 1975.
Đặc biệt là cuộc hành quân ngày 7
tháng 3/1975 (ba ngày trước khi cộng quân tấn công Buôn Ma
Thuột), của một đơn vị thuộc tiểu khu Darlac, đã bắt được một tù
binh cộng sản, cấp bậc thiếu úy trong toán tiền thám của Sư đoàn
320 Điện Biên trong lúc y đang giăng dây điện thoại ở khu vực
Buôn La Sup, thuộc xã Cư Ming, Bandon, Quận Buôn Ma Thuột. Qua
sự thu thập từ những tin tức này cho thấy là cộng quân đang
chuẩn bị cho một cuộc tấn công lớn và kế hoạch tấn công Buôn Ma
Thuột dần dần thấy rõ hơn.
Nhưng nguồn tin này, cũng như
nguồn tin tình báo tương tự của tiểu khu Buôn Ma Thuột, đã không
được Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh và Quân đoàn II "xếp hạng" là
những nguồn tin quan trọng và đã không có những phản ứng thích
nghi.
Giai đoạn tiên khởi, CQ muốn cắt đứt Quốc lộ 14, 19
và 21 để tách vùng Cao nguyên ra khỏi vùng đồng bằng của Quân
khu 2 và đồng thời ngăn chận lực lượng VNCH đến tăng cường. Sư
đoàn 320 CSBV chuyển lên đóng tại các vị trí nằm về hướng Bắc
của Buôn Ma Thuột để vô hiệu hóa tất cả các đồn đóng dọc theo
Quốc lộ 14. Tất cả những sự chuẩn bị này CQ cho tiến hành bí mật
để hòng tạo yếu tố bất ngờ.
Đại tướng Cao Văn Viên phân
tích tiếp: “Phòng 2 của Tình Báo Quân đoàn 2 đã có đầy đủ ước
lượng về hoạt động và mục tiêu của địch quân vào giữa tháng
2/1975, nhưng những báo động này không được vị Tư lệnh Quân đoàn
cứu xét một cách cẩn thận. Tướng Phú cho rằng việc địch di
chuyển đến Buôn Ma Thuột chỉ là nghi binh, trong khi thật sự
Pleiku mới là mục tiêu của CSBV. Do đó cách bố phòng của Quân
đoàn 2 đã nói lên lối suy nghĩ của vị tư lệnh Quân đoàn”.
Lực Lượng Ðịch: Dưới quyền điều động của Bộ
Tư Lệnh mặt trận Buôn Ma Thuột A75 do Tướng VC Văn Tiến Dũng,
Ðinh Ðức Thiện và Lê Ngọc Hiền chỉ huy gồm khoảng 30,000 người:
1. SĐF10 dưới sự chỉ huy của Sư đoàn trưởng Thượng tá Hồ Đệ
và Chính ủy Thượng tá Lã Ngọc Châu chủ lực tấn công BMT
2. SÐ320 dưới sự chỉ huy của Đại tá Kim Tuấn, Sư đoàn trưởng, và
Thượng tá Bùi Huy chỉ có danh vì đã bị thiệt hại nặng khi đụng
độ với Nhảy Dù ở Thường Ðức
3. SÐ316 do Đại tá Đàm Văn
Ngụy, Sư đoàn trưởng, Thượng tá Hà Quốc Toản, Chính ủy và Thượng
tá Hải Bằng CSBV từ Nam Lào tiến sang
4. SÐ968 do Thanh
Sơn làm Sư đoàn trưởng
5. SÐ3CSBV Sao Vàng do Trần Bá
Khuê làm Tư Lệnh, Mai Tần Tư Lệnh Phó làm nghi binh
6. 4
Trung đoàn Bộ Binh 95A, 95B, 25 và 271
7. 5 Trung đoàn
pháo binh gồm 48 khẩu pháo đủ loại và phòng không
8. 1
Trung đoàn Chiến Xa, một Trung đoàn Ðặc Công
9. 2 Trung
đoàn Công Binh, Một Trung đoàn Thông Tin
10. Các đơn vị
hậu cần, Quân xa...
Lực Lượng Bạn: Tổng cộng
khoảng 4,000 người:
1. Trung đoàn 53 Bộ Binh
(chỉ còn 2 Tiểu đoàn)
2. Liên đoàn 21 BĐQ
3. Các Tiểu đoàn
Địa Phương Quân
4. Lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia.
Lực lượng phòng thủ Buôn Ma Thuột:
Vì
không tin những nguồn tin tình báo của tiểu khu Buôn Ma Thuột,
Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh và Quân đoàn II đã không "xếp
hạng" là những nguồn tin quan trọng, toàn bộ Sư đoàn 23 Bộ binh
được đưa về hoạt động phòng ngự quanh Pleiku, việc phòng thủ
Buôn Ma Thuột ủy nhiệm cho Liên đoàn 21 Biệt động quân, Địa
phương quân, Nghĩa quân tỉnh và Cảnh Sát. Vào đầu tháng 3/1975
khi có báo động về Sư đoàn 320 CSBV chuyển đến Buôn Ma Thuột,
Quân đoàn 2 chỉ đưa một phần Trung đoàn 53 (chỉ có 2 Tiểu đoàn)
trở lại Buôn Ma Thuột. Trung đoàn này lúc bấy giờ được giao
nhiệm vụ hành quân quanh khu vực phía Nam phi trường Phụng Dực,
còn lực lượng Biệt Động Quân thì trấn giữ tại khu vực Buôn Hô
chừng 32km về hướng Đông Bắc. Các toán thám sát của Sư đoàn 23BB
và Nha Kỹ Thuật QLVNCH được tung ra chung quanh trại Bản Đôn để
theo dõi các hoạt động của Sư đoàn 320 CSBV nhưng chỉ phát giác
được một số đơn vị nhỏ cấp đại đội CQ địa phương.
Như
vậy, lực lượng quốc gia phòng thủ Buôn Ma Thuột tổng cộng khoảng
gồm những quân nhân hậu cứ của Bộ Tư Lệnh (BTL) Sư đoàn 23 Bộ
Binh, hậu cứ Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn 8 (quân số chủ lực của các
đơn vị này đã được điều động về Pleiku và Kontum từ trước Tết).
Buôn Ma Thuột thực sự là một thành phố bỏ ngõ không lực
lượng bảo vệ. Do vậy, vấn đề phân nhiệm phòng thủ tuy có kế
hoạch nhưng chẳng thấm vào đâu so với lực lượng tấn công thiện
chiến và đông đảo gấp 20 lần của đối phương.
• Lực lượng
phòng thủ phía Nam là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh gồm
các phòng các ban các sở trực thuộc
• Lực lượng phòng thủ
phía Tây, khu vực trọng yếu và nguy hiểm nhất, gồm các đơn vị
hậu cứ của Thiết đoàn 8 kỵ binh và kho đạn (trại Mai hắc Đế)
cùng với Trung Tâm Yểm Trợ tiếp vận (đại đội Hành chánh Tài
chánh)
• Lực lượng phòng thủ phía Đông do Trung Tâm Huấn
Luyện Sư đoàn 23 Bộ Binh đảm trách. Xa hơn là Chi Khu Buôn Ma
Thuột và Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia quận Buôn Ma Thuột phối
hợp với nhau để chịu trách nhiệm vấn đề phòng thủ mặt này
• Lực lượng phòng thủ mặt Bắc thị xã là Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát
Quốc Gia tỉnh Darlac cùng với một đơn vị 206 Cảnh Sát Dã Chiến
• Nội vi thị xã và các chốt điểm trọng yếu đều do lực lượng
Cảnh Sát Quốc Gia đảm trách, và được bố trí như sau:
1.
Hai chốt cảnh sát đặt tại Trường Trung Học và cuối đường Phan
Chu Trinh là các chốt ở cửa Bắc
2. Cuối đường Tự Do được
giao cho Cục Cảnh Sát Cư-Kplong và một tiểu đội Cảnh Sát Dã
Chiến
3. Cửa ngõ phía Nam có Cảnh Sát Cư-Ê-Bư và một đơn
vị Cảnh Sát Dã Chiến trách nhiệm
4. Cửa Tây thị xã giao
cho Cục Cảnh Sát thị xã Cục-Lạc chịu trách nhiệm. Các cao ốc
trong toàn thị xã và các khách sạn đều được Cảnh Sát Quốc Gia
đóng chốt
5. Các đơn vị trừ bị gồm có một Tiểu đoàn của
Trung đoàn 53 Bộ Binh đóng tại phi trường Phụng Dực, cách thị xã
Buôn Ma Thuột 7km, có một pháo đội 105ly, trong khi pháo binh
của cộng quân lại là loại 130ly, và hỏa tiễn 122ly, tầm xa và
sức công phá hoàn toàn cách biệt
6. Ngoài ra, doanh trại
các Tiểu đoàn Pháo binh, Công binh, Truyền tin, Tiếp vận thống
thuộc Sư đoàn 23 bộ binh đóng gần thị xã đều tận dụng quân số
tại hàng để tổ chức phòng ngự trong phạm vi trách nhiệm.
Riêng về trách nhiệm của tiểu khu Darlac, Đại tá Nguyễn Trọng
Luật đã cho điều động Tiểu đoàn 204 Địa phương quân đang đóng
tại Ban Don về thị xã.
Các trận đánh nhằm nghi binh & cô lập Buôn Ma Thuột trước ngày 10/3/1975
Cô lập Buôn Ma Thuột:
Bắc Việt đưa kế
hoạch tấn công bất ngờ và đông đảo, nghi binh tối đa, chúng vờ
đánh Pleiku để nhử ta lên giải tỏa rồi cắt các đường dẫn đến
Buôn Ma Thuột, chiếm phi trường sau cùng ba mặt giáp công.
Bắc Việt dùng các Trung đoàn, Sư đoàn cắt các đường giao
thông 19, 14, 21 nghi binh thu hút quân đội VNCH về phía Bắc để
bất thần tấn công Buôn Ma Thuột. Chúng không để sẵn quân ở vị
trí xuất phát tấn công mà tập kết từ xa vận động đến, bỏ qua
vòng ngoài, bất ngờ thọc sâu vào thị xã phối hợp với lực lượng
đặc công đã len lỏi sẵn trong thị xã, rồi từ đó đánh ra ngoài.
Ngày 1-3-1975 Sư đoàn 968 Bắc Việt tấn chiếm các đồn bót gần
Thanh An, pháo kích phi trường Cù Hanh, Pleiku.
Ngày
4/3/1975 Trung đoàn 95B Việt Cộng và Sư đoàn 3 Sao Vàng tấn công
ngăn chận Quốc lộ 19 tại An Khê như muốn tấn công Pleiku, cắt
đường giao thông Pleiku và Nha Trang.
Ngày 5/3/1975 Trung
đoàn 25 Việt Cộng cắt Quốc lộ 21 giữa Phước An và Khánh Dương,
cắt đường Nha Trang - Buôn Ma Thuột. Tướng Phú cho tăng cường
Trung đoàn 45 tại Thanh An và cho 2 Tiểu đoàn Biệt Động Quân và
Thiết Giáp giải tỏa Quốc lộ 19 nhưng không thành công.
Ngày 7/3/1975 Sư đoàn 320 Việt Cộng chiếm quận lỵ Thuần Mẫn trên
Quốc lộ 14 nằm giữa đường Pleiku đi Buôn Ma Thuột.
Ngày
9-3 hôm nay Sư đoàn F10 cộng sản Bắc Việt nhất định san bằng
quận Đức Lập để tiến quân về Buôn Ma Thuột. Chi khu bị tấn công
từ 6 giờ sáng, VC đã dùng pháo binh 130ly và SKZ 82ly bắn vào
Chi khu và Chi đoàn Chiến xa, địch đã làm tê liệt các chiến xa
của ta ngay từ phút đầu và sau đó quân chính qui cộng sản Bắc
Việt mở "trận địa chiến" đánh ban ngày, các công sự phòng thủ
trên mặt đất sập hết. Tình hình Đức Lập vô cùng nguy ngập. Các
đồn phụ đã bị "bứt". Tiểu đoàn Địa phương quân đóng tại Núi Lửa
cách Đức Lập 9km bị địch tràn ngập sau một trận đánh đẫm máu.
Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng và một số cấp chỉ huy khác bị Việt
cộng sát hại.
Trung đoàn 53BB do Trung tá Võ Ân làm Trung
đoàn trưởng đã điều động một Tiểu đoàn đến giải vây quận Đức
Lập. Tiểu đoàn này liền bị địch quân bao vây và đã giao chiến ác
liệt với Sư đoàn F10 của CSBV. Trung tá Võ Ân đã bay C&C trên
vòm trời Đức Lập để hướng dẫn cho đơn vị dưới đất thoát khỏi
vòng vây của cộng quân và gọi các phi tuần A37 ném bom chính xác
vào vị trí quân VC. Phòng không 37ly của CSBV bắn lên như đan
lưới. Phi Hành Đoàn của Biệt Đoàn 219 Trực thăng thật gan lỳ hạ
thấp cao độ để tránh đạn.
Tướng Phú liên lạc thẳng với
Trung tá Nguyễn Cao Vực, Quận trưởng quận Đức Lập. Ông được báo
cáo Trung tá Quận trưởng đã bị thương, hiện ở ngoài chỉ huy và
điều khiển những khẩu đại bác 105ly bắn trực xạ vào cộng quân.
Chi khu cầm cự cho đến sáng, khi mặt trời bắt đầu lên. Đúng 10
giờ 30 phút ngày 9/3 quận Đức Lập biến thành biển lửa.
Như thế Việt Cộng đã cô lập Buôn Ma Thuột cả Bắc và Nam mà Tướng
Phú vẫn cho là địch sẽ đánh Pleiku, ông lại nghĩ chúng nghi binh
vờ đánh Buôn Ma Thuột. Tuy nhiên theo đề nghị của Bộ Tư Lệnh
Quân Đoàn ông đã cho trực thăng vận 2 Tiểu đoàn Biệt Đông quân
thuộc Liên đoàn 21 từ Kontum đến Buôn Hô cách 30km ở phía Bắc
Buôn Ma Thuột.
Sự sai lầm của Tướng Phú đã được Việt Cộng
khai thác triệt để: “Từ 1 tháng 3 đến ngày 9 tháng 3 năm 1975,
trước khi tiến công vào Buôn Ma Thuột, ta triển khai thế chiến
dịch, thu hút sự chú ý của địch về hướng Công tum, Plây cu, cắt
các đường, cô lập mục tiêu chủ yếu. Cho nên đến lúc ta sắp nổ
súng đánh vào Buôn Ma Thuột, địch mới biết. Chúng báo động và
muốn tăng cường lực lượng nhưng không kịp nữa rồi, lực lượng đã
bị căng giữ ở các nơi khác” (ÐTMX trang 90)
Mặt
Trận Buôn Ma Thuột
Ngày 9/3/1975 Thiếu tướng Phú
bay lên BMT thị sát kế hoạch phòng thủ, ứng chiến của thành phố
ra lệnh cấp phát hỏa tiễn chống chiến xa M72 và hỏa tiễn TOW cho
các đơn vị. Từ 12 giờ trưa đến 5 giờ chiều ngày 9/3/1975, Tướng
Phú họp với Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, các Tiểu khu trưởng Buôn
Ma Thuột và Quảng Đức để duyệt xét tình hình các mặt trận.
Sau khi chấp nhận những đề nghị của các giới chức liên hệ và
cho những chỉ thị cần thiết, ông ra lệnh cho Đại tá Nghìn, Tỉnh
trưởng Quảng Đức bay về trước. Tại Buôn Ma Thuột, để cho có sự
thống nhất chỉ huy, Tướng Phú bổ nhiệm Đại tá Quang, Tư lệnh phó
Sư đoàn 23 làm Tư lệnh chiến trường Buôn Ma Thuột.
Các Tư
lệnh mặt trận phải ra lệnh đôn đốc các đơn vị chuẩn bị và sẵn
sàng chiến đấu trong 2, 3 tháng liên tiếp; tổ chức những cuộc
hành quân xa ngoài thị xã và vị trí phòng thủ. Kho xăng, kho đạn
phải được phân tán, đề phòng đặc công cộng sản Bắc Việt đánh
phá. Lệnh thiết quân luật mỗi nơi được ủy nhiệm cho các Tư lệnh
mặt trận toàn quyền định đoạt.
Đến 10.00 giờ đêm ngày
9/3, thành phố Buôn Ma Thuột được lệnh báo động đỏ, tập họp tất
cả binh sĩ chuẩn bị tác chiến. Sang ngày 10/3/1975, từ 1giờ 20
đến 2 giờ 15 sáng, các chốt điểm Cảnh Sát Dã Chiến ở cửa Bắc và
cửa Tây thị xã đã phát giác các tổ trinh sát tiền phong của cộng
quân và liên tiếp báo về Trung Tâm Hành Quân Cảnh Lực, Bộ Chỉ
Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Darlac. 2 giờ 20 sáng ngày 10 tháng
3/1975, cộng quân bắt đầu thực hiện trận mưa pháo theo chiến
thuật tiền pháo hậu xung bằng đại bác 130ly, hỏa tiễn 122ly vào
các cứ điểm quân sự như Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, Bộ Tư Lệnh Sư đoàn
23 Bộ Binh, kho đạn Mai Hắc Đế và phi trường L19. Những tiếng nổ
của hỏa tiễn 122ly và đại pháo 130ly khủng khiếp làm vỡ tung hết
các cửa kiếng và rung chuyển cả thành phố như cảnh tượng động
đất. Các nhà cao tầng bị rung chuyển cực mạnh. Thành phố đã như
con tàu chao nghiêng trong bão tố. Một số các nhà xây thô sơ
quanh các khu vực quân sự đã bị sụp đổ, và trận mưa pháo liên
tiếp không ngừng đổ xuống các cứ điểm quân sự cho đến 6 giờ
sáng.
Bốn giờ sáng, Đặc công CS đã đột nhập tấn công vào vị trí của
Biệt Đoàn 219 Trực Thăng, và bắn sập đài kiểm báo Pyramid của
Phi Trường L19. Sau đó chiến xa T-54 và bộ đội cộng sản chia làm
nhiều mũi tấn công vào phi trường L19, kho đạn Mai Hắc Đế, Tiểu
Khu Darlac, Tòa Hành Chánh Tỉnh, BTL Sư đoàn 23BB, Hậu cứ Trung
đoàn 53BB sát phi trường Phụng Dực với chiến thuật biển người.
Trận đánh quyết định giữa Nam-Bắc đã diễn ra. Nhưng lực lượng
giữa hai bên quá ư chênh lệch, như trứng chọi với đá nếu so sánh
cả về quân số, vũ khí, chiến cụ. Địch đã ở thế thượng phong ngay
từ lúc đầu! 6 giờ 15 sáng, xe phóng thanh của Ty Thông Tin đậu
tại Ngã 6 thị xã phát lời kêu gọi của Đại tá Tỉnh Trưởng yêu cầu
đồng bào bình tĩnh, ai ở nhà nấy, tình hình an ninh tại thị xã
vẩn còn yên tĩnh.
6 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, một
góc phía Bắc của phi trường L19 bị cộng quân tràn ngập. 7 giờ 15
các chốt cảnh sát xin lệnh rút khỏi vị trí phòng thủ vì áp lực
địch quá mạnh, dân chúng từ khu vực Buôn A-Lê B, Tân Mai, cửa
Nam thị xã lũ lượt chạy vào trung tâm thành phố.
8 giờ
30, Kho đạn Mai Hắc Đế thất thủ. Viên Đại úy chỉ huy trưởng bị
tử thương.
9 giờ 20, chiến xa T-54 và bộ đội cộng quân
chia làm nhiều mũi tấn công vào thị xã. Một mũi từ cuối đường
Phan Chu Trinh (cửa Bắc) tràn chiếm khu vực nhà thờ Chính Tòa,
ngã Sáu thị xã, cách Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu 800m. Mũi phía Nam, từ
khu vực Buôn A-Lê B, đồi La San, theo đại lộ Thống Nhất tiến
đánh khu vực tư dinh Tỉnh Trưởng, Ty Ngân Khố. Một mũi khác, từ
hướng chùa Khải Đoan, đánh chiếm ngã tư Nguyễn Tri Phương-Phan
Bội Châu, và mặt Tây thị xã cũng đã bị cộng quân tấn chiếm.
Ngoài mặt trận chính Buôn Ma Thuột, cộng quân tấn công khắp nơi.
Các trận bắc Kontum, nam Pleiku, bắc Bình Định, Quảng Đức và
trên 2 Quốc lộ 19, 21 đều bị áp lực nặng nề.
MẶT
TRẬN TIỂU KHU DARLAC
Từ 9 giờ 30 sáng ngày 10
tháng 3/1975, các mũi tiến quân của cộng quân từ hướng Bắc và
hướng Tây Bắc đã tràn vào trung tâm thành phố và tập trung nỗ
lực tấn công Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu nằm trên đại lộ Thống Nhất. Bộ
đội và chiến xa T-54 của cộng quân từ khuôn viên nhà thờ chính
tòa tràn qua ngã Sáu, chiếm Câu Lạc Bộ Biên Thùy, khu cư xá sĩ
quan, nằm trên Ngã Ba đại lộ Thống Nhất và đường Lê Lợi.
Lực lượng phòng vệ Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu phản công quyết liệt. Một
chiếc T-54 của cộng quân bị bắn cháy. Dù với chiến thuật biển
người và đại bác 100ly trang bị cho T-54 bắn trực xạ không ngừng
nhưng cộng quân vẫn chưa tiến sát được vào hệ thống công sự
phòng thủ này. Tinh thần chiến đấu và lòng dũng cảm của những
chiến sĩ thuộc Tiểu Khu quả thật không thể tưởng tượng. Cứ mỗi
đợt tiến công của cộng quân là những tràng đại liên, M-79 (súng
phóng lựu) và M-16 từ các công sự phòng thủ xối xả phản kích làm
cho bước tiến quân của cộng quân đã phải ngừng lại. Cộng quân
lui về cố thủ khu vực cư xá sĩ quan và Câu Lạc Bộ Biên Thùy,
đồng thời chia quân tràn qua đại lộ Thống Nhất đánh chiếm Tòa
Án, bưu điện, tòa nhà Đại Biểu Chính Phủ, và tiếp tục thực hiện
trận mưa pháo bằng đại bác 100ly từ các chiến xa T-54 và đại bác
130ly cùng hỏa tiễn 122ly từ hướng Tây thị xã (khu vực Bandon)
đổ vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu.
11giờ 20, một chiếc T-54 của
cộng quân tiến vào cổng trước Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu trên đường
Thống Nhất đã bị bắn hạ. Tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ
Tiểu Khu càng lên cao.
11 giờ 45, hai chiếc Commando Car
(thiết giáp với bốn bánh cao su, không xích sắt) của Thiết Đoàn
8 từ hướng chùa Khải Đoan theo đường Quang Trung qua Tôn Thất
Thuyết để tiến về đánh bọc hậu lực lượng của cộng quân đang công
hãm Tiểu Khu. Nhưng khi đến ngã ba Ama-Trang-Long Tôn Thất
Thuyết, các chiến sĩ Thiết Đoàn 8 bị lực lượng của cộng quân từ
ngã Sáu tràn xuống chận đánh. Hai chiếc Commando Car bị cộng
quân bắn cháy trước Bar Quốc Tế. Nhưng các chiến sĩ của Thiết
Đoàn 8 đã len theo khu phố Ama-Trang-Long để tiến về hướng Tiểu
Khu.
Khu chợ Buôn Ma Thuột, từ đường Quang Trung chạy dọc
theo đường Y-Jút đến Ama-Trang-Long bị trúng đạn pháo và bốc
cháy dữ dội. Nhà hàng Thanh Thế mới khai trương, cũng tân kỳ
không thua gì nhà hàng Thanh Thế ở đại lộ Lê Lợi Sài Gòn, giờ
đây đang là một biển lửa. Dãy phố bên kia đường Ama-Trang-Long,
đối diện với nhà hàng Thanh Thế như tiệm Rồng Vàng, nằm mặt sau
của Ty Cảnh Sát cũ đã là một bãi gạch vụn. Khu phố nằm trên
đường Y-Jút, đối diện với chợ Buôn Ma Thuột như nhà của Ông Tôn
Thất Hối đã bị sập.
Lực lượng Biệt Ðộng Quân tại Buôn Hô
được điều động về tiếp cứu Buôn Ma Thuột nhưng gặp hỏa lực mạnh
của các chốt kháng cự trên đường đi. Một lực lượng Thiết Giáp và
ÐPQ đang hành quân tại Budrang cũng được lệnh trở lại nhưng bị
cầm chân ở một cây cầu phía Nam tỉnh lỵ khoảng 10km.
Đến
11 giờ 45 các chiến sĩ của Tiểu Khu Darlac vẫn cố thủ. Lực lượng
của cộng quân từ 2 mặt, phía Bắc và mặt tiền Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu
đã bám sát hệ thống công sự phòng thủ của Tiểu Khu. Những trận
đánh xáp lá cà đẫm máu đã xảy ra dọc theo hệ thống công sự phòng
thủ này.
13 giờ 15 trưa,Trung Tâm Hành Quân của Bộ Chỉ
Huy Tiểu Khu bị trúng pháo, mọi liên lạc truyền tin bị phá hủy.
14 giờ 20 Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Tỉnh Darlac thất thủ, sau hơn
7 tiếng đồng hồ giao tranh với lực lượng biển người của cộng
quân có chiến xa T-54, và các loại đại pháo yểm trợ, mà không có
được một đơn vị bạn nào tiếp cứu. BCH Tiểu Khu phải di tản và
sát nhập với BTL tiền phương của SĐ23BB.
Sáu mươi ngàn
dân thị xã Buôn Ma Thuột mãi mãi ghi nhớ chiến công, lòng dũng
cảm và tinh thần kỷ luật của các chiến sĩ Tiểu Khu Darlac. Trong
những giờ phút lâm nguy đã cố gắng và hy sinh để làm tròn bổn
phận cho đến hết sức mình với những trận tấn công và đánh xáp lá
cà cùng lực lượng biển người của quân thù, đến giờ phút cuối
đành di tản Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu để bảo toàn lực lượng.
MẶT TRẬN PHÍA BẮC THỊ XÃ
Những Trận Đánh
Oanh Liệt của Các Chiến Sĩ Cảnh Sát Quốc Gia Thuộc Bộ Chỉ Huy
Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac.
Trong kế hoạch phòng thủ
thị xã Buôn Ma Thuột, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac
là một trong những đơn vị chịu trách nhiệm về một khu vực phòng
thủ nặng nề nhất, từ nội vi thị xã đến cả một mặt Bắc, bao gồm
phi trường trực thăng và phi trường L19. Phòng thủ phi trường
L19 là đơn vị Thám Sát Tỉnh (PRU), trực thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh
Sát Tỉnh.
Với những tin tức nhận được của mạng lưới tình
báo cơ hữu và của các đơn vị bạn, vị chỉ huy trưởng Cảnh Sát
Quốc Gia Tỉnh, Trung tá Trần Quang Vĩnh đã sẵn sàng kế hoạch
phòng thủ và phản công cho đơn vị hằng tháng trước. Ông đã bổ
nhiệm Đại úy Nguyễn Ngọc Tuấn, Đại đội trưởng đại đội Cảnh sát
Dã Chiến 206 làm phụ tá đặc trách hành quân. 2 giờ 20 sáng ngày
10 tháng 3/1975, cộng quân bắt đầu tấn công phi trường L19, (khu
vực phòng thủ của Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh, do Đại Đội
Thám Sát chịu trách nhiệm), bằng đại bác 130ly và hỏa tiễn
122ly. Đến 4 giờ sáng ngày 10 tháng 3/1975, cộng quân bắt đầu
dùng lực lượng bộ binh với chiến thuật biển người và xe tăng
T-54 tấn công phi trường L19. Đơn vị Thám Sát Tỉnh chống trả
quyết liệt và báo cáo về Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia. Đại úy
Nguyễn Ngọc Tuấn liền liên lạc với Tiểu Khu xin Đại Đội 1/224
tiếp viện. Nhưng Đại Đội 1/224 đã không thể chọc thủng vòng vây
của cộng quân ở mặt Bắc Phi trường L19. 6 giờ 20, một đoạn vòng
đai ở khu vực phía Bắc phi trường bị chọc thủng. Lực lượng cộng
quân tràn ngập khu vực này, và đơn vị Thám Sát Tỉnh đã phải lui
về phòng tuyến phòng thủ phía sau với những tổn thất nặng nề về
nhân sự.
Sau khi tràn ngập các vị trí phòng thủ, 9 giờ
20, lực lượng cộng quân từ mặt Bắc thị xã, tức là khu vực phía
Bắc phi truờng L19 bắt đầu tấn công Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia
Tỉnh Darlac, nằm trên đường Tự Do để xâm nhập trung tâm thành
phố. Lợi dụng hệ thống công sự phòng thủ và các dãy hàng rào kẽm
gai bảo vệ phi trường L19 nằm bên kia đường Tự Do, lực lượng
Cảnh Sát Quốc Gia đã chận đứng các mũi tiến quân của cộng quân.
Các chiến sĩ Cảnh Sát dù chỉ được trang bị M-16, M-79 và lựu đạn
nhưng đã anh dũng phản công quyết liệt trước những đợt tấn công
của cộng quân, không cho địch tiến sát vào hệ thống công sự
phòng thủ.
Chính nhờ lòng dũng cảm chiến đấu, kỹ thuật
tác chiến, và hệ thống chỉ huy chặt chẽ, mà một mặt phía Đông
thị xã Buôn Ma Thuột, từ khu đường Tự Do, chạy dài xuống Bà
Triệu, Hùng Vương, Trường Trung Học Tổng Hợp Buôn Ma Thuột, chưa
có bóng dáng của cộng quân. Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh
Darlac đã trấn giữ một khu vực an toàn mà có lẽ họ không thể nào
ngờ được, đó là con đường di tản duy nhất sau này cho các đơn vị
phải rút lui vào phút cuối.
15 giờ 40 với áp lực của
địch, và để bảo toàn đơn vị, Thiếu tá Hàn Văn Thành, chỉ huy phó
Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Darlac đã ra lệnh mở đường máu
đem đơn vị ra khỏi thị xã về Cây Số 5, phối hợp với các đơn vị
trực thuộc và Chi Khu Buôn Ma Thuột để tiếp tục phản cộng quân
thù.
16 giờ cộng quân hoàn toàn làm chủ tình hình thị xã
Buôn Ma Thuột, ngoại trừ khu vực Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh
vẫn còn kháng cự.
Trong thành phố, tiếng súng nhỏ đã im,
nhưng cảnh tan hoang của thị xã thật không cách nào tả xiết. Rải
rác trên các khu phố, những vũng máu và thây người, kẻ bị
thương, bị chết không ai săn sóc. Thành phố bây giờ như một bãi
tha ma, chứa đầy tử khí. Bóng dáng của cộng quân như tử thần đến
chiêu hồn những kẻ còn sống và đe dọa mọi người.
Trong
gần suốt 14 giờ đồng hồ, các đơn vị quân đội, Cảnh Sát, Nghĩa
Quân, Đoàn Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn Tỉnh và Nhân Dân Tự Vệ toàn
thị xã đã tận hết sức mình để chống trả với lực lượng biển
người, chiến xa và đại bác của cộng quân mà không có được một
đơn vị bạn nào tiép cứu. Và giữa những giờ phút quyết liệt này,
người ta nhận được tin vào lúc 10 giờ 15 sáng ngày 10 tháng
3/1975, một đơn vị Biệt Động quân từ cửa Bắc thị xã (bến xe Cây
Số 3) đã xâm nhập trung tâm thành phố. Tin tức này được loan
truyền đến hầu hết các đơn vị đang chiến đấu trên khắp các cửa
ngõ thị xã, và mỗi người lính, từ cấp chỉ huy cho đến binh sĩ
đều vui mừng hy vọng chiến trường sẽ xoay hướng. Nhưng cho đến
một giờ chiều, tin tức về Liên đoàn 21 Biệt Động Quân vẫn im hơi
lặng tiếng, mà chiến trường mỗi lúc càng quyết liệt hơn, cho đến
khi người ta biết rằng đơn vị Biệt Động Quân tiến vào thị xã
sáng nay là chỉ để giải cứu gia đình vợ con của Chuẩn tướng Lê
Trung Tường, vị Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh ra khỏi thị xã. Tin
này quả thật là một tác động tâm lý, không những làm cho các đơn
vị tham chiến mà cả toàn thị xã có cảm nghĩ Buôn Ma Thuột đã bị
bỏ rơi. Tuy nhiên với tinh thần và trách nhiệm của một người
lính, các đơn vị có mặt tại thị xã vẫn anh dũng chiến đấu với
niềm tin lực lượng tổng trừ bị, và đặc biệt là hai Trung đoàn 44
và 45 Bộ Binh nhất định sẽ được gởi đến.
ĐÊM KINH
HOÀNG
Từ 6 giờ chiều ngày 10 tháng 3/1975, bộ
đội cộng quân bắt đầu chia thành từng toán nhỏ lục soát khắp
cùng các khu phố và những điểm tập trung của người chạy loạn như
chùa Khải Đoan, trường Bồ Đề, trường Tàu ở đường Y-Jút. Họ thanh
lọc dân chúng, bắt đi những thanh niên nam nữ, và truy lùng các
viên chức chính phủ, sĩ quan và binh lính.
Khắp cùng các
ngõ phố, bọn đặc công và du côn, thi nhau lập công, đập phá các
cửa tiệm, dinh thự, tư gia, những nơi mà họ cho là có kẻ thù ẩn
trốn, là Việt gian, phản động, làm việc cho Mỹ-Ngụy, hoặc có nợ
máu với nhân dân. Chúng thi nhau lục soát các trường học, nhà
thờ, bức tượng ở nhà thờ quân đội, cạnh trường Hưng Đức cũng bị
chúng đập nát, đồng thời lùng bắt những người có thù hằn với
chúng, và lôi đốt hết các loại sách báo, giáo khoa, tự điển, các
tác phẩm văn học, nghệ thuật, đặc biệt là những ấn phẩm viết
bằng tiếng ngoại quốc như Anh văn, Pháp văn. Một lần nữa, ngọn
lửa tượng trưng cho sự hủy diệt lại bùng lên khắp cùng thị xã.
Cảnh hôi của, hôi người, trả thù cá nhân lan tràn khắp nơi.
Thành phố bây giờ là một xã hội không tổ chức, không luật pháp,
và tai họa thảm khốc đã diễn ra khắp cùng các ngõ phố. Những
hình phạt dã man thời tiền sử đã được đem ra thực hiện. Hình ảnh
của chết chóc và khủng bố đang bao trùm lên thị xã nhỏ bé này và
đè nặng xuống tâm hồn mỗi dân đinh của toàn thành phố.
Sự
ngu dốt của kẻ chiến thắng, hay sự dã man và thiếu trình độ của
cấp lãnh đạo chính là tai họa và thảm trạng tàn khốc cho một xã
hội. Xã hội miền Nam, và dân trí của nền Cộng Hòa miền Nam đã có
một trình độ văn hóa và kỹ thuật cách xa gấp bội so với miền
Bắc, nên bộ đội cộng quân, sau khi đã kiểm soát toàn thị xã, lập
tức đi dò tìm những "đài địch", và đã dùng súng B-40, B-41, hoặc
đại bác 100ly trang bị trên chiến xa T-54 bắn vào các tư gia có
trụ ăng ten trên nóc nhà, vì họ cho rằng đó là vị trí đặt các
máy truyền tin của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, mà các trụ ăng
ten TV là những "đài địch" ấy đã có khắp trong toàn thị xã. Thảm
thương thay cho thành phố Buôn Ma Thuột và 60 ngàn dân của thị
xã này. Trong đêm này, không biết có bao nhiêu gia đình tan
hoang, bao nhiêu người bị chết oan, đánh đập, hoặc bị đấu tố
mang thương tích hay tàn khuyết, mà vợ con, thân nhân, bạn bè
chỉ đứng nhìn mà không dám kêu van. Máu và lệ đã đổ, nhưng không
chảy ra từ khóe mắt, mà lại tuôn ngược vào lòng. Trời ở quá cao
mà Phật cũng rất xa, nên con người đã là chủ của con người trong
đêm nay, với đầy đủ quyền uy và hung dữ. Đêm kinh hoàng, đêm của
địa ngục và Sa-Tăng.
Nhưng cái quan trọng của những kẻ
chiến thắng không phải là những thứ đó. Cái quan trọng đối với
kẻ chiến thắng trong cuộc chiến 20 chọi 1 này là vơ vét tất cả
những gì họ có thể vơ vét: Kho dự trữ lương thực trung ương, nằm
trên đường Tự Do, Kho Quân Nhu, Quân Cụ, dụng cụ y khoa và dược
phẩm, thuốc men của các bệnh viện như Quân Y Viện, Dân Y Viện,
Trạm xá, nhà hộ sinh, các cửa tiệm thuốc Tây, các đại lý gạo,
cửa hàng bách hóa của tư nhân trong toàn thành phố...
Suốt đêm, người ta nhìn thấy những đoàn Molotova chở đầy hàng
hóa vật dụng của thành phố đi về hướng Bandon, phía Tây thị xã.
BỘ TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 23 BỘ BINH VÀ TRẬN ĐÁNH CUỐI
CÙNG
Bây giờ là 4 giờ 20 sáng ngày 11 tháng
3/1975, khu suối Đốc Học với những vườn rau tàn tạ đầy dấu dép
râu và dấu xích chiến xa, khu vực Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh
và Dân Y Viện Buôn Ma Thuột, chỉ còn thấy được ngọn đèn Signal
chơ vơ trên trụ truyền tin. Những đóm màu đỏ của hỏa châu càng
nhỏ hơn, như ánh mắt của loài thú hoang trong rừng đêm. Cái lặng
lẽ của đêm trường và cái yên tĩnh của chiến trường càng làm cho
người ta liên tưởng tới một cái gì khủng khiếp sắp xảy ra. Lâu
lâu một tràng đại liên hoặc những loạt súng nhỏ không phân biệt
được AK-47 hay M-16 bắn ra. Và như vậy là đã hơn 24 giờ đồng hồ,
từ lúc 1 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, lực lượng phòng thủ
hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh đã chống trả không ngừng
trong suốt 24 giờ, và không hiểu sẽ còn cầm cự được bao lâu nữa.
Qua hệ thống truyền tin, người ta nhận được tín hiệu của Chi
Khu Buôn Ma Thuột, và Đại tá Dậu, chỉ huy trưởng Liên đoàn 21
Biệt Động Quân còn ở ngoài vòng đai thị xã, ở mặt Bắc, mà chưa
chọc thủng được phòng tuyến của cộng quân để tiến vào thị xã. Hy
vọng duy nhất trong lúc này, là hai chiếc L-19 đang bay trên đầu
Bộ Tư Lệnh, dầu rằng màng lưới phòng không với đại liên 37ly của
cộng quân vẫn không ngừng tấn công.
5 giờ 55 sáng ngày 11
tháng 3/1975, chiến trường vẫn còn yên tĩnh, Ở cửa Nam thị xã,
lực lượng phòng thủ tư dinh tỉnh trưởng, nằm trên đại lộ Thống
Nhất vẫn còn cầm cự.
6 giờ 30 sáng ngày 11 tháng 3/1975,
từ khuôn viên trường tiểu học Nguyễn Du, sau lưng Sở Học Chánh
Buôn Ma Thuột, những chiếc T-54 của cộng quân, và lực lượng bộ
binh tùng thiết đang thực hiện một cuộc chuyển quân bao vây hậu
cứ Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh. Vòng vây này đang được thắt
chặt, như một màng lưới dày đặc chung quanh vòng đai phòng thủ
Bộ Tư Lệnh. Và 6 chiếc T-54, nhìn được từ hướng Tây-Nam, đang
dàn hàng ngang tiến sát vào hệ thống công sự phòng thủ Bộ Tư
Lệnh. Với kinh nghiệm của những người lính, ai cũng hiểu Bộ Tư
Lệnh khó lòng cầm cự được trong vòng vài ba giờ đồng hồ tới.
Trong khi đó, những tiếng súng nhỏ, và đại bác 100ly, cùng lúc
gầm lên như những giây pháo nổ không ngừng, làm rung chuyển cả
một vùng trời. Cộng quân bắt đầu nỗ lực tấn công hậu cứ Bộ Tư
Lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh. Và tại cửa Nam thị xã, bộ binh và chiến
xa T-54 cũng ráo riết tấn công lực lượng phòng thủ tư dinh tỉnh
trưởng. 8 giờ 15 sáng ngày 11 tháng 3/1975, tư dinh tỉnh trưởng
bị T-54 ủi sập các bức tường vòng đai, và pháo sập các tầng lầu.
Trung úy Trung đội trưởng bị trọng thương. Tư dinh tỉnh trưởng
đã thất thủ, chốt điểm cuối cùng ở cửa Nam thị xã đã bị cộng
quân tràn ngập, Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh bây giờ như người
hùng cô đơn vẫy vùng dưới trời mưa đạn của quân thù.
NHỮNG PHÚT CUỐI CÙNG CỦA BỘ TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 23 BỘ BINH
Lực lượng phòng thủ Bộ Tư Lệnh gồm hai đại đội và một số các
phòng ban chuyên môn, trong đó có đại đội tổng hành dinh, chuyên
trách về hành chánh và ẩm thực. Lực lượng chủ chốt là các Trung
đoàn 44 và 45 đang hành quân vùng Pleiku. Trung đoàn 53 chỉ có
hai Tiểu đoàn ở Buôn Ma Thuột, và một trung đội Pháo Binh 105ly,
nhưng một Tiểu đoàn lại đã điều động lên giải tỏa Quận Đức Lập,
một quận vừa bị cộng quân tràn ngập vào sáng Chủ Nhật ngày 9
tháng 3/1975. Tiểu đoàn còn lại phòng thủ Phi trường Phụng Dực,
cách thị xã Buôn Ma Thuột về phía Đông Đông-Bắc 7km.
Cho
đến 8 giờ 20 sáng ngày 11 tháng 3/1975, đơn vị quân lực còn có
mặt tại thị xã Buôn Ma Thuột chỉ là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23
Bộ Binh, cộng quân biết rõ điều này, và càng hiểu rằng Trung
đoàn 44 và 45 Bộ Binh nhất định sẽ trở về chiếm lại giang sơn
của họ. Và đặc biệt là Liên đoàn 21 Biệt Động Quân đang có mặt
ngoài vòng đai thị xã ở cửa Bắc, Liên đoàn 21 Biệt Động Quân
được đổ xuống Buôn Hô, một quận cách thị xã Buôn Ma Thuột 35km
về hướng Bắc lúc 4 giờ 30 chiều ngày 10 tháng 3/1975. Đến 9 giờ
tối cùng ngày đã tiến sát vào vòng đai thị xã, nhưng chưa chọc
thủng được vòng vây của cộng quân. Tiểu Khu Darlac lúc bấy giờ
đã rút ra khỏi thị xã. Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 cố thủ trong
khuôn viên Bộ Tư Lệnh, nên không có được một đơn vị nào làm đầu
cầu cho Liên đoàn 21 Biệt Động Quân tiến vào thị xã.
Điểm
đáng tiếc là 10 giờ 20 sáng ngày 10 tháng 3/1975, đơn vị tiền
sát của Liên đoàn đã đột nhập thị xã, di tản gia đình vị tư lệnh
Sư đoàn 23 Bộ Binh ra khỏi thị xã, nhưng lại không được lệnh ở
lại làm điểm tựa cho Liên đoàn 21 Biệt Động Quân đến giải cứu
thị xã sau này. Từ 6 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 3/1975, cộng quân
đã bố trí xong lực lượng thắt chặt vòng văy hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư
đoàn 23 Bộ Binh, và thực hiện trận mưa pháo bằng đại bác 100ly
trang bị trên chiến xa T-54, bắn trực xạ, đại bác 130ly, hỏa
tiễn 122ly từ hướng Bandon dồn dập đổ xuống Bộ Tư Lệnh Sư đoàn.
Đồng thời, chiến xa và bộ đội cộng quân dàn hàng ngang tấn công
bốn mặt vòng đai Bộ Tư Lệnh. Lực lượng phòng thủ Bộ Tư Lệnh đã
chống trả quyết liệt, đẩy lui nhiều đợt tấn công, và đánh cận
chiến với quân thù.
10 giờ 10 phút, một phi vụ A-37 của
Không Quân thả bom nhầm vào Trung Tâm Hành Quân của Bộ Tư Lệnh
Sư đoàn 23. Mọi liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Bộ Tổng
Tham Mưu hoàn toàn bị phá hủy.
10 giờ 30 sáng ngày 11
tháng 3/1975, một đoạn hệ thống công sự ở mặt Tây và phía Nam Bộ
Tư Lệnh đã bị chọc thủng. Cộng quân và chiến xa tràn vào hậu cứ
Sư đoàn 23 Bộ Binh như nước vỡ bờ. Đại tá Vũ Thế Quang, Tư Lệnh
Phó Sư đoàn, Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu
Trưởng Tiểu Khu Darlac, mở đường máu đem đơn vị thoát khỏi hậu
cứ, bỏ lại Buôn Ma Thuột và 60 ngàn dân đinh trong một tình
huống vô cùng bi thảm. Buôn Ma Thuột lâm chung. Sáu mươi ngàn
dân như một đàn gà con mất mẹ. Đêm đen phủ xuống thành phố này
cùng với nỗi hãi hùng và tuyệt vọng mênh mông.
MẶT TRẬN PHI TRƯỜNG PHỤNG DỤC VÀ TRUNG ĐOÀN 53 BỘ BINH
Thị xã Buôn Ma Thuột đã hoàn toàn lọt vào tay cộng quân từ
chiều hôm qua, ngày 10 tháng 3/1975, và đơn vị Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa cuối cùng là hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh rút
khỏi thị xã này lúc 10 giờ 38 phút ngày 11 tháng 3/1975. Nhưng
Trung đoàn 53 Bộ Binh, phòng thủ Phi Trường Phụng Dực, cách thị
xã Buôn Ma Thuột 7km về hướng Đông Bắc vẫn cố thủ và cương quyết
chống lại lực lượng biển người và chiến xa T-54 của cộng quân.
Cùng lúc tấn công vào thị xã Buôn Ma Thuột 1 giờ 20 sáng
ngày 10 tháng 3/1975, cộng quân đã không bỏ sót Trung đoàn 53.
Chiến xa và bộ đội của cộng quân, với đại bác 130ly, và hỏa tiễn
122ly yểm trợ đã không ngừng luân phiên tấn công Trung đoàn 53.
Và sau khi đơn vị quân lực Việt Nam Cộng Hòa cuối cùng rời bỏ
Buôn Ma Thuột, cộng quân càng tập trung lực lượng tấn công Trung
đoàn 53 ác liệt hơn. Trận đánh thư hùng giữa Trung đoàn 53 Bộ
binh và một lực lượng quân chính qui CS Bắc Việt đã được tăng
cường thêm đông hơn gấp 10 lần xảy ra lúc 5 giờ sáng. Đó cũng là
lần xuất trận đầu tiên của Sư đoàn 316, Sư đoàn tổng trừ bị của
Bắc Việt tại mặt trận phi trường Phụng Dực trên chiến trường Cao
nguyên.
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 53 Bộ Binh là Trung
tá Võ Ân. Biết rõ ý đồ của cộng quân, nhưng ông cũng hiểu rằng
Phi Trường Phụng Dực là điểm tiếp liệu, tiếp vận duy nhất cho
lực lượng tổng trừ bị là Sư đoàn Nhảy Dù sẽ đến giải cứu Buôn Ma
Thuột sau này, đồng thời đơn vị của ông là lực lượng đầu cầu và
liên lạc duy nhất cho các đơn vị bạn về sau. Do vậy, ông đã ra
lệnh cố thủ và chỉ thị cho các binh sĩ tiết kiệm đạn dược và mọi
phương tiện quân y, dược cụ, cố gắng chiếm dụng vũ khí của địch
để chống lại kẻ địch, và phải nhất định bắn trúng mục tiêu.
Trong suốt thời gian 6 ngày đêm, Trung đoàn 53 Bộ Binh không
những đã đánh tan nhiều đợt tấn công biển người của cộng quân,
mà còn tịch thu nhiều loại vũ khí cá nhân cũng như súng cộng
đồng để tiêu diệt T-54 và hàng trăm xác quân thù bỏ lại chiến
trường. Sự tổn thất nặng nề nhất của cộng quân trong mặt trận
Buôn Ma Thuột, hơn 200 nhân mạng, không biết được con số bị
thương, và hàng chục T-54 bị phá hủy bằng chính B-40, B-41 của
cộng quân do Trung đoàn 53 tịch thu tại mặt trận Phi trường
Phụng Dực.
Góp phần đáng kể vào việc kéo dài trận chiến
là một đại đội chừng 70 binh sĩ tinh nhuệ, gan lì, được huấn
luyện đặc biệt và quyết tâm chiến đấu đến cùng. Tham gia trận
chiến Buôn Ma Thuột ngay từ ngày đầu, và là đơn vị sau chót rút
khỏi đấy là Đại Đội Thám Báo mà Thiếu úy Nguyễn Công Phúc là một
Trung đội trưởng.
Đại đội đã chiến đấu trong hoàn cảnh cô
đơn, cam go, căng thẳng và thiếu thốn súng đạn, lương thực. Họ
đã gây tổn thương nặng cho một Tiểu đoàn địch, giúp Trung đoàn
53 của bạn chống trả lại những đợt tấn công mãnh liệt của đối
phương, đồng thời chấm tọa độ hướng dẫn pháo binh bạn bắn vào
những vị trí địch. Một trong những yếu tố để đại đội đạt được
thành tích trên và tồn tại mà chiến đấu bền bỉ nhất ở Buôn Ma
Thuột là cộng quân không biết vị trí đóng quân kín đáo và bất
ngờ của đại đội. Cộng quân khi tấn công Trung đoàn 53 đã bị thúc
mạnh vào cạnh sườn vì không biết có đại đội thám báo nằm quanh
những ụ đất dùng để che chở cho máy bay ở phi trường và gần rừng
cao su phía ngoài căn cứ của Trung đoàn. Đại đội mới nhận vị trí
đóng quân ở đấy vào buổi chiều. Chỗ đóng quân lại không phải là
doanh trại. Quanh phi trường lại có những bãi trống, địch tiến
quân dễ bị phát hiện.
Trong những giờ đầu của cuộc tấn
công, Phúc theo dõi tình hình mặt trận qua máy truyền tin. Được
trang bị hệ thống truyền tin tối tân hơn những đơn vị bộ binh
thông thường khác, đại đội thám báo có thể liên lạc với những
đợn vị bạn theo hàng dọc, mà cả với mấy đơn vị theo hàng ngang
như quân đoàn, Sư đoàn và không đoàn ở Nha Trang. Nhờ vậy Phúc
biết thêm một số diễn tiến ở trận chiến.
Từ sáng sớm ngày 10
tháng 3/1975 cho đến hết ngày 15 tháng 3/1975, Trung đoàn 53 Bộ
Binh chỉ với một Tiểu đoàn Bộ Binh, và Pháo đội 105ly đã anh
dũng chiến đấu với một lực lượng cộng quân nhiều gấp bội, có
chiến xa và đại bác đủ loại, mà không cần biết đến Buôn Ma Thuột
đã thất thủ và đài BBC trong bản tin phát đi vào đêm 14 tháng
3/1975, đã loan tin Sư đoàn 23 Bộ Binh bị xóa tên trong quân sử
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 15 tháng 3/1975, một phi
vụ yểm trợ tiếp liệu cuối cùng cho Trung đoàn 53 đã không rơi
đúng điểm ấn định mà lại rơi xuống khu vực Vườn ương ở Hồ thực
nghiệm. Ngày 16 tháng 3/1975, Trung đoàn 53 Bộ Binh hoàn toàn
mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2. Hết đạn dược và thuốc
men, Trung tá Trung đoàn trưởng Võ Ân đành phải ra lệnh rút khỏi
phi trường Phụng Dực. Điểm liên lạc, tiếp vận duy nhất cho Buôn
Ma Thuột đã lọt vào tay cộng quân. Nhưng Trung tá Ân, đúng là
người hùng của quân lực, và Trung đoàn 53 Bộ Binh anh dũng là
những người con yêu của Tổ Quốc, đã làm khiếp đảm quân thù, và
đem vinh quang về cho một quân đội kiêu hùng của nền Cộng Hòa
miền Nam.
Với lịch sử của Sư đoàn 23 Bộ Binh, và thực tế
của mặt trận Buôn Ma Thuột, nếu thị xã Buôn Ma Thuột được Trung
đoàn 44 hoặc 45 Bộ Binh phòng thủ, thì cho dầu cộng sản Bắc Việt
có quân số nhiều hơn vài ngàn người trong cuộc tấn công này,
Buôn Ma Thuột và 60 ngàn dân đã không rơi vào biển đêm của lịch
sử dân tộc. Và Sư đoàn 23 Bộ Binh vĩnh viễn sẽ là một đơn vị
kiêu hùng của một quân lực kiêu hùng bất diệt.
QĐ2 Tiếp cứu BMT:
Buôn Ma Thuột lọt vào tay CS,
khởi đầu cho việc sụp đổ của Miền Nam Tự Do. Buổi sáng khi 2
trái bom 500 cân Anh của Không quân đánh sập một đầu hầm Trung
tâm Hành quân của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, một số sĩ quan
trong bộ tham mưu đã thoát lên được. Đại tá Quang ra lệnh rút
quân vọt ra khỏi hàng rào và hướng về phía Tây tức là “Suối Bà
Hoàng” - cách BTL Sư đoàn 250m. Cũng may mùa này là mùa khô nên
suối cạn. Lòng suối lại thấp hơn mặt đất tới 15m nên rất dễ cho
việc ẩn nấp. Anh em binh sĩ đi theo rất đông, khoảng 100 người.
Xa xa tiếng phát thanh tuyên truyền của địch quân gần Chùa của
Tỉnh hội Phật giáo Buôn Ma Thuột kêu gọi các binh sĩ ta đầu
hàng. Cộng quân lúc này đầy khắp các ngả đường trong thành phố
cùng với những đoàn xe tăng của chúng.
Sau cùng Đại tá
Quang quyết định mọi người phải phân tán mỏng để tránh sư phát
giác của địch quân. Đại tá Quang, vị Tư lệnh chiến trường Buôn
Ma Thuột sẽ đi về hướng Nam, đến gần cầu khoảng cách 14km và tìm
đường về Nha Trang. Còn Đại tá Nguyễn Trọng Luật cùng với Phó
Tỉnh trưởng Hành chánh Nguyễn Ngọc Vỵ đi về hướng Tây, nhắm về
khu vườn cà phê của Trung tướng Thái Quang Hoàng và chờ trời tối
sẽ bọc lên phía Bắc Buôn Ma Thuột và từ đó tìm về Nha Trang.
Riêng các binh sĩ thì phân tán mỏng và tìm cách trở về Nha
Trang. Hy vọng lúc đó sẽ tập họp lại để tiếp tục chiến đấu. Cũng
thời gian này trên Quốc lộ 14, từ Đức Lập về Buôn Ma Thuột, bộ
Chỉ huy Hành quân nhẹ của Trung đoàn 53 Bộ binh cùng với một
Tiểu đoàn, được lệnh rút từ vùng hành quân phía đông bắc quận
Đức Lập về tiếp cứu Buôn Ma Thuột, cũng bị Việt cộng phục kích
chận đánh. Trung tá Trung đoàn Phó Trung đoàn 53 và hầu hết các
sĩ quan đều bị tử trận hoặc bị địch bắt. Cánh quân này coi như
bị tan rã trước khi tới được trận địa Buôn Ma Thuột.
Đến
xế trưa ngày 11 tháng 3, bên cạnh Đại tá Quang chỉ còn có người
Thiếu úy, Sĩ quan Tùy viên và một người lính. Không thể đi tới
được phi trường Phụng Dực và cũng không còn phương tiện truyền
tin để liên lạc, ba người đã lẩn tránh trong một vườn cà phê mấy
tiếng đồng hồ, đợi đêm tối nhắm hướng nam đi về phía Quảng Đức.
Khoảng 2 giờ sáng ngày 12 tháng 3, Đại tá Quang và tùy tùng
trốn khỏi Trung Tâm Hành Quân, đi được khoảng 6km đường rừng,
ngay khi vừa tới sát một làng Thượng, thì bị Việt cộng nổ súng,
xông ra vây bắt. Đại tá Quang vẫn còn mang cấp bậc trên cổ áo và
xưng danh là Tư lệnh Phó Sư đoàn 23 Bộ binh, chúng đã trói lại,
lột giầy và liệng xuống hố. Chừng một giờ sau, chúng được lệnh
dẫn Đại tá Quang đi suốt đêm. Tới chiều hôm sau, ngày 13 tháng
3, được cởi trói, cho đi giầy vào và chở đi bằng xe Molotova
sang Cam Bốt để khai thác.
Riêng cánh Đại tá Nguyễn Trọng
Luật khi chạy đến vườn cà phê của Trung tướng Thái Quang Hoàng,
tất cả cũng bị cộng quân dàn quân chận bắt hết. Riêng Đại tá
Luật bị chúng bắt lên một xe thiết giáp chở đi mất.
Những
cơ sở đầu não ở Buôn Ma Thuột bị VC đánh chiếm trong hai ngày
đầu. Mấy ngày sau Sài Gòn chưa nhìn nhận Buôn Ma Thuột thất thủ
vì chiến trận còn tiếp diễn ở Trung đoàn 53 khu vực gần phi
trường nằm phía ngoài thị xã.
Ngày 12 tháng 3/1975, Thiếu
tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2 tổ chức cuộc đổ quân
tăng viện để tái chiếm Buôn Ma Thuột. Lực lượng chính của cuộc
phản công là Trung đoàn 45 Bộ binh (BB) và 1 Tiểu đoàn của Trung
đoàn 44 thuộc Sư đoàn 23BB đang phòng ngự tại Pleiku. Về phía
Không quân VNCH tham gia cuộc đổ quân, ngoài các phi đoàn của Sư
đoàn 6 Không quân, BTL đặt tại Pleiku, còn có các phi đoàn trực
thăng của Sư đoàn 1 Không quân (Đà Nẵng) và Sư đoàn 4 Không quân
(Cần Thơ), với hơn 100 trực thăng đủ loại kể cả các loại
Chinook.
-Theo lịch trình đổ quân, hai Tiểu đoàn của
Trung đoàn 45BB và đại đội Trinh sát Sư đoàn 23BB được trực
thăng vận trước tiên. Tiếp đến, các Chinook móc theo các khẩu
đại bác 105 thả xuống khu vực đổ quân của lực lượng đặc nhiệm
tại quận lỵ Phước An.
-1 giờ 10 trưa ngày 12 tháng
3/1975, Thiếu tướng Phú từ bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 bay đến Buôn
Ma Thuột trên một chiếc phi cơ nhỏ để trực tiếp điều quân. Tới
Buôn Ma Thuột vào khoảng 2 giờ chiều, Tướng Phú đã liên lạc với
đơn vị trưởng của các đơn vị đang chiến đấu ở quanh Buôn Ma
Thuột như Trung đoàn 53BB ở phi trường Phụng Dực, Liên đoàn 21
Biệt Động Quân, các Tiểu đoàn Địa phương quân Darlac. Cùng đi
theo cánh quân cứu viện còn có Đại tá Trịnh Tiếu, Trưởng phòng 2
Quân đoàn 2, được Tướng Phú chỉ định giữ chức vụ Tỉnh trưởng
kiêm Tiểu khu trưởng Darlac thay thế Đại tá Nguyễn Trọng Luật
được ghi nhận là mất tích. Cùng đi theo Đại tá Tiếu, còn có bộ
chỉ huy lưu động của Tiểu khu Darlac vừa thành lập.
Tuy
nhiên, sự phản công và kế hoạch giải vây của quân ta đã không
hữu hiệu, các Trung đoàn 44 và 45 được đổ xuống Phước An dùng
làm bàn đạp để tiến về thành phố Bàn Mê Thuột. Nhưng Phước An
vào lúc đó trở thành một trung tâm tản cư của những người dân
chạy thoát ra từ Buôn Ma Thuột. Ở đây nhiều binh sĩ gặp lại gia
đình tự động lẩn vào đám đông bỏ ngũ. Một số các binh sĩ khác tự
động rời hàng ngũ đi tìm thân nhân mất tích. Một đạo quân giải
vây trong tình trạng như thế chắc chắn không thể hoạt động được.
Bốn ngày sau, SĐF10 của CSBV tiến chiếm Phước An. Hy vọng giải
vây BMT bị tan vỡ.
Chiều ngày 12 tháng 3/1975, cùng lúc
tấn chiếm tại chiến trường Buôn Ma Thuột, thì tại Pleiku,cộng
quân cũng đã pháo kích bằng hỏa tiễn vào phi trường quân sự Cù
Hanh và bộ Tư lệnh Quân đoàn 2. Trưa ngày 14 tháng 3, 1975,
trong khi Sư đoàn 23BB đang khai triển các cánh quân để tiến về
giải cứu Buôn Ma Thuột, thì tại Cam Ranh, Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung
tướng Đặng Văn Quang, phụ tá An ninh Quân sự của Tổng thống, đã
họp mật với Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2-Quân
khu 2. Tại cuộc họp kéo dài gần 2 giờ, Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu ra lệnh cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ
lực lượng của Quân đoàn 2/Quân khu 2 khỏi Cao nguyên, di chuyển
về các tỉnh duyên hải miền Trung thuộc lãnh thổ Quân khu 2.
Thay lời kết:
Cộng sản Bắc Việt tung
vào trận địa tấn công Buôn Ma Thuột 3 Sư đoàn chủ lực và các đơn
vị biệt lập địa phương, toàn bộ lực lượng vào khoảng 30 ngàn
người, gấp 7 lần lực lượng trú phòng (khoảng 4000). Chủ lực quân
ta chỉ có hai Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 53 còn lại là Địa
Phương Quân, Cảnh Sát... Lực lượng đã quá chênh lệch, địch lại
đánh lén, đánh trộm thì chúng phải dành chắc phần thắng trong
tay. Sự thất thủ của Buôn Ma Thuột là chuyện đương nhiên; dù
biết trước phòng thủ cũng vẫn thua. Nhưng nếu biết trước và tăng
cường yểm trợ để gây tổn thất nặng nề cho địch thì có thể giảm
bớt áp lực địch tại các mặt trận khác hy vọng không đưa tới tình
trạng hốt hoảng hỗn loạn dây chuyền đưa tới sụp đổ tan tành mau
chóng.
Tuy nhiên sự sai lầm của Tướng Phú chỉ là phương
diện chiến thuật, Buôn Ma Thuột mất vì tại Quân khu 2 ta không
đủ lực lượng để đương đầu lại áp lực của địch quân gồm 5 Sư đoàn
chủ lực cộng với 15 Trung đoàn biệt lập và cơ giới, lại thêm
những lệnh lạt bất thường thiếu nghiên cứu vì cấp lãnh đạo của
ta đã sai lầm về lãnh đạo và chiến lược...
Những Chiến Binh can trường của QLVNCH tai chiến trường Cao nguyên
Tài liệu tham khảo:
1. Những Ngày Cuối Của VNCH, của Đại tướng Cao Văn Viên Bản
dịch Việt Ngữ của Nguyễn Kỳ Phong, nhà xuất bản
Vietnambliography 2003
2. Buôn Ma Thuột, ngày đầu cuộc
chiến của Nguyễn Định trên trang Web History of the Viet Nam War
3. Mặt Trận Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975 của Vương Hồng Anh đăng
trên Việt Báo từ 3/2000
4. Những Trận đánh lịch sử trong
chiến tranh VN 1963-1975 của Tiến sĩ Nguyễn Đức Phương, Đại Nam
xuất bản 1993
5. Mặt Trận Buôn Ma Thuột của Phạm Huấn trên
trang nhà http://doanket.orgfree.com
6. Nhìn lại trận đánh
Buôn Ma Thuột 1975 của Đại tá Nguyễn Trọng Luật trên
http://doanket.orgfree.com
7. Email suavantran@hotmail.com
của Trần Văn Sua Biệt Đoàn 219 Trực Thăng tại Buôn Ma Thuột.
Bảng hướng dẫn đến các chương (bấm vào các con số sẽ đi thẳng đến chương đó):
01 |
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 |
21 |
22
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37 |
38 |
39 |
40 |
41 |
42 |
43 |
44
Mục lục
Trích và cập nhật từ quyển “20 Năm
Chiến Sự” - Binh chủng Nhảy Dù
Tác giả:
Đại úy Võ Trung Tín Tiểu đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202
Đại úy Nguyễn Hữu Viên Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù – 714-897-1435
1246 S. Huron Dr. Santa Ana CA 92704
Email:
20namchiensu@gmail.com
Tổng Phát Hành: Mr. Hải Võ
1246 S. Huron Dr. Santa Ana CA
92704
Tel: 714-856-9202. Email: 20namchiensu@gmail.com
Giá
quyển sách:
$40.00USD
(Ngoài Hoa Kỳ:
$50.00USD)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by Võ Trung Tín chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, July 29, 2016
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang