|
Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang Quân
sử VNCH
Chủ đề:
quân sử sư đoàn nhảy dù qlvnch
Tác giả: MĐ
Nguyễn Hữu Viên & MĐ Tín Võ
****** |||
******
MỤC LỤC
*
A. PHẦN A: TỔ CHỨC
B. Chiến Sự
1. Trận Điện Biên Phủ (13/3/1954
– 7/5/1954)
2. Tình Hình Việt Nam Sau Hiệp Định Geneve
3. Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng (23/5/1955
– 6/12/1955)
4. Chiến Dịch Hoàng Diệu (từ 21/9
– 24/10/1955)
5. Chiến Dịch Nguyễn Huệ (từ 1/1
– 17/2/1956)
6. Binh Biến ngày 11/11/1960
7. Trận Phước Thành (18–19/9/1961)
8. Trận Ấp Bắc (2–3/1/1963)
9. Trận Tân Châu Hồng Ngự (2–4/3/1964)
10. Trận
Bình Giã (3/12/1964 – 3/1/1965)
11. Trận Hắc Dịch (9–10/2/1965)
12. Trận Ba Gia (28/5/1965
– 2/6/1965)
13. Trận Đồng Xoài (9–20/6/1965)
14. Trận Đức Cơ (4–15/8/1965)
15. Chiến dịch Ia Drang – Thần Phong 7 (14–18/11/1965)
16. Hành Quân Thần Phong 11 (28/1 – 6/3/1966)
17. Đại Bàng 800 (12/11/1966)
18. Hành Quân Liên Kết 81 (16–22/2/1967)
19. Lam Sơn 54–Khu Phi Quân Sự (18–27/5/1967)
20. Trận
Dakto (Đồi
1416) (3–22/11/1967)
21. Tổng Công Kích Năm Mậu Thân (từ ngày 29/1/1968)
22. Mặt Trận Sài Gòn (30/1/1968)
23. Mặt Trận Quảng Trị (30/1/1968)
24. Mặt Trận Huế (30/1/1968)
25. Mặt Trận Khe Sanh (1–15/4/1968)
26. Mặt Trận A–shau (19/4 – 17/5/1968)
27. Trận Mậu Thân đợt hai (từ ngày 5/5/1968)
28. Trận Gò Nổi (Tây Ninh) (19/5/1969)
29. Chiến Dịch Bình Tây (Từ ngày 27/3/1970)
30. Hành Quân Toàn Thắng 42 (29/4 – 22/7/1970)
31. Hành Quân Toàn Thắng 43 (1/5 – 30/6/1970)
32. Hành Quân Toàn Thắng 45 (6/5 – 30/6/1970)
33. Hành Quân Lam Sơn 719 (8/2
– 6/4/1971)
34. Trận đánh Căn Cứ Hỏa Lực 6 (4–17/4/1971)
35. Trận đánh Căn Cứ Hỏa Lực 5 (24/5 – 19/6/1971)
36. Mùa Hè Đỏ Lửa
37. Mặt Trận Tây Nguyên (17/3 – 28/5/1972)
38. Mặt Trận Bình Long (2/4 – 8/6/1972)
39. Mặt Trận Quảng Trị (30/3 – 15/9/1972)
40. Trận Thường Đức (18/8 – 8/11/1974)
41. Trận Ban Mê Thuột (10–16/3/1975)
42. Trận Khánh Dương (19/3 – 1/4/1975)
43. Trận Phan Rang (1–17/4/1975)
44. Trận Long Khánh (9–21/4/1975)
C.
PHẦN C: CÁC VỊ TƯ LỆNH SĐND
******39******
39.
Mặt Trận Quảng Trị (30/3/1972 – 15/9/1972)
Mặt
Trận Quảng Trị
(từ 30/3/1972 – 15/9/1972)
Lịch sử Tỉnh Quảng
Trị và Cổ Thành Đinh Công Tráng
Tỉnh Quảng
Trị phía Bắc giáp Quảng Bình, phía Đông giáp Đông Hải, phía Nam giáp
tỉnh Thừa Thiên–Huế, phía Tây là dãy Trường Sơn và nước Lào. Diện
tích khoảng 4,700km², với dân số 270,984 người. Tỉnh lỵ Quảng Trị
cách thành phố Huế 55km (34 miles/dặm) và cách Sài Gòn 1,227km (767
miles/dặm) về hướng Nam.
Phía Đông Quảng Trị là đồng bằng hẹp,
phía Tây là rừng núi thuộc Trường Sơn, chiếm gần 2 phần 3 diện
tích tỉnh. 3 sông chính của tỉnh là Bến Hải, Cam Lộ, và sông Thạch
Hãn. Sông Bến Hải phát nguồn từ dãy Trường Sơn ra đến biển ở cửa
Tùng, dài gần 100km. Sông Thạch Hãn (còn gọi là sông Quảng Trị) chảy
từ quận Hương Hóa qua quận Cam Lộ, rồi đổ ra cửa Việt. Sông Cam Lộ
(còn gọi là sông Bồ Điền) là con sông đào nối sông Bến Hải với sông
Thạch Hãn, chảy qua 2 quận Hương Hóa và Cam Lộ. Ngoài ra tỉnh còn
có 1 số dòng sông nhỏ như sông Mỹ Chánh, sông Nhung... Bờ biển
Quảng Trị dài 66km (41 miles/dặm), ngoại trừ vùng cửa Tùng lởm chởm đá,
suốt bờ biển đều bằng phẳng và có nhiều cát, nên không lập được các
hải cảng.
Không ảnh phía Đông thành phố Quảng Trị 9/1967 (Ảnh: Lê Mạnh Hải)
Đất Quảng Trị xưa đã là đất Lập Quốc của
Việt Nam, 1 phần của bộ Việt Thường, 1 trong 15 bộ của nước Văn
Lang. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành và bắt được vua
Chiêm là Chế Củ. Chế Củ liền dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh, và Bố
Chính (bây giờ là Quảng Bình, Quảng Trị). Năm 1306, Chế Mân dâng 2 châu Ô, Lý làm sính lễ để cưới Huyền Trân Công Chúa. Năm 1307, vua
Trần Nhân Tông đổi Châu Ô làm Châu Thuận, Châu Lý làm Châu Hóa. Châu
Thuận gồm đất Phong Điền, Triệu Phong, Hải Lăng Quảng Trị ngày nay.
Tháng mười năm Mậu Ngọ (1558), chúa Nguyễn Hoàng được vua Lê cử
vào trấn đất Thuận Hóa, lập Dinh ở Ái Tử thuộc phủ Triệu Phong. Năm
1804 vua Gia Long đặt lại tên là Dinh Quảng Trị. Tên Quảng Trị có từ
đó. Năm 1831, Minh Mạng đặt làm trấn, sau đổi làm tỉnh. Đến đời vua
Tự Đức cải làm đạo, nhưng lại đổi thành tỉnh vào năm 1876.
Trước năm 1975, Quảng Trị có các quận như Gio Linh, Trung Lương,
Hương Hóa, Hải Lăng, Cam Lộ, Mai Lĩnh, và Triệu Phong. Hơn 2 thế kỷ
trước, Cổ thành Quảng Trị là thành lũy quân sự của nhà Nguyễn được
xây cất từ đầu đời vua Gia Long (1802), tới năm 1827 vua Minh Mạng
cho xây lại bằng gạch. Chu vi tường thành gần 2,000m, cao 9.4m, dưới
chân dày 12m, bao quanh có hệ thống hào, 4 góc thành là 4 pháo đài
cao nhô hẳn ra ngoài. Trong những năm 1809–1945 nhà Nguyễn lấy làm
thành lũy quân sự và trụ sở hành chính. Thành được xây theo lối kiến
trúc thành trì Việt Nam với tường thành bao quanh hình vuông được
làm từ gạch nung cỡ lớn; kết dính bằng vôi, mật mía, và 1 số phụ
gia khác trong dân gian như mủ cây Ô–Dước. Thành trổ 4 cửa chính
Đông–Tây–Nam–Bắc. Sau chiến dịch mùa “Hè đỏ lửa” 1972 toàn bộ Cổ
thành Quảng Trị gần như bị san phẳng; chỉ còn sót lại 1 cửa
hướng Đông tương đối nguyên hình và vài đoạn tường thành cùng giao thông
hào bên ngoài chi chít vết bom đạn. Theo tin tức tình báo của Phòng
2/Bộ Tổng Tham Mưu đã ghi nhận các hoạt động địch trên toàn lãnh thổ
Miền Bắc và các hoạt động địch trên đường mòn HCM, kể từ 1971 sau
cuộc hành quân Lam Sơn 719, CSBV đã ráo riết đưa hàng đoàn xe ủi đất
và dân công để làm 1 lộ trình mới từ đường mòn HCM đi về hướng Đông–Nam đến tận vùng
Phi Quân Sự. Con đường này đã được hoàn tất
vào khoảng tháng 1/1972. Những tin tức tình báo kỹ thuật cũng xác nhận
CSBV thiết lập các vị trí hỏa tiễn SAM, pháo 130ly, và hỏa tiễn 122ly
ngay cạnh vùng Bắc PQS. Điều đó có nghĩa là các Căn cứ Hỏa lực của
ta tại vùng Nam Bến Hải đều nằm trong tầm pháo của địch. Những tin
tức này đều được P2/TTM tường trình cùng các vị lãnh đạo quân sự cao
nhất của VNCH. Hơn thế nữa, khi BV làm tiếp đoạn đường này xuyên qua
sông Bến Hải vào tận vùng Phi Quân Sự phía Nam thì P2/BTTM đã xin
Không Quân Việt–Mỹ oanh kích mà vẫn không thấy bên ta động tĩnh gì.
Sự bỏ ngõ và thái độ của các giới chức Việt–Mỹ lúc đó đã làm cho các
cấp chỉ huy quân sự vùng hỏa tuyến hết sức kinh ngạc và lo lắng.
Ðể bảo vệ khu vực Quảng Trị, Quân Lực VNCH phối trí các đơn vị
như sau: SÐ3BB tân lập trách nhiệm bảo vệ Quảng Trị. Tư lệnh là
Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, bản doanh Sư Ðoàn đặt tại Ái Tử.
– Trung Đoàn 2 (1 Trung Đoàn cũ của SĐ1BB), đóng tại các
Căn cứ A4 hay là Cồn Thiên, Fuller, C2, và C3.
– Trung Đoàn 56 đóng tại các Căn cứ Hỏa lực Cam Lộ, Khe Gió, và Tân Lâm (Carroll).
– Trung Đoàn 57 đóng tại CCHL C1 (Gio Linh), A1, A2, và A3.
Ngoài ra SÐ3BB còn được tăng phái 2 Lữ Đoàn TQLC:
– Lữ Đoàn 147 TQLC đóng ở CCHL Mai Lộc, núi Ba Hộ, Sarge, Holcomb.
– Lữ Đoàn 258 đóng tại Pedro (Phượng Hoàng), Anne, Jane, Barbara.
2 Lữ Đoàn TQLC có nhiệm vụ trấn giữ mặt phía Tây của Quảng Trị.
Sư Đoàn 3 bộ binh được thành lập ngày 1/10/1971,
có quân số vào khoảng 11,203 người. Trong các đơn vị cơ hữu, chỉ có
Trung Đoàn 2BB rất thiện chiến, vì là 1 đơn vị tác chiến kỳ cựu
của SĐ1BB, lừng danh miền giới tuyến. Riêng 2 Trung Đoàn 56 và 57
tân lập, mà quân số được bổ sung từ các lao công đào binh, quân
dịch, và các đơn vị ÐPQ + NQ Vùng 1 chiến thuật. Sư Đoàn cũng chưa có
kinh nghiệm hành quân và tác chiến cấp vùng.
Lực
lượng bạn: Lực lượng VNCH có các đơn vị sau đây:
1.
SÐ3BB đóng
tại Căn cứ Ái Tử, do Chuẩn tướng Vũ Văn Giai làm Tư lệnh.
•
Trung Đoàn
2 đóng tại Căn cứ Tân Lâm (là Căn cứ Hỏa lực lớn nhất tại
vùng giới tuyến), A4 Cồn Thiên, Fuller C2, và C3.
•
Trung Đoàn 56 đóng tại Căn cứ Cam Lộ, Khe Gió, và Carrol.
•
Trung
Đoàn 57 đóng tại Căn cứ C1, A1, A2 và A3.
•
Thiết Đoàn 11
Thiết Kỵ đóng tại Sharon.
2. LĐ147 TQLC đóng tại
Căn cứ Hỏa lực Mai Lộc, núi Ba Hộ, Holcomb, và Căn cứ Sarge.
3.
LĐ258 TQLC
đóng tại Căn cứ Hỏa lực Pedro, Anne, Janne, và Barbara.
4.
Liên Đoàn 1 BÐQ gồm các Tiểu Đoàn 21, 37, và 77.
5.
Liên
Đoàn 4 BĐQ với 2 Tiểu Đoàn 43 và 44 (vùng 4 chiến thuật).
6.
Liên Đoàn
5 BÐQ với 3 Tiểu Đoàn 30, 33, 38 BĐQ (vùng 3 chiến thuật).
7.
Trung Đoàn 4/SĐ2BB.
8. Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh, Thiết
Đoàn 17
(M113) và Thiết Đoàn 20 (M48).
9. Tiểu Đoàn 24 Địa
Phương Quân + NQ.
10. 8 Tiểu Đoàn Pháo Binh.
11.
SÐTQLC: gồm 3
Lữ Đoàn do Chuẩn tướng Bùi Thế Lân làm Tư lệnh.
12.
SÐND với 3
Lữ Đoàn do Trung tướng Dư Quốc Đống làm Tư lệnh.
13.
Không Quân VNCH: SĐ1KQ với các Phi Đoàn 213, 219.
14.
Pháo hạm đội 7
và Không Quân Hoa Kỳ gồm 2 hàng không mẫu hạm USS Kitty Hawk
(CV63) và USS Coral Sea (CV43) vào hải phận Việt Nam hợp lực với 2
HKMH USS Hancock CV19 và USS Constellation CV64 nâng số phi cơ của
Hải Quân lên 275 chiếc.
Lực lượng địch:
Để tấn chiếm
Quảng Trị, Mặt trận B5 CSBV đã tung ra 1 lực lượng tương đương 6
Sư Đoàn gồm có:
1. Sư Đoàn 304 do Hoàng Đan chỉ huy, gồm 3
Trung Đoàn 66, 24, 29 với sự yểm trợ của Pháo Binh, pháo Phòng
Không, đơn vị Hỏa tiễn, và Công Binh trực diện tấn công vào mặt
phía Tây Quảng Trị.
2. Sư Đoàn 308 do Phạm Hồng Sơn chỉ huy và
Hoàng Minh Thi làm chính ủy gồm 3 Trung Đoàn 103, 88, và 57 được tăng
cường 2 Trung Đoàn 48 và 27 Bộ Binh, Tiểu Đoàn 15 biệt lập, 2 Trung Đoàn Pháo 164, và 84,
1 Trung Đoàn Phòng Không, 2 Trung
Đoàn Chiến Xa 203 và 204, 2 Tiểu Đoàn Công Binh, 1 Tiểu Đoàn Đặc
công và 3 Trung Đội Hóa Học tấn công từ hướng Bắc.
3.
SĐ324B
do Giáp Văn Cương chỉ huy và Lê Tự Đồng làm chính ủy với 3 Trung
Đoàn 6, Trung Đoàn 803, và Trung Đoàn 29 thuộc mặt trận Thừa Thiên,
di chuyển vào thung lũng A–shau áp lực mạnh trên thành phố Huế.
4. Sư Đoàn 320B gồm các Trung Đoàn 48, 64, và 1 Trung Đoàn bộ
đội địa phương của Mặt trận B5 tăng cường. Các Trung Đoàn 48 và 64
là các đơn vị chủ lực phòng thủ Cổ thành Quảng Trị.
5.
Sư
Đoàn 325 và SĐ312 trừ bị ém quân tại biên giới Việt–Lào.
6.
2
Trung Đoàn tăng, Thiết Giáp:
• Trung Đoàn 202 với 3 Tiểu
Đoàn
là: 66, 244, và 198.
• Trung Đoàn 203, do Thiếu tá Độ chỉ huy
và Tri – chính ủy. Trung Đoàn có 4 Tiểu Đoàn 297, 397, 512, và 177
vận tải, 1 số xe Thiết Giáp gắn súng cao xạ 12.8mm và 37mm.
7. 4 Trung Đoàn Pháo Binh cơ giới 84, 68, 164, 45 với hơn 300 pháo
các loại.
8. 2 Sư Đoàn Phòng Không: Sư 367 và 376 với 4
Trung Đoàn Phòng Không 241, 243, 250, 280, và 2 Trung Đoàn hỏa tiễn
237, 238 với hỏa tiễn địa–không SAM2.
9. 2 Trung Đoàn Biệt
Lập 5 và 6 từ thung lũng A–shau ở phía Tây Trường Sơn tiến về đe dọa
thành phố Huế và Ðà Nẵng.
10. Các lực lượng Du
kích địa phương
và 2 Trung Đoàn 229, 249.
11. 2 Tiểu Đoàn Đặc công 31 & 25
phối hợp với Tiểu Đoàn 47 địa phương Vĩnh Linh và Đoàn Đặc công Hải
Quân 126 do Bùi Thúc Dương chỉ huy tấn công vào mặt phía Đông Cửa
Việt, Gio Linh, và Triệu Phong.
12. Đoàn 126 thuộc khu vực 5
Hải Quân.
Diễn Tiến:
Phát động chiến dịch tại Quân Khu
1 VNCH, Tướng CSBV Võ Nguyên Giáp xua 45,000 quân vượt qua sông Bến
Hải với hàng trăm chiến xa, hàng trăm đại pháo và 1 lực lượng
tương đương 6 Sư Đoàn bộ binh tổng tấn công lấn chiếm tỉnh Quảng
Trị, Ải địa đầu cực Bắc VNCH. Ðồng thời tung SÐ324B cùng 2 Trung
Đoàn Biệt Lập 5 và 6 từ thung lũng A–shau ở phía Tây Trường Sơn tiến
về đe dọa thành phố Huế và Ðà Nẵng... để khởi sự trận chiến mà chúng
gọi là Chiến Dịch Nguyễn Huệ.
Theo kế hoạch sơ khởi
Bộ Tư Lệnh Chiến Dịch CSBV đã tổ chức 4 cánh quân và sử dụng các lực lượng
tác chiến như sau:
1. Cánh Bắc, sử dụng SĐ308, 2
Trung Đoàn
độc lập 48, 47, Tiểu Đoàn 15 độc lập, 2 Trung Đoàn pháo diện địa
(164, 84), 1 Trung Đoàn pháo cao xạ (284), 2 Tiểu Đoàn xe tăng, 2
Tiểu Đoàn Công Binh, TĐ33 Đặc công do tướng Hồng Sơn Tư lệnh phó
chiến dịch và Hoàng Minh Thi Phó chính ủy trực tiếp chỉ huy. Mục
tiêu tấn công là các vị trí đóng quân của Trung Đoàn 57 và Trung
Đoàn 2 từ Căn cứ A1 đến Fuller, mục tiêu kế tiếp là thị xã Đông Hà.
Phóng đồ mặt trận Quảng Trị (do Trần Đỗ Cẩm vẽ)
2.
Cánh Tây sử dụng SĐ304, 2 Trung Đoàn 38 và 68, 4 Trung Đoàn cao xạ
230, 232, 241, 280, 2 Tiểu Đoàn hỏa tiễn 122ly, 1 Tiểu Đoàn xe tăng,
1 Tiểu Đoàn Công Binh do tướng Hoàng Đan Tư lệnh SĐ304 chỉ huy tấn
công tuyến phòng thủ của Lữ Đoàn 147 TQLC tại Ba Hô, Sarge, Holcomb,
bao vây tiêu diệt các Căn cứ Mai Lộc, Carroll (Đồi 241 hay Tân Lâm),
Khe Gió. Sau đó chuyển hướng tấn công về Căn cứ Ái Tử (nơi đặt
BTL/SĐ3BB).
3. Cánh Nam, cánh thứ yếu nhưng rất quan trọng,
do SĐ324, 3 Tiểu Đoàn địa phương Quảng Trị cùng các binh chủng phối
thuộc do tướng Giáp văn Cương, Tư lệnh phó chiến dịch và Lê Tự Đồng
Phó chính ủy chỉ huy, có nhiệm vụ tiêu diệt các lực lượng ở Nam, Bắc
sông Thạch Hãn, chủ yếu là khu vực Phượng Hoàng (Pedro) Babara và
đoạn đường Bắc sông Mỹ Chánh, thực hiện chia cắt Trị–Thiên.
4. Cánh Đông sử dụng Tiểu Đoàn 47 địa phương Vĩnh Linh, 2 Tiểu Đoàn
Đặc công (31, 25), 1 Tiểu Đoàn pháo, 4 Đại Đội địa phương, Đoàn
126 Hải Quân do Bùi Thúc Dưỡng Trưởng phòng Đặc công chiến dịch chỉ huy,
có nhiệm vụ bao vây Dốc Miếu, Quán Ngang từ phía Đông, tiêu diệt Căn
cứ Hải Quân Cửa Việt, phá kế hoạch bình định ở Triệu Phong, thọc sâu
vào Đông–Bắc Ái Tử.
Ngày 30/3/1972 đúng 12:00g trưa, lợi dụng
cơ hội thay đổi vùng trách nhiệm của các Trung Đoàn 56 và Trung Đoàn
2 thuộc SĐ3BB. Bô đội CSBV bắt đầu pháo kích dữ dội, hàng trăm khẩu
pháo 130ly, 122ly đồng loạt nã đạn vào 14 Căn cứ của Sư Đoàn 3 và
Thủy Quân Lục Chiến trong vùng giới tuyến Carol, Mai Lộc, Sarge, núi
Ba Hộ, Tân Lâm, Cồn Thiên, Ðông Hà, và Quảng Trị. Pháo Binh cộng sản
với các loại đại bác nòng dài 130ly, cũng như 122ly tầm xa 27.1km,
từ Vĩnh Linh bên kia cầu Hiền Lương, đồng loạt bắn phá các Căn cứ
Hỏa lực của VNCH, với mức độ tàn phá kinh khủng chưa từng có. Ngay
lúc đó, cũng là thời gian 2 Trung Đoàn 2 và 56/SÐ3BB, đang hoán
chuyển vùng, nên bị tổn thất nặng nề về nhân mạng, nhiều vị trí
phòng thủ bị bỏ ngõ, đồng thời làm cho tinh thần binh sĩ, nhất là
Trung Đoàn 56 giao động mạnh. Sau đó, cộng quân huy động các đơn vị
chủ lực của 2 SÐ304 và 308 cùng 3 Trung Đoàn biệt lập của B5, 1 Trung Đoàn
Đặc công, và 2 Trung Đoàn Chiến Xa 203 và 202 (khoảng
30,000 quân) vượt Khu Phi Quân Sự chia thành 4 mũi tấn công cường
tập vào tuyến phòng thủ của các đơn vị bộ chiến Việt Nam Cộng Hòa
đang trấn đóng các Căn cứ tại phía Tây và Bắc Quảng Trị.
Các
mũi tấn công đầu tiên nhắm vào các Căn cứ của Trung Đoàn 2/3BB là
Fuller và Cồn Thiên, A4, 2 mũi khác nhắm vào Trung Đoàn 57 tại các
Căn cứ A1 và A2. 2 Căn cứ Hỏa lực lớn của SĐ3BB và TQLC tại
Carroll và Mai Lộc bị pháo kích nặng nề và liên tục, vì thế không
yểm trợ được cho quân bạn. Thời tiết trong mấy ngày đầu của cuộc
chiến rất bất lợi cho các đơn vị VNCH. Trần mây thấp và mưa gió, phi
cơ chiến thuật, quan sát và Trực thăng tiếp tế tản thương VN và HK
đã không thể hoạt động hữu hiệu để yểm trợ cho quân bạn.
Hỏa
lực Pháo Binh CSBV cũng đã gây tổn thất và kinh hoàng cho dân chúng
thuộc 3 quận lỵ giới tuyến, khiến trên 50,000 đồng bào bỏ nhà cửa,
chợ búa, ruộng vườn, đổ dồn ra Quốc lộ 1 và 9 để chạy giặc về hướng
Nam thành phố Quảng Trị.
Đến 6:00g chiều ngày 30/3,
2 vị
trí của TĐ4 TQLC tại núi Ba Hộ và Sarge bị pháo kích trên 600 quả đại
bác và hỏa tiễn đủ loại, 70% công sự phòng thủ bị phá hủy,
nhiều quân sĩ tử thương và bị thương. Sáng sớm ngày 31/3/1972 Căn cứ
Fuller bị tràn ngập, tại phía Bắc, dưới áp lực nặng nề của Pháo Binh
và bộ binh vây ép. Tiểu Đoàn 2/2 phải bỏ Cồn Thiên rút vào Căn cứ C2,
đồng thời TĐ 2 và 3/57 về Căn cứ C1. Về phía Đông, Đoàn 126 Hải Quân
CSBV đã ồ ạt tấn công Duyên Đoàn 11 và khống chế cảng Cửa Việt, cùng
lúc Tiểu Đoàn 47 địa phương Vĩnh Linh, 2 Tiểu Đoàn Đặc công 25, 31,
4 Đại Đội địa phương Quảng Trị, và 1 Tiểu Đoàn pháo phối hợp đã làm
tan rã các đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa quân Tiểu Khu Quảng Trị tại
phía Bắc sông Thạch Hãn. Về phía Tây, được CS xem là cánh quân trọng
yếu của chiến dịch, từ trưa ngày 30/3/1972, tất cả các khẩu pháo 130ly
của 2 Trung Đoàn 68, 38, và 2 Tiểu Đoàn hỏa tiễn đều tập trung nhắm
vào Carroll, Mai Lộc, Holcomb, Ba Hộ, và Sarge. Riêng tại 2 Căn cứ
Ba Hộ, Sarge do TĐ4/147 trú đóng đã bị gần 1,000 quả đạn. Đến 10:45g
đêm 31/3, địch quân tập trung 2 Trung Đoàn 9 và 66/304 tấn công
biển người vào Căn cứ Sarge, cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt, đôi
bên đều thiệt hại nặng nề. Đến 4:00g sáng hôm sau ngày 1/4/1972,
TĐ4 TQLC phải triệt thoái khỏi 2 Cứ điểm Núi Ba Hộ và Sarge, đến 6:00g chiều ngày 2/4 gom về tập trung tại
Căn cứ Mai Lộc. Đây là 2 vị
trí TQLC đầu tiên mất về tay quân CS trong 48 giờ đầu của cuộc tấn
công.
Tại Khe Gió trên QL9 nơi trú quân của TĐ3/56, trưa
31/3 1 bộ phận của Trung Đoàn 9/304 đã tấn công tràn ngập, cùng
lúc Căn cứ Holcomb do TĐ8/147 trấn giữ đã bị 2 Trung Đoàn 1 và 2/324
tấn công dữ dội, buộc phải rút về Căn cứ Phượng Hoàng.
Ngày
1/4/1972, chiến trường càng trở nên sôi động. Dưới áp lực nặng nề của
địch quân, 10:45g sáng, đơn vị tại Căn cứ Cồn Thiên (A4) triệt
thoái, 14:50g chiều, các Căn cứ Fuller (thuộc Trung Đoàn 2/BB),
Khe Gió (thuộc Trung Đoàn 57/BB) rút bỏ. Dân chúng chạy giặc, xe cộ
và binh sĩ bỏ ngũ mang theo gia đình, gây cản trở việc điều quân và
lưu thông trên Quốc lộ 9 và 1. Tiền sát viên Pháo Binh của CS trà
trộn vào đám đông di tản để điều chỉnh Pháo Binh vào các vị trí
QLVNCH. Các Căn cứ Đông Hà, Cam Lộ, Ái Tử bị pháo nặng, nhờ hải pháo
của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, từ ngoài khơi Quảng Trị, bắn vào yểm
trợ, vì thời tiết xấu nên Không Quân không thể yểm trợ hữu hiệu. Bởi
vậy lần lượt các Căn cứ Hỏa lực A1, A2, A3, A4 do SÐ3BB trấn
giữ, bị tấn chiếm. Trước áp lực quá mạnh của địch, BTL/SĐ3BB dồn nỗ
lực để gom quân và thiết lập hệ thống phòng thủ mới dọc theo tuyến
Cửa Việt, Đông Hà, Cam Lộ, Carroll, Mai Lộc và Phượng Hoàng. 2 Căn
cứ Hỏa lực Carroll và Mai Lộc tiếp tục bị pháo kích nặng nề.
Chiến xa CSBV trực tiếp tham chiến.
Chiến tuyến QLVNCH trong ngày 2/4/1972
Vào lúc 9:00g sáng, 1 lực lượng Chiến Xa T54
khoảng 20 chiếc từ hướng Bắc tiến về Đông Hà theo Quốc lộ 1. 1 lực
lượng chiến xa lội nước PT76 ở hướng Đông, dọc theo bờ biển tiến
xuống hướng Cửa Việt. Tình hình căng thẳng, TĐ3 TQLC được lệnh tử thủ
Đông Hà “bằng mọi giá”. Toán chống chiến xa trang bị đại bác 106ly
của TĐ6 TQLC từ Ái Tử được điều động lên tăng cường cho Đông Hà. Nhờ
thời tiết tương đối tốt, phi cơ A1 và A37 của Không Quân VN bay
lên oanh tạc chính xác vào 2 đoàn chiến xa địch, phá hủy 11 chiếc.
Khoảng 10:00g sáng 1 chiếc A1 bị phòng không 23ly từ chiến xa địch
bắn rơi. Ðại uý Phi Công Trần Thế Vinh Nhảy Dù ra được, nhưng rơi về
phía Bắc cầu Đông Hà, nên không tìm được tông tích, mặc dù TĐ1
TQLC
được lệnh cố gắng tìm kiếm. Để đề phòng chiến xa địch vượt qua cầu
Đông Hà, vào 16:30g chiều cùng ngày, chiếc cầu này được giật sập,
để ngăn cản kế hoạch của CSBV đưa bộ binh và chiến xa tiến xuống
phía Nam.
Ngày 2/4/1972 BTL/SÐTQLC và Lữ Đoàn 369 được không
vận ra Huế để thiết lập tuyến phòng thủ phía Bắc sông Mỹ Chánh.
TĐ7 TQLC được lệnh trấn giữ con đường huyết mạch QL số 1, từ Hải Lăng
về Mỹ Chánh. Trong ngày này, cộng sản cắt đứt QL9 từ Ðông Hà đến
Cam Lộ. Căn cứ Holcomb của TÐ8 TQLC, bị SÐ304 tấn công tràn ngập lúc
12:30g khuya. Tình hình chiến sự rối loạn khắp nơi, cùng lúc đồng
bào từ các quận Cam Lộ, Hương Hóa, Gio Linh, Đông Hà, bất kể Kinh
hay Thượng, ùn ùn bỏ làng xóm, tài sản, kéo nhau chạy về thành phố
Quảng Trị để trốn lánh chiến họa. Trên đường đào sanh, hàng ngàn
người đã làm mồi cho đạn Pháo Binh và Thiết Giáp của bộ đội cộng sản
Bắc Việt, gây thêm rối loạn cho các đơn vị của ta, vì vừa phải bảo
vệ cho dân chúng, lại vừa chiến đấu với giặc trong cơn nguy ngập.
Đạn pháo của địch càng lúc càng dữ tợn, hung tàn, phá hết tất cả,
không cần phân biệt xóm làng, dân lính, thành phố đông người. Do đó
trong phút chốc, những khu đông dân như Cam Lộ, Đông Hà trở thành
địa ngục trần gian đau khổ, mà không 1 ai, có thể ngờ tới, tình
cảnh của dân chúng chạy loạn cũng vô cùng thê thảm, khiến cho các
cấp chỉ huy của SÐ3BB và Tiểu Khu Quảng Trị gần như bó tay vì không
tìm ra kế hoạch nào để ổn định tình thế. Trong lúc đó Căn cứ Hỏa lực
Carroll (Tân Lâm) của Trung Đoàn 56BB bị vây khổn, cộng quân vẫn
tiếp tục pháo kích dữ dội vào Căn cứ nhưng không có quân tiếp viện.
Đúng 14:30g chiều, Trung tá Phạm Văn Ðính Trung đoàn trưởng Trung
Đoàn 56/3BB đã đầu hàng cộng sản cùng với khoảng 900/1,500 binh sĩ
VNCH bị quân CS bắt giữ và 22 khẩu đại bác, trong đó có 4 khẩu đại
bác 175ly, 10 khẩu 105ly của Pháo Đội TQLC, còn lại là Pháo Đội
155ly và 105ly của Pháo Binh QĐI và SĐ3BB (Trong khi đó số còn lại
khoảng hơn 500 quân nhân khác không theo Trung tá Đỉnh đánh mở đường
máu về hướng Đông và thoát được, trong đó có Thiếu tá Tôn Thất Mân,
Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 1/56). Biến cố này xảy ra trong ngày 2/4,
gây chấn động không ít đến tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ vùng
giới tuyến.
Phóng đồ tái phối trí lực lượng của SĐ3BB
Sau khi Căn cứ Hỏa lực Carroll thất thủ, Căn cứ Hỏa lực Mai Lộc,
nơi đặt BCH của LĐ147 TQLC trở thành tuyến đầu, đã liên tục bị pháo
kích và tấn công. Được lệnh tái phối trí, Pháo Đội 105ly TQLC tại
đây sau khi bắn hết đạn, đã được phá hủy bằng chất nổ. Đến 10:00g tối, BCH/LĐ và TĐ4
TQLC triệt thoái khỏi Mai Lộc về Đông Hà. Sáng hôm sau,
LĐ147 TQLC được lệnh di chuyển về Huế để bổ sung
và tái trang bị. Bộ Tư Lệnh SÐ3BB di chuyển Bộ Chỉ Huy Tiền
Phương tại Căn cứ Ái Tử lui về Quảng Trị cách Ái Tử khoảng 6km
về hướng Nam để tránh tầm pháo kích nặng nề của địch. Trung Đoàn
57 cũng được lệnh bỏ Căn cứ Gio Linh, rút về bờ Nam Đông Hà.
BCH/LÐ258 TQLC với các Tiểu Ðoàn TÐ1 + TÐ3 + TÐ6 TQLC,
TÐ3PB/TQLC, Đại Đội Công Binh TQLC, và được tăng phái Chi Ðoàn
2/20CX–M48 của Thiết Đoàn 20CX–M48. (Ðại uý Hà Mai
Khuê Chi đoàn trưởng) được lệnh di chuyển từ Căn cứ Nancy đến Ái Tử,
Căn cứ Phượng Hoàng và Đông Hà.
– TÐ3 TQLC (Thiếu tá Lê
Bá Bình TÐT) lập 1 tuyến cản địch dọc theo phía Nam cầu Ðông Hà
phối hợp với Thiết Đoàn 20CX–M48 (Trung tá Lý Thiết đoàn trưởng chỉ huy tổng
quát). Phía Bắc cầu Ðông Hà đặt 1 toán tiền sát để quan sát tình
hình địch.
– TÐ6 TQLC (Thiếu tá Ðỗ Hữu Tùng TÐT) đã được tăng
phái cho BTL/SĐ3BB từ trước khi BCH/LÐ258 đến Ái Tử. TÐ6 trách nhiệm
phòng thủ Căn cứ Ái Tử và bảo vệ BTL/SÐ3BB.
– TÐ1 TQLC (Thiếu
tá Nguyễn Ðăng Tống TÐT) trừ bị cho LÐ, đơn vị phối trí ở phía Bắc
Căn cứ Ái Tử.
– TÐ3PB/TQLC (Thiếu tá Trần Thiện Hiệu TÐT) trách
nhiệm yểm trợ trực tiếp các đơn vị.
– TÐ7 TQLC đang trấn ngự
tại QL1 được điều động ra tăng cường phòng thủ Căn cứ Ái Tử. (như
vậy là bỏ ngõ QL1 từ Mỹ Chánh tới Cam Lộ) Vùng trách nhiệm của Lữ
Đoàn 258 gồm phía Tây và Bắc tỉnh Quảng Trị (phía Nam cầu Ðông Hà là
ranh giới)..
Tính đến sáng ngày 3/4/1972, sau 4 ngày tấn công
của quân CSBV, 11 Căn cứ Hỏa lực của QLVNCH tại giới tuyến đã thất
thủ liên tiếp, mất đi 53 khẩu trọng pháo đủ loại làm cho Pháo Binh
VNCH bị suy yếu, trên 7 ngàn binh sĩ tử thương, bị thương, bị bắt, và
thất lạc đơn vị. Ngày 3/4, Bộ TTM không vận BTL SĐ TQLC, Bộ CH/BĐQ,
và Lữ Đoàn 369/TQLC từ Sài Gòn ra tăng cường QĐI. BTL/SĐ TQLC
đặt trong Thành Nội Huế. LĐ369/TQLC trừ bị và phòng thủ tại các
Căn cứ Nancy,
Jane, Evan, và phòng tuyến Mỹ Chánh, ranh giới giữa 2 tỉnh Quảng
Trị và Thừa Thiên.
Trong khi Trung Đoàn 57/SÐ3BB di tản chiến
thuật về phía Nam Ðông Hà, quân CSBV đuổi theo trong tình trạng hỗn
độn cả dân và VC mặc quân phục BB giả dạng trà trộn. Toán tiền sát
của TÐ3 TQLC (phía Bắc cầu Ðông Hà) báo cáo có xe vận tải chở BB địch
và đoàn chiến xa địch khoảng 20 chiếc dẫn đầu bởi 1 T54 và 1 PT76. TÐ3
TQLC và TÐ20CX–M48(–) báo động sẵn sàng chiến đấu.
Ðến
gần đầu cầu, chiếc T54 dẫn đầu bị trúng đạn CCX
[chống chiến xa]
M72 và đạn đại bác 90ly của TÐ20CX–M48 nằm tại chỗ, chiếc PT76
lách sang bên tiến lên để mở đường cho đoàn xe phía sau nhưng
cũng bị TÐ20CX–M48 Bắn
hạ nằm song song với chiếc T54. Tất cà đoàn xe và chiến xa địch
dừng lại tản ra 2 bên đường. TÐ3 TQLC yêu cầu LÐ cho hỏa lực yểm
trợ. Hỏa lực chính xác của PB/TQLC, Hải pháo và các Phi Tuần VNCH oanh
kích đã đẩy lui đơn vị CSBV cấp Sư Ðoàn có chiến xa yểm trợ với ý
định tiến qua cầu Ðông Hà để tiến chiếm tỉnh Quảng trị. Hàng trăm
lính CS Bắc Việt bỏ xác tại trận và 1 số CX bị tiêu diệt. Sau đó
cầu Ðông Hà được lệnh phá sập để ngăn đường tiến quân của địch.
Ngày 4/4/1972 sau khi Lữ Đoàn 147/TQLC rút lui về Huế để chỉnh
trang, 1 Tiểu Đoàn BĐQ được đưa vào trấn giữ Căn cứ Phượng Hoàng,
làm tiền đồn, bảo vệ thành phố, thay thế cho Tiểu Đoàn 1 TQLC, di
chuyển về phía Bắc Căn cứ Ái Tử.
Ngày 6/4/1972 lực lượng CS
từ Ba Lòng phía Nam sông Thạch Hãn tiến về uy hiếp Căn cứ Anne do 1 đơn vị thuộc Trung Đoàn 2/3BB trấn giữ.
Căn cứ Anne được lệnh
lui binh rút về Cam Lộ. Các Sư Đoàn CSBV vẫn tiếp tục hướng các mũi
tấn công vào thị xã Quảng Trị, vì Cầu Ðông Hà bị giật sập, nên cộng
quân dùng cầu Cam Lộ để vượt sông. Họ chia quân ra làm 2 cánh: 1 cánh quân đi dọc theo QL9 tiến chiếm Đông Hà, Cửa Việt, và theo QL1
tiến về hướng Nam. 1 cánh quân khác tiến về hướng Nam, theo Tỉnh
lộ 558 và 557 qua những Cứ điểm vừa chiếm như Carroll, Mai Lộc,
Holcomb để tấn công Căn cứ Phượng Hoàng và thị xã Quảng Trị từ hướng
Tây. Trước tình hình nghiêm trọng, Bộ TTM quyết định tăng
cường Liên Đoàn 4 (với 2 Tiểu Đoàn 43 và 44) và LĐ5 BÐQ (với 3 Tiểu Đoàn 30, 33, 38
BĐQ) cho Quân Ðoàn I.
Ngày 8/4/1972, BCH/LÐ258
điều động TÐ3 TQLC về phòng thủ Căn cứ Ái Tử thay thế TĐ6 TQLC. Khu
vực trách nhiệm của TÐ3 bàn giao lại cho Liên Đoàn 5 BÐQ (Trung tá
Ngô Minh Hồng Liên đoàn trưởng). TÐ6 TQLC được điều động phòng thủ
phía Tây khoảng 6km từ Căn cứ Ái Tử và trấn giữ Căn cứ Phượng Hoàng
(Pedro), thay thế cho 1 Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân.
Căn cứ
Phượng Hoàng (Pedro) như 1 tiền đồn ngăn chặn sự tiến quân của
địch từ thung lũng Ba Lòng (VC từng gọi là chiến khu Ba Lòng) cách
Căn cứ Ái Tử khoảng 6km về phía Tây. BCH/LÐ tăng cường cho TÐ6 1 xe ủi đất để tổ chức phòng thủ. Thiếu tá Đỗ Hữu Tùng TĐT/TĐ6
TQLC bố
trí TÐ6 (–) cùng 2 sĩ quan Cố vấn ở 1 vị trí cao cách Căn cứ
Phượng Hoàng 1km về hướng Bắc, 1 Đại Đội trấn thủ bên trong Căn cứ
Phượng Hoàng và Cánh B do Ðại uý Nguyễn Văn Sử TÐP hoạt động bung
rộng về hướng Đông–Nam cách Căn cứ Phượng Hoàng 1km. Phối trí quân
của TÐ6 nhằm tránh thiệt hại và tổn thất cho đơn vị khi địch pháo
kích vào Căn cứ Phượng Hoàng.
Tuyến phòng thủ Quảng Trị từ ngày 8/4/1972
BCH/LÐ cũng tăng phái 1 đơn vị Công Binh gồm CB/TQLC và CB/QÐI cho TĐ1
TQLC để đặt 1 bãi mìn Chống chiến xa. Hơn
500 quả mìn được đặt trên đường từ hướng Tây–Nam dẫn vào Căn cứ Ái
Tử để chặn đường tiến quân của chiến xa địch. BCH/LÐ và các Cố vấn
Mỹ đã phối hợp soạn thảo kế hoạch hỏa lực yểm trợ chu đáo, sẵn sàng
các yếu tố tác xạ dự liệu khi cần.
Khuya ngày 8 rạng 9/4/1972
với chiến thuật tiền pháo hậu xung, Pháo Binh CS khai pháo hỏa tập
ác liệt vào Căn cứ Phượng Hoàng như thác đổ. Khi vừa dứt pháo, Trung
Đoàn 66 Sư Ðoàn 304 CSBV với chiến xa của Trung Đoàn 203–CX yểm trợ
ào ạt tấn công và tràn vào Căn cứ như nước vỡ bờ với hỏa lực hùng
hậu của tăng địch và bộ binh tùng thiết. Lần đầu tiên binh sĩ TQLC
đối diện trực tiếp tăng T54 của địch với quân số đông gấp bội, đơn
vị TQLC phòng thủ Căn cứ phải rút ra ngoài và cộng quân đã tràn ngập
Căn cứ Phượng Hoàng sau đó.
Sáng sớm ngày 9/4/1972,
chiến xa
cộng quân bắt đầu khai hỏa truy kích các đơn vị TQLC trên đường rút
lui khỏi Căn cứ để thoát ra khỏi hỏa lực của địch. Lúc đó Chi Đoàn
2/20 Chiến Xa M48 do Đại uý Hà Mai Khuê chỉ huy được lệnh tiến về
Căn cứ Phượng Hoàng, gặp các đơn vị TQLC trên đường lui binh. Chi
Đoàn Chiến Xa M48 phối hợp cùng TĐ6 TQLC do Thiếu tá Đỗ Hữu Tùng chỉ
huy quay trở lại trận địa.
Khi thấy đoàn Chiến Xa M48 của
VNCH tiến vào Căn cứ Phượng Hoàng với TQLC tùng thiết, các chiến xa
CS vội quay đầu chạy trở vào Căn cứ mà họ đã chiếm. Ngay lập tức
TQLC và Chi Đoàn Chiến Xa 2/20 bao vây địch trở lại. 1 trận chiến
ác liệt giữa TQLC VNCH và lính bộ binh CS cùng trận ác đấu bằng đại
bác giữa Chiến Xa M48 và tăng T54 và T59 của CSBV.
Chiến Xa M48 là loại
chiến xa lớn nhất của QLVNCH, có khả năng cơ động,
bắn nhanh và chính xác đã triệt hạ nhiều chiến xa địch. Cùng lúc là
các Phi Tuần khu trục và Cobra Võ trang đã xuất hiện lâm trận oanh
kích ngay trên đầu bộ binh và chiến xa địch. Bộ Ðội cộng sản chạy
tán loạn, 1 số chiến xa cán phải mìn bị nổ tung. Hàng loạt các
Chiến Xa T54 và T59 của cộng quân đã bị Chiến Xa M48 và M72 của
TQLC bắn cháy cả bên trong và bên ngoài Căn cứ, còn lại 3 chiếc bỏ
chạy về hướng Mật khu Ba Lòng bị Phi cơ Skyraider A1 của Không Quân
ruợt theo thiêu rụi cùng 2 chiếc bị bắt sống tại bên trong Căn cứ.
Tổng kết 400 xác cộng quân bỏ lại trận địa, 21 Chiến Xa T54 bị
cháy, 2 chiếc bị bắt sống.
Ngày 13/4/1972 Lữ Đoàn
258 TQLC được điều động giữ tuyến phòng thủ từ Ái Tử đến Phượng
Hoàng. Từ Ái Tử lên mạn Bắc tới QL1,
Ðông Hà là vùng trách nhiệm của LÐ5 BÐQ và Thiết Đoàn 17 Kỵ Binh.
Từ Cam Lộ trở về dọc theo QL9 là tuyến án ngữ của LÐ4 BÐQ và
Thiết Đoàn 20 Kỵ Binh. Trung Đoàn 2BB trách nhiệm khu vực Nam Ái
Tử đến bờ Bắc sông Thạch Hãn. Liên Đoàn 1 BĐQ phòng thủ thị xã Quảng Trị, lập phòng tuyến tại bờ Nam sông
Thạch Hãn.
Ngày 14/4/1972 với sự yểm trợ hỏa
lực của Mỹ, sự chiến thắng của LÐ258 TQLC tại Pedro và sự tăng cường lực lượng của
BÐQ, Tướng Hoàng Xuân Lãm đã mở cuộc Hành Quân Quang Trung 729 để
tái chiếm vùng lãnh thổ bị mất về tay CS: Trung Đoàn 57BB phòng giữ
tuyến phía Bắc, trong khi các đơn vị BÐQ, TQLC, và Thiết Giáp chĩa
mũi dùi tấn công vào mặt phía Tây của tỉnh Quảng Trị. Chiến cuộc
bùng nổ lớn, tất cả các cánh quân đều chạm địch, cộng quân đã chống
trả và pháo kích nặng nề vào các đơn vị hành quân. Bởi vậy, thay vì
quân ta tấn công, lại bị giặc đẩy ngược về phía thành phố. Trong số
này, nguy khổn nhất là cánh quân của LÐ5 BÐQ và Thiết Đoàn 20 Chiến
Xa, tuy nhiên các đơn vị của QLVNCH vẫn còn giữ vững đựợc các vị trí
trách nhiệm. Do vì việc tổ chức phối hợp không đồng bộ và pháo trận
cường tập của đối phương khiến cho cuộc hành quân không hữu hiệu và
còn làm suy yếu tiềm lực phòng thủ sẵn có.
Ngày 18/4/1972
thất bại trong trận tấn công Căn cứ Phượng hoàng, cộng sản Bắc Việt
đã tung thêm quân áp lực nặng Căn cứ này và bắt đầu phản kích lại.
Ngày 23/4/1972 bất chấp sự thiệt hại to lớn trong những ngày đụng dộ
vừa qua với QLVNCH, cộng sản Hà Nội vẫn điên cuồng tấn công khắp nơi
bằng biển người, bất chấp sinh mạng con người, trong đó phần lớn là
đồng bào chạy lánh nạn. Trong lúc đó khắp các nẻo đường Quảng Trị,
càng lúc càng chết chóc thê thảm, bởi cảnh pháo kích bừa bãi của
cộng sản. Quảng Trị đã thật sự trở thành địa ngục trần gian thứ hai,
sau địa ngục An Lộc.
Ngày 24/4/1972 Lữ Đoàn
147
TQLC (Trung tá
Nguyễn Năng Bảo LÐT) với 2 Tiểu Đoàn 4 và 8 TQLC, và TĐ2PB/TQLC sau
khi được bổ sung và tái trang bị, đuợc lệnh trở ra Quảng Trị
thay thế vùng trách nhiệm của LĐ258 TQLC phía Tây Căn cứ Ái Tử và tiếp
nhận thêm TĐ1 TQLC đang phòng thủ tại Phượng Hoàng. Lữ Đoàn 258 TQLC
với 2 Tiểu Đoàn 3 và 7 được đưa về Huế nghỉ ngơi và bổ sung quân
số. Trong đêm này CS pháo kích làm cháy kho tiếp liệu của SÐ3BB tại
La Vang–Quảng Trị, trong đó có kho xăng dầu và cả 1 đoàn xe tiếp tế
quân trang quân dụng của Bộ Chỉ Huy 1 Tiếp Vận, từ Đà Nẵng tới.
Đêm 26/4, sau nhiều đợt pháo kích, SĐ304/CSBV cùng với chiến xa,
đã mở nhiều mũi tấn công cường tập vào tuyến phòng thủ của
LĐ147 TQLC.
Trận chiến đã diễn ra suốt đêm, chiến xa và bộ binh CQ cố tiến sát
đến công sự phòng thủ của Lính Mũ xanh. Hỏa tiễn M72 và lựu đạn đã
được sử dụng rất hữu hiệu để chận đứng cuộc tấn công ồ ạt của đối
phương. Dù sự yểm trợ của Không Quân và Pháo Binh bị hạn chế, nhưng
với tinh thần chiến đấu quyết tử, 2 Tiểu Đoàn 1 và 8 TQLC đã đẩy
lui nhiều đợt tấn công của địch và bắn cháy 12 Chiến Xa T54. Sáng
ngày hôm sau tuyến phòng thủ của TQLC thu hẹp lại, chỉ còn cách Ái
Tử từ 2 đến 3km.
Ngày 27/4/1972 cộng quân tổng tấn công tất
cả tuyến phòng thủ của VNCH từ cửa Việt xuống đến Căn cứ Phượng
Hoàng. Tất cả nòng súng đại pháo của quân Bắc Việt, đều tập trung
vào tỉnh lỵ, Căn cứ Hỏa lực Ái Tử, các quận Mai Lĩnh và Hải Lăng.
Đêm 27/4, Pháo Binh CSBV bắn trúng kho đạn Ái Tử, phá hủy phần lớn
đạn dược dự trữ.
Ngày 28/4, cộng quân pháo dữ dội vào tuyến
phòng thủ của Biệt Động Quân ở thị trấn Ðông Hà trong 2 ngày khoảng
7,000 quả đạn. Đến 7:15g sáng, bộ binh cùng Chiến Xa T54 Bắc
Việt tấn công vào phòng tuyến do Tiểu Đoàn 30 BĐQ/Liên Đoàn 5 BĐQ
đảm trách. Biệt Động Quân giữ vững phòng tuyến. Trung tá Ngô Minh
Hồng Liên đoàn trưởng ra lệnh, thúc đẩy binh sĩ BĐQ chống trả với
Chiến Xa T54 của địch nhưng quân CS Bắc Việt vẫn tiếp tục tràn vào,
nhất định chọc thủng phòng tuyến.
Sáng ngày 29 tháng 4/1972
Tiểu Đoàn 33 BĐQ được điều động lên tiếp viện cho Tiểu Đoàn 30
BĐQ,
nhưng Tiểu Đoàn bạn đã rút đi. Còn lại 1 mình, không có đơn vị
Thiết Giáp yểm trợ, Tiểu Đoàn 33 BĐQ vẫn tiếp tục chống cự cho đến
tối, rồi rút theo Tiểu Đoàn 30 về hướng Đông.
Đến 9:45g tối,
bộ binh cùng chiến xa CS Bắc Việt tiếp tục tấn công vào tuyến phòng
thủ của Tiểu Đoàn 38 BĐQ, Tiểu Đoàn còn lại của Liên Đoàn 5 BĐQ án
ngữ tại thị trấn Đông Hà. Vì áp lực của địch quân quá nặng khiến đơn
vị này phải rút quân về Ái Tử.
Tổng kết sau những ngày giao
chiến, các đơn vị LÐ5 BÐQ đã bắn hạ 13 Chiến Xa T54 và bắt sống 1 chiếc khác, tịch thu
hàng trăm vũ khí. Tuy nhiên LÐ BÐQ và Thiết Đoàn
20 Kỵ Binh bị thiệt hại nặng vì pháo địch. Để bảo toàn lực lượng,
các đơn vị này đã được lệnh triệt thoái để tăng cường bảo vệ phòng
tuyến Căn cứ Ái Tử và phòng thủ mặt Đông tiếp giáp với TĐ8 TQLC.
Trong khi đó, Trung Đoàn 57BB triệt thoái về thị xã Quảng Trị. Trong
đêm này cộng quân cũng tung chiến xa và bộ đội tràn qua cầu Ga Quảng
Trị nhưng đã bị đẩy lùi.
Trong khi đó, từ ngày 27 tháng Tư,
quân CS Bắc Việt mở đợt tấn công mới, mạnh mẽ vào tuyến phòng thủ
của Liên Đoàn 4 BĐQ. Đúng 6:00g sáng, Pháo Binh Bắc Việt bắn phủ
đầu lên các vị trí của quân đội VNCH bằng hỏa tiễn 122ly, và đại bác
130ly. Tại phòng tuyến từ Cam Lộ trở về dọc theo QL9, Liên Đoàn 4
Biệt Động Quân (với 2 Tiểu Đoàn 43 và 44) vẫn chống cự quyết liệt,
đẩy lui nhiều đợt tấn công của chiến xa và bộ binh CSBV. Tuy nhiên,
các chiến xa tăng phái bị trúng hỏa tiễn Sagger (tầm nhiệt, chống
chiến xa), thiệt hại gần hết. Đến 4:15g chiều, 2 Tiểu Đoàn
lính CSBV tấn công tràn ngập phòng tuyến của Tiểu Đoàn 43 BĐQ. Liên
Đoàn 4 Biệt Động Quân phải lui về lập 1 tuyến phòng thủ nơi phía
Nam Đông Hà, gần sông Miếu Giang.
Phòng tuyến của
Trung Đoàn
54 Bộ binh ở Tây Huế:
Căn cứ Bastogne và Checkmate nguyên là
những Căn cứ Hỏa lực do các đơn vị của Quân Đoàn 24 Hoa Kỳ thiết lập
và phụ trách phòng ngự. Từ đầu năm 1970 đến năm 1972, Sư Đoàn 101 Kỵ
Binh Hoa Kỳ thống thuộc quân đoàn nói trên đã bàn giao các Căn
cứ Hỏa lực và Căn cứ tiếp vận, hậu cứ cho Sư Đoàn 1 Bộ binh VNCH. Đầu
năm 1972, Sư Đoàn 1 Bộ binh VNCH tiếp nhận Căn cứ Gia Lê và dời Bộ
Tư Lệnh cùng toàn bộ các đơn vị yểm trợ và hậu cứ 1 số Tiểu
Đoàn, Trung Đoàn Bộ binh về đây.
Trước khi cuộc chiến Mùa Hè 1972
bùng nổ vào cuối tháng 3/1972, Trung Đoàn 54/SĐ1BB do Trung tá
Nguyễn Thanh Hạnh chỉ huy, được điều động phòng thủ ở phía Tây Huế.
Tuyến phòng thủ Trung Đoàn 54 chạy dài từ phía Bắc Căn cứ Bastogne
(cách Huế khoảng 12km) đến phía Nam Cao điểm 342 (Checkmate). Bộ Chỉ
Huy Trung Đoàn đặt tại Căn cứ Birmingham (Bình Điền), Tiểu Đoàn
1/54
án ngữ Cao điểm 342 và quanh Căn cứ Checkmate, Tiểu Đoàn 2/54 phòng
ngự Căn cứ và vòng đai Bastogne, Tiểu Đoàn 3/54 đóng chung với Bộ
Chỉ Huy Trung Đoàn, Tiểu Đoàn 4/54 hành quân di động.
Từ đầu
tháng 3/1972, tin tức tình báo ghi nhận các đợt chuyển quân của 3
Trung Đoàn 29, 803, và 812 thuộc Sư Đoàn 324B từ phía Bắc vào thung
lũng A–shau nằm ở hướng Tậy Thừa Thiên. Cùng lúc đó, Trung Đoàn 24
thuộc Sư Đoàn 304 CSBV cũng được ghi nhận là đã di chuyển khỏi Mật
khu Ba Lòng (Quảng Trị) và trên đường di chuyển về phía Nam. Từ giữa
tháng 3/1972 đến đầu tháng 4/1972, trong khu vực trách nhiệm của
Trung Đoàn 54 Bộ binh không có những trận giao tranh lớn, chỉ có
những đợt pháo kích của cộng quân ở mức độ nhỏ. Những tuần lễ sau
cùng của tháng 4/1972, việc tiếp tế bằng đường bộ cho 2 Tiểu Đoàn 1/54 và 2/54 đã không thể thực hiện được, Bộ Tư Lệnh SĐ1BB đã tiếp
tế cho quân trú phòng bằng phương pháp thả dù xuống Căn cứ, nhưng
hơn 1 nửa rơi ngoài Căn cứ, lọt vào tay cộng quân.
Mặt trận phía Tây thành phố Huế trong ngày 28/4/1972
Cuộc triệt
thoái khỏi Căn cứ Bastogne và Checkmate:
Chiều ngày 28 tháng
4/1972, Mặt trận B4 CSBV tại Mật khu 611 tung 2 cánh quân gồm
2 Trung Đoàn 29 và 803 thuộc Sư Đoàn 324B CSBV đồng loạt tấn công
cường tập vào Căn cứ Bastogne. Dù bị áp đảo về quân số, nhưng Tiểu
Đoàn 2/54 do Đại uý Hà Văn Khâm, Tiểu đoàn phó xử lý thường vụ
Tiểu đoàn trưởng, chỉ huy, đã chận được các đợt tấn công của
cộng quân trong 2 giờ đầu. Trong khi đó, từ Căn cứ Hỏa lực
Bình Điền, Tiểu Đoàn Pháo Binh tăng phái cho Trung Đoàn 54 tác
xạ tập trung vào quanh Bastogne để bảo vệ Căn cứ khỏi bị cộng
quân tràn ngập. Nỗ lực của Tiểu Đoàn Pháo Binh chỉ làm giảm tốc độ tấn công của đối phương
thêm 1 thời gian ngắn, vì cùng với cuộc tấn công bằng bộ binh,
cộng quân đã pháo hỏa tập dữ dội vào Căn cứ này.
Khoảng 8:00g
tối ngày 28/4/1972, qua hệ thống truyền tin, Đại uý Hà Văn Khâm đã
báo cáo về Trung Đoàn 54BB tình hình nguy kịch của Căn cứ và xin
được triệt thoái. Trung tá Hạnh Trung đoàn trưởng đã chấp thuận cho Đại
uý Khâm được tùy nghi hành động, cố gắng mở đường máu để vượt thoát
khỏi vòng vây của địch. Gần 10:00g đêm 28/4/1972, Tiểu Đoàn 2/54 mở
đường máu vượt thoát vòng vây của địch. Ra khỏi Căn cứ được khoảng 1 giờ di chuyển trong đường núi, Đại
uý Khâm và toàn Ban Tham Mưu, 1 số Đại đội trưởng, Trung đội trưởng, và hơn
1 nửa Tiểu Đoàn bị địch
chận bắt.
Bastogne thất thủ, tuyến phòng ngự của Tiểu Đoàn 1/54 tại
Căn cứ Checmate đã bị địch cô lập. Để tránh tổn thất,
đêm 29/4/1972, sau khi liên lạc với Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư
lệnh Sư Đoàn, Trung tá Nguyễn Thanh Hạnh, ra lệnh cho Thiếu tá Nguyễn Phú
Thọ, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 1/54, điều động toàn Tiểu Đoàn triệt
thoái. Trên lộ trình rút quân, Tiểu Đoàn 1/54 bị chận đánh, 1 số
sĩ quan, và gần 1/3 Tiểu Đoàn bị địch bắt. Riêng vị Tiểu đoàn
trưởng, Tiểu đoàn phó và 1 số Sĩ quan Ban Chỉ Huy Tiểu Đoàn vượt
thoát được, về tuyến sau an toàn.
Đồng thời với việc tấn
chiếm 2 Căn cứ Bastogne và Checkmate, Trung Đoàn 66/304 CSBV cũng
đang nỗ lực vận tập về vùng thung lũng A–shau để chuẩn bị tấn công
Huế. Dù 2 Tiểu Đoàn 1/54 và 2/54 bị tổn thất nặng trong cuộc triệt
thoái, nhưng với 2 Tiểu Đoàn còn lại 3/54 và 4/54, Trung Đoàn 54
Bộ binh đã phối hợp với Trung Đoàn 1 Bộ binh tăng viện, giữ vững
phòng tuyến phía Tây Huế trong mùa Hè 1972. Trong ngày 29 tháng
4/1972, thế trận phòng thủ của lực lượng Việt Nam Cộng Hòa tại Quảng
Trị đã trở nên nguy ngập, cộng quân đã thay đổi các hướng tấn công
để chuyển qua 1 nỗ lực mới. Về lực lượng Sư Đoàn 3 Bộ Binh (BB) và
các đơn vị tăng phái, các sĩ quan chỉ huy trưởng đơn vị lại vô cùng
lo lắng vì vấn đề tiếp tế và tiếp liệu đạn dược đang ở trong tình
trạng thiếu hụt. 1 số đại bác đã được phá hủy sau khi tất cả đạn
dược đã cạn kiệt.
Trong những ngày cuối tháng 4/1972, lực
lượng phòng thủ tại tuyến Quảng Trị được tiếp tế bằng Trực thăng
với nhiều rủi ro nguy hiểm trên phi trình, đặc biệt là đoạn
đường dọc theo QL1. Trước các biến động chiến sự ngày càng nguy
kịch, sáng ngày 30 tháng 4/1972, Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, Tư
lệnh Sư Đoàn 3BB, triệu tập các sĩ quan chỉ huy trực thuộc và
tăng phái về họp tại Bộ Tư Lệnh Hành quân Sư Đoàn trong Cổ thành Quảng Trị (tức trại Đinh
Công Tráng). Tại buổi họp, tướng Giai trực tiếp trình bày kế hoạch
triệt thoái về phía Nam sông Thạch Hãn.
Theo sự phối trí của
Tướng Giai, Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) từ Căn cứ Ái Tử
sẽ rút về thị xã Quảng Trị để lập vòng đai cố thủ bảo vệ tỉnh lỵ, 1 tuyến phòng thủ mới sẽ thiết lập dọc theo bờ Nam sông Thạch Hãn
bởi lực lượng Bộ Binh và Biệt Động Quân (BĐQ) với sự yểm trợ của 1 nửa lực lượng
Chiến Xa và Thiết Vận Xa, thành phần Thiết Giáp (TG)
còn lại sẽ phối hợp với đơn vị bộ chiến để giải tỏa Quốc lộ 1 về
hướng Nam. Tất cả các đơn vị sẽ hoàn tất kế hoạch di chuyển vào ngày
hôm sau. Riêng Lữ Đoàn 147 TQLC sẽ rời Căn cứ Ái Tử trưa ngày 30
tháng 4/1972. Trong lúc đó tại Quảng Trị, đoàn người tỵ nạn thay vì
tâp trung tại Quảng Trị, lại ùn ùn tiếp tục bỏ chạy về Huế, gây cảnh
hỗn loạn trên Quốc lộ 1 và làm mục tiêu cho Pháo Binh cộng sản. Các
cánh quân cũng bắt đầu náo động vì vợ con tan tác chạy lánh nạn.
Do đó nhiều đơn vị đã tự động di tản, làm cho Bộ Tư Lệnh SÐ3BB cũng là
đầu não chiến trường, mất liên lạc với 1 số lớn đơn vị trực thuộc.
Trong đêm 29/4, địch liên tiếp pháo kích và tấn công vào phòng
tuyến của TQLC và Trung Đoàn 2/BB phía Tây và Tây–Nam Căn cứ Ái Tử.
Sáng hôm sau, các Chiến Xa M48 tăng phái cho BĐQ được điều động qua
mặt trận phía Tây của TQLC. Vì thiếu phối hợp, lực lượng BĐQ nghĩ
rằng, đơn vị Thiết Giáp bạn rút lui, nên cũng đã tự động triệt
thoái về Quảng Trị, chỉ còn lại LĐ 147/TQLC phòng thủ Căn cứ Ái
Tử, 2 mặt Bắc và Đông bị bỏ trống. Trưa ngày 30/4, LĐ147 TQLC được lệnh rút
khỏi Ái Tử về phòng thủ thị xã Quảng Trị. Kế hoạch triệt thoái được
thi hành tốt đẹp.
Cảnh di tản khỏi Quảng Trị
Đến ngày 30 tháng 4, Sư Đoàn 3 Bộ Binh chỉ còn lại Trung Đoàn 2BB và
1
Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 57BB. Vị sĩ quan chỉ huy của Trung Đoàn
57BB không liên lạc được với 2 Tiểu Đoàn trực thuộc, ông chỉ còn
bên mình 1 Trung Đội Trinh Sát để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn.
Còn Trung Đoàn 56BB, sau khi tan rã ở Căn cứ Tân Lâm, đã được tái bổ
sung quân số và tập trung ở Căn cứ Nancy (gần Mỹ Chánh, phía Nam
Quảng Trị). Trung Đoàn này đang trong giai đoạn tái chỉnh trang nên
chưa tham chiến được. Lúc 2:00g sáng, cộng sản tấn công Trung Đoàn
2/3BB và Thiết Đoàn 17, tại Căn cứ phía Tây thành phố, trong lúc đó
về phía bờ biển, cộng sản với bộ binh có Chiến Xa lội nước PT76,
tấn công tràn ngập các Tiểu Đoàn ÐPQ + NQ của Tiểu Khu Quảng Trị.
Quảng Trị thất thủ:
Tình trạng hỗn loạn khắp nơi, Tướng
Giai phải quyết định bỏ Căn cứ Ái Tử, rút hết về bờ Nam sông Thạch
Hãn phòng thủ. Trung Đoàn 57BB coi như tan hàng, vì hầu hết binh sĩ
đã rã ngũ, để chạy theo gia đình đang di tản về Huế. Quốc lộ số 1 đã
bị cộng sản đóng chốt nhiều đọan, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh vì Tiểu
Đoàn 7 TQLC đã di chuyển ra phòng thủ Căn cứ Ái Tử. Cùng với
những cố gắng trong nỗ lực ngăn chận cộng quân, Bộ Tư Lệnh Sư
Đoàn 3BB điều
động lực lượng để giải tỏa áp lực địch trên Quốc lộ 1. Thế nhưng kế
hoạch giải tỏa tiến hành chậm vì thiếu sự phối hợp giữa các đơn vị
và hỏa lực địch phản công. Do đó đoạn đường huyết mạch, chỉ có 9km,
bị bỏ ngõ để quân cộng sản đóng chốt, đã trở thành con đường xương
trắng máu đào, mà bia miệng và sử liệu gọi là
Đại lộ Kinh Hoàng
hay
là mồ chôn tập thể đồng bào tỉnh Quảng Trị, trong trận chiến Mùa Hè
Năm 1972.
Trưa ngày 30 tháng 4 khi các đơn vị của LĐ 147
TQLC
về đến bờ Bắc sông Thạch Hãn thì cả 2 cây cầu ngang sông Thạch Hãn
đã bị giật sập. Cầu Ván do cộng quân giật sập đêm 28 tháng 4/1972,
còn cầu Sắt thì do thiếu phối hợp, toán Công Binh đã đặt chất nổ phá
cầu trước khi đoàn quân xa của Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh TQLC và 3 Tiểu
Đoàn 1, 4, và 8 TQLC đi qua. Đoàn xe và 12 súng đại bác đã được phá
hủy trước khi vượt sông Thạch Hãn, và các đơn vị TQLC đến chiếm giữ
các vị trí trọng yếu quanh thị xã. Sáng ngày 1/5/1972, BTL/SĐ3BB thông
báo cho các đơn vị trú phòng nguồn tin: “5:00g chiều địch sẽ pháo
trên 10,000 đạn Pháo Binh và hỏa tiễn vào thị xã Quảng Trị”, và cho
lệnh các đơn vị lui quân khỏi thành phố để tránh pháo. Từ lệnh lui
quân tránh pháo này đã đưa đến cảnh rút lui hỗn loạn, kéo theo hàng
vạn đồng bào tản cư về Huế theo Quốc lộ 1.
Ngày 2/5 Tướng
Giai tuyên bố bỏ thành phố Quảng Trị và di tản chiến thuật. Tin trên
chẳng những làm cho mười bảy triệu quân dân miền Nam đau xót bùi
ngùi, mà còn khiến cho toàn thể thế giới sửng sốt. Tất cả không ai
tin được là tại sao tỉnh Quảng Trị lại bị lọt vào tay giặc 1 cách
quá dễ dàng, nếu đem so sánh với sự kinh hồn bạt vía, hoàn cảnh nguy
ngập tại 2 mặt trận Kontum và nhất là địa ngục An Lộc lúc đó,
không 1 chiếc xe tăng hay đại pháo và bị vây khổn giữa chốn 3 quân bạt ngàn, có sức mạnh chẻ tre chém đá mà còn giữ được.
Ngay sau khi kế hoạch lui binh bắt đầu, Tướng Hoàng Xuân Lãm ra lệnh
tử thủ Quảng Trị. Lệnh Sư Ðoàn và phản lệnh của Quân Ðoàn bất nhất
làm cho các đơn vị trưởng bất mãn, bất tuân thượng lệnh. Hệ thống
chỉ huy phòng thủ Quảng Trị bị gãy đổ ngay từ đó, các đơn vị tự ý
rời vị trí rút lui về hướng Nam. Tướng Tư lệnh SÐ3BB đã cùng với các
Cố vấn Mỹ và 1 ít sĩ quan tham mưu thân cận, đã được 3 Trực thăng
CH54 bốc đi từ Cổ thành Quảng Trị bay về Ðà Nẵng lúc 16:40g cùng
ngày. Cổ thành Đinh Công Tráng–Quảng Trị, 1 Căn cứ Hỏa lực và
phòng thủ vững chắc gấp 100 lần thị xã An Lộc, bị bỏ ngõ và lọt vào
tay cộng sản Bắc Việt tối ngày 2/5/1972.
Cho đến giờ phút
này, từ phía Bắc sông Thạch Hãn không còn 1 đơn vị nào của QLVNCH
trấn giữ, sức chống cự của SĐ3BB không còn nữa. Vùng Quảng Trị chỉ
còn lại LĐ 147 và LĐ 258 TQLC cùng 1 số đơn vị BĐQ đang cố cầm cự
mãnh liệt Trên QL1 vô cùng bận rộn, các đơn vị bạn không còn hàng
ngũ, lẫn lộn giữa dân chúng cùng di tản vội về phía Nam. Chiến
trường không còn ranh giới, bom đạn đổ xuống khắp nơi, từ rừng núi,
đồng bằng, Quốc lộ, làng mạc và ngay trên bãi cát trắng của biển
Đông. Hàng loạt đạn phòng không 37ly của địch lập thành hệ thống
phòng thủ dọc theo vùng đồi núi chạy lên phía Bắc chi chít, cố bắn
hạ máy bay đang oanh tạc. Pháo của Bắc Việt cùng những ổ súng lớn
nhắm thẳng ra trục lộ, quyết ngăn chặn và cắt đứt các đơn vị đang
rúi lui. Thê thảm nhất là dân chúng, cha con, chồng vợ... gánh gồng,
đùm nhau cố chạy về Nam bị pháo địch, vô số người dân vô tội bị chết
và bị thương nằm la liệt bên cạnh những chiếc xe trúng đạn tan tành
trên QL1 từ Quảng Trị về tới sông Ô–Lâu.
Đại lộ Kinh Hoàng
Giữa cảnh hỗn loạn đó, Ðại tá Nguyễn Đức Khoái Chi Huy
Trưởng BÐQ Quân Khu I đã họp các cấp chỉ huy 3 Liên Đoàn BÐQ và ra
quyết định LÐ5 BÐQ làm nỗ lực chính đánh trì hoãn để cho các cánh
quân còn lại lui binh trên QL1. Sự dũng cảm và hy sinh vì màu cờ
Binh Chủng, trên 1 chiến trường do địch chọn sẵn, Các chiến sĩ BÐQ
đã đánh 1 trận phản phục kích để đời tại sông Trường Phước mặc dù
địch có chiến xa yểm trợ.
Vào lúc 14:30g chiều, LĐ147 TQLC
với 4 Tiểu Đoàn và gần 30 Chiến Xa & Thiết Vận Xa còn lại của LĐ1
Kỵ Binh, bắt đầu triệt thoái khỏi Quảng Trị về Huế theo Quốc lộ 1. Thêm
nhiều quân nhân thất lạc đơn vị và đồng bào đi theo đoàn quân này
gây trở ngại không ít khi điều quân và lúc giao tranh với địch. Lực
lượng TQLC đã đụng độ suốt đêm với Trung Đoàn CSBV tại Hải Lăng, có
nhiều quân nhân và đồng bào tháp tùng đã tử thương trong lúc
giao tranh. Nhờ hỏa lực mạnh mẽ của Thiết Giáp, địch rút lui vào
buổi trưa hôm sau. LĐ 147/TQLC, chiến xa, và đoàn người chạy giặc
đã tới Mỹ Chánh vào buổi chiều, nơi LĐ369/TQLC đang án ngữ. Trên đường lui
binh, Lữ Đoàn 147 TQLC và các đơn vị của SÐ3BB, vừa phải bảo vệ dân
chúng di tản, vừa mở đường máu, vừa đụng độ và lãnh đạn pháo kích
nặng nề của giặc. Quốc lộ 1, đoạn từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, mất an
ninh nhiều ngày trước, đang bị quân cộng sản chiếm và đóng chốt,
nhất là cầu sông Nhung, trên Quốc lộ 1, đoạn đường đã bị gián đoạn
giao thông, vì đoàn xe di tản của dân và lính, dài hơn 3km. Đây là
mục tiêu chính, để quân Bắc Việt phục kích tấn công, tha hồ tác xạ
dữ dội và tàn bạo, bằng đủ loại súng lớn nhỏ, từ cá nhân, cộng đồng,
đại bác tới Thiết Giáp. Hàng ngàn xe cộ, quân xa cũng như xe dân sự,
đồng bào, lính tráng chết thảm thương trong những xác xe cháy nằm la
liệt khắp mặt đường, dưới ruộng. Chỉ những kẻ biết bơi lội, mới sống
sót được khi bơi qua sông Nhung, chạy về Mỹ Chánh. 1 phóng viên
chứng kiến thảm cảnh này khi thuật lại, đã đặt tên đoạn đường này là
“Đại lộ Kinh Hoàng”. Lúc đó Lữ Đoàn 369 TQLC với 2 TĐ2 TQLC và
TĐ9 TQLC được tăng cường với nhiệm vụ chận đứng sự tiến quân của
địch, giữ phòng tuyến Mỹ Chánh từ sông Ô Khê tới đầu cầu Mỹ Chánh,
ranh giới 2 tỉnh Thừa Thiên–Quảng Trị và cố gắng tiếp cứu các đơn
vị bạn đang lui quân 1 cách hỗn tạp, cùng dân chúng đang cố chạy
xuôi về Nam.
Dân chúng chạy loạn trên QL1
Sáng sớm ngày 2/5/1972 Trung Đoàn VC với 18
chiến xa yểm trợ tấn công Lữ
Đoàn 369 TQLC tại tuyến phòng thủ Mỹ Chánh. Sau nửa ngày giao tranh
với Pháo Binh cơ hữu và hải không yểm trợ, 17/18 Chiến Xa T54 bị
bắn cháy. VC bị thiệt hại nặng và tháo lui về hướng Hải Lăng bỏ lại
trận địa trên 500 xác chết.
Ngày 2/5/1972 tỉnh Quảng Trị thất
thủ, Thiết Đoàn 20 chỉ còn lại 6/48 chiến xa, Các đơn vị TQLC bị
thiệt hại nặng, cầu Mỹ Chánh được Công Binh VNCH giật sập để cản
bước chiến xa của địch. Cố đô Huế hiện giờ trong tình trạng hoảng
loạn vô trật tự.
Tuyến phòng ngự Mỹ Chánh:
Trước tình
hình nguy ngập, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu tập buổi họp Hội
Đồng An Ninh Quốc Gia tại Dinh Độc Lập để duyệt xét tình hình. Ngày
3/5/1972 Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng nguyên Tư lệnh Quân Ðoàn IV
được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ định thay thế Tướng Hoàng Xuân
Lãm trên cương vị Tư lệnh Quân Ðoàn I.
Ngày 4/5/1972, sau khi
được chỉ định, Tướng Trưởng cấp tốc bay ra Quân Khu I và lập ngay
phòng tuyến cố thủ tại cố đô Huế chống lại áp lực của các SÐ304, 308,
và 325 CSBV ở phía Bắc sông Mỹ Chánh và SÐ324B ở phía Tây. Tướng
Trưởng đã nhanh chóng thành lập Bộ Chỉ Huy Tiền Phương tại Huế và
ban lệnh thiết quân luật:
– Buộc tất cả quân nhân bỏ ngũ phải
trở về trình diện đơn vị.
– Cho lệnh bắn tại chỗ những người mang
vũ khí lang thang ngoài đường phố hay bị bắt quả tang trộm cướp.
–
Bắn bỏ tại chỗ những tên cướp giật.
– Tổ chức lực lượng quân cảnh
tuần tiểu bằng Thiết Xa V100.
Đồng thời thành lập “Trung Tâm
Điều Hợp Hỏa Lực” và 1 “Toán Đặc Biệt” nhằm thâu nhận các mục tiêu
và vị trí địch quân, để phối hợp khai thác khả năng dồi dào của
không–địa–hải pháo Việt–Mỹ yểm trợ chiến trường.
Ngày 5/5/1972 Tướng
Trưởng cũng phổ biến kế hoạch phòng thủ cho các vị Tư lệnh Sư Ðoàn:
1. SĐ1BB trách nhiệm phòng thủ phía Tây và Tây–Nam Huế, nhằm
ngăn chận địch quân từ hướng Mật khu Ba Lòng.
2. SÐTQLC trách
nhiệm phòng thủ phía Bắc và Đông–Bắc Huế, chận đứng mọi toan tính
xâm nhập của địch từ phương Bắc.
Tuyến phòng thủ Huế ngày 5/5/1972
Các Tư lệnh Sư Đoàn toàn quyền điều động và phối hợp
Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân, và Chủ Lực Quân vào kế hoạch tác chiến
của Quân Ðoàn. Ðồng thời lập kế hoạch Lôi Phong, tập trung hỏa lực
Không, Hải, và Địa pháo chiến thuật cũng như chiến lược cơ hữu
Việt–Mỹ nhằm ngăn chận, và tiêu diệt sự tập trung quân của địch, để
có đủ thời gian tái tổ chức trang bị và huấn luyện các đơn vị bị
thiệt hại vừa qua. (lần đầu tiên các đơn vị VNCH được trang bị hỏa
tiễn TOW). Ngày này, Ðại tá Bùi Thế Lân được chỉ định giữ chức vụ Tư
lệnh SÐTQLC thay thế Trung tướng Lê Nguyên Khang.
Lữ Đoàn II Nhảy Dù trấn ngự phòng tuyến Mỹ Chánh
Ngày 7/5 sự ổn định về
phòng thủ tại Huế đã vững vàng, an ninh trật tự công cộng cũng được
vãn hồi. Mặc dù giao tranh còn đang xảy ra tại 1 vài nơi nhưng dân
chúng Huế cũng cảm thấy yên tâm, 1 số gia đình chạy loạn đã lục
tục trở về. Các chiến cụ bị mất mát hay hư hỏng cũng được các phi cơ
khổng lồ C141 và C5 Hoa Kỳ ồ ạt chở đến phi trường Đà Nẵng.
Ngày 8/5/1972, toàn bộ LÐIIND với 3 Tiểu Đoàn 2, 7, & 11ND do Đại tá
Trần Quốc Lịch làm Lữ Đoàn Trưởng, từ mặt trận Tây Nguyên được không
vận đến Phi Trường Phú Bài tăng viện cho QÐI. TÐ11ND sau trận chiến
tại đồi Charlie ở Quân Khu 2, được tái chỉnh trang, tăng cường cho
mặt trận Quân Khu I, khi vừa đến Huế thì nhận được lệnh tái chiếm
phía Nam sông Mỹ Chánh, điểm xuất phát từ Phong Điền cạnh Quốc lộ 1
tiến về hướng Tây.
Thiếu tá Thành TĐP chỉ huy 2 Đại Đội đi cánh phải cách trục chính của Thiếu tá Mễ TĐT khoảng 1km
về hướng Bắc. Tiểu Đoàn tiến quân dọc theo mạn phía Nam của sông Mỹ
Chánh. Vừa vuợt tuyến xuất phát tại Phong Ðiền từ QL1, TĐ11ND bung
rộng sang hướng Tây liền chạm địch. VC dùng đủ loại pháo từ 82ly,
107ly, 122ly, 132ly... tác xạ vào đội hình của Tiểu Đoàn 11ND và khi
cơn mưa pháo vừa chấm dứt bộ binh của địch ào ạt xung phong tấn công
cánh quân tiên phong của Tiểu Đoàn 11ND. Thiếu tá Lê Văn Mễ TÐT điều
động đoàn quân Nhảy Dù nghinh chiến, Các chiến sĩ Nhảy Dù không hề
nao núng, gọi Pháo Binh Dù phản pháo đồng thời dàn hàng ngang xông
thẳng vào trận tuyến của địch, với lối đánh thần tốc cướp tinh thần
địch quân, bộ đội CS đa số còn trẻ, quá sợ hãi trước 1 đối thủ vô
cùng lợi hại nên đội hình tác chiến rối loạn và hốt hoảng bỏ chạy,
bỏ lại cả xác của 1 Tiểu đoàn trưởng, cùng máy vô tuyến còn đang
liên lạc. Đây là món quà chiến thắng đầu tay của Tân TĐT/TĐ11ND, và
nhờ vậy ta biết được SĐ325 CSBV đã có mặt ở bờ Nam sông Mỹ Chánh.
Sau đó cộng quân dùng trận địa pháo, pháo tới tấp vào Bộ Chỉ Huy
TĐ11ND, Thiếu tá Lê Văn Mễ TĐT bị thương phải di tản. Thiếu tá
Nguyễn Văn Thành TĐP tạm thời thay thế. (Khi TÐ11ND nhận lệnh lên
đường ra Huế, Ðại tá Trần Quốc Lịch, LÐT/LÐIIND đã lưu ý vị Tân Tiểu
đoàn trưởng TÐ11ND, Thiếu tá Lê Văn Mễ rằng “Chắc chắn bọn CSBV sẽ
tấn công Anh tới cùng vì theo kinh nghiệm về chiến thuật CS nếu nó
đã đụng mạnh 1 đơn vị nào của ta 1 lần rồi khi ra quân lại bọn
chúng sẽ tìm cách triệt hạ bằng mọi giá. Nếu Anh cảm thấy chưa đủ
sức tôi sẽ cho thằng khác đi thay Anh”. Thiếu tá Mễ tỏ vẻ rất tự tin
và xin tiếp tục nhiệm vụ và VC đã thật sự dàn chào Ông 1 cách tận
tình).
Tiểu Đoàn 11 tiếp tục tiến quân về hướng Tây càn quét
các chốt địch còn ẩn núp quanh quẩn trong vùng trách nhiệm. Các Tiểu
Đoàn 2 và 7ND sau đó được khai triển dọc theo bờ phía Nam sông
Mỹ Chánh cùng Tiểu Đoàn 11ND trấn giữ tuyến đầu. Tất cả chiến binh
thuộc các đơn vị Nhảy Dù đều được trang bị súng chống chiến xa M72
và XM202 4 nòng. LĐIIND sau khi bố trí trận thế cho các đơn vị
xong, bèn tung các toán Viễn Thám thuộc Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù
xâm nhập vào vùng địch chiếm đóng nhờ vậy chúng ta đã biết được cộng
quân đang tăng cường nhiều chiến xa, bộ binh, Phòng Không, và đại
pháo phía bên kia bờ sông Mỹ Chánh.
Ngày 10/5/1972 tình hình
tại Huế tạm ổn định. Liên Đoàn 1 BÐQ vừa hoàn tất việc bổ sung quân
số và tái huấn luyện tại Ðà Nẵng, được tăng phái cho SÐTQLC. Ngày
này, quân số QLVNCH tập trung quanh thành phố Huế lên đến 35,000
người.
Ngày 12/5/1972, ÐÐTS/LÐ369 TQLC vượt sông
Mỹ Chánh,
thám sát địa thế để lập đầu cầu chuẩn bị cho chiến dịch Sóng Thần
5/1972. Sáng hôm sau, ngày 13/5/1972, 2 Tiểu Ðoàn 3 & 8 TQLC được Trực
thăng vận đổ vào quận Hải Lăng, cách Quảng Trị 11km về hướng Nam
đánh bọc hậu trở về sông Mỹ Chánh. Ðồng thời TÐ9 TQLC vượt sông Mỹ
Chánh đánh ngược lên phía Bắc. Trung Đoàn 66 CSBV bị kẹp giữa 2 gọng kềm nên bị thiệt hại nặng nề.
Song kiếm trấn ải
Tại tuyến đầu Mỹ Chánh, hàng ngày các đơn vị Nhảy Dù tung quân lục
soát tìm và tiêu diệt các chốt địch lẻ tẻ còn ẩn náu trong vùng
trách nhiệm cũng như luân phiên thay đổi vị trí đóng quân để duy trì
đặc tính lưu động của Nhảy Dù. Tiểu Đoàn 11 trấn nhậm trong vùng
chân núi phía Nam bờ sông Mỹ Chánh. 2 Đại Đội 111 của Trung uý
Đinh Viết Trinh và Đại Đội 113 của Đại uý Điền Minh Xuyến bảo vệ
Pháo Đội TĐ1PB. Đại Đội 112 của Hùng Móm hoạt động tới bờ Nam sông
Mỹ Chánh, Đại Đội 114 của Phan Cảnh Cho cùng Đại Đội 110 có nhiệm vụ
bảo vệ BCH Tiểu Đoàn. hằng ngày các Đại Đội báo cáo có nhiều dấu
hiệu động quân của địch. Đại Đội 112 báo cáo bắt gặp nhiều lá cờ
vàng nhỏ cắm dọc theo bờ Bắc. Thiếu tá Thành XLTV Tiểu đoàn trưởng
nhận định đây là dấu hiệu của Trinh Sát địch đánh dấu hướng dẫn địch
quân tấn công Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù.
Thiếu tá Thành ra chỉ thị
các Đại Đội đề cao cảnh giác, chuẩn bị hầm hố chiến đấu, mìn bẫy
cũng như điều chỉnh các mục tiêu hỏa tập cận phòng, và hỏa tập tiên
liệu dọc theo các con đường tiến quân của địch. Đêm đêm, vị trí đóng
quân các Đại Đội phải thay đổi để tránh các điều nghiên của địch.
Ngày 14/5/1972 CSBV quyết chí trả thù trận thảm bại lần trước,
23:00g đêm Trung Đoàn 66/SÐ324 bắt đầu tấn công vào ÐÐ111ND của
Trung uý Đinh Viết Trinh ở phía Tây. 1 toán Đặc công của địch đã
lọt được vào phòng tuyến, các chiến sĩ Nhảy Dù đã đánh cận chiến với
địch quân và tiêu diệt bằng dao găm và lựu đạn. PB Nhảy Dù bắt đầu
tác xạ cận phòng để ngăn chận các đợt xung phong của địch. Lúc đó
các Đại Đội khác cũng bị địch quấy rối để cầm chân.
Ðến 3:00g
sáng, 3 chiếc T54 từ hướng Tây, Tây–Bắc lù lù xuất hiện cùng bộ
binh tùng thiết lố nhố theo sau ào ạt tấn công vào vị trí đóng quân
của Đại Đội 111ND. Các chiến binh Đại Đội 111 Nhảy Dù sẵn sàng
nghinh chiến, ghìm tay súng chờ cho chiến xa địch tới gần. 3 chiếc
chiến xa bò lần vào tuyến phòng thủ như vào chỗ không người... Ầm!!!
1 viên đạn M72 đập thẳng vào pháo tháp chiếc dẫn đầu, lửa phụt
cháy... Chiếc thứ 2 tăng tốc độ, gầm lớn lướt tới sát phòng tuyến.
Hạ sĩ Minh nhanh chân trèo lên pháo tháp ném quả lựu đạn vào trong
xe, quả lựu đạn nổ tung... chiếc thứ 3 hoảng sợ định tháo lui nhưng
Chuẩn uý Miên đã khai hỏa kịp thời khẩu M72, chiến xa bị bốc cháy.
Tiếp theo đó bộ binh tùng thiết nhào tới bị các chiến sĩ Dù dùng
súng cá nhân quạt ngã như sung rụng. Sau 1 giờ phản công quyết
liệt của các chiến sĩ Nhảy Dù, địch quân chém vè tháo lui về hướng
Tây–Bắc. Pháo Binh Nhảy Dù liên tục tác xạ ngăn chận quân tiếp viện
và đường tháo lui của quân địch. Cộng quân bị tổn thất nặng, ta bắt
được 1 tù binh Thượng tá CSBV, 1 Tiền sát viên và 1 Âm Thoại
Viên, tịch thu 3 máy truyền tin Trung cộng, 1 số lớn vũ khí đạn
dược.
Ngày 15/5/1972 Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh SÐ1BB,
tung 2 Trung Đoàn SÐ1BB hành quân tái chiếm 2 Căn cứ Bastogne và
Birmingham phía Tây–Nam cố đô Huế.
Ngày 16/5/1972
2 Tiểu
Đoàn Bộ Binh thuộc Trung Đoàn 3/SĐ1 bất ngờ được Trực thăng vận đổ
ngay vào Bastogne. Buổi chiều Trung Đoàn 3/1BB hoàn toàn làm chủ
tình hình tại Căn cứ này. Đến ngày 20/5/1972 SÐ1BB cũng tái chiếm
Căn cứ Checkmate.
TÐ3ND do Thiếu tá Trần Văn Sơn làm Tiểu
đoàn trưởng, Thiếu tá Nguyễn Văn Định làm TĐP, sau khi tham chiến
tại mặt trận An Lộc giải tỏa QL13, được tái trang bị và không vận
ra Huế chiều ngày 20/5/1972, liền sau đó 2 Đại Đội 32 của Đại uý
Nguyễn Văn Khoái và ÐÐ33ND của Trung uý Nguyễn Hữu Viên được tăng
phái cho TÐ11ND đang dàn quân trấn ngự tại Đồi Trần Văn Lý (rặng Hồ
Lầy núi Đá Bạc). Ngoài ra, TĐ11ND còn được tăng phái 1 Chi Đoàn
(–) M41 của Thiết Đoàn 20 Thiết Giáp do Trung uý Thức chỉ Huy và 1 Chi Đội M113/Thiết
Đoàn 17 phối họp với ĐĐ113 của Đại
uý Điền Minh
Xuyến canh giữ Pháo Đội. Đại Đội 32 đóng quân về phía Bắc của BCH
Tiểu Đoàn 11ND khoảng 800m trên 1 ngọn đồi chạy theo hướng
Nam–Bắc, Đại Đội 33 đóng về phía Tây–Bắc khoảng 1,500m cạnh 1 con lạch
chi nhánh của sông Mỹ Chánh vòng theo hướng Tây–Nam, chỗ sông này
cạn quân CS có thể lội bộ qua được, vì vậy nhiệm vụ của ĐĐ33 thêm
nặng hơn.
Tổng thống Thiệu thị sát mặt trận tái chiếm tỉnh Quảng Trị
Trung tá Mễ, Trung tá Phú (TĐ9), Chuẩn tướng Lê
Quang Lưỡng,
TT Thiệu, Đại tá Bộ Binh, Trung tá Lê V Ngọc, Chuẩn tướng Bùi thế Lân
(TQLC),
Đại tướng Cao Văn Viên, Cận vệ Tổng thống Thiệu,
và Đại tá Nhan Văn Thiệt.
Ngày 21/5/1972, Hỏa tiễn Tow được Hoa Kỳ vận chuyển đến Ðà Nẵng bằng vận tải cơ khổng lồ
C141 và C5 và lần đầu tiên trang bị cho các đơn vị QLVNCH.
Ngày 22/5/1972 BTL/SÐND và BCH LÐIIIND được không vận tới Huế,
BTL/SÐND đóng tại An Lỗ, 17km phía Bắc thành phố Huế, Căn cứ Hiệp
Khánh. Trung Đoàn 4/2BB cũng được tăng cường để bảo vệ Huế. Trung
Đoàn này được tăng phái cho SÐND trấn giữ phần lãnh thổ phía Nam
sông Mỹ Chánh (Đồi Trần Văn Lý) để các đơn vị Nhảy Dù rảnh tay vượt
sông tái chiếm Quảng Trị.
Ngày 24/5/1972 QÐI mở cuộc hành
quân Sóng Thần 6/1972 thăm dò bằng 2 mũi tấn công vào phía Ðông và
phía Nam tỉnh Quảng Trị: Mũi thứ nhất TÐ7 TQLC đổ bộ vào bờ biển dọc
theo “Dãy Phố Buồn
Thiu” (tức là Hương lộ 555) phía Đông thành phố
Quảng Trị. Dãy Phố Buồn Thiu là tên do ký giả Pháp tên Bernard B.
Fall đặt cho khu chiến địa cũ thời Pháp tham gia chiến tranh Đông
Dương nằm sát biển giữa Triệu Phong và Hải Lăng thuộc tỉnh Quảng
Trị. Sau này ký giả chiến trường Bernard B. Fall vào quốc tịch Mỹ.
Vào năm 1967 ông trở lại viết tin về chiến tranh Việt Nam và ông đã
chết trong 1 trận chiến giữa Quân Đội Hoa Kỳ và Việt cộng ngay
trên vùng chiến địa mà ông đã đặt tên là “Dãy Phố Buồn Thiu”). Mũi
thứ 2 gồm 2 TÐ 4 và 6 TQLC đổ bộ bằng Trực thăng xuống giao điểm
Hương lộ 555 và 602, chạm địch khá mạnh với Trung Đoàn 18 CSBV. Sau
đó các đơn vị TQLC rút về tuyến Mỹ Chánh.
Ngày 28/5/1972 Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu đến thăm chiến trường Quân Khu I, ban quân
lệnh mở
Chiến Dịch “Lôi Phong” tái chiếm Quảng Trị
và thăng cấp
chuẩn tướng tại mặt trận cho Ðại tá Bùi Thế Lân, Tư lệnh SÐTQLC tại
Huế.
Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù diệt tăng:
Trong khoảng thời
gian này, BCH/Lữ Đoàn II ND thường cho các toán viễn thám của
ĐĐ2TSND sang hoạt động bên kia bờ sông Mỹ Chánh báo cáo cho biết có
đoàn chiến xa địch, di chuyển về hướng Nam còn cách sông Mỹ Chánh
khoảng 6km, nhưng không ghi nhận được chính xác, các Đại Đội khác
của TĐ3ND cũng báo cáo nghe thấy chiến xa địch di chuyển rất đông
bên kia bờ sông, cũng không xác định được vị trí địch vì chỉ nghe
tiếng nổ của động cơ mà đoán chừng thôi.
Ngày 2/6/1972
1 lần nữa quân cộng sản thuộc Trung Đoàn 66 có chiến xa yểm trợ đã
vượt cầu ngầm tấn công vào TÐ11ND tại bờ Nam sông Mỹ Chánh, đồng
thời địch cũng pháo dữ dội vào vị trí đóng quân tại Căn cứ Nancy do
1 Đại Đội của Tiểu Ðoàn 2 Nhảy Dù trấn giữ cầu phao bắc qua sông
do Công Binh QÐI thiết lập. Sau những ngày hành quân chạm địch liên
tục, các chiến sĩ Nhảy Dù đều mệt mỏi, nhưng như thường lệ mỗi lần
dừng quân đều chia phiên gác giặc, căng mìn bẫy, đào hầm hố phòng
thủ cẩn thận, mặc dù sỏi đá đã làm cong mòn cả cuốc xẻng nhưng tinh
thần và kỷ luật tác chiến của binh sĩ Nhảy Dù rất cao chỉ trong chớp
mắt là đâu vào đấy xong tất cả. Các Đại đội trưởng chỉ lo vị trí đặt
các khẩu đại liên có xạ trường thuận lợi để bao trùm cả tuyến phòng
thủ rồi cùng Sĩ quan Tiền sát viên điều chỉnh hỏa tập cận phòng...
Tất cả các đơn vị đều đề cao cảnh giác, đầy đủ vũ khí chống chiến xa
và lúc nào cũng sẵn sàng trong tư thế chiến đấu.
Sáng sớm
ngày 2/6, cộng quân pháo dữ dội vào vị trí đóng quân đêm của
Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, Sau đợt pháo kích, tiếng động cơ của chiến
xa địch nghe hù hụ càng lúc càng rõ dần. Các chiến sĩ Nhảy Dù đã
được báo động sẵn sàng nghinh chiến. Từ vị trí đóng quân trên 1 ngọn đồi cao, Trung
uý Viên ĐĐT/Đại Đội 33 quan sát từ xa
khoảng 1,200m về hướng Bắc/Tây–Bắc dưới 1 đồi đất thấp hơn, 3
chiến xa CS từ từ bò
lên đồi, từ 2 khe suối bên cạnh 2 chiến xa khác cũng cùng xuất
hiện. Tất cả 5 chiếc T54 bò về hướng phòng thủ Đại Đội 111 của
Trung uý Đinh Viết Trinh đang ghìm tay súng chờ giặc. Khi các chiến
xa địch bò lên đỉnh đồi đất rồi bỗng dừng lại (có lẽ chờ bộ binh
tùng thiết), Trung uý Viên ra lệnh cho Tiền Sát Viên Chuẩn uý Nguyễn
Văn Trưng gọi Pháo Binh Nhảy Dù bắn hỗn tạp: nổ chụp, chạm nổ, và
khói. Khoảng 1 phút sau, pháo đã nổ ngay trên đầu các chiến xa
địch. Đến tràng đạn thứ 2 bay tới thì các chiến xa ù tháo chạy. 2
trong 3 chiếc trên đồi phóng thẳng về phía trước bị tuột dốc không
thắng lại được và lao xuống 1 hẻm vực thông thủy dưới chân đồi rồi
bị lún kẹt cứng không thể xoay trở được, chờ bị bắt sống. 3 chiếc
còn lại chạy thoát song song về hướng Đại Đội 32 của Đại uý Khoái.
Chờ khi chúng bò lọt vào chu vi tuyến phòng thủ, các Khẩu Đội M72
diệt chiến xa của ĐĐ32 “thịt” ngay loạt đạn đầu. Chiếc thứ 3 rú ga
lớn phóng nhanh mong thoát thân thì lập tức 1 trái hỏa tiễn “Tow”
từ BCH Tiểu Đoàn 11ND phóng tới tức khắc đâm vào ngay pháo tháp. 1 tiếng nổ kinh hồn, chiếc T54 bị văng lùi lại khoảng 8 đến 10m và
bốc cháy dữ dội (ngọn lửa bùng phát từ 7:00g sáng cho đến gần 5:00g chiều mới tàn lụn. Xác của các “chiến sĩ lái” chỉ còn là mấy ống
xương tay, chân bị khoá vào xe cho khỏi nhảy ra khỏi chiến xa). Còn
thêm mấy chiếc chiến xa nữa theo sau thấy thế vội tháo lui chạy trốn
dưới mấy khe suối bị các chiến sĩ Đại Đội 111 Nhảy Dù của Đinh Viết
Trinh phát giác và “rang” ngay tại chỗ bằng các khẩu M72. Tổng số
các chiếc tăng của địch bị hạ trong ngày 2/6 là 8 chiếc, trong đó có
2 chiếc bị bắt sống nguyên con, trên mỗi chiếc có 4 tên “chiến sĩ
lái” tất cả đều bị khoá tay chân vào chiến xa.
Theo kinh
nghiệm chiến trường, Các cấp chỉ huy Nhảy Dù đều biết rằng dù phía
VNCH hay phe CS, trong trận đánh bằng chiến xa thường thì phải có bộ
binh tùng thiết, mà kỳ này chỉ có chiến xa xuất trận mà chẳng thấy
bộ binh đâu cả, như vậy chắc chắn sẽ còn những “màn” khác tiếp nối,
do vậy Tiểu đoàn trưởng Lê Văn Mễ chỉ thị cho tất cả đơn vị đề cao
cảnh giác, chỉnh bị lại tất cả trang bị và công sự phòng thủ để đối
đầu với trận chiến bộ binh tùng thiết của địch.
Quả đúng như
dự đoán, sáng sớm ngày hôm sau 3/6/1972 từng đoàn Chiến Xa T54 nhấp
nhô với bộ binh tùng thiết chạy lúp xúp theo sau nhắm hướng Tiểu
Đoàn 11 Nhảy Dù xông tới. Nhờ chuẩn bị sẵn, Khi chiến xa địch vừa
vượt qua sông càn vào tuyến phòng thủ, các chiến sĩ Dù đã dàn chào
bằng những loạt đạn Pháo Binh tác xạ hỗn tạp chụp xuống ngay trên
đầu đoàn tăng địch, sau vài tràng pháo phủ chụp lên mục tiêu, khi
màn khói tan hết thì không còn thấy bóng dáng 1 anh bộ đội nào
chạy theo đoàn xe tăng.
Các chiến đấu cơ từ Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ tiếp chiến
(ảnh minh họa)
Đại Đội 33 bắt được 1 tù binh “bộ đội” mới có 16 tuổi, tên này chạy lạc khỏi đội hình tùng
thiết nên sống sót. Y khai rằng: ngày hôm qua vì tăng chạy quá
nhanh, bộ đội không bám kịp, nên không “hợp đồng tác chiến” được.
Nhưng hôm nay hợp đồng được thì còn đáng sợ hơn, vì chết hết rồi”
Địch quân bắt đầu rối loạn hàng ngũ vì bị đánh phủ đầu, Khi
chiến xa CS tràn tới tầm nhắm, các chiến sĩ Nhảy Dù đồng loạt khai
hỏa các khẩu M72 và XM202 chống chiến xa cùng Pháo Binh yểm trợ.
Các chiến xa địch lật gọng, nhiều chiếc tháo chạy. Bộ binh VC nhào
lên xung phong biển người, từng đợt bị rơi rụng vì mìn claymore, lựu
đạn, đại liên, tiểu liên thi nhau nhả đạn. Ngay lúc đó, hàng đoàn
chim sắt từ Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ bay tới tham dự trận chiến, đông
nghẹt như 1 ngày biểu diễn để yểm trợ cho cánh quân Dù và tiêu
diệt các loại tăng của CS. Khi các chiến sĩ Nhảy Dù phát giác 1 tăng địch xuất hiện tại địa điểm nào chỉ cần phóng
1 quả đạn khói
tới đó chỉ điểm mục tiêu thì bầy “kên kên” nhào tới phóng hàng chùm
“hỏa tiễn” dài khoảng 3m xuống, chỉ trong khoảnh khắc chiếc Tăng bị
tan thành mảnh vụn.
Trận chiến kéo dài đến trưa ngày 3/6 thì
kết thúc, cộng quân tháo lui, xác địch ngổn ngang bên ngoài rào
phòng thủ trên 100 xác, 5 tù binh bị bắt sống, trong 2 ngày giao
tranh 28 chiến xa bị loại khỏi vòng chiến (19 chiếc gồm cả T54,
BTR85, và PT76 bị bắn cháy, tại bờ suối 9 chiếc còn nguyên vẹn bị
tịch thu vì hoảng loạn tháo chạy và bị lún sình). TÐ11ND và 2 Đại
Đội/TĐ3ND tăng phái bị thương vong 20 binh sĩ vì đạn pháo kích. Về
sau, khi Trung Đoàn 4/2BB đến thay thế trấn giữ Đồi Trần Văn Lý, các
chiến sĩ TÐ11ND bung rộng về phía Bắc tận sông Nhung đã phát hiện
thêm nhiều Chiến Xa BTR85 do VC cất dấu trước khi tháo lui. (Các
chiến xa này được đem về trưng bày tại Căn cứ Hiệp Khánh, nhờ các
chiến thắng này, TĐ11ND được tuyên dương là đơn vị đã tiêu diệt
nhiều chiến xa của địch nhất).
Ngày 8/6/1972, 4 Tiểu Ðoàn
TQLC đã vượt sông Mỹ Chánh đánh qua phía Bắc mở cuộc hành quân Sóng
Thần 8/1972. Quân CS đã phản kích kịch liệt dọc theo Hương lộ 555.
Nhưng TQLC cũng đã mở rộng được tuyến bờ sông phía Bắc Mỹ Chánh.
Ngày 18/6/1972 tiếp nối cuộc hành quân Sóng Thần 8/1972, 3 Tiểu
Ðoàn 1, 5, và 6 TQLC mở cuộc hành quân Sóng Thần 8A/72. Cộng quân tung
bộ binh và chiến xa kháng cự dữ dội. BCH hành quân gọi phi pháo yểm
trợ và Pháo đài bay B52 can thiệp. Ðịch quân bị thiệt hại nặng,
TQLC đã mở rộng phòng tuyến phía Bắc sông Mỹ Chánh thêm 6km.
BCH/LÐIND cùng các đơn vị Tiểu Đoàn 5, 6, và 8 Nhảy Dù sau khi giải
tỏa An Lộc ngày 8/6 được bổ sung quân số, tái huấn luyện, và trang bị
lần lượt được không vận ra Huế tăng cường cho mặt trận Quân Khu I
chuẩn bị tái chiếm Quảng Trị.
Tái chiếm Quảng Trị:
Hành Quân Lam Sơn 72
Ngày 28/6/1972, thấy chiều hướng thuận lơi,
BTL/QÐI phát động kế hoạch phản công tái chiếm Quảng Trị. Trong kế
hoạch này, nỗ lực chính là SÐND, SÐTQLC, LÐ1 BÐQ, và Thiết Đoàn 17KB.
SĐ1BB mở rộng vòng đai an ninh về hướng Tây Huế nhằm tái chiếm các
Căn cứ trong khu vực thung lũng A–shau, Trung Đoàn 57BB hành quân
lục soát vùng Quảng Nam. SĐ3BB trấn ngự xung quanh Đà Nẵng. Thành
phần trừ bị gồm Trung Đoàn 4/2BB, Trung Đoàn 51, và Thiết Đoàn 17KB.
Sư Đoàn Nhảy Dù phát động Chiến Dịch Lôi Phong:
Theo kế
hoạch hành quân của Quân Đoàn I: Ngày N–2 và N–1 ta khởi đầu 1 cuộc không tập toàn diện bằng hỏa lực B52, các loại hải pháo, phi
pháo, và Pháo Binh diện địa vào các vị trí tập trung quân của địch,
các kho tàng cơ giới và các vị trí súng lớn của địch. Ngoài ra, QĐI
còn tung ra 1 kế hoạch hành quân nghi binh bằng 1 Lực Lượng Nhảy Dù sẽ nhảy xuống Cam Lộ và TQLC sẽ đổ bộ vào cửa Việt nhằm cắt đường
tiếp vận của đối phương để đánh lạc hướng và gây hoang mang cho địch
quân.
Ngày N bắt đầu, SÐND bên trái QL1,
SÐTQLC bên phải
QL1, 2 đơn vị Tổng Trừ Bị của QLVNCH tiến song song theo thế gọng
kềm về hướng Bắc, từ bờ biển đến tận đỉnh núi Trường Sơn, đánh đuổi
đoàn quân xâm lược khát máu CSBV tận sào huyệt của chúng. Theo kế
hoạch hành quân này của Quân Đoàn I, SĐND sẽ được Trực thăng vận
vượt sông Mỹ Chánh rồi dàn quân tấn công về hướng Bắc. Nhưng để giữ
bí mật, 5:00g chiều ngày hôm trước, Trung tướng Dư Quốc Đống thay
đổi chiến thuật, không dùng Trực thăng vận mà dùng cầu phao và xuồng
máy M2 của Công Binh Nhảy Dù để chuyển quân sang bờ sông Mỹ Chánh.
Bản đồ hành quân tái chiếm Quảng Trị
Để chuẩn bị vượt
tuyến xuất phát, Thiếu tá Lê Hồng, TĐT/TĐ1ND họp khẩn các cấp chỉ
huy trong đơn vị và ban lệnh hành quân. Ông nghiêm trọng chuyển lệnh
thẳng cho Bác sĩ Phạm Gia Cổn, Y sĩ TĐ1ND: “Theo ước lượng của
BTL/SĐND cuộc hành quân này sẽ tổn thất ít nhất là 2/3 về nhân mạng
vậy Bác sĩ hãy chuẩn bị thuốc men và những dự phòng cần thiết”.
3:00g sáng ngày 28/6, mở đầu cuộc Hành Quân Lam
Sơn 72, Ðại
tá Trần Quốc Lịch LÐT/LÐIIND điều động 3 Tiểu Ðoàn Nhảy Dù vượt sông
Mỹ Chánh. Tiểu Ðoàn 2ND do Thiếu tá Nguyễn Ðình Ngọc chỉ huy đi cánh
trái, TÐ1ND do tân Tiểu đoàn trưởng là Thiếu tá Lê Hồng chỉ huy đi
giữa và TÐ3ND do Thiếu tá Trần Văn Sơn làm Tiểu đoàn trưởng đi cánh
phải. Có lẽ do tin tình báo nội tuyến, địch biết kế hoạch hành quân
của Quân Đoàn I nên tất cả súng phòng không của CSBV ở bên kia bờ
sông Mỹ Chánh đã sẵn sàng chĩa mũi lên trời định dàn chào các “Thiên
Thần Sát Địch”. Nhưng chúng không ngờ, trời vừa lờ mờ sáng, các
Thiên Thần đã độn thủy sang sông 1 cách yên lặng và bất ngờ. Sau
phát súng lệnh, từng đoàn, từng đoàn lính Dù hô xung phong vang
trời, tấn công vào phòng tuyến địch. Vì bị đánh bất ngờ các cấp chỉ
huy cộng sản không kịp trở tay, hốt hoảng bỏ chạy. TÐ2ND đánh thẳng
vào BCH Trung Đoàn 203 Chiến Xa của VC, tịch thu 3 khẩu Phòng Không
37ly, nhiều súng cối 61ly và 82ly cùng đạn dược, bắt sống 2 Chiến Xa T54 còn đang nổ máy, trong lúc TÐ1ND đã xông trận đánh xáp lá cà
tiêu diệt hết các xạ thủ đang ghìm tay súng nhìn lên trời, và tịch
thu được 14 khẩu đại bác Phòng Không 12.7ly & 2 khẩu 57ly Phòng
Không với bệ ngồi xoay tròn cho xạ thủ, cùng bắt sống 5 tù binh.
TÐ3ND đi cánh phải sau khi vượt sông Mỹ Chánh chiếm vùng Lương Ðiền,
Tân Tường, Trường Vinh đến tận phía Nam sông Ô–Khê để bảo vệ bãi đáp
cho 2 TÐ9ND và TÐ11ND. Khi vừa qua sông Mỹ Chánh TÐ3ND đã tiêu diệt
2 cán binh CS tịch thu 2 khẩu AK47 và bắt được 3 khẩu pháo 105ly mà
địch đã lấy được của ta trước đây rồi giấu vào bụi tre. Sau đó TÐ3ND
tiến về phía Bắc để tiêu diệt các chốt địch dọc theo Quốc lộ 1 (Ðại
lộ Kinh Hoàng) rồi mở mũi dùi về phía Ðông để tái chiếm quận Hải
Lăng.
Quân Dù tái chiếm nhà thờ La Vang
Lữ Đoàn I Nhảy Dù xông trận:
Sáng ngày
2/7/1972, Trung tá Lê Văn Ngọc tân LÐT/LÐIND chỉ huy 3 Tiểu Đoàn
Nhảy Dù: TÐ9ND (Trung tá Trần Hữu
Phú TÐT), TÐ11ND Thiếu tá Lê Văn Mễ TÐT, và Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do
Thiếu tá Trần Đăng Khôi làm TĐT, được tăng phái 2 ĐĐ Biệt Cách Dù
(81), Chi Đoàn 48 (thuộc Thiết Đoàn 20), 1 TĐ Địa Phương Quân thuộc
Chi Khu Quảng Trị. Trách nhiệm càn quét quân giặc doc theo phía Tây
dưới chân dãy Trường Sơn, từ phía Bắc sông Mỹ Chánh qua sông Nhung
đến La Vang dọc theo bờ sông Thạch Hãn rồi vào thị xã Quảng Trị.
TÐ9ND và TÐ11ND được Trực thăng vận đổ xuống phía Bắc sông
Nhung, 2 Tiểu Ðoàn Dù đi song song chiếm từng thước đất, từng cái
hố, từng chốt địch, trên những dãy đồi trọc không 1 bóng cây dưới
ánh nắng oi bức của mùa Hè đổ lửa. Chiến sĩ Dù phải vận dụng tối đa
tai, mắt, hơi thở, trí óc rồi bằng lựu đạn, bằng dao găm đánh cận
chiến với địch.
Ðể cản bước tiến của quân ta, CSBV đã pháo
hàng loạt đủ loại từ 130ly,122ly hỏa tiễn 107ly... Nhưng đoàn quân
Mũ Ðỏ vẫn không chùn bước trên đoạn đường dài 9km đầy dẫy những cảnh
tượng chết chóc từ Giáp Hậu, qua Mai Ðằng rồi đến La Vang Thượng.
TÐ9ND do Trung tá Trần Hữu Phú chỉ huy, chia quân thành 2 cánh
tiến đánh vùng Tân Lê, Phước Môn, trong trận này tất cả 4 Đại đội
trưởng của Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù đều bị thương vì pháo địch, Ðại
uý
Ngưu Đại đội trưởng ĐĐ94 bị tử thương tại Tân Téo.
TÐ11ND là
trục chính của cuộc tiến quân, từ Hải Lâm cũng chia làm 2 cánh tiến
chiếm mục tiêu là nhà thờ La Vang. Ðường vào La Vang thật là hung
hiểm, khi đến cầu Trường Phước, cách La Vang 2km về phía Nam, 1 đoàn
Chiến Xa BTR85 và PT76 của địch đang di chuyển trên QL1 ngược
chiều với quân Dù. Quân TÐ11ND xung phong với M72 chống chiến xa,
gọi Pháo Binh và Không Quân yểm trợ. Sau 2 giờ quần thảo, chiến xa
địch quay đầu bỏ chạy, các chiến xa địch còn lại hoảng loạn tranh
nhau qua cầu nên bị lọt rớt xuống sông nằm dồn đè lên nhau. TĐ11ND
tiếp tục truy kích địch quân, đến sáng ngày hôm sau cánh quân của
Thiếu tá Thành (TĐP11) khi tiến vào nhà thờ La Vang, quân ta đã bắn
cháy 2 Chiến Xa T54 cộng sản bố trí trước sân nhà thờ. Trong khi đó
Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do Thiếu tá Trần Đăng Khôi làm TĐT được Trực
thăng vận đổ xuống khu vực bên cánh phải QL1 đi song song với TĐ11
và sau 3 giờ kịch chiến, lực lượng TĐ7 Nhảy Dù đã làm chủ tình thế.
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù tái chiếm quận Hải Lăng ngày 7/7/1972
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù tái chiếm quận Hải Lăng ngày 7/7/1972
Sau 5 ngày vừa đi vừa bứng chốt địch, buổi trưa ngày 7/7/1972,
TÐ3ND bắt đầu tấn công vào quận Hải Lăng. Thiếu tá Sơn Tiểu đoàn
trưởng cho các Đại Đội 31, 32, và 34 tiến dọc 2 bên QL1 theo đội
hình chân vạc, trong khi đó Đại Đội 33 tiến dọc theo đường rầy xe
lửa và “Đại lộ kinh hoàng” (ĐLKH) bứng chốt địch để cho các toán
Công Binh dọn dẹp những tử thi và đầy dẫy những chiến cụ bị phá hủy.
Khi Đại Đội 32 tới khu trường học, nằm lại án ngữ tại đây. Đại Đội
33 cặp theo Tỉnh lộ 602 tấn công thẳng vào quận lỵ. Ðịch ở trong
quận đường phản kích mãnh liệt, nhưng với kinh nghiệm chiến trường,
Trung uý Nguyễn Hữu Viên ÐÐT/ÐÐ33ND bình tĩnh gọi Pháo Binh và phi
cơ yểm trợ. Sau 2 giờ quần thảo địch quân tháo chạy về hướng Bắc,
TÐ3ND tái chiếm lại quận Hải Lăng vào lúc 4:00g chiều. Trong lúc
điều quân tái chiếm quận Hải Lăng, Thiếu tá Trần Văn Sơn TÐT chẳng
may trúng mảnh đạn pháo địch bị thương, Thiếu tá Võ Thanh Ðồng
TÐP/TĐ9ND về thay thế chức vụ TĐT/TĐ3ND.
Ngày 8/7/1972
sau
khi chiếm Hải Lăng xong, TÐ3ND được lệnh tiến về trước cùng TÐ8ND
càn quét giặc cộng dọc 2 bờ sông Nhung từ Ðông sang Tây tới tận chân
núi Trường Sơn. Trên đường hành quân, ÐÐ33ND đã phối hợp với 1 đơn
vị của TĐ8ND do Đại uý Trần Cao Khoan chỉ huy bên kia bờ sông, đã
tiêu diệt được 1 đơn vị Đặc công CS toan đặt mìn giật phá cầu
Trường Phước trên QL1. 4 tên bỏ xác tại trận với 4 khẩu AK47
cùng bắt được 1 Thượng uý VC tên Thanh mới 28 tuổi là TÐT Tiểu
Ðoàn 31 Ðặc Công cộng sản.
Hai ngày sau (10/7) Tiểu Đoàn 3ND
lại tấn công địch quân trên ngọn đồi có độ cao 30m trên nguồn sông
Nhung. ĐĐ33ND được chỉ định, chia làm 2 mũi dò lần theo thế chân vạc tiến chiếm mục tiêu. Khi toán khinh binh đi đầu chạm địch, toàn
Đại Đội đồng loạt xung phong chớp nhoáng trong vòng 10 phút giao
tranh, Nhảy Dù đã làm chủ trận địa. Cộng quân hoảng hốt bỏ chạy để
lại 2 xác chết, ta tịch thâu 3 súng Phòng Không 37ly bên cạnh có 1 xác Trực thăng UH1D của VNCH bị bắn rơi trước đây. Sau khi bung
rộng ra lục soát tìm thấy thêm 2 khẩu đại bác 122ly nòng ngắn, rất
nhiều đạn chưa kịp bắn, 1 máy phát điện, và 1 xe cơ giới sửa
chữa. Ngày hôm sau Lữ Đoàn II Nhảy Dù cho 5 chiếc Thiết Vận Xa vào
kéo 3 khẩu Phòng Không, 2 khẩu đại bác 122ly, và chuyên viên Công
Binh phá hủy tất cả đạn đại bác.
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù tiến
chiếm Cổ thành Quảng Trị:
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù do Trung tá
Nguyễn Chí Hiếu làm Tiểu đoàn trưởng, với 5 Đại Đội: Đại Đội 50 hay
là Đại Đội Chỉ Huy, ĐĐT là Trung uý Chiêu, Đại Đội 51 ĐĐT là Đại uý
Trương Đăng Sỹ, Đại Đội 52, ĐĐT là Trung uý Hồ Tường, Đại Đội 53 ĐĐT
là Trung uý Thân, Đại Đội 54 ĐĐT là Trung uý Nguyễn Vũ Dương. Ngày
28/6/1972 sau khi giải tỏa An Lộc Tiểu Đoàn được không vận đến Huế
và trú đóng tại Căn cứ Nancy khoảng 1 tuần lễ. Tại đây, Tiểu Đoàn
tái huấn luyện binh sĩ về chiến thuật đánh trong thành phố phân tán
mỏng từng tổ 3 người, cách thức ngụy trang khi di chuyển và thực
tập bắn hỏa tiễn TOW, M72, XM202... chống chiến xa.
Khu vực Cổ thành tại thị xã Quảng Trị
Ngày 5/7/1972, TĐ5ND di
chuyển bằng đường bộ đến La Vang Tả rồi tiến về hướng Tây chiếm mục
tiêu làng Như Lệ. Sau khi B52 trải thảm dọc bờ sông, TĐ5ND tung
quân vào lục soát đến tận bờ sông Thạch Hãn, thấy rất nhiều xác cộng
quân tại hiện trường. Tiểu Đoàn tịch thu được 2 khẩu Phòng Không
37ly.
Ngày 9/7/1972, bàn giao khu vực lại cho TĐ11ND, TĐ5ND
di chuyển về hướng Đông, băng ngang QL1, hôm sau dừng quân tại khu
vực thôn An Thái cách Cổ thành khoảng 3km về hướng Đông–Nam. Tại đây
BCH/TĐ lập sa bàn chuẩn bị kế hoạch điều quân tấn công Cổ thành.
Ngày 10/7/1972, Trung tá Nguyễn Chí Hiếu triệu tập các Đại đội
trưởng ban lệnh hành quân, sĩ quan các Đại Đội có 3 ngày để huấn
luyện và hướng dẫn binh sĩ thuộc quyền chuẩn bị tác chiến. Đặc biệt
trong trận này yếu tố ngụy trang triệt để áp dụng. Trung tá Hiếu
cũng giao quyền chỉ huy cánh quân tiền phong gồm 2 Đại Đội 51 và
52ND tấn công vào Cổ thành cho Thiếu tá Bùi Quyền TĐP.
Lực
lượng quân cộng sản cố thủ trong Cổ thành Quảng Trị bao gồm Trung
Đoàn 48 (SĐ320B, Sư Đoàn này do tướng Nguyễn Sùng Lãm làm Sư
đoàn trưởng và là Tư lệnh Mặt Trận 7 Quảng Trị thuộc Quân Khu Trị–Thiên
được đưa vào tăng cường, chịu trách nhiệm khu vực thuộc quận Triệu
Phong từ Tây–Bắc Vĩnh Định ra tới Cửa Việt), Trung Đoàn 95 (SĐ325),
2 Tiểu Đoàn bộ đội địa phương của tỉnh Quảng Trị, Tiểu Đoàn 8 (Trung
Đoàn 64/SĐ320). Chi viện trực tiếp cho lực lượng này là các đơn vị
còn lại của SĐ325 và SĐ312.
Tiểu Đoàn 1 TQLC Nhảy Vào Triệu
Phong:
Ngày 11/7/1972 TÐ1 TQLC được Trực thăng vận đổ xuống
Triệu Phong cạnh Hương lộ 560 cách thị xã Quảng Trị 2km về hướng Ðông
Bắc để ngăn chận đường tiếp vận của địch muốn tăng cường cho lực
lượng của chúng trong Cổ thành. Trước giờ xuất phát, những túi lửa B52 chiều ngang 1km và chiều dài 3km được lóe lên từng chập để dọn
bãi trước khi đổ quân. Đúng 12:05g phút ngày 11/7/1972, Tiểu Đoàn 1
Thủy Quân Lục Chiến với biệt danh Quái Điểu được Trực thăng bốc từ
nhà thờ 2 chuông Điền Môn bay ra Triệu Phong, chia thành 2 cánh
quân, bất thần đổ trên đầu địch, giữa những đám ruộng trước quận lỵ.
Tuy bãi đáp đã được B52 dọn cỏ suốt 2 tiếng đồng hồ, mà cộng quân
vẫn dàn chào long trọng gia đình Quái Điểu. Súng Phòng Không 23 và
37 của địch bắn lên như pháo bông. Đại Đội 4 Tiểu Đoàn 1 do Đại uý
Trịnh Văn Thềm chỉ huy, đổ bộ trước tiến chiếm mục tiêu của cánh A ở
hướng Đông–Nam quận Triệu Phong, bám vào ngã ba nhánh sông Ngô Xá
Vĩnh Định để làm tiền đồn. Đại Đội 1 (Đại uý Bồn) tách ra hợp với
cánh B chiếm bờ sông Vĩnh Định cách ĐĐ4 500m về hướng Bắc và cho 1 Trung Đội tăng phái súng cộng đồng tiến dọc theo sông Vĩnh Định lên
hướng Bắc yểm trợ hỏa lực tối đa cho Đại Đội 3 (Đại uý Liễu).
Hai chiếc Trực thăng khổng lồ CH54 đi đầu chạm đất 1 cách bất
ngờ nên thoát được phòng không địch. Cả thảy 32 Trực thăng đổ quân,
gồm 17 chiếc CH53, loại Chinook chở được 60 người và CH46 loại
Chinook chở được 20 người. 1 chiếc Trực thăng bị rớt và nổ tung
chở Trung Đội Quân y 60 người chỉ sống sót 12 trong đó có Bác sĩ
Hoàn. Ông đã lao được ra ngoài cửa cấp cứu, nhưng phải 2 ngày sau
mới bò về được Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn với thân hình cháy phỏng nặng.
Ngay phút đầu, sau khi hoàn tất cuộc đổ quân, Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân
Lục Chiến đã bị thiệt hại hơn 200 người vừa chết vừa bị thương,
trong số 32 Trực thăng chuyển quân, có 29 chiếc trúng đạn và 2 chiếc
rớt vì bị hỏa tiễn SA7 bắn rơi, 30 quân nhân TQLC và Phi Hành Ðoàn
bị tử trận. Cánh đồng Triệu Phong đã trở thành bãi chiến trường khốc
liệt. Xe tăng VC phối hợp với bộ binh bắt đầu rời vị trí phòng thủ
để rượt đánh quân ta, và những chiếc Trực thăng vũ trang Cobra của
phe ta đã táo bạo săn đuổi chúng như những con diều hâu săn mồi.
Riêng Tiểu Đoàn 1 TQLC lúc bấy giờ tan tác như bầy gà lạc mẹ, mạnh ai
nấy đánh, dùng chiến thuật cá nhân phối hợp từng tổ nhỏ cố bám lấy
bờ sông Vĩnh Định là chi nhánh của sông Thạch Hãn để làm điểm tựa
tác chiến. Nhờ vào súng M72 chống chiến xa, quân ta đã bắn hạ được 1 số tăng địch, có những chiếc bốc cháy cách ta chỉ 50m, làm cho
anh em binh sĩ an tâm và tin tưởng vào loại vũ khí cá nhân hiện đại
và tối tân này, mỗi Đại Đội chỉ được trang bị 12 trái. Những hố bom
trở thành vị trí chiến đấu lý tưởng cho binh sĩ mình. Họ đứng thẳng,
tỳ súng vào miệng hố nhắm vào từng đợt sóng biển người của bọn Việt
cộng khát máu mà bắn. Đại Đội 1 của Đại uý Bùi Bồn đã dùng con sông
Vĩnh Định như 1 chỗ tựa tốt để chống trả từng đợt xung phong của
địch cũng như yểm trợ cho các Đại Đội 2, 3, và Đại Đội chỉ huy còn
đang phơi mình trên bãi đáp. Kết quả sơ khởi Đại Đội 1 đã tịch thu
10 cây súng 37ly Phòng Không của địch đã đặt hàng ngang tại bìa
làng.
Trời vào đêm, hạn chế tầm quan sát của địch ngoài trừ
những quả pháo đe dọa vu vơ. Đến 10:00g, đơn vị TQLC mới gom quân
được, lập thành 1 phòng tuyến tạm thời. Chỉ còn Đại Đội 4 của Đại
uý Thềm bị cô lập phải tự phòng thủ bảo vệ riêng, như 1 cái chốt
khổng lồ làm tiền đồn cho đơn vị tại Chợ Sãi, dùng Pháo Binh và Hải
pháo ngăn chận sự di chuyển của địch từ Cổ thành Quảng Trị qua quận
Triệu Phong, cũng như quan sát được thủy lộ dẫn ra Cửa Việt. Chiếm
và giữ được Triệu Phong thì sớm muộn gì tỉnh Quảng Trị cũng sẽ trở
về vùng đất Tự do.
Ngày 13/7/1972: 2 ngày sau,
1 đơn vị
thuộc SÐ312 CSBV cộng với quân số gấp 10 lần quân ta, được chiến xa
yểm trợ đã tấn công vào TÐ1 TQLC này. Đơn vị TQLC phản công quyết
liệt bắn hạ hàng chục chiến xa địch và cho đến ngày 22/7 mới quét
sạch quân CS tới cửa Việt.
TĐ5ND tiến vào Cổ thành
Sau
3 ngày cho binh sĩ chuẩn bị học tập, đêm 14/7/1972, khoảng
2:00g sáng, TĐ5ND bắt đầu xuất phát tiến về phía Cổ thành. Pháo
130mm của địch nổ lác đác cầm chừng về hướng quân ta.
2 Đại Đội
51&52 từng bước theo thế chân rít tiến qua cánh đồng 2km quanh những
ngôi mộ cao như đồi nhỏ tiến vào làng Tri Bưu dọc theo đường Nguyễn
Hoàng, phía Đông–Bắc thị xã để tiếp cận Cổ thành (làng Tri Bưu nằm
ngay chính Đông của Cổ thành). Với yếu tố bất ngờ TĐ5ND dùng lối
đánh đặc biệt của Nhảy Dù ‘tốc chiến tốc thắng’ để diệt gọn những
chốt lẻ tẻ nằm trên con đường làng canh giữ đường tiến quân về Cổ
thành, không 1 tên nào chạy thoát và kịp thời báo tin quân Dù đánh
mặt Đông–Bắc. 1 tên pháo thủ phòng không VC đang ngồi hút thuốc rê
ngóng lên trời chờ phi cơ ta tới. Trung uý Hồ Tường, Đại đội trưởng
52 lặng lẽ tung 2 Trung Đội xung phong, bợ ngay mấy cây Phòng Không
và súng cối ngon ơ, chiếm được bìa làng không tốn 1 giọt máu. Sau
đó, Đại Đội 51 tiến theo, vượt qua 52 kiểu chân vạc, bắt đầu đánh
chốt. Sáng hôm sau, Đại uý Trương Đăng Sỹ cho Trung Đội của Trung uý
Nguyễn Tiến Việt bung ra phía trước thật nhanh để tránh cối 61ly cấp
tập của địch bảo vệ chốt. Chốt địch trong làng thường đóng rải ngoài
sân, trong nhà. Quân Dù quan sát thấy rõ cách bố trí, nên kín đáo
dàn quân, mở tối đa hỏa lực, VC chưa thò đầu khỏi hầm là xung phong
tiêu diệt quân địch ngay tức khắc và vượt mau khỏi vùng hỏa tập dự
phòng của địch. Chiến thuật chốt kiềng của VC đã lỗi thời đối với
các Thiên Thần Sát Địch. Cộng quân vừa nhác thấy bóng áo hoa dù thấp
thoáng là đã bị tràn ngập, tên nào sống sót chỉ kịp bươn chạy về
hướng Cổ thành. Quân VC trốn núp trong nhà chịu không nổi, bỏ chạy
tán loạn, quân ta cứ thế chiếm từng nhà, từng khu vườn. Sau đó cả 2 Đại Đội dàn hàng ngang tấn công mục tiêu. Dứt chốt bằng cận
chiến dễ dàng để không gây tiếng động và đã giải thoát cho trên 10
Dì Phước và khoảng 100 giáo dân bị chúng bắt làm con tin phục dịch
và đỡ đạn cho chúng. Địch quân bỏ xác tại trận 6 xác chết, ta tịch
thu 1 khẩu 12.8ly, 1 số AK47, và B40.
Ngày hôm sau,
TĐ5ND đã tiến đến sát bờ Cổ thành, vẫn còn nguyên vẹn rào kẽm gai và
hào nước bao bọc xung quanh. Cộng quân vẫn hoạt động bình thường vì
Nhảy Dù ngụy trang hoa lá trên người nên chúng không phân biệt được
ta hay đối phương. Chúng lùa dân trên đường di chuyển về hướng Đông,
có lẽ bắt dân đi theo để đỡ đạn cho chúng.
Ngày 17/7/1972
trong phạm vi trách nhiệm của Sư Đoàn Nhảy Dù, các cánh quân đã được
khai triển vây kín 3 phía Tây, Nam, và Đông của Cổ thành. Góc chính
Bắc qua sông Thạch hãn vẫn là đường tiếp vận của địch. Tiểu Đoàn 7
Nhảy Dù do Thiếu tá Trần Đăng Khôi chỉ huy đã kiểm soát được ṿòng
đai phía Tây thị xă, Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù do Thiếu tá Lê Văn Mễ chỉ
huy tiếp tục truy kích cộng quân ở quanh khu vực Thạch Hãn đến ngã
ba Long Hưng. Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù, Trung tá Trần Hữu Phú Tiểu đoàn
trưởng và Thiếu tá Nguyễn Văn Nhỏ Tiểu đoàn phó, là lực lượng ứng
chiến trừ bị cũng đã kiểm soát được khu vực phía Nam thị xã. Tiểu
Đoàn 6 Nhảy Dù do Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh Tiểu đoàn trưởng, Thiếu
tá Nguyễn Hữu Thành Tiểu đoàn phó chỉ huy đã làm chủ được chiến
trường ở pḥòng tuyến dọc phía Đông–Nam thị xã. Hướng Đông–Bắc thì
TĐ5ND dưới quyền “Minh Hiếu”, “Tố Quyên”, đánh rát qua nhà thờ Tri
Bưu nhắm tiến sát bức tường thành. Ngoài ra, SĐND còn tăng cường Đại
Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù của Đại uý “Út Bạch Lan” ở phía Bắc Cổ
thành
và 2 Đại Đội Biệt Cách Nhảy Dù do Thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy
hoạt động trong thành phố để trợ chiến.
Nhưng sức kháng cự
của địch quân còn rất mạnh, (theo tin tức của Phòng 2 Sư Đoàn
Nhảy Dù: 1 đơn vị lớn của Sư Đoàn 320B CSBV đang trú đóng ở Hạnh Hoa
Thôn; Trung Đoàn 27 tại vùng Đông Hà, Động Lôn, Quai Vạc; Trung Đoàn
48 của Lê Quang Thuý trong Cổ thành Đinh Công Tráng; Tiểu Đoàn 9/64
tăng phái cho Trung Đoàn 48 của SĐ320B cùng TĐ3 và TĐ8 địa phương
của B4 trấn giữ Cổ thành cùng khu vực làng Tri Bưu). thiệt hại nhiều
nhất cho quân ta là đại pháo 130ly của cộng quân từ dãy Trường sơn
pháo xuống, và hỏa lực của địch quân bên kia bờ Thạch Hãn cũng bắn
qua dữ dội. Trên mặt thành, những tên lính CS “sinh Bắc tử Nam”
không làm thế nào khác hơn được vì chân đã bị xiềng trong các ổ súng
dưới các hầm trú ẩn kiên cố bắn ra như mưa. Thêm vào đó, các phi cơ
quan sát báo cho biết cộng quân đông như kiến bên kia bờ sông tiếp
tục đổ quân vào tiếp viện cho cánh quân tử thủ trong Cổ thành.
Sau 1 thời gian quần thảo với cộng quân ở vòng đai Cổ thành,
dưới sự yểm trợ hùng hậu của phi pháo, hải pháo, và Pháo Binh diện
địa, Trung tá Nguyễn Chí Hiếu Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù
đã nhận được lệnh tấn công Cổ thành Đinh Công Tráng. Ông quyết định
tiến chiếm mục tiêu bằng 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Đưa
1 toán tiền thám xâm nhập vào trong thành, với nhiệm vụ là thám sát
địa thế cũng như vị trí của địch quân bên trong Cổ thành rồi báo cáo
về Tiểu Đoàn. Giai đoạn này sẽ bắt đầu vào đêm 18/7/1972.
Giai đoạn 2: Cả Tiểu Đoàn sẽ đồng loạt tấn công vào
Cổ thành, và
trong 2 ngày, phải đánh chiếm lại ít nhất là phân nửa chu vi bờ
thành.
Để thực hiện được kế hoạch trên, Trung tá Hiếu đã
quyết định thành lập ngay 1 toán “thám sát cảm tử” bằng cách tuyển
chọn trong các quân nhân gốc người sở tại Quảng Trị tình nguyện, vì
sống tại địa phương này nên họ hiểu rõ địa thế. Có rất nhiều chiến
sĩ xung phong xin nhập vào toán cảm tử này nhưng chỉ có 8 quân nhân
thuộc Đại Đội 51 được chọn: “Hạ sĩ nhất Trần Tâm làm trưởng toán, 2 âm thoại viên của Đại Đội là Hạ sĩ Hậu, người Nam, và Hạ sĩ I
Lịch, người Quảng Trị, đều tình nguyện, Binh nhất Hồ Khang mang lá
quốc kỳ, thêm nữa là Hạ sĩ Hồ Con, và 3 binh sĩ khác”. Sáng ngày
18/7, nhận thấy Cổ thành quá cao và dầy sẽ là 1 chướng ngại rất
lớn cho cánh quân Nhảy Dù xung phong, Trung tướng Dư Quốc Đống, Tư
lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù đã ra lệnh dùng đại bác 90ly M41 gắn trên
Chiến Xa M48 A5 bắn thẳng để phá hủy 1 góc phía Đông–Bắc Cổ thành làm
cửa ngõ cho các đơn vị Nhảy Dù xâm nhập vào bên trong, nhưng bờ
tường vẫn đứng sừng sững giữa trời. Sau cùng phải nhờ tới 4 quả bom
lớn do tia laser điều khiển để đánh từ trong ra mới phá nổi 1 mảng
tường thành lở xuống lấp cái hào ở gần sát góc Đông–Bắc để quân ta
có thể xông vào.
Chiều ngày 18/7/1972, Trung tá Nguyễn Chí
Hiếu cho tập họp toán “cảm tử” để từ giã những chiến hữu thân thương
quyết ra đi theo truyền thống “Nhảy Dù Cố Gắng”, Vị Tiểu đoàn trưởng
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đã ban quyết định thăng cấp trước cho 6 cảm tử
quân mỗi người lên 2 cấp. Và đêm đến, toán cảm tử quân sẽ lên
đường để đột kích vào Cổ thành.
Đêm đến, Giờ G đã
điểm, toán cảm tử quân của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù vượt tuyến xuất phát
lao vào bóng đêm đột kích vào thành. Từ vị trí xuất phát đến mục
tiêu khoảng cách hơn 200m. Trung tá Hiếu và cả Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn
nín thở nhìn theo toán quân cảm tử đi vào bóng đêm và chờ đợi. Vào
khoảng quá nửa đêm, toán cảm tử quân đã bò lên được trên mặt Cổ
thành. Hậu thì thầm báo cáo đã lội qua hào nước sâu. 5 phút sau, đột
nhiên cả Tiểu Đoàn chợt thấy lá cờ vụt nhô lên và tung bay trên nền
trời mờ tối, ánh hỏa châu lập lòe phía xa xa. Đó chính là lá quốc kỳ
VNCH mà Hạ sĩ I Hồ Khang đã được lệnh mang theo khi xuất phát. Từ
xa, các chiến sĩ Nhảy Dù vui mừng la lên: “Lá cờ dựng được rồi...?”.
Lá quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa đã tung bay trên mặt bờ Cổ thành
rồi kia. Đó cũng là 1 tín hiệu của toán tiền thám báo cho Trung tá
Hiếu biết nhiệm vụ của họ giai đoạn đầu đã hoàn tất và họ sẽ tiếp
tục nhiệm vụ kế tiếp. Trong giây phút đó, bỗng nhiên có những tiếng
hô dõng dạc từ trên bờ thành vọng đến bên tai những người chiến sĩ
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đang ghìm tay súng hướng về bờ Cổ thành chờ đợi
và trước mắt họ đã hiện rõ bóng cờ. Tiếng Hạ sĩ I Hồ Khang hô lớn:
“Nhảy Dù cố gắng – Nhảy Dù chiến thắng – Việt Nam Cộng Hòa muôn
năm”.
Lập tức lửa đạn vang ầm vĩnh viễn cắt đứt tiếng nói và
dập vùi toán anh hùng Mũ Đỏ, giữa những tảng lửa B40, B41, và lằn
đạn lửa thượng liên xanh lè hội tụ tập trung vào giữa chân cờ. Tiểu
Đội cảm tử quân hoàn toàn mất liên lạc. Pháo Binh Dù bắn hàng trăm
trái vào thành, yểm trợ và che chở cho lực lượng bạn. Trần Tâm, Hồ
Khang, Hồ Con, Hậu, và Lịch vĩnh viễn nằm lại trên mặt thành, xung
quanh lá cờ tổ quốc. 3 em còn lại trúng thương lăn xuống chân
thành, được quân bạn cứu sống. Quân ta đến nơi, không sao vượt được
bức tường thành kiên cố có hỏa lực bảo vệ vững chắc. Ngày 21/7
các đơn vị TĐ5ND được lệnh lui về vị trí cũ để phi pháo hoạt động,
Đại Đội 52 trên đường lui binh trở lại nhà thờ Tri Bưu bị quân CS
phát giác nên cho 1 Trung Đoàn vây đánh và bắn theo bằng đại bác
trực xạ không giật 82ly nhằm cắt đứt con đường lui quân của Nhảy Dù.
Đại Đội 52 đã phối hợp cùng Trinh Sát 2 Nhảy Dù đã tử chiến, tả
xông hữu đột và gọi 2 Phi Tuần khu trục dội bom Napalm sát ngay
phòng tuyến quân bạn để thiêu sống đám quân CS bị say thuốc “hùng
binh” của Trung cộng không biết sợ chết là gì, mới thoát khỏi vòng
vây của giặc. Thiếu uý Trịnh Văn Bé bị tử thương và 56 quân nhân
khác bị thương vong. 2 ngày sau các đơn vị lại tiến lên trở lại.
TĐ5ND phát hiện và hạ sát 2 tên tiền sát viên Pháo Binh VC bám
theo sau Tiểu Đoàn.
Ngày 25/7/1972, TÐ5ND tiến quân tái chiếm
Cổ thành. Để yểm trợ cho trận đánh quyết tử này, Tiểu đoàn phó TĐ5ND
“Tố Quyên” trực tiếp điều động, được tăng cường Đại Đội 111/ND của
Tiểu Đoàn “Song Kiếm Trấn Ải” do Trung uý Đinh Viết Trinh “ba búa”
chỉ huy đánh trợ lực từ hướng Tây–Bắc vượt qua cánh đồng trống, tiến
dưới làn mưa pháo địch, đánh thốc vào khu nghĩa địa làng Tri Bưu,
chiếm đường Duy Tân để bắt tay với Đại Đội 52ND do Trung uý Hồ Tường
chỉ huy, và để cùng đồng loạt tiến đánh chiếm lại Cổ thành bằng mọi
giá. Cạnh sườn phía Bắc Cổ thành có Đại Đội 2/TSND do Đại uý “Út
Bạch Lan” chỉ huy tấn kích nghi binh trợ chiến. Đúng 3:00g sáng, Đại
Đội 51 do Đại uý Trương Đăng Sỹ, Đại đội trưởng, làm nỗ lực chính
tiên phong đột kích lập đầu cầu trên mặt Cổ thành, sau đó là ĐĐ52ND
do Trung uý Hồ Tường chỉ huy, nỗ lực phụ trợ chiến, 1 Trung Ðội
của ĐĐ51ND đã cắm cờ lần thứ 2 trên bờ tường Cổ thành.
Trước khi xuất quân, Trung tá Hiếu lệnh cho các đơn vị trực thuộc
nếu không tiến lên được vì bất cứ lý do gì, các Đại Đội cố gắng rẽ
sang phía trái sẽ có TĐ6ND trợ chiến. Khi bình minh vừa ló dạng, 2 Đại Đội tiên phong TĐ5ND dàn đội hình trên bờ thành chờ đợi xuất
phát, trong khi 2 phi cơ A37 vào vùng triệt hạ chính xác khẩu đại
bác trực xạ 82ly của địch theo sự chỉ dẫn của trinh sát cơ OV10.
Tiếp theo đó Pháo Binh đang trải màn khói, chuẩn bị tác xạ yểm
trợ... ngay đó, 2 chiếc phi cơ Phantom Hoa Kỳ chúi xuống trút bom
ngay trên đầu của các Đại Đội 51 và 52ND. Sự việc xảy ra trước
mắt của Trung tá Nguyễn Chí Hiếu, trong khi ông cùng Bộ Chỉ Huy
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đang theo dõi diễn tiến trận đánh quyết tử
để sớm kết thúc giai đoạn 2, nhưng cũng không thể nào ngăn kịp.
Muộn rồi!!! TĐ5ND gần như tan nát! Với những khối bom nặng đã
thả xuống chính xác làm cho hơn 50% chiến sĩ Mũ Đỏ ưu tú của TĐ5ND bị thương vong.
Đại Đội 51 của Đại uý Trương Đăng Sỹ chỉ còn 38 quân nhân sống sót;
Đại Đội 52 của Trung uý Hồ Tường tất cả 5 sĩ quan đều bị thương, và
gần 50 HSQ và binh sĩ thương vong. Tố Quyên, Sĩ Biên, Hồ Tường, Ba búa, Út bạch Lan, Châu Văn Tài, Nguyễn Đắc Lực suy kiệt hết tâm lực,
chỉ còn như những xác không hồn. Tổn thất nặng nề đó đã giáng 1 đòn chí tử lên nỗ lực tột cùng của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, và Trung tá
Nguyễn Chí Hiếu phải ra lệnh cho các đơn vị trở lại tuyến xuất phát.
(Việc ném bom lầm này, có dư luận cho rằng là 1 sự cố ý từ cấp
thẩm quyền nào đó muốn ngăn chận sự tái chiếm toàn bộ Cổ thành của
QLVNCH, vì nhu cầu thương lượng chính trị lúc bấy giờ. Và sau đó,
trên hệ thống liên lạc Siêu Tần Số cơ hữu của SĐND chúng tôi đã nghe
cuộc điện đàm ngắn giữa Trung tướng Dư Quốc Đống, Tư lệnh SĐND và
Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân Đoàn I như sau:
–
Trung tướng Đống:
Trưởng có thấy không? Trước khi tấn công vào mục
tiêu, Tổng thống Thiệu ra lệnh tuyệt đối không cho phá hủy Cổ thành,
đến khi vừa vào được trong thành thì bom dội xuống trên đầu như thế
này thì đánh giặc cái gì đây. Đánh giặc như thế này thì Tôi không
đánh nữa, Trưởng cứ cho ai vào đánh thì đánh đi.
–
Trung
tướng Trưởng: Thưa Trung tướng được rồi, để sáng ngày mai, Tôi bay
ra Sally gặp Trung tướng sẽ bàn định lại...)
Ngày 27/7/1972
Tướng Trưởng trong cuộc họp với các Tư lệnh chiến trường để
duyệt xét tình hình chiến sự, ông đã cho biết là theo tin tức
tình báo nhận được, cộng quân đã đưa thêm 2 SĐ/CSBV vào vùng cận sơn
Trị–Thiên. 2 Sư Đoàn này sẽ tung vào mặt trận Quảng Trị làm lực lượng
trợ lực cho SĐ325 và Ông quyết định thay đổi lực lượng tấn công tái
chiếm Cổ thành Quảng Trị. Theo đó TQLC trách nhiệm khu vực duyên hải
và mặt trận Cổ thành Quảng Trị. Lực Lượng Nhảy Dù trách nhiệm bảo vệ
phòng tuyến Thạch Hãn, và khống chế lực lượng tăng viện của địch ở
mặt trận phía Tây Quảng Trị. Đúng 12:00g trưa, Các đơn vị hùng binh
Mũ Đỏ đã tận sức lót đường xương máu, bàn giao chiến trường cho
Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Những người anh hùng mũ xanh của Quân
lực Việt Nam Cộng Hòa cũng hy sinh máu xương không kém, lập nên kỳ
tích dựng lá cờ vàng tổ quốc trên Cổ thành Quảng Trị lần thứ 3 và
là lần sau cuối.
Ðại tá Trần Quốc Lịch LÐT/LÐIIND bàn giao
khu vực trách nhiệm cho Ðại tá Ngô Văn Ðịnh LÐT/LÐ258 TQLC trong khi
trận chiến 2 bên đang giao tranh ác liệt giữa Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù
với 1 Trung Đoàn cộng quân cố thủ trong Cổ thành. Các Tiểu Đoàn
Nhảy Dù cũng lần lượt được thay thế bởi các Tiểu Đoàn/TQLC. Tiểu Đoàn
9 TQLC do Thiếu tá Nguyễn Kim chỉ huy hoán đổi cho TĐ11ND tại khu vực
phía Nam thị xã, cạnh Quốc lộ 1. Tiểu Đoàn 5 TQLC do Thiếu tá Hồ
Quang Lịch chỉ huy nhận lãnh trách nhiệm thay thế TĐ6ND tại ngã ba Long Hưng. Tiểu Đoàn 3
TQLC do Thiếu tá Nguyễn Văn Cảnh chỉ huy thay
thế TĐ5ND tại làng Tri Bưu gần Cổ thành Quảng Trị.
Thành phố Quảng Trị ngày 28/7/1972
Lữ Đoàn III Nhảy Dù mở mặt trận
phía Tây Quảng Trị:
Sau khi bàn giao khu vực trách nhiệm
xung quanh Cổ thành và thị xã Quảng Trị cho lực lượng TQLC, SĐND mở
mặt trận mới tấn cộng quân CSBV trong vùng rừng núi phía Tây thị xã
Quảng Trị và phía Nam sông Thạch Hãn, gọi là Động Ông Đô, để ngăn
chận sự chuyển quân và tiêu diệt các ổ súng đại bác 122ly, 130ly
thường pháo vào thành phố xung quanh cũng như yểm trợ cho cánh quân
cố thủ của chúng trong cổ thành Đinh Công Tráng.
Ngày
12/8/1972, Ðại tá Trương Vĩnh Phước LÐT/LÐIIIND mở cuộc hành quân
trong vùng trách nhiệm cận dãy Trường Sơn. Việc tiến quân vào vùng
này rất khó khăn vì rừng núi trùng điệp, càng lên cao càng hiểm trở
lại gặp thời tiết khắc nghiệt nên hỏa lực yểm trợ bị giới hạn rất
nhiều. Tuy nhiên các chiến sĩ Nhảy Dù vẫn không chùn bước. Mở đầu
chiến dịch, TÐ3ND từ bờ sông Nhung được lệnh tiến chiếm ngọn Đồi 118
ở phía Đông Căn cứ Barbara. Nơi ngọn đồi này địch quân dùng làm đài
quan sát theo dõi tất cả mọi hoạt động quân sự của VNCH trong vùng
từ Ái Tử, Quảng Trị đến quận Hải Lăng...
TĐ3ND chia thành 2
cánh quân tấn công. Cánh thứ nhất gồm BCH Tiểu Đoàn, Đại Đội 30, và
Đại Đội 33 tiến chiếm đỉnh Đồi 118 dễ dàng không gặp 1 sự chống cự
nào của cộng quân, Đại Đội 32 án ngữ làm thành phần trừ bị và giữ an
ninh bãi tiếp tế và suối nước. Cánh thứ 2 gồm 2 Đại Đội 31 và 34
tiến về hướng Căn cứ Barbara. Cánh quân này gặp sự kháng cư mạnh mẽ
của địch. Sau 2 ngày quần thảo cộng quân rút lui bỏ lại nhiều xác
và vũ khí gồm súng cối 62ly, đại liên 12.8ly, và hàng trăm khẩu AK47 & đạn dược.
Ngày 14/7/1972 Ðại tá Nguyễn Trọng Bảo, Phụ tá
hành quân/SÐND, Ðại tá Huỳnh Long Phi, Pháo Binh Sư Đoàn, và Đại
uý Bồ Vệ Quốc,
SQ Truyền Tin Sư Đoàn trên đường đến thăm vị trí đóng quân của LÐIND đã bị tử nạn
Trực thăng tại phía Ðông Bắc cầu Mỹ Chánh, trên QL1 (khoảng Đại lộ kinh hoàng).
Vùng hành quân của SÐND tái chiếm Quảng Trị cuối năm 1972
Trong ngày
này, Tiểu Đoàn 3ND nhận được tiếp tế tại Đồi 118, Trung Đội 1/33ND
do Thiếu uý Toàn chỉ huy được chỉ định xuyên rừng mang tiếp tế cho 2
Đại Đội 31 và 34 đang trấn ngự trên lưng chừng núi giữa đường đến
Căn cứ Barbara. Đến 6:00g sáng ngày 16/8 Trung Đội 1/33 của Thiếu
uý Toàn vừa trở về Căn cứ sau khi phải di chuyển băng rừng suốt đêm
thì 2 Trung Đoàn của SĐ308 cộng quân ào ạt tấn công vào vị trí phòng
thủ của TĐ3ND đang trấn ngự trên Đồi 118.
Khởi đầu cuộc tấn
công, vào lúc 6:00g sáng cộng quân áp dụng trận địa pháo kinh hồn
pháo vào vị trí TĐ3ND sau đó dùng biển người tấn công vào mặt phía
Tây Căn cứ do 2 Đại Đội 30 và 33ND trấn thủ. Các chiến sĩ Dù phản
công quyết liệt, giao tranh từ sáng đến chiều. Thiếu uý Lê Ngọc Bản
SQTT, Chuẩn uý Phạm Lê Phong Trung đội trưởng/ĐĐ33, TSI Trần Văn
Dũng, và Hạ sĩ Truyền Tin Lê Thiều bị tử thương. Thiếu tá Nguyễn Văn
Định TĐP, Đại uý Phạm Xuân Thiếp Ban 3, Đại uý Dương Văn Xuân ĐĐT
30, Trung uý Trần Văn Tâm Phụ tá Ban 3 bị thương. Trung uý Nguyễn
Hữu Viên ĐĐT 33 bị thương hộc máu và Trung sĩ Sĩ cận vệ cho Tiểu
đoàn trưởng lãnh nguyên 1 quả đạn 75ly trực xạ bị tan xác. Đến
6:00g chiều, cộng quân thấy không thắng được và bị thiệt hại
nhiều nên rút lui, các chiến sĩ Dù cấp tốc tu bổ lại công sự phòng
thủ, kiểm điểm quân số, và trị liệu cho thương binh.
Sáng sớm
hôm sau 17/8, địch quân tập trung quân đông đảo quyết dứt điểm ngọn
Đồi 118, vẫn áp dụng chiến thuật tiền trận địa pháo hậu xung biển
người. Trước áp lực quá nặng của địch quân, BCH Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù
cho Đại Đội 30 di tản tất cả thương binh ra khỏi Cứ điểm về hướng
Bắc. Đại Đội 33 ở lại tử thủ. Đại Đội 33 Nhảy Dù với quân số chỉ còn
lại 70 người, kiên cường chống trả lại. Nhiều đợt xung phong biển
người của địch quân bị rơi rụng bên ngoài rào phòng thủ. Đặc biệt
ngày này Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù đánh giặc không pháo yểm cũng không có
không yểm, cũng không có tiếp viện, Nhảy Dù chỉ “đánh khô” vậy thôi.
(Lý do là thời tiết xấu, hết đạn Pháo Binh, tiếp tế từ Đà Nẵng chở
ra không kịp, còn phi cơ có lẽ cũng hết... đạn luôn). Đến xế chiều,
vì áp lực cộng quân quá mạnh và quá đông lại không có Pháo Binh và
phi pháo trợ giúp nên Thiếu tá Võ Thanh Đồng, TĐT cho lệnh Đại Đội
33 triệt thoái khỏi Cứ điểm. Đến 5:00g chiều, cộng quân đã tràn
ngập Căn cứ. Lúc này 2 chiếc Oanh tạc cơ A37 của Không Quân VNCH bay
tới oanh tạc ngay giữa đỉnh Đồi 118. Đại Đội 33 chỉ còn lại 43 người
trong đó có 3 sĩ quan là Trung uý Viên ĐĐT, Chuẩn uý Đào Văn Oai,
Chuẩn uý Lê Thanh Vân, Trung đội trưởng.
Khu vực đóng quân của TĐ3ND ngày 14/8/1972
Chiều hôm đó, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù được rút về ngọn
Đồi 30 với
Đại Đội 32 và sáng ngày hôm sau rút
ra Trường Phước, cạnh QL1 để nhận tiếp liệu và bổ sung quân số. Sau
khi được chỉnh bị, TĐ3ND trở lại trận địa án ngữ ngọn Đồi 90 dưới
chân núi Động Ông Đô để cho các đơn vị Nhảy Dù khác tái chiếm Căn cứ
Barbara và Anne.
Ngày 8/9/1972 LÐIIIND điều động TÐ8ND tái
chiếm Căn cứ Barbara. TÐ8ND chia quân thành 2 mũi tấn công ban đêm
vào 2 phía Ðông và Tây của Căn cứ. Ðịch bị đánh bất ngờ khi còn
đang ngáy ngủ. 2 Đại Đội TÐ8ND đã đột kích vào Căn cứ 1 cách dễ
dàng. Rất nhiều tù binh thuộc SÐ324 CSBV bị bắt, hơn 20 xe molotova
chở đầy lương khô, đạn dược bị tịch thu còn nguyên vẹn cùng nhiều vũ
khí cá nhân và cộng đồng. 1 Thiếu uý ND bị hy sinh và 1 binh sĩ
bị thương.
TQLC Tái chiếm Cổ thành:
Ngày 28/7/1972 sau
khi nhận bàn giao khu vực trách nhiệm từ LĐIIND, Lữ Đoàn 258 TQLC
lập ngay phòng tuyến sát với các vị trí của đối phương. Trận chiến
càng ngày càng diễn ra khốc liệt. Đại bác cộng quân ở bờ Bắc sông
Thạch Hãn đã pháo kích liên tục, cùng lúc đó, súng cối của cộng quân
từ các vị trí gần Cổ thành bắn từng đợt hàng trăm quả vào các vị trí
chiến đấu của các đơn vị TQLC.
Ngày 9/9/1972 trong khi Sư Đoàn
Nhảy Dù tiếp tục truy kích các đơn vị CSBV ở phía Tây Quảng Trị, thì
dọc theo vùng núi tỉnh Quảng Trị từ phía Tây–Nam cho đến phía Tây–Bắc, hàng loạt phi vụ B52 trải thảm lửa xuống các vị trí được ghi
nhận là có cụm Pháo Binh và tập trung của cộng quân. Cùng lúc đó,
tại thị xã Quảng Trị, 6 Tiểu Đoàn Thủy quân Lục chiến đồng loạt tấn
công CSBV từ nhiều hướng vào Cổ thành Đinh Công Tráng.
Từ ga
Quảng Trị, Tiểu Đoàn 1 TQLC Quái Điểu do Thiếu tá Nguyễn Đăng Hòa chỉ
huy đã điều động các Đại Đội xuất quân tấn công vào khu vực gần bệnh
viện Quân–Dân Y Hỗn Hợp và khu vực trường Bồ Đề. Tại ngã ba Long
Hưng, Tiểu Đoàn 2 Thủy quân Lục chiến có biệt danh là Tiểu Đoàn Trâu
Điên do Thiếu tá Trần Văn Hợp làm Tiểu đoàn trưởng đã tung 2 Đại Đội
tấn công vào các chốt chận của CSBV trong làng Thạch Hãn nằm sát thị
xã Quảng Trị về phía Nam, được bao bọc bởi những lũy tre xanh. Lợi
dụng từng cụm tre, cộng quân đã đào hầm theo chữ A và chữ T rất kiên
cố để ngăn chận các cuộc tấn công của Việt Nam Cộng Hòa.
Các
tiền sát viên Pháo Binh đã điều chỉnh mục tiêu tác xạ cho từng khẩu
pháo 105ly với đầu đạn nổ chậm xê dịch từng 10m một (chứ không phải
50m theo quy định an toàn khi gọi Pháo Binh bắn yểm trợ) để bật tung
từng ổ kháng cự của cộng quân.
Một cánh quân của Tiểu Đoàn
Trâu Điên từ ngã tư Quang Trung, Duy Tân với sự yểm trợ của Pháo
Binh và Chiến Xa M48 đã tấn công “dọn sạch” các chốt cộng quân ở
bên đường Quang Trung, để từ đây đánh chiếm cụm điểm phòng ngự của
cộng quân ở rạp chiếu bóng Đại Chúng và các mục tiêu dọc theo đường
Lý Thái Tổ, ở phía Nam Cổ thành Quảng Trị.
Tại hướng Đông–Bắc, các
Tiểu Đoàn 3 và 7 TQLC đã tiến chiếm các vị trí trọng điểm để
tiến sát đến Cổ thành. Tại phía Đông–Nam, Tiểu Đoàn 6 TQLC Thần Ưng
(do Thiếu tá Đỗ Hữu Tùng chỉ huy) được giao trọng trách phải vào Cổ
thành bằng mọi giá.
Tại phòng tuyến ở phía Đông–Bắc tỉnh Quảng Trị, ở khu vực quanh trục lộ tiếp vận của cộng quân
(Hương lộ 560), lực lượng tăng cường cho Sư Đoàn Thủy quân Lục chiến
là Liên Đoàn 1 Biệt động quân đã gặp sự kháng cự mạnh của cộng quân
khi Liên Đoàn tung 2 Tiểu Đoàn bung rộng khu vực kiểm soát về phía
Đông. Không Quân Việt–Mỹ đã xuất trận để yểm trợ cho Biệt động quân
đánh bật cộng quân ra khỏi trận địa.
Ngày 13/9/1972
Đại Đội 5 Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên từ ngã tư Quang Trung Trần Hưng Đạo mở cuộc
tấn công vào khu vực chợ Quảng Trị. Trận chiến đã diễn ra quanh khu
vực chợ, dọc theo đường Trần Hưng Đạo ra đến bờ sông. 2 bên đã
quần thảo nhau quanh các đống bê tông đổ nát mà CQ đã biến thành các
điểm kháng cự. Cuối cùng Tiểu Đoàn TQLC này đã chiếm được mục tiêu,
sau đó khai triển đội hình tiến chiếm khu hành chánh gồm Ty Bưu
Điện, Ty Thanh Niên, Ty Ngân khố, và tiến sát đến Dinh tỉnh trưởng
nơi 1 Đại Đội cộng quân đang bố trí quân quanh khuôn viên để cố thủ.
1 cánh quân khác, Đại Đội 4 làm nỗ lực chính do đại bàng Long Hồ
Đại đội trưởng chỉ huy đã tiến quân thanh toán các chốt địch dọc
2 bên đường Phan Đình Phùng, sau đó tiến đánh và triệt hạ các chốt của
CQ bố trí tại cơ quan USOM và Tòa án tỉnh Quảng Trị. Thanh toán được
các mục tiêu trọng yếu, Đại Đội 4 và Đại Đội 5 của Tiểu Đoàn 2 Trâu
Điên đã tấn công vào khu vực tòa Hành chánh và Ty Tiểu học Quảng Trị
nơi 1 Trung Đoàn CQ đặt Bộ Chỉ Huy. Do các chốt bảo vệ xung quanh đã
bị TQLC triệt hạ, nên Bộ Chỉ Huy CQ tại đây đã phải tháo chạy ra
hướng bờ sông.
Ngày 15/9/1972 LÐIIND mở cuộc hành quân tảo
thanh VC vùng sườn núi phía Tây, nhằm mục đích mở rộng vùng hoạt
động và càn quét các đơn vị cộng quân lẩn khuất trong vùng cũng như
ngăn chận địch tiến xuống vùng đồng bằng ở phía Ðông. Cùng ngày này,
4 Đại Đội của Tiểu Đoàn 3 và Tiểu Đoàn 6 TQLC đã dàn hàng ngang đồng
loạt xung phong tiến về hướng Tây Cổ thành Đinh Công Tráng. Trong
đêm 15/9/1972, cộng quân đã pháo dữ dội vào đội hình của 2 Tiểu
Đoàn
này để yểm trợ cho thành phần CQ đang cố thủ ở đây. Gần rạng sáng, 4
Đại Đội TQLC nói trên đồng loạt xung phong, những tổ kháng cự của
cộng quân đã chống trả mạnh nhưng chỉ được nửa giờ sau đó đã bị đánh
bật khỏi phòng tuyến.
Rạng ngày 16 tháng 9,
lực lượng Thủy
quân Lục chiến đã đánh bật CSBV ra khỏi trung tâm thị xã Quảng Trị
và kiểm soát toàn bộ khu vực Cổ thành, 2 Tiểu Đoàn 3 và 6 Thủy
quân Lục chiến từ các vị trí vừa chiếm được trong Cổ thành, đã bung
ra lục soát và triệt hạ các chốt còn lại của CSBV. Đến 8:00g, 1 toán Cọp Biển của Tiểu Đoàn 6 Thủy quân Lục chiến đã dựng quốc kỳ
Việt Nam Cộng Hòa trên cổng tường phía Tây Cổ thành Quảng Trị, biểu
tượng cho sự toàn thắng của Quân lực VNCH trong cuộc tổng phản công
tái chiếm Cổ thành Quảng Trị.
Sau 4 tháng 16 ngày chiếm giữ
Cổ thành và thị xã Quảng Trị, cộng quân đã bị đánh bật và tổn thất
rất nặng. Riêng Trung Đoàn Triệu Hải (Trung Đoàn 27 CSBV) với hơn
1,500 quân cố thủ trong Cổ thành đã bị hạ gần như toàn bộ tại trận
địa, chỉ còn chưa đến 1 Tiểu Đội (10 người) thoát chạy ra ngoài.
Ngoài Trung Đoàn Triệu Hải bị xóa sổ, Trung Đoàn 48B thuộc Sư
Đoàn 320B CSBV đơn vị chiếm giữ trung tâm thị xã, cũng đã bị thiệt
hại hơn 80% quân số.
Theo ghi nhận của Trung tướng Ngô Quang
Trưởng, chỉ trong trận chiến tại trung tâm thị xã Quảng Trị và Cổ
thành, có 2,767 cộng quân đã bị hạ sát tại trận, 43 địch quân bị bắt
sống. Về phía Thủy quân Lục chiến, trung bình mỗi ngày có 150 chiến
binh Cọp Biên hy sinh. Chiều ngày 16 tháng 9/1972, sau khi đánh bật
CSBV ra khỏi trung tâm thị xã và tái chiếm toàn khu vực Cổ thành, 6
Tiểu Đoàn Thủy quân Lục chiến đã bung rộng để triệt hạ các chốt
kháng cự của tàn quân CSBV trong Cổ thành và nới rộng vùng kiểm
soát.
Mặt trận phía Tây Quảng Trị trước ngày ngưng bắn
Mặt trận phía Tây Quảng Trị trước ngày ngưng bắn:
Đầu tháng 10/1972, LĐIIND điều động các đơn vị tái chiếm
Căn cứ Anne
(Ðộng Ông Ðô). Ðể tái chiếm Căn cứ này TÐ5ND tiến quân bên cánh
trái, chạm địch nhiều lần cấp Đại Đội tịch thu nhiều đại bác 122ly,
130ly hỏa tiễn 107ly, và bắt sống nhiều tù binh thuộc các Trung Đoàn
141 và Trung Đoàn 165 của SÐ324 CSBV. Trong khi đó, TÐ11ND ngăn chận
đường tiếp viện của địch quân từ phương Bắc đồng thời bảo vệ cạnh
sườn bên phải để cho TÐ7ND làm trục tấn công chính vào đối phương.
Ðộng Ông Ðô (Căn cứ Anne) là 1 dãy đồi trọc, rất ít cây cối.
Ðứng trên đỉnh đồi ta có thể quan sát từ Chi Khu Cam Lộ, Ðông Hà đến
thị xã Quảng Trị. Trước kia Căn cứ này có 1 Pháo Đội 155ly do quân
đội Mỹ thiết lập, sau này bàn giao lại cho QLVNCH. Vào mùa này thời
tiết ẩm ướt, mây mù bao phủ suốt ngày nên việc tiếp tế và tản thương
rất khó khăn. Sau khi VC chiếm giữ khu vực này, địch đã thiết lập hệ
thống địa đạo cũng như hệ thống đường sá có thể di chuyển và điều
động dễ dàng bộ binh, cơ giới, và chiến xa dọc theo khu vực phía Bắc
sông Nhung đến Đồi 24 phía dưới chân Căn cứ. Bên trong Căn cứ cộng
quân ẩn núp trong những hầm hàm ếch nên rất khó bị tiêu diệt bằng
phi pháo.
Căn cứ Động Ông Đô phía Tây–Nam Quảng Trị
Cuối tháng 10, TÐ7ND đã làm chủ tình hình từ khu đồi yên ngựa
đến dãy Đồi 24 tiến sát quanh chân núi bằng những trận cận chiến đẫm
máu, giành từng thước đất, từng chiếc hầm hố cá nhân. Ðến cả tháng
sau TÐ7ND mới dứt điểm được Căn cứ Anne hoàn toàn, bắt sống 30 tù
binh thuộc Trung Đoàn 66 và Trung Đoàn 165 thuộc SÐ324 CSBV, tịch thu
trên 300 vũ khí đủ loại kể cả súng cối 160ly do Nga Sô chế tạo.
TÐ7ND bị thiệt hại mất khoảng 1 Đại Đội. Sau đó được TÐ6ND lên
thay trấn giữ Căn cứ, TÐ7ND lui về tái trang bị và bổ sung quân số.
Ðầu tháng 11/1972, sau khi thay thế đơn vị bạn, TÐ6ND điều động
1 Đại Đội trấn đóng tại Đồi 24 cách Căn cứ Anne khoảng 1km để chế
ngự khu vực đường thông thủy cũng như quan sát cả 2 mặt Đông–Tây.
Ðể giành lại những vị trí đã bị Nhảy Dù chiếm giữ cộng quân tung
SÐ308 CSBV với chiến xa yểm trợ liên tiếp trong 2 tuần lễ tấn công
vào Căn cứ Anne. Nhưng TÐ6ND đã phản công quyết liệt và gây thiệt
hại nặng nề cho đối phương, hơn 2 Tiểu Ðoàn cộng quân đã bị loại
khỏi vòng chiến. 2 ÐĐT/TÐ6ND bị thương, khoảng 150 HSQ & BS bị
thương vong.
Ðồng thời để yểm trợ cho lực lượng cộng quân tấn
công vào Căn cứ Anne, nhằm cắt đứt nguồn tiếp liệu cho TĐ6ND.
SÐ324 CSBV tung 1 Trung Đoàn tấn công vào vùng phụ cận ở mặt phía
Ðông là dãy Đồi 90 phía đưới Căn cứ Barbara do TÐ3ND trấn đóng. Trận
đánh tại Đồi 90 rất khốc liệt. BTL/SÐND đã tăng cường TÐ8ND vào vùng
hành quân cho LÐIIND. Sau 2 ngày tác chiến TÐ8ND đã chiếm giữ vị
trí chiến lược 18 giữa TÐ3ND và TÐ6ND. Nhiều hầm vũ khí cộng quân đã
chôn giấu tại đây như đạn súng cối 82ly, 62ly, hỏa tiễn 107ly, lựu
đạn, và đạn dược đủ loại.
Giữa tháng 12/1972, TÐ8ND tiến đánh
Căn cứ Suzie, khoảng 3km phía Tây Căn cứ Anne và mở rộng vùng hoạt
động kiểm soát đến bờ sông Thạch Hãn. Ðồng thời TÐ2ND cũng được điều
động tấn công tái chiếm vùng Ðộng Tiên cách Suzie khoảng 4km về phía
Tây–Nam. Sau 1 tuần hành quân, TÐ2ND đã càn quét và làm chủ tình
hình, tịch thu nhiều vũ khí và nhiều kho lương phạn như cá hộp,
lương khô do Trung cộng sản xuất.
Ðến cuối tháng 12/1972
Lực Lượng Nhảy Dù làm chủ tình hình dọc bờ phía Tây dãy Trường Sơn. Vùng
trách nhiệm của SÐND hoàn toàn được yên tĩnh trước khi hiệp định
Ba–lê được ký kết để người bạn đồng minh “dỉ đại” của VNCH được “tháo
chạy trong danh dự.”
Tháng 3/1973 Sân bay Hòa Mỹ (tức
Căn cứ
Evan do LĐIIND trấn đóng) tiếp nhận các phi cơ C130 đáp xuống để
chở các tù binh trao trả cho VC.
Lính Dù canh giữ Hòa bình tại Quảng Trị
trong những ngày đầu năm 1973
Tài liệu tham khảo:
– The Easter Offensive Of 1972 của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, TTQS/BQP/HK xuất bản năm 1980, Việt dịch Kiều Công Cự.
– TQLC Việt Nam với cuộc Tổng Công Kích Tổng Nổi Dậy 1972 của
CSBV tại Vùng I CT.
– Tài liệu tổng hợp của Cựu Trung tá Trần văn Hiển TP3/SĐ/TQLCVN trên trang web www.
TQLCvn.org.
– Mặt Trận Cổ thành Quảng Trị của Mũ Đỏ Trịnh Ân.
– Thiên Hùng Ca QLVNCH của Phạm Phong Dinh xuất bản lần thứ nhất 2004.
– Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập của Nguyễn Đức Phương, Làng Văn xuất bản năm 2001.
– TĐ6 TQLC và Chi Đoàn 2/20 Chiến Xa trong trận tái chiếm Căn cứ Phượng Hoàng của Hải Triều.
– Căn cứ Pedro tháng 4 năm 1972 của MX Mai Văn Tấn.
– LĐI, IV, & 5 BĐQ trên chiến trường Quảng Trị 1972 của Mũ Nâu Vũ đình Hiếu.
– Đời Chiến Binh của Trương Dưỡng, Tác giả xuất bản 1999.
– Lời tường thuật của Trung uý Thạch Hớn, Trung đội trưởng Trung Đội 1/ĐĐ52ND hiện cư ngụ tại quận Cam, California.
– Lời tường thuật của Đại uý Nguyễn Văn Qúi, Trưởng Ban 3/TĐTT/SĐND cư ngụ tại San Diego.
– Phòng tuyến của Trung Đoàn 54 Bộ binh ở Tây Huế của Vương Hồng Anh.
– Nhảy Dù và Cổ thành Đinh Công Tráng của Mũ Đỏ Trương Đăng Sỹ.
– Trả Lại Sự Thật Cho Lịch Sử Về Việc SĐ3BB lui quân tại Quảng Trị – Thế Huy, Paris – http://www.trachnhiemonline.com/dien–dan–418–thehuy.htm.
– Cuộc đổ bộ trong lòng địch của Mũ Xanh Nguyễn Đăng Hòa.
– Tiểu Đoàn 5ND 1972 trấn thủ Bình Long và thượng kỳ Quảng Trị của
Mũ Đỏ Việt Long.
– Chinh Chiến Điêu Linh của Kiều Mỹ Duyên.
– Phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù.
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by mđ nguyễn minh hoàng chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, April 23, 2015
Cập nhật ngày Thứ Sáu, May 23/2025 – đổi sang hệ thống bootstrap framework 5.x
tkd. Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH