|
Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang Quân
sử VNCH
Chủ đề:
quân sử sư đoàn nhảy dù qlvnch
Tác giả: MĐ
Nguyễn Hữu Viên & MĐ Tín Võ
****** |||
******
MỤC LỤC
*
A.
PHẦN A: TỔ CHỨC
B. Chiến Sự
1.
Trận Điện Biên Phủ (13/3/1954
– 7/5/1954)
2.
Tình Hình Việt Nam Sau Hiệp Định Geneve
3. Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng (23/5/1955
– 6/12/1955)
4.
Chiến Dịch Hoàng Diệu (từ 21/9
– 24/10/1955)
5.
Chiến Dịch Nguyễn Huệ (từ 1/1 – 17/2/1956)
6.
Binh Biến ngày 11/11/1960
7.
Trận Phước Thành (18–19/9/1961)
8.
Trận Ấp Bắc (2–3/1/1963)
9.
Trận Tân Châu Hồng Ngự (2–4/3/1964)
10.
Trận
Bình Giã (3/12/1964 – 3/1/1965)
11.
Trận Hắc Dịch (9–10/2/1965)
12. Trận Ba Gia (28/5/1965
– 2/6/1965)
13.
Trận Đồng Xoài (9–20/6/1965)
14.
Trận Đức Cơ (4–15/8/1965)
15.
Chiến dịch Ia Drang – Thần Phong 7 (14–18/11/1965)
16.
Hành Quân Thần Phong 11 (28/1 – 6/3/1966)
17.
Đại Bàng 800 (12/11/1966)
18.
Hành Quân Liên Kết 81 (16–22/2/1967)
19. Lam Sơn 54–Khu Phi Quân Sự (18–27/5/1967)
20.
Trận Dakto (Đồi 1416) (3–22/11/1967)
21.
Tổng Công Kích Năm Mậu Thân (từ ngày 29/1/1968)
22.
Mặt Trận Sài Gòn (30/1/1968)
23.
Mặt Trận Quảng Trị (30/1/1968)
24.
Mặt Trận Huế (30/1/1968)
25. Mặt Trận Khe Sanh (1–15/4/1968)
26.
Mặt Trận Ashau (19/4 – 17/5/1968)
27.
Trận Mậu Thân đợt hai (từ ngày 5/5/1968)
28.
Trận Gò Nổi (Tây Ninh) (19/5/1969)
29.
Chiến Dịch Bình Tây (Từ ngày 27/3/1970)
30.
Hành Quân Toàn Thắng 42 (29/4 – 22/7/1970)
31. Hành Quân Toàn Thắng 43 (1/5 – 30/6/1970)
32.
Hành Quân Toàn Thắng 45 (6/5 – 30/6/1970)
33. Hành Quân Lam Sơn 719 (8/2
– 6/4/1971)
34.
Trận đánh Căn Cứ Hỏa Lực 6 (4–17/4/1971)
35.
Trận đánh Căn Cứ Hỏa Lực 5 (24/5 – 19/6/1971)
36.
Mùa Hè Đỏ Lửa
37.
Mặt Trận Tây Nguyên (17/3 – 28/5/1972)
38.
Mặt Trận Bình Long (2/4 – 8/6/1972)
39.
Mặt Trận Quảng Trị (30/3 – 15/9/1972)
40.
Trận Thường Đức (18/8 – 8/11/1974)
41.
Trận Ban Mê Thuột (10–16/3/1975)
42.
Trận Khánh Dương (19/3 – 1/4/1975)
43.
Trận Phan Rang (1–17/4/1975)
44.
Trận Long Khánh (9–21/4/1975)
C.
PHẦN C: CÁC VỊ TƯ LỆNH SĐND
******16******
16.
Hành Quân Thần Phong 11 (28/1 – 6/3/1966)
Hành Quân Thần
Phong 11
(28/1/1966 – 6/3/1966)
Thượng tuần tháng 1/1966,
Bộ Tư Lệnh cộng sản Bắc Việt (CSBV) tại Mặt trận B5 (các tỉnh Trung
nguyên Trung phần từ Quảng Nam
trở
vào) đã điều động thêm 2 Trung Đoàn chủ lực tăng phái cho Sư Đoàn 3
Sao Vàng CSBV để mở rộng các hoạt động quấy rối tại 2 tỉnh Bình
Định và Phú Yên. Riêng tại khu vực gồm 3 quận phía Bắc tỉnh Bình
Định, Cộng quân tung Trung Đoàn 22 chủ lực xâm nhập vào khu vực Bắc
Bồng Sơn. Tỉnh Bình Định nguyên thuộc về Liên Khu 5 của Việt Minh
trong thời Chiến tranh Việt–Pháp. Là 1 vùng lãnh thổ khoảng
26,000km² có chiều dài khoảng 370km và chiều ngang khoảng 70km. Đây
là 1 bình nguyên mầu mỡ của miền Trung Việt Nam. Dân số khoảng 2
triệu 500 ngàn người chịu ảnh hưởng rất lâu của cộng sản. Trong thời
gian 1945 đến 1954, Bình Định là Thủ đô của Liên khu 5 cộng sản
(quân đội Pháp chưa lần nào đặt chân lên vùng này). Trong 9 năm dưới
chế độ cộng sản cai trị, nên có rất nhiều người vào đảng và cũng có
nhiều người tập kết ra Bắc, vì thế hầu như gia đình nào cũng có liên
hệ đến cộng sản. Tại đây Cộng quân đã đặt nhiều Căn cứ địa để khai
thác nhân lực, tuyển mộ binh lính, thâu thập thuế khoá, thực phẩm,
thuốc men... và thường xuyên đe dọa an ninh trong vùng.
Theo
tin tức tình báo, tại Bình Định cộng sản có Sư Đoàn 3 Sao Vàng, Sư
Đoàn nổi tiếng của Liên khu 5 cộng sản, 1 Tỉnh ủy và 1 Bộ Chỉ Huy Tỉnh đội gồm nhiều
Tiểu Đoàn Địa Phương, còn Du kích thì rất
nhiều. Các đơn vị VC hoạt động trong vùng An Lão và phía Đông–Nam
của tỉnh Quảng Ngãi gồm các Trung Đoàn 18, 22, và 58; Tiểu Đoàn 38
biệt lập, Trung Đoàn 2 VC cùng 1 đơn vị vận tải và 11 Đại Đội biệt
lập của VC, mỗi Đại Đội quân số từ 90 đến 150 người.
Để giải tỏa áp
lực địch quân, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) khởi
động 1 cuộc hành quân quy mô với sự tham dự của lực lượng bộ chiến
2 Trung Đoàn/Sư Đoàn 22 Bộ Binh, Sư Đoàn Nhảy Dù, phối hợp cùng với
2 Lữ Đoàn thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ, và 1 Lữ Đoàn/SĐ Mãnh Hổ
của Đại Hàn. (Chỉ huy hành quân phía VNCH là Chuẩn tướng Nguyễn Xuân
Thịnh TL/SĐ22BB).
Song song với cuộc hành quân này của QK2,
về phía QK1 trong địa phận phía Nam tỉnh Quảng Ngãi, các Lực Lượng
SĐ2BB và Lực Lượng TQLC Hoa Kỳ đã mở cuộc Hành Quân Thủy bộ Liên Kết
22 (Phía Mỹ: Double Eagle) dưới quyền chỉ huy của Chuẩn tướng Hoàng
Xuân lãm, càn quét từ quận Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi tiến sâu vào nội
địa sát biên giới với Bình Định tảo thành các đơn vị Cộng quân đến
Mật khu Đỗ Xá để ngăn chận không cho CS chạy thoát về phía Bắc.
Ngày 26/1/1966 Theo phân nhiệm, Lực Lượng Nhảy
Dù sẽ mở cuộc
Hành Quân Thần Phong 11 song song với cuộc Hành Quân Masher của Mỹ
nhằm truy kích 2 Trung Ðoàn VC quanh khu vực phía Bắc của Bồng Sơn,
trong khi Lực Lượng Hoa Kỳ và Đại Hàn tảo thanh Cộng quân trong khu
vực An Lão cách Bồng Sơn khoảng 20km về phía Tây–Bắc.
Các
Tiểu Đoàn Nhảy Dù VN được tổ chức thành 1 Chiến Đoàn Đặc Nhiệm
tùng thiết. Trung tá Ngô Quang Trưởng Tham mưu trưởng SĐND được chỉ
định chỉ huy Lực Lượng Đặc Nhiệm Nhảy Dù & Thiết Giáp.
Bộ
Tư Lệnh Hành Quân SĐND đóng tại Đệ Đức trên 1 ngọn đồi cách phi trường
Bồng Sơn khoảng 3km. BCH/TĐ3ND đóng tại nhà thờ Đệ Đức. TĐ6ND đóng
tại Hoài Sơn cách BTL/SĐ chừng 5km về phía Đông–Bắc.
Bản đồ khu vực hành quân Masher giai đoạn 1
Ðơn Vị Bạn:
– SÐ1 Không Kỵ Hoa Kỳ (Hành
quân Masher) trách nhiệm tảo thanh khu vực thung lũng An Lão với
các Lữ Đoàn:
• Lữ Đoàn I KBKV do Đại tá E. B.
Roberts chỉ huy.
• Lữ Đoàn II KBKV do Đại tá W. R. Lynch chỉ
huy.
• Lữ Đoàn III KBKV do Đại tá Harold G. More chỉ huy với 3
Tiểu Đoàn 1 & 2/7, và 2/12 KBKV...
– Sư Đoàn Nhảy Dù VNCH
có 3 Tiểu Đoàn tham chiến:
• Tiểu Đoàn 3ND do Thiếu tá
Trần Quốc Lịch làm Tiểu đoàn trưởng.
• Tiểu Đoàn 5ND, Thiếu tá
Nguyễn Vỹ làm Tiểu đoàn trưởng.
• Tiểu Đoàn 6ND, Thiếu tá
Nguyễn Văn Minh làm Tiểu đoàn trưởng khi Thiếu tá Minh bị thương
Thiếu tá Nguyễn Khoa Nam thay thế.
– 1 Lữ Đoàn/SĐ Mãnh Hổ
Đại Hàn. (Flying Tiger Operation).
Lực Lượng Địch:
– SÐ3 CSBV Sao Vàng với Sư đoàn trưởng Giáp Văn Cương, Sư
đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng Hoàng Hữu Anh, Chính ủy Sư Đoàn
Đặng Hòa, gồm các Trung Đoàn:
• Trung Đoàn bộ binh 2, là
Trung Đoàn chủ lực đầu tiên của Quân khu 5.
• Trung Đoàn
bộ binh 12, nguyên là Trung Đoàn 18 Sư Đoàn 325. Tháng 2 năm
1965 xâm nhập vào chiến trường miền Nam kể từ hè 1965.
•
Trung Đoàn bộ binh 22, được thành lập hè 1965 ở miền Bắc, khi
vào chiến trường miền Nam được bổ sung thêm Tiểu Đoàn 8 Trung
Đoàn 1 của Quân khu 5.
– Tiểu Đoàn 38 biệt lập.
–
Trung Ðoàn 2 VC/SĐ2, và
– 11 Đại Đội biệt lập của VC, mỗi
Đại Đội quân số từ 90 đến 150 người.
Diễn tiến:
Ngày 28/1/1966 với thời tiết mưa dầm tại
An Lão,
Lữ Đoàn
III KBKV dưới quyền chỉ huy của Đại tá Harold G. More mở đầu
cuộc hành quân về phía Mỹ gọi là Masher, TĐ 2/7 được Trực thăng
vận xuống làng Cù Nghi, phía Tây của Tam Quan để truy lùng và
tiêu diệt 1 đơn vị Trung Đoàn 22 của CSBV. Ngay trong những
giờ phút đầu tiên của cuộc đổ quân, 4 chiếc CH47 đã bị bắn rơi;
12 trực thăng UH1D bị hư hại vì hỏa lực của địch. Đến trưa tổng
cộng có đến 28 chiếc trực thăng cần phải sửa chữa do trúng đạn.
Trong ngày đầu tất cả có 45 chiếc trực thăng bị trúng đạn. Giao
tranh suốt ngày kéo dài đến ngày hôm sau.
Ngày
29/1/1966 TĐ2/12 KBKV được Trực thăng vận đến tiếp viện. Và
TĐ1/7 được thả xuống phía Bắc để chận đường lui binh của địch.
Trước sự tăng viện hùng hậu của Mỹ, 2 Tiểu Đoàn 7 và 9 của Trung
Đoàn 22 CSBV phải rút lui sau 3 ngày giao chiến ác liệt.
Ngày 31/1/1966 cuối cùng Lực Lượng Không Kỵ Hoa Kỳ đã làm
chủ trận địa, gây tổn thất nặng cho đối phương, kết quả được ghi
nhận như sau: 660 cán binh cộng sản bỏ xác tại trận, 357 tù
binh; tịch thu 49 súng cá nhân, 6 súng cộng đồng. Phía Mỹ có 75
tử trận và 240 người bị thương.
Chiến lợi phẩm
Trong khi đó, tại mặt trận phía Bắc của Bồng Sơn, kể từ ngày
28/1 Lực Lượng Nhảy Dù bắt đầu vào vùng hành quân là làng Gia
Hựu đến ngày 30/1/1966 sau 3 ngày giáp chiến với những trận
giao tranh ác liệt Chiến Đoàn Nhảy Dù mới chiếm được mục tiêu,
Lực Lượng Nhảy Dù VN phải dùng cận chiến tiến chiếm từng thước
đất, từng giao thông hào sâu quá đầu người, và loại khỏi vòng
chiến 695 Cộng quân. Trong trận này Tiểu đoàn trưởng cùng Y sĩ
trưởng Tiểu Đoàn 6 Dù, đều bị thương, Thiếu tá Lê Ngọc Tô
TĐP/TĐ3ND cũng bị thương ở chân. Tiếp sau đó là giai đoạn bình
định, công tác của các đơn vị Nhảy Dù VN hành quân là làm dân sự
vụ, phát thuốc chẩn trị bịnh cho dân.
Chiến trường đẫm
máu nhất xảy ra tại làng Gia Hựu. Địch quân cố thủ trong các hệ
thống hầm hố kiên cố chống trả mãnh liệt, đến ngày thứ 3 của
chiến trận, sau 1 trận mưa bom cày nát mục tiêu, các đơn vị
Nhảy Dù mới xung phong vào chiếm được. Một trái đạn pháo của
địch trúng vào BCH của TĐ6ND, TĐT là Thiếu tá Nguyễn Văn Minh,
BS Cảnh, Y sĩ của Tiểu Đoàn, và Cố vấn trưởng bị thương. Người tạm
thay thế Thiếu tá Nguyễn Văn Minh cầm Tiểu Đoàn 6 Dù là Thiếu tá
Nguyễn Khoa Nam. Trong lúc đó 2 Đại Đội của TĐ3ND do Thiếu tá
TĐP Lê Ngọc Tô chỉ huy tràn qua đường rầy xe lửa cạnh Quốc lộ 1
để tấn công vào mục tiêu. Một loạt đạn AK của Cộng quân đã trúng
vào chân của Thiếu tá Tô nên phải di tản gấp, về sau Đại uý
Nguyễn Ngọc Hanh từ đơn vị 81 Tiếp Tế Thả Dù về thay thế Thiếu
tá Tô trong chức vụ Tiểu đoàn phó.
Tản thương tại chiến trường
Ngày 4/2/1966 cuộc hành quân về phía Mỹ được chuyển sang giai
đoạn 2 và đổi tên thành White Wing theo lời đề nghị của Tổng
thống Hoa Kỳ để cho thích hợp với cuộc hành quân bình định và Lữ
Đoàn III KBKV chuyển sang hoạt động vùng phía Nam ở thung lũng
Kim Sơn. Và Lữ Đoàn II KBKV của Đại tá W. R. Lynch đến thay thế
trách nhiệm tảo thanh khu vực thung lũng An Lão.
Đến
ngày này cuộc hành quân đã sang ngày thứ 9, 2 Trung Đoàn của
SĐ3 Sao Vàng của VC đang bị bao vây, tổng số Cộng quân bị hạ tại
trận đến ngày này là 767 VC.
Ngày 5/2/1966
Lực Lượng SÐND Hành Quân đã giải phóng được 1 vùng của Tam
Quan với 120,000 dân đã bị VC lấn chiếm kềm kẹp trong 2 năm qua.
Hạ thêm 147 VC, bắt sống 53 tịch thu 30 vũ khí. Về phía Nhảy Dù
tính đến ngày này có 15 tử thương, 36 bị thương trong số này có
Tiểu đoàn trưởng và Y sĩ trưởng TĐ6ND cùng Tiểu đoàn phó TĐ3ND
khi Lực Lượng Nhảy Dù tiến chiếm mục tiêu làng Gia Hựu.
Ngày 11/2/1966 trong vùng Kim Sơn LĐIIIKBKV Hoa Kỳ đã giao
tranh ác liệt suốt ngày với Cộng quân. Kết quả KBKV có 6 BS tử
trận và đếm được 249 xác VC nâng tổng số địch bị loại khỏi vòng
chiến là 1,200 tên tính đến ngày này.
Ngày 14/2/1966
lúc 4:00g sáng, từ vị trí đóng quân tại Hoài Sơn để yểm trợ
công tác dân sự vụ, Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù được lệnh di chuyển bằng
xe đến điểm hẹn là Đồi 10 của làng Gia Hựu, nơi chiến trường đẫm
máu xảy ra khoảng 10 ngày trước đó để phối hợp với Tiểu Đoàn
5 Nhảy Dù và Chi Đoàn Thiết Vận M113 tấn công vào 3 ngôi làng
kế cận Gia Hựu.
Hai TĐ5 & 6ND với Thiết Vận Xa, trực
thăng võ trang, và khu trục yểm trợ được lệnh tiến vào mục tiêu
kế tiếp là 3 thôn xóm nhỏ giáp giới thôn Hy Văn thuộc xã Hoài
Châu kế cận làng Gia Hựu, quanh làng có hệ thống giao thông hào
sâu quá đầu người. Ngoài đường làng dân chúng bồng bế gồng gánh
dắt trâu bò bỏ chạy sang khu vực Quốc Gia. Buổi trưa khoảng 1:00g các chiến sĩ
Nhảy Dù mở đội hình tác chiến, dàn hàng ngang
khai hỏa tiến vào bìa làng, địch chống trả dữ dội. Hai Phi Tuần
khu trục được gọi tới trút bom đạn vào mục tiêu, rồi sau đó các
gunship
[Trực thăng võ trang]
tiếp tục tác xạ để yểm trợ cho cánh quân dưới đất. Mãi
đến 6:00g chiều, lúc trời nhá nhem tối, tại bờ đất ngôi làng thứ
hai, nơi địch quân chống trả mãnh liệt nhất, TĐ6ND phải gọi khu
trục giội bom xăng đặc, trực thăng võ trang bắn mấy đợt rocket,
đại liên và đợt xung phong cuối cùng của Đại Đội 64 Nhảy Dù mới
chiếm được mục tiêu, nhưng Trung uý Vân ĐĐT/ĐĐ64 bị tử thương.
Thiếu uý Toàn Trung đội trưởng mới ra trường Đà Lạt bị thương
nặng cùng với 7 binh sĩ TĐ6ND và 6 BS thuộc TĐ5ND bị hy sinh,
phía Kỵ Binh có 2 xạ thủ đại liên bị tử trận cùng 5 người bị
thương. Đến 9:00g đêm tiếng súng thưa dần và im hẳn. Trực thăng
đáp xuống di tản thương binh ngay trong đêm.
Ngày
15/2/1966 tờ mờ sáng, các đơn vị Nhảy Dù bắt đầu lục soát quanh
các vùng giao tranh, xác địch còn nằm ngổn ngang trong các hố cá
nhân. Theo lời khai của 1 Trung uý CS tù binh thì họ thuộc SĐ3
Sao Vàng đã đóng quân tại làng Hy Văn này đã 3 tháng rồi.
Chiều Ngày 15/2/1966 Hành Quân Thần Phong II vẫn tiếp tục,
các đơn vị Nhảy Dù được lệnh rút về Hoài Sơn bàn giao chiến
trường lại cho các đơn vị bạn tiếp tục công tác dân sự vụ bình
định. Tính đến ngày này, trên 2,000 Cộng quân bị hạ.
Ngày 16/2 Các đơn vị thuộc LĐIKBKV gồm 2 TĐ 1 & 2/5KBKV cùng
Tiểu Đoàn 2/12 KBKV đến thay thế vùng trách nhiệm của LĐIIIKBKV.
Các đơn vị này đã đột nhập và càn quét khu vực BCH đầu não của
Trung Đoàn 22 VC mà các Kỵ Binh Hoa Kỳ gọi là khu “Tam Giác
Sắt”, phá hủy các cơ sở và tịch thu rất nhiều vũ khí, lương thực,
và tiếp liệu quân dụng...
Ngày 1 tháng 3
giai đoạn cuối của cuộc Hành Quân White Wing bắt đầu với
Lữ Đoàn II KBKV được
thả vào vùng rừng rậm của Núi Cây Giệp để tìm và tiêu diệt 2 Tiểu Đoàn 6 và 18 của SĐ 325 CSBV. Cuộc hành quân chỉ có giao
tranh lẻ tẻ vì đại bộ phận của 2 đơn vị này đã bỏ chạy sang
Lào vài ngày trước đó khi nghe tin cuộc hành quân sẽ triển khai
đến vùng này.
Ngày 6/3/1966 Chấm dứt
Hành Quân Thần
Phong II sau 40 Ngày “lùng và diệt” địch quân và công tác dân
sự vụ với kết quả:
– 2,389 Cộng quân bị hạ bỏ xác tại
trận, 536 bị bắt sống, tịch thu 267 vũ khí cộng đồng, và rất nhiều
súng cá nhân đủ loại.
– Về phía Hoa Kỳ có 288 tử thương,
990 bị thương.
– Về phía VNCH: Nhảy Dù có 29 tử trận, 41
bị thương; Kỵ Binh có 2 tử trận và 5 bị thương.
Quan sát chiến trường
Tài liệu tham khảo:
– Y–sĩ Tiền Tuyến của Trang Châu.
– Operation Masher/White Wing trên trang web: wikipedia.org/wiki.
– Hành Quân Masher/White Wing trong Chiến Tranh VN toàn tập của Nguyễn Đức Phương.
– 1966 Việc từng Ngày của Đoàn Thêm nxb Xuân Thu, CA 1989.
******17******
17.
Đại Bàng 800 (12/11/1966)
Đại
Bàng 800
(12/11/1966)
Bình Ðịnh là tỉnh cực Bắc của
Quân Khu II dọc theo vùng duyên hải Việt Nam có tổng diện tích
khoảng 6,000km² phía Bắc giáp tỉnh
Quảng
Ngãi, phía Nam giáp tỉnh Phú Yên, phía Tây giáp tỉnh Pleiku, phía
Đông giáp biển Ðông. Bờ biển Bình Định dài hơn 95km (63 dặm/miles) với
nhiều đảo lớn, nhỏ ngoài khơi. Tỉnh có ll đơn vị hành chính gồm l0
quận: An Lão, Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Vĩnh Thạnh, Tây
Sơn, Vân Canh, An Nhơn, Tuy Phước, và thị xã Qui Nhơn là trung tâm
chính trị – kinh tế – văn hóa của tỉnh.
Bình Định dựa lưng
vào dãy Trường Sơn trùng điệp về phía Tây, có các nhánh núi đâm ra
biển khiến địa thế có 3 mặt núi non hiểm trở. Các dãy núi không cao
lắm khoảng trên dưới 1000m, thoai thoải dần về phía Đông:
–
Dãy Thạch Tấn ngăn Bình Định với Quảng Ngãi, 2 tỉnh thông nhau qua
đèo Bình Đê. Trong dãy này có ngọn Thạc Tấn, nơi giao tranh của quân
Nguyễn Ánh và Tây Sơn trước đây. Xuống phía Nam, dãy Trường Sơn chia
làm nhiều nhánh, gồm những ngọn núi thấp, đây là nơi cư ngụ của đồng
bào Thượng.
– Dãy An Lão có các ngọn núi Cheu cao 952m
(2,856ft/bộ), Teup cao 960m (2,880ft), Yon cao 960m (2,880 ft).
Dãy Kinh Sơn nằm trong quận Hoài Ân bao gồm những ngọn núi cao
khoảng 500m (1,500ft) và đỉnh Kim Sơn cao 800m (2,400ft).
Dãy
núi Vĩnh Thạnh nối với dãy Kim Sơn bởi đèo Giốc Đót, có những ngọn
núi cao với địa thế hiểm trở như hòn Bong, hòn Heo, và hòn Chuông.
Dãy Triều Châu là phần cuối của dãy Vĩnh Thạnh, phủ toàn cát
trắng, được định làm ranh giới giữa Bình Định và Pleiku bởi đèo Măng
Giang (Mang Yang). Dãy Triều Châu còn gọi là dãy Tây Sơn vì là nơi
tụ binh khởi nghĩa của anh em nhà Tây Sơn trước đây. Trong quận An
Túc có các đỉnh Konlak cao 1,720m (5,169ft) và Kon Bonia cao 1,568m
(4,704ft).
Dãy Nam Sơn (còn gọi là vùng núi Binh Sau), có các
hòn Ông, hòn Bà, núi Am, và hòn An Tượng. Dãy này ngăn chia Bình Định
với Phú Yên, 2 tỉnh này thông nhau bởi đèo Cù Mông. Trong quận Phú
Cát có núi Bà cao 1,100m (3,300ft).
Dân số 1,461,000 người
(1999). Bình Ðịnh là mảnh đất có bề dày lịch sử với nền văn hóa Sa
Huỳnh, từng là cố đô của vương quốc Chăm–pa mà di sản còn lưu giữ là
thành Ðồ Bàn và các tháp Chàm với nghệ thuật kiến trúc độc đáo; nơi
xuất phát và là thủ phủ của nhà
Nguyễn Tây Sơn với tên tuổi của
người anh hùng lừng danh Nguyễn Huệ–Quang Trung;
là quê hương và nơi
nuôi dưỡng tài năng các danh nhân Đào Duy Từ, Ðào Tấn, Hàn Mặc Tử,
Xuân Diệu, Chế Lan Viên... Bình Ðịnh còn nổi tiếng bởi truyền thống
thượng võ và có nền văn hóa đa dạng phong phú với các loại hình nghệ
thuật tuồng, bài chòi...
Theo tin tức, khu vực hành quân sắp
đến của Chiến Đoàn II Nhảy Dù là 1 vùng xôi đậu trong tỉnh Bình
Định, nơi đây Mặt trận Du kích Chín Xã đã thao túng hoành hành,
trong suốt mấy năm trường và những ngày vừa qua, có sự xuất hiện
của 1 Sư Đoàn CSBV vừa mới xâm nhập. Khiến Quân Đoàn II phải gởi
điện khẩn, xin tăng cường đơn vị Tổng Trừ Bị để tảo thanh quân địch
trong khi chúng chưa kịp triển khai lực lượng.
Thực hiện kế
hoạch nói trên, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II đã khởi động cuộc Hành Quân
Hỗn Hợp truy kích Cộng quân trên toàn tỉnh Bình Định. Ðây là tỉnh
lớn nhất ở khu vực duyên hải trung nguyên, trung phần, gồm 12 quận
với dân số gần 1 triệu người (tính đến cuối năm 1966), và cũng là
nơi có nhiều đơn vị chủ lực Bắc Việt ẩn náu.
Bản đồ tỉnh Bình Định
Để có đủ lực lượng truy lùng Cộng quân trên 1 vùng rộng lớn,
các đại đơn vị Việt Nam Cộng Hòa, Mỹ, và Ðại Hàn đã được điều
động tham chiến: Chiến Ðoàn Nhảy Dù của VNCH, Sư Ðoàn Mãnh Hổ
của Đại Hàn, và Sư Ðoàn 1 Không Kỵ của Hoa Kỳ.
Vào thời
gian này, bản doanh Sư Ðoàn 22BB đóng tại Bà Gi, Sư Ðoàn 1 Không
Kỵ đặt hậu cứ tại An Khê, và Sư Ðoàn Mãnh Hổ Đại Hàn đặt Bộ Tư
Lệnh Hành Quân Tại Vân Cảnh.
Trong cuộc
hành quân này, vùng hoạt động của Chiến Ðoàn Nhảy Dù là 4 quận
phía Bắc tỉnh Bình Định: Tam Quan, Bồng Sơn, Phù Mỹ, Phù Cát.
Khu vực phía Nam gồm ngoại vi thị xã Qui Nhơn, Tuy Phước, Phú
Phong, và Văn Cảnh là vùng hành quân của Sư Ðoàn Mãnh Hổ Đại Hàn.
Khu vực phía Tây gồm An Khê, Vĩnh Thạnh, An Lão, và Hoài Ân là
vùng hành quân của Sư Ðoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ.
Theo kế
hoạch của Bộ Tư Lệnh Liên Quân Việt–Mỹ–Đại Hàn tại Vùng 2 Chiến
Thuật, thì Sư Ðoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ sẽ khởi động cuộc hành quân
trong vùng trách nhiệm trước “Ngày N” 3 ngày, kế tiếp mới đến
cuộc tiến quân của Lực Lượng VNCH và Lực Lượng Đại Hàn. Trong 3
ngày đầu của cuộc hành quân, với ưu thế về phương tiện trực
thăng và hỏa lực không quân, Sư Ðoàn 1 Không Kỵ đổ quân ngay khu
vực trung tâm của Cộng quân tại quận Hoài Ân và Vĩnh Thạnh, các
đơn vị bộ chiến của Sư Đoàn này đã tỏ ra xông xáo cố tìm Cộng
quân để triệt hạ thế nhưng đối phương đã tránh né tất cả các
cuộc giao tranh với đơn vị Hoa Kỳ vì biết rõ Sư Đoàn Không Kỵ có
hỏa lực không yểm rất mạnh.
Lực Lượng địch:
Quân cộng sản tại Bình Định có Sư Đoàn 3 Sao Vàng, đơn vị
chủ lực của Liên khu 5 cộng sản gồm các Trung Đoàn 2, 12, và 22,
Tỉnh ủy Bình Định Trần Quang Khanh và 1 Bộ Chỉ Huy Tỉnh đội
gồm nhiều Tiểu Đoàn Địa Phương, còn Du kích thì vô kể.
Lực Lượng Bạn:
– Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Không
Vận Hoa Kỳ trách nhiệm khu vực hành quân gồm 4 quận phía Tây
là: An Khê, Vĩnh Thạnh, An Lão, và Hoài Ân, là vùng núi non hiểm
trở vì Sư Đoàn này có nhiều phương tiện trực thăng và hỏa lực
không quân (Hành Quân Thayer II).
– Khu vực phía Nam là:
Qui Nhơn, Tuy Phước, Phú Phong, và Văn Cảnh là vùng hành quân của
Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn.
– Bốn quận phía Bắc: Tam Quan,
Bồng Sơn, Phù Mỹ, và Phù Cát là vùng đông dân nhất, được giao cho
Chiến Đoàn II Nhảy Dù Việt Nam Tìm & Diệt Địch và bình định lãnh
thổ. Chiến Đoàn II Nhảy Dù, Chiến đoàn trưởng Trung tá Đào Văn Hùng
với 3 Tiểu Đoàn Nhảy Dù:
• TĐ3ND, TĐT là Thiếu tá Trần
Quốc Lịch.
• TĐ6ND, TĐT là Thiếu tá Trương Vĩnh Phước.
•
TĐ9ND, TĐT là Thiếu tá Lê Văn Huệ.
Diễn Tiến:
Ngày 8/11/1966 các Tiểu Đoàn Nhảy Dù được máy bay
C130 chở
tới phi trường Qui Nhơn, từ đó xe vận tải GMC đưa các đơn vị đến
cầu Bà Gi để đóng quân tạm nghỉ đêm và chuẩn bị trang cụ.
Trong 3 ngày đầu, với phương tiện trực thăng dồi dào, Sư
Đoàn 1 Không kỵ Hoa kỳ đã đổ quân xuống các vùng an toàn nhất
của cộng sản tại các quận Hoài Ân và quận Vĩnh Thạnh, phá và đốt
nhiều kho lúa dự trữ của cộng sản, khu hậu cần kiên cố của Liên
khu 5 và Sư Đoàn 3 Sao Vàng. Dựa theo tin tức của Phòng 2, ngày
16/11/1966, BTL/QĐII áp dụng chiến thuật “điệu hổ ly sơn”, điều
động Trung Đoàn 41/SĐ22BB do Trung tá Bùi Trạch Dzần làm Trung
đoàn trưởng, sử dụng 2 Tiểu Đoàn bộ binh và Bộ Chỉ Huy Trung
Đoàn vào vùng hành quân Tại Vĩnh Thạnh thật sớm và đến mục tiêu
vào lúc 3:00g chiều thì đóng quân, cho binh sĩ dùng cơm và đào
công sự phòng thủ thật vững chắc. Vùng này là vùng xôi đậu nên
có rất nhiều cơ sở nằm vùng của Việt cộng, thế nào các cơ sở này
cũng sẽ mật báo cho cộng sản đem quân về đánh.
Trong khi
đó 1 Tiểu Đoàn trừ bị và 1 Chi Đoàn Thiết Vận Xa được lệnh
ém quân thật kỹ, xa vùng hành quân độ 10 cây số để địch không
thấy. Quả nhiên đến 2:00g sáng, Trung tá Bùi Trạch Dzần báo
cáo trên máy, 1 Trung Đoàn cộng sản bắt đầu tấn công vị trí
đóng quân của Trung Đoàn 41 (trừ). BTL QĐII ra lệnh Chi Đoàn
Thiết Vận Xa và Tiểu Đoàn Bộ Binh tùng thiết cấp tốc tiến vào
mục tiêu và tấn công từ phía sau lưng không cho địch rút lui. Sư
Đoàn 1 Không kỵ Hoa kỳ được tin ta đụng độ liền đem phi cơ thả
trái sáng yểm trợ. Pháo Binh của 2 Sư Đoàn 22BB Việt Nam và
Hoa kỳ tác xạ liên tục để yểm trợ quân bạn. Hỏa châu của Sư Đoàn
1 Hoa kỳ thả quá nhiều nên ánh sáng tỏa ra thấy rõ như ban
ngày. Kế hoạch đánh lén ban đêm của cộng sản kể như bị phá vỡ.
30 phút sau, Thiết Vận Xa và Tiểu Đoàn Bộ Binh tùng thiết
đã đến kịp, bao vây bọc hậu. Các đơn vị Cộng quân bị tấn công từ
2 phía nên bị thiệt hại nặng. Đến 5:00g sáng, cộng sản phải
phân tán và rút lui chạy vào rừng, để lại trên 300 xác chết nằm
rải rác khắp nơi, 1 số lớn vũ khí, đạn dược ngổn ngang trên
chiến trường.
Về phía các đơn vị Nhảy Dù, ngày
12/11/1966 5:00g sáng 2 Tiểu Đoàn 6 và 9ND được xe GMC chở về
ngã Bồng Sơn, qua quận Phù Mỹ, đèo Nhông, đèo Phù Củ; gần xế
trưa xuống xe dàn đội hình băng qua QL1. Các đơn vị bắt đầu tiến
quân về phía Đông, TĐ9ND tiến quân bên cánh trái có núi
Chóp Chài, sườn phải có TĐ6ND và Thiết Vận Xa.
Trong khi
đó tại mặt trận Bồng Sơn, TĐ3ND được đưa đến vùng Đệ Đức Hoài
Nhơn để tấn chiếm 1 ngọn đồi trong vùng kế cạnh 1 ngọn đồi
khác cao hơn do Việt cộng chiếm ngụ. Ban ngày Lực Lượng Dù quan
sát thấy rõ những hoạt động của địch quân như di chuyển, đào hầm
hố... Hôm sau, TĐ3ND được lệnh tấn công vào mục tiêu. Khởi đầu
chỉ có giao tranh lẻ tẻ, Cộng quân cố tình tránh né đụng độ với
đơn vị Nhảy Dù. Áp dụng chiến thuật “Hồi Mã Thương” TĐ3ND do
Thiếu tá Trần Quốc Lịch chỉ huy, đã bất thần càn quét ngược lại
những vùng vừa đi qua. Bị tấn công bất ngờ, các bộ đội cộng sản
chém vè vừa tái xuất hiện không kịp phản ứng nên đã bị tiêu diệt
rất nhiều và bắt sống hàng trăm tù hàng binh. Khi khai thác tù
binh, chính các tù binh đã nói: “Biết được cả Mỹ và Đại Hàn
trong cuộc hành quân này, nhưng Mỹ và Đại Hàn ít khi cho đầu
hàng mà tiêu diệt hết. Mặc dù rất sợ quân Dù, nhưng dù sao cũng
là người Việt nên hy vọng nhiều hơn...” Vị TĐP/TĐ3ND lúc bấy giờ
là Đại uý nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh đã mời rất nhiều phóng
viên quân đội cũng như dân sự đến tận chiến trường để chứng kiến
và tường thuật trên báo chí, truyền thanh, và truyền hình về
chiến thắng này.
Theo tin tức tình báo, Trung Đoàn 2/SĐ3
VC và Tiểu Đoàn 93 địa phương vừa xâm nhập thôn Dương Liễu trong
khu vực đầm Trà Ổ thuộc
huyện Phù Cát. Ngày 14/11/1966 TĐ9ND liền được điều động đến
truy lùng. Dùng chiến thuật giống như lùa tôm xúc tép (bao vây
tấn công), Tiểu Đoàn tung 2 Đại Đội tiến thẳng vào Đầm Trà Ổ
để lục soát dọc theo bờ biển từ Vạn Phú qua nhà thờ Chánh Khoan;
rồi dàn quân làm tuyến ngăn chận tại đây. Tiểu Đoàn 9ND (trừ),
chia quân 2 ngả, tiến thẳng vào mục tiêu là ngọn Núi Lồi. Các
Đại Đội Nhảy Dù tiến quân thần tốc, khiến lực lượng cộng sản bị
rối loạn, không kịp trở tay, 1 phần bị bắt, 1 phần chém vè
chạy ra biển rồi bị túm gọn bởi các đơn vị ở Đầm Trà Ổ. Sau 1 tuần lễ hành quân, 131 Cộng quân bị hạ tại trận,
1 số lớn bị
bắt sống, các đơn vị Nhảy Dù chuyển sang công tác Dân Sự Vụ và
tái lập các cơ sở hành chính để giúp cho dân chúng an ổn làm ăn.
Các dân làng khỏe mạnh ở dưới chân Núi Lồi đã di tản gần
hết, chỉ còn lại những người già cả yếu đuối, nhiều người ở đây
bị 1 chứng bịnh kỳ lạ, giống như dịch hạch, có từng chùm mụt
nổi ở cổ và háng. Ai nấy đều sợ truyền nhiễm trong các giếng
nước, nên phải đun sôi kỹ lưỡng và đôi khi dùng nước dừa để giải
lao. Tiểu đoàn trưởng bảo bác sĩ và y tá cố gắng cứu chữa cho
những người dân đau khổ này!
Một hôm nọ, Binh nhì Huy,
thuộc Khẩu Đội đại bác 75ly, đang đào hố nhỏ ở gần bờ biển để đi
đồng (đại tiện). Bỗng có 1 cậu bé tuổi chừng 15, đang lấp ló
nhìn trộm trong 1 cái chòi nhỏ, Huy tay cầm xẻng, vai mang
súng chạy tới hỏi:
– Em nhỏ làm gì mà núp ló ở đây?
– Em đói quá, mấy ngày không có gì trong bụng, anh cho em
xin chút cơm ăn đi!
Huy thấy em mặc áo quần rách rưới,
tay chân run rẩy, mặt mày xanh lét, anh tội nghiệp, nhưng trong
nồi chỉ còn toàn cơm cháy khét. Huy thấy chú bé ăn ngấu nghiến,
không bỏ sót 1 hột cơm cháy nào hết.
Ăn xong, cậu bé
vừa liếm những hạt cơm còn dính trên mấy ngón tay, vừa nói:
– Anh muốn bắt mấy ông Du kích không, em chỉ cho? Nẫu (chúng
nó) bắt ba em, lấy búa đập đầu đến chết, em chạy trốn ngoài
đồng, bữa đói bữa no, không dám về nhà.
Thì ra vì gia
đình em là điền chủ giàu có trong làng, ba em bị đấu tố, và do
chính tay tên Chủ tịch Mặt Trận Chín Xã đứng ra tuyên án. Tiểu
đoàn trưởng được tin, vội ra lệnh cho Đại Đội 92 dẫn Ban An ninh
đi truy lùng bắt được tên Chủ tịch và 1 số Du kích địa phương.
Được tin này, Trung tá Đào Văn Hùng, Chiến đoàn trưởng, bảo trực
thăng chở tên Chủ tịch Mặt trận Chín Xã về Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn. Nhưng giữa đường, hắn ta nhào ra khỏi máy bay tự tử. Trung
tá Hùng đem em bé về Sài Gòn nhận làm con nuôi, sau này em đi
lính Dù và là hạ sĩ nhứt trong Biệt Đội Tác Chiến Điện Tử.
Càn quét trong Đầm Trà Ổ hơn 1 tuần, các đơn vị Nhảy Dù
được Trực thăng vận qua quận Hoài Nhơn. Ở đây cũng chỉ chạm địch
lẻ tẻ. Hơn 1 tháng rưỡi, các Tiểu Đoàn Nhảy Dù đã giẵm nát hết
khu rừng núi sình lầy của Đầm Trà Ổ, Núi Lồi, Phù Cát, và Mật
khu
Hoài Nhơn với 1,757 Cộng quân bị hạ tại trận.
Trận Sa Huỳnh:
Sau những thất bại liên tiếp
trong năm 1966 tại Bình Định, vào đầu năm 1967, lực lượng Cộng
quân lại tập trung tại phía Nam Vùng 1 thuộc tỉnh Quảng Ngãi
giáp ranh với Bình Định để được bổ sung quân số, và tiếp tục
tiến hành các cuộc tấn công vào 1 số đồn bót và Căn cứ hỏa lực
của Liên Quân Việt–Mỹ. Để chận đứng các hoạt động quấy rối của
đối phương, BTL QĐII đã đưa Chiến Đoàn II Nhảy Dù mở cuộc hành
quân truy lùng địch tại khu vực Sa Huỳnh.
Bước sang những
ngày đầu năm 1967 Quân Đoàn II lại đưa các đơn vị Nhảy Dù đổ bộ
Trực thăng vận xuống vùng nhiều VC ở Sa Huỳnh giáp ranh tỉnh
Quảng Ngãi. Địch tại đây thật gan lỳ và hung hăng, Nhảy Dù chưa
kịp nhảy xuống đất là đã bị họ bắn trả xối xả vào các trực thăng
chở quân.
Dùng chiến thuật thần tốc, các chiến sĩ Dù vừa
nhảy xuống đất đã vội dàn quân vừa bắn vừa hô “Xung phong” vang
rền cả chiến địa. Vì hỏa lực và sức chiến đấu quá dũng mãnh của
các chiến sĩ Nhảy Dù, nên địch thấy chống cự không lại, xúm nhau
cong lưng chém vè (tháo chạy). Bỏ lại các Cán bộ chỉ huy trong
hầm Trung Tâm Hành Quân của họ.
Hầm này rất lớn, bề ngang
3 thước, bề dài độ 6 thước. Các binh sĩ bao vây xung quanh, kêu
gọi đầu hàng. Nhưng họ ngoan cố mở lựu đạn tự tử (Cán bộ cao cấp
cộng sản ở khu Bình Định, Qui Nhơn đã bị nhồi sọ quá nhiều nên
rất cứng đầu). Khi lục soát dưới hầm thì thấy có xác cố vấn
Trung cộng và tên Huyện ủy vùng Bồng Sơn, Tam Quan, cùng nhiều
tài liệu chứng tỏ họ là những Cán bộ chính trị cao cấp. Chiều
hôm đó, sau khi thu dọn chiến trường, toàn bộ Chiến Đoàn đóng
quân ngay trong làng xôi đậu này.
Sau 1 tuần hành quân
lục soát trong vùng Sa Huỳnh, Quảng Ngãi, hạ 805 CQ tại trận,
bắt 52 tù binh, tịch thu 42 súng cộng đồng và 139 súng cá nhân.
Sau đó các đơn vị Nhảy Dù được xe đưa về Tam Quan. Trong khi chờ
đợi máy bay vận tải tới phi trường Đệ Đức để về Sài Gòn.
Anh muốn bắt mấy ông Du kích không, em chỉ cho?
SĐ1 Không Kỵ đổ quân trên chiến trận
Tài liệu tham khảo:
1. Hành Quân Đại Bàng 800 của Đại tá Trịnh Tiếu Sacramento, California tháng 5, 1995 trên trang nhà www.generalhieu.com.
2. Hành Quân Đại Bàng 800 Trong Bối Cảnh Hành Quân Của Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ của Nguyễn Văn Tín trên trang nhà www.generalhieu.com.
3. Một Cánh Hoa Dù của Trương Dưỡng Tác giả xb 20/2/1998.
4. 1966 – Việc từng ngày của Đoàn Thêm.
5. Phỏng vấn các chiến hữu trong SĐND.
******18******
18.
Hành Quân Liên Kết 81 (16–22/2/1967)
Hành
Quân Liên Kết 81
(Tại Quảng Ngãi từ 16–22/2/1967)
Đất Quảng Ngãi, xưa thuộc bộ Việt
Thường, 1 trong 15 bộ của nước Văn Lang. Cuối đời Hán bị quân Lâm
Ấp chiếm, sang đến đời Tống
thuộc
Cổ Lũy Động của Chiêm Thành.
Năm Nhâm Ngọ 1402, Hồ Quý Ly sai
tướng Đỗ Mẫn đem 15 ngàn binh thủy bộ chinh phạt Chiêm Thành. Vua
Chiêm là Ba Dịch Lai phải dâng đất Chiêm Động (phủ Thăng Bình, Quảng
Nam) và Cổ Lũy Động (Quảng Ngãi) xin bãi binh. Hồ Quý Ly chia đất
này thành 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Đặt lộ Thăng Hoa cai quản
4 châu. Năm 1414 nhân lúc Việt Nam bị nhà Minh đô hộ, Chiêm Thành
đánh lấy lại vùng đất này.
Năm Tân Mão 1471, Vua Chiêm là Trà
Toàn sang quấy phá vùng biên giới, vua Lê Thánh Tôn đem 20 vạn quân
thủy bộ ngự giá thân chinh, quân Chiêm phải rút lui về cố thủ tại
Trà Bàn. Vua Lê ra lệnh tiến quân vào cửa Thị Nại, ngày 26 tháng 2
Âm Lịch vây đánh Trà Bàn và bắt được vua Chiêm. Từ đó Chiêm Thành
thần phục nước ta. Vua Lê Thánh Tôn lấy đất Đồ Bàn và Cổ Lũy lập ra
Đạo Quảng Nam. Quảng Ngãi là 1 trong 3 phủ thuộc Đạo Quảng Nam, và
thay đổi tên nhiều lần qua các triều đại như Phủ Quảng Nghĩa (1558).
Đời nhà Nguyễn Tây Sơn (1788–1802) cải Quảng Nghĩa thành Hóa Nghĩa
phủ (1788). Năm 1802, Gia Long đặt Quảng Nghĩa dinh rồi đổi Quảng
Nghĩa trấn vào năm 1808. Đời Minh Mạng đặt là tỉnh Quảng Nghĩa vào
năm 1834.
Bản đồ tỉnh Quảng Ngãi
Trước năm 1975 Quảng Ngãi có 10 quận: Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư
Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ, Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long,
và Ba Tơ. Quảng Ngãi có các cửa Biển Sơn Trà, Sa Kỳ, Đại Cổ Lũy,
Mỹ Ý, Sa Huỳnh, và hải đảo Lý Sơn hay Hòn Ré. Các sông chính chảy
qua tỉnh là sông Trà Khúc, sông Trà Bồng, và Sông Vệ. Núi Thiên
Ấn là thắng cảnh đẹp nhất tỉnh Quảng Ngãi, thuộc xã Sơn Long,
gần sông Trà Khúc, cao 105m (315ft). Trên đỉnh bằng phẳng ước
chừng 10 mẫu Tây, 4 mặt vuông phẳng trông như cái ấn. Năm
1850, vua Tự Đức đã liệt Núi Thiên Ấn vào hàng danh sơn và sông
Trà Khúc vào hàng đại xuyên (con sông lớn). Núi Ấn soi mình
xuống dòng sông Trà như dấu ấn của trời đóng xuống dòng sông.
Tỉnh Quảng Ngãi nằm ở vùng duyên hải miền Trung Việt Nam,
phía Bắc vĩ tuyến 15 cách Sài Gòn 838 cây số với nhiều núi đồi,
gò cao, thung lũng, và biển cả. Núi rừng chiếm gần 2/3 diện tích
tỉnh, lưng tựa vào dãy Trường Sơn, mặt hướng ra biển Đông, phía
Bắc giáp Quảng Tín, phía Nam giáp Bình Định, phía Tây giáp
Kontum. Bờ biển Quảng Ngãi dài 135km (84 miles), ngoài khơi có
đảo Lý Sơn (Cù lao Ré). Miền đồng bằng đất đai phần lớn là phù
sa nhiều cát. Tổng diện tích 513,520 mẫu tây, Quốc lộ 1 chạy
xuyên qua tỉnh theo chiều Nam–Bắc, Quốc lộ 24 nối Quảng Ngãi với
Tây Nguyên, Lào, và vùng Đông–Bắc Thái Lan.
Quảng Ngãi,
Quảng Tín là 2 tỉnh thuộc vùng trách nhiệm của Sư Đoàn 2 Bộ
Binh/Khu 12 Chiến Thuật. Với 3 Trung Đoàn 4, 5, và 6 trực thuộc
được trải mỏng để giữ đồn bót an ninh diện địa, không 1 đơn vị
nào lưu động tác chiến để làm thành phần trừ bị bảo vệ. Cho nên
địch quân lợi dụng khiếm khuyết này thường đêm
[đêm]
pháo kích
quấy phá, đường bộ giao thông đến các quận lỵ thường bị cắt đứt
phải tiếp tế bằng trực thăng, Lực Lượng Địa Phương Quân hoạt
động hạn chế bảo vệ dân quanh các quận lỵ không hữu hiệu. Giữa
lúc tình trạng bi đát đó, vị Tân Tư lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh là
Đại tá Nguyễn Văn Toàn đáo nhậm đơn vị vào giữa năm 1966.
Vừa nhậm chức, Đại tá Toàn đề ra ngay kế hoạch tái phối trí
lực lượng. Ông đã hướng dẫn Lực Lượng Địa Phương Quân và Nghĩa
Quân nhận
lãnh trách nhiệm an ninh diện địa thay thế cho các đơn vị thuộc
SĐ2BB, chủ lực quân rút chân ra khỏi các đồn bót, bổ sung quân
số, và huấn luyện chiến thuật sẵn sàng lưu động tác chiến bất cứ
nơi đâu và bất cứ lúc nào như 1 đơn vị “Tổng Trừ Bị”.
Kể từ đó 3 Trung Đoàn 4, 5, và 6 Bộ Binh lúc nào cũng sẵn sàng
chiến đấu. Sư Đoàn thường xuyên tổ chức các cuộc Hành Quân “Liên
Kết” với các đơn vị đồng minh mở rộng khu vực an ninh, giúp cho
các Tiểu Khu Quảng Ngãi và Quảng Tín bình định các vùng thường
hay bị địch quân quấy phá trước kia.
Nhờ vậy, kế hoạch bình định trong năm này được thành công tốt
đẹp, dân chúng dần dần được an ổn làm ăn, khiến các đơn vị chủ
lực tỉnh, địa phương huyện, và Du kích cộng sản bị loại dần, hoạt
động không còn hữu hiệu và mất dần địa bàn hoạt động. CSBV phải
tăng cường nhịp độ xâm nhập người và vũ khí vào miền Nam bằng
đường bộ qua đường mòn HCM và bằng đường biển. Lực lượng chính
quy của địch bắt buộc phải lộ diện, nhưng mỗi lần chúng tập
trung quân, lại bị SĐ2BB càn quét nhờ vào lưu động tính và sức
mạnh của Sư Đoàn 2 Bộ Binh được tập trung.
Để đối phó với
sức mạnh và lưu động tính của SĐ2BB, Cộng quân đưa ra chiến
thuật “Chốt điểm” hoặc “chốt kiềng”. Chốt điểm được tổ chức gồm
từng tổ, mỗi tổ gồm khoảng 5 hay 6 tên địch chiếm giữ 1 vị trí
an toàn để cản đường tiến quân của ta. Ba hay 4 “chốt điểm”
liên kết lại để bảo vệ cho nhau thành “chốt kiềng”. Khuyết điểm
của chốt điểm là thụ động và phân tán hỏa lực. Đại bộ phận của
địch gồm cả Bộ Chỉ Huy ở cách xa phía sau. Sau khi điều nghiên,
mỗi khi gặp “Chốt” loại này, các đơn vị thuộc SĐ2BB không tấn
công phá chốt ngay để bị hao mòn, chỉ lợi dụng đêm tối tiến ra
phía sau, bao vây cắt đường tiếp tế, tự nhiên chốt phải tan rã.
Hơn thế nữa, Quân Lực VNCH đã bắt đầu hành quân chung với Quân
lực Hoa Kỳ, với chiến thuật “Diều
Hâu”
Trực thăng vận
đổ quân ngay trên đầu địch nên chiến thuật “Công đồn đả viện” cũng như
“Chốt điểm–Chốt Kiềng” đương nhiên bị vô hiệu hóa.
*
Hành Quân LK81 Giai đoạn I
Vào tháng 2/1967
để thử nghiệm chiến thuật lưu động tính của đơn vị sau khi bàn
giao trách nhiệm diện địa cho các đơn vị ĐPQ và Nghĩa Quân, khởi
đầu SĐ2BB phối hợp hành quân cấp Trung Đoàn với Lữ Đoàn Thanh
Long Đại Hàn, nhắm vào vùng Đông–Bắc thị xã Quảng Ngãi bao gồm
các xã Bình Hòa, Bình Thiện, Bình Kỳ, Bình Đức (Cap Batangan hay
mũi Ba Làng An), và Sơn Mỹ (tức Mỹ Lai), để tiêu diệt các Lực
Lượng Du kích địa phương và bảo vệ dân làng chuẩn bị thu hoạch vụ mùa
tới.
Lực Lượng Địch gồm có:
– 2
Trung Đoàn của SĐ3 Sao Vàng thuộc QK 5 CS (Sư Đoàn 3 Sao Vàng
CSBV được thành lập vào ngày 2/11/1965, gồm có 3 Trung Đoàn bộ
binh 2, 12, và 22, 1 Tiểu Đoàn pháo cối, 1 Tiểu Đoàn cao xạ
12.7ly, 1 Tiểu Đoàn Công Binh, 1 Tiểu Đoàn Thông Tin, và 1 Đại Đội Trinh Sát, thường hoạt động trong khu vực tỉnh Quảng Ngãi và
vùng duyên hải tỉnh Bình Định)
– Tiểu Đoàn 406 Đặc Công.
– Tiểu Đoàn 46 Chủ Lực tỉnh.
Lực Lượng Bạn gồm các đơn vị
Việt–Mỹ và Đại Hàn như sau:
• Giai đoạn I:
1. SĐ2BB với 3 Trung Đoàn 4, 5, và 6.
2. Lữ Đoàn Thanh Long
của Đại Hàn.
• Giai đoạn 2:
1. Sư Đoàn 2 Bộ Binh.
2. Chiến Đoàn I Nhảy Dù do Trung tá
Hồ Trung Hậu làm Chiến đoàn trưởng gồm 2 Tiểu Đoàn:
•
Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù do Thiếu tá Lê Văn Đặng làm Tiểu đoàn trưởng, Thiếu tá Nguyễn Thu Lương làm
Tiểu đoàn phó.
• Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do Thiếu tá Nguyễn Bá Trước làm
Tiểu đoàn trưởng,
Thiếu tá Lê Văn Ngọc làm Tiểu đoàn phó.
3. Chi Đoàn 3/4
Thiết Giáp do Trung uý Phan Công Tuấn làm Chi đoàn trưởng.
4.
Lữ Đoàn Thanh Long Đại Hàn.
5. Duyên Đoàn 16.
6. Đại Đội
Trinh Sát 2/SĐ2BB do Trung uý Nguyễn Văn Bê làm Đại đội trưởng.
7. SĐTQLC Hoa Kỳ.
Diễn Tiến:
Cuộc
hành quân dự trù 10 ngày. Tuy nhiên đến ngày thứ hai, BTL Hành
Quân nhận được tin tình báo phát hiện ra 2 chiếc tàu CSBV chở
đầy vũ khí và gạo để tiếp tế cho VC đang di chuyển ngoài Hải
phận Quốc Tế, ban ngày ngụy trang làm tàu đánh cá, ban đêm di
chuyển. BTL/SĐ2BB ra lệnh cho Duyên Đoàn 16 Hải Quân Việt Nam
theo dõi và đặt kế hoạch chận bắt.
Trong khi đó BTL/Quân
Khu 5 của cộng sản điều động 2 Trung Đoàn chính qui từ Mật khu
Đỗ Xá di chuyển về vùng Tây–Bắc tỉnh Quảng Ngãi phối hợp yểm trợ
với các Tiểu Đoàn 406 Đặc Công và Tiểu Đoàn 48 Chủ Lực tỉnh để
bảo vệ hành lang tiếp nhận từ Tịnh Đức qua Núi Thình Thình, núi
Võ rồi băng qua QL1 về Núi Ngang, Vĩnh Tuy.
Cuộc hành
quân chuyển hướng, áp dụng kế nghi binh. Lực Lượng Đại Hàn rút
về Bình Liên, Trung Đoàn 4BB rút về hậu cứ gần phi trường Quảng
Ngãi trong tư thế ứng chiến sẵn sàng trở lại khu bờ biển khi tàu
địch cặp bến. Duyên Đoàn 16 vẫn túc trực bám sát theo dõi lộ
trình của tàu giặc. Sau 5 ngày di chuyển chậm chạp và quan
sát với 1 số ghe đánh cá đến liên lạc, CSBV nghĩ là cuộc hành
quân đã chấm dứt, tàu vũ khí bắt đầu di chuyển từ đảo Lý Sơn cặp
vào mũi Ba Làng An, thuộc khu trách nhiệm của Lực Lượng Đại Hàn.
Khi tàu vừa cặp bến, các đơn vị hành quân nhanh chân trở lại
vị trí hành quân, tiến chiếm các mục tiêu đã ấn định. Khi Lực
Lượng Đại Hàn tiến đến tàu, VC biết đã bị lộ liền cho nổ tàu.
Tuy nhiên chỉ hư hại 1 ít vũ khí nhẹ, còn lại trên 1,000 vũ
khí còn mới nguyên bị tịch thu.
Trong khi đó 1 chiếc tàu khác chở gạo tiến về Quảng Ngãi,
nhưng vừa đến ngang Đà Nẵng, nhận được tin tàu vũ khí bị phát
giác chúng biết đang bị theo dõi không trở về Bắc được chúng bèn
cho nổ đánh đắm tàu, gạo trôi tắp vào bờ biển Hội An, Tam Kỳ,
Chu Lai, Quảng Ngãi. Ngư dân thay vì đi chài lưới họ ra vớt gạo,
có người được cả tấn gạo mang nhãn hiệu Trung cộng, mỗi bao nặng
100kg và được bọc bằng nylon nên không bị thấm nước.
Lương thực và vũ khí tiếp tế từ Bắc vào đã bị mất hết, QK5 CS
quyết định đưa quân xuống đồng bằng để thu hoạch mùa lúa sắp
tới. Được tin tình báo, BTL/SĐ2BB quyết định mở cuộc HQLK81 giai
đoạn II để bảo vệ mùa gặt tới của nông dân không thể lọt vào tay
CS. Cánh đồng lúa Quảng Tín và Quảng Ngãi thật trù phú khi được
mùa có thể nuôi quân của 2 hay 3 Sư Đoàn trong 1 năm.
*
Hành Quân LK81 Giai đoạn 2
Hai Trung
Đoàn 5 và 6/SĐ2BB trách nhiệm bảo vệ nông dân trong vùng tỉnh
Quảng Tín, Trung Đoàn 4/SĐ2BB trách nhiệm vùng Quảng Ngãi. SĐ2BB
không còn lực lượng trừ bị nên Bộ TTM/QLVNCH đã chấp thuận yêu
cầu tăng cường Chiến Đoàn I Nhảy Dù do Trung tá Hồ Trung Hậu làm
Chiến đoàn trưởng để làm lực lượng trừ bị.
BCH/Chiến Đoàn
I cùng TĐ1ND được không vận từ Sài Gòn ra thẳng phi trường Quảng
Ngãi, trong khi đó TĐ7ND được không vận đến phi trường Cam Ranh
rồi từ Cam Ranh được C123 bốc ra thẳng phi trường Quảng Ngãi
vào buổi tối và ngày hôm sau Trực thăng vận đưa vào khu vực
hành quân tại Sơn Nam giữa Núi Tròn và Sông Trà Khúc.
Sông núi tại Quảng Ngãi
Vùng hành quân bao gồm khu vực giữa 2 con sông Trà Bồng và Trà
Khúc. Khu vực này là hành lang xâm nhập quan trọng của CS từ bờ
biển nối với Mật khu Đỗ Xá, nơi đóng quân của BTL/QK5 CS.
Địa thế khu vực này rất hiểm trở và thuận lợi cho việc ém quân.
BTL/HQ đã cho Đại Đội 2 Trinh Sát vào hoạt động trước 3 ngày
khai diễn cuộc hành quân để thăm dò và áp đặt 2 Toán Viễn Thám ở
khu núi Tròn. Lợi dụng trời mưa và đêm tối 2 toán này đã hoàn
tất nhiệm vụ trong vòng 48 giờ.
Sáng sớm ngày 16/2/1967
(Ngày N) Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC Hoa Kỳ di chuyển đến vùng núi
Thiên Ấn, phía Bắc Sông Trà Khúc. Trong khi toàn bộ Trung Đoàn
4BB xuất phát từ Sơn Hương tiến về phía Tây chiếm các mục tiêu
45, 46 phía Đông–Bắc Núi Tròn khoảng 10km và BCH/Chiến Đoàn I
Nhảy Dù với 2 Tiểu Đoàn 1 và 7 Nhảy Dù được di chuyển đến án
ngữ tại Sơn Trung.
Ngày N+1 (17/2/1967) Sáng sớm Trung
Đoàn 4BB bắt đầu chạm địch cấp Đại Đội, trong khi các đơn vị
TQLC Hoa Kỳ tiến chiếm mục tiêu trong khu vực núi Ca–ty cũng
chạm địch cấp Trung Đội. Một số các đơn vị địch cố gắng di
chuyển vào vùng hành quân để tăng cường cho các đơn vị địa
phương nhưng bị chận đánh, trong ngày này có 60 cán binh VC bị
hạ, tịch thu 7 súng cộng đồng và nhiều đạn dược.
Bước
sang ngày N+2 (18/2/1967) Ðịch bắt đầu phản công, tấn kích
Trung Đoàn 4BB tại mục tiêu 46. Trung Đoàn 4 phản công quyết
liệt, địch quân bị thiệt hại nặng và rút về hướng Sơn Nam gần
nơi Chiến Đoàn Nhảy Dù đóng quân. Địch cố tránh giao chiến để ém
quân nhưng chúng bị đơn vị viễn thám của Trinh Sát Sư Đoàn 2
theo dõi.
Ngày N+3 (19/2/1967) Chiến Đoàn I Nhảy Dù được
điều động tấn công vào mục tiêu bằng 2 mũi dùi để dứt điểm.
(vào thời gian này, Nhảy Dù còn dùng súng cá nhân bán tự động
Carbine M2, mỗi Đại Đội chỉ mới nhận được khoảng 15 khẩu AR15).
Giao chiến dữ dội, Lực Lượng Nhảy Dù đã chiến đấu quyết liệt,
triệt hạ từng đợt xung phong biển người của địch quân. Tuy không
có Pháo Binh, không có Phi Cơ yểm trợ, Chiến Đoàn I Nhảy Dù đã
thanh toán mục tiêu dễ dàng và xóa sổ Trung Đoàn 22 của SĐ3 Sao
Vàng CS, viên Trung đoàn trưởng người Huế, tập kết ra Bắc mới
trở về Nam bị tử trận.
Khởi đầu Tiểu Đoàn 7ND làm nỗ lực
chính. Tiểu Đoàn 7 do Thiếu tá Nguyễn Bá Trước làm Tiểu đoàn
trưởng, Thiếu tá Lê Văn Ngọc làm Tiểu đoàn phó vừa được không
vận từ Cam Ranh đến ngay trong đêm (kế nghi binh để đánh lạc
hướng tình báo của địch quân) liền tiến quân tấn công vào vị trí
ém quân của Trung Đoàn 22/SĐ3 Sao Vàng của CS trong vùng Sơn
Nam. Suốt ngày đầu Cộng quân tránh né nên không có đụng độ. Di
chuyển đến chiều tối đến 1 bờ làng, TĐ7ND dừng chân bố trí
đóng quân đêm quanh 1 ngọn đồi với dấu tích là 1 ấp chiến
đấu của CS có những bờ tre vây quanh ở mạn Bắc sông Trà Khúc.
Bốn Đại Đội trấn đóng chung quanh theo vị trí 4 hướng: Đại Đội
71, Đại uý Trần Đăng Khôi ĐĐT trấn giữ mặt phía Đông; Đại Đội
72/Trung uý Hồ Ngọc Sơn trấn đóng mặt phía Tây, Đại Đội 73/Trung
uý Nguyễn Quang Sáng trấn giữ mặt phía Nam; Đại Đội 74 Trung uý
Nguyễn Lô trấn giữ mặt phía Bắc, Đại Đội 70 Vũ Khí Nặng/Trung uý
Nguyễn Đình Toán, BCH Chiến Đoàn cùng BCH Tiểu Đoàn ở trung tâm.
Tại sườn phía Nam của vị trí đóng quân là khu vực trách
nhiệm của Đại Đội 73, sau khi đóng quân đêm, các đơn vị Nhảy Dù
thường tung các toán kích đêm bung ra ngoài hoạt động. Đêm nay
Hạ sĩ I Cảnh trong BCH Đại Đội dẫn 1 Tiểu Đội ra ngoài phục
kích và đến khoảng 2:00g sáng toán tiền đồn này trở về lại
bên trong vị trí đóng quân.
Khi toán quân của HSI Cảnh
trở vào, Trung uý Sáng ĐĐT/ĐĐ73 đang đi tuần tiểu với khẩu AR15
trên tay, Ông hỏi mật khẩu:
– Ai đó.
– Cảnh đây!
Vị ĐĐT nghe tiếng trả lời quen thuộc của “đệ tử” nên để cho
toán quân đi vào. Nhưng chỉ vài phút sau lại có 1 toán quân
khác cũng đi vào theo lối đó. Trung uý Sáng lại hỏi mật khẩu:
– Ai đó.
– Cảnh đây!
Đại đội trưởng 73 biết là
quân gian nên khai hỏa ngay tức khắc, tất cả 5 tên Đặc công VC
với trên người đầy lựu đạn và bộc phá, lần theo sau toán kích dự
định đột nhập vào trong Căn cứ, tất cả đều bị hạ sát. Nhờ tiếng
súng khai hỏa báo động của ĐĐT/Đại Đội 73, tất cả Tiểu Ðoàn đã
nhanh chóng vào vị trí tác chiến.
Biết là toán Đặc công
cảm tử đã bị bại lộ và bị tiêu diệt, Cộng quân bèn xua quân xung
phong, dốc toàn lực tấn công biển người vào cả 4 mặt vị trí
đóng quân của TĐ7ND. Nhờ báo động kịp thời với những công sự
chiến đấu kiên cố là những bờ tre, các chiến sĩ Mũ Đỏ đã đốn ngã
địch quân la liệt. Súng bắn không cần nhắm, lựu đạn ném không
cần lấy đà, địch quân càng ngày càng tiến gần, lớp này ngã gục
thì lớp khác chồm lên như những con thiêu thân. Giao tranh kéo
dài đến sáng ngày hôm sau.
Khi trời gần sáng, cường độ
giao tranh bắt đầu giảm bớt nhưng Cộng quân lại gia tăng pháo
kích. Hàng trăm quả đạn pháo đủ loại rơi vào vị trí đóng quân
của TĐ7ND. Các Phi Tuần phản lực của Mỹ do các Cố vấn Nhảy Dù
gọi tới yểm trợ kịp thời triệt hạ các ổ pháo và các vị trí ẩn
núp của địch quân nên sau đó đội hình của Cộng quân dần dần tan
rã. Sáng sớm Tiểu Đoàn 7 tung quân lục soát, trên 300 xác Cộng
quân rải rác quanh vị trí phòng thủ đã được tìm thấy, tịch thu
hàng trăm súng đủ loại. Riêng Đại Đội 73 đã tịch thu được 147
khẩu.
Tại mặt trận phía Nam, khu vực trách nhiệm của Đại
Đội 73, sau đợt dội bom của phi pháo, Đại Đội bắt đầu dàn quân
lục soát thì có khoảng 12 tên VC trong tư thế dàn hàng ngang,
mỗi tên 2 tay cầm 1 khẩu Trung Liên Nồi đưa lên khỏi đầu và
xin đầu hàng. Trung uý Đại đội trưởng ra lệnh nổ súng hạ sát tất
cả. Viên Trung uý Cố vấn (mặt búng ra sữa) la lớn rằng ĐĐT làm
như thế là vi phạm quy chế tù binh, Ông ta sẽ thưa Trung uý Sáng
ra tòa. Nhưng ông ta chưa dứt lời thì 1 loạt AK của Cộng quân
núp gần đó đã trúng vào chân trái làm ông bị gẫy giò và phải tản
thương khẩn cấp. Và sau đó không còn nghe ông kiện cáo gì nữa.
(có lẽ ông đã hiểu rõ quy chế “Tù hàng binh và VC”).
Trong khi đó, BCH Chiến Đoàn điều động TĐ1ND tiến lên phía cánh
trái của TĐ7ND để trợ chiến và lục soát vị trí pháo của địch về
hướng Núi Tròn. Tiểu Đoàn 1ND do Thiếu tá Lê Văn Đặng làm Tiểu
đoàn trưởng, Thiếu tá Nguyễn Thu Lương làm Tiểu đoàn phó dàn
quân với đội hình hàng ngang: Đại Đội 15 của Trung uý La Trịnh
Tường dẫn đầu, Đại Đội 14 của Trung uý Trịnh Tân đi cánh phải,
Đại Đội 11 của Trung uý Võ Văn Thừa đi cánh Trái, và Đại Đội 12
của Trung uý Trương văn Ngoạt bọc hậu.
Các cánh quân lục
soát tiến về hướng núi Tròn thấy hàng trăm xác Cộng quân nằm la
liệt do phi pháo oanh kích. Khi qua khỏi con đường đất đỏ vào
tới 1 khu vực VC gọi là ấp chiến đấu. Địch quân bắt đầu khai
hỏa dữ dội, Trung uý Trịnh Tân ĐĐT 14 bị tử thương ngay loạt
súng đầu tiên. Trung uý Tường bèn đốc thúc ĐĐ15 đánh thốc vào
BCH Trung Đoàn/SĐ3 Sao Vàng che mạn sườn bên trái ĐĐ14. Sau 2
giờ giao tranh, TĐ1ND đã làm chủ chiến trường. Cộng quân bỏ chạy
để lại trên 100 xác tại trận. Ta tịch thu 2 súng cối 106ly của
Tiệp Khắc, 1 đại liên phòng không 12.7ly, 1 súng Bazooka của
Trung cộng, cùng 1 số lớn vũ khí cá nhân.
Tổng kết
Chiến Đoàn I ND đã hạ tại chỗ 746 cán binh VC, 10 tên bị bắt
sống, tịch thu 27 súng cộng đồng, gần 500 súng cá nhân.
Trong khi đó Trung Đoàn 4BB đã yểm trợ cho dân chúng tấp nập vào
gặt lúa đưa về nơi an toàn trong mấy ngày liên tiếp. Đến ngày
22/2/1967 Hành quân LK81 kết thúc: 813 VC bị hạ, 52 bị bắt sống,
tịch thu 43 súng cộng đồng, 539 súng cá nhân.
Khu vực Hành Quân Liên Kết 81
Tài Liệu Tham Khảo:
– Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù của Trung tá La Trịnh Tường trên trang nhà www.nhaydu.com.
– Tường thuật Trận Liên Kết 81 của Trung tá Nguyễn Quang Sáng hiện đang cư ngụ tại San José California.
– Những sự thật Chiến Tranh Việt Nam 1954–1975 của Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Đại tá Lê Bá Khiếu, và Tiến sĩ Nguyễn Văn, Tác giả xuất bản.
– Operation LIEN KET 81 information trên trang web: www.flyarmy.org/panel/battle/67021700.
– Phỏng vấn các chiến hữu trong SĐND.
******19******
19.
Lam Sơn 54–Khu Phi Quân Sự (18–27/5/1967)
Lam
Sơn 54–Khu Phi Quân Sự
(May 18–27/1967)
Vùng Phi Quân Sự
Sông
Bến Hải lấy tên từ địa danh ở thượng lưu con sông bắt nguồn trong
dãy Trường Sơn chảy dọc theo vĩ tuyến 17 từ
Tây sang Đông rồi đổ ra biển ở Cửa Tùng. Có thuyết nói là địa danh
nguyên thủy gọi là “Bến Hói”. “Hói” là tiếng địa phương nghĩa là
dòng sông nhỏ. Vì vậy “Bến Hải” là đọc trại từ “Bến Hói”. Sông Bến
Hải chảy được khoảng 80 cây số thì gặp sông Sa Lung từ hướng Tây–Bắc
đổ vào. Hai con sông hợp lưu chảy tiếp ra Biển Đông, qua 1 làng ở
bờ bắc có tên là Minh Lương nên được gọi là sông Minh Lương.
Thời Minh Mạng, do phải kiêng huý vua nên cả tên làng và tên
sông đều đổi thành Hiền Lương. Cây cầu nằm không xa ngã ba sông cũng
mang tên Hiền Lương. Con sông trên vĩ tuyến 17 có chiều dài chừng
100km, nơi rộng nhất khoảng 200m (thôn Tùng Luật), đoạn sông có cầu
Hiền Lương rộng 170m. Đầu nguồn dòng sông rất hẹp có nơi chỉ rộng
20m (xóm đạo Phước Sơn), đoạn Cửa Tùng đổ ra biển bị đụn cát phía bờ
Nam đang tiếp tục lấn dần làm cho Cửa sông bị bồi lấp nặng, lòng
sông chỉ rộng có 30m. Sông Bến Hải là dòng sông nhỏ chia ranh giới
giữa 2 huyện Vĩnh Linh và Gio Linh tỉnh Quảng Trị.
Bản đồ khu giới tuyến 17 do Trần Đỗ Cẩm vẽ
Chuyện xưa kể rằng, có bầy tiên nữ thường vẫn đến tắm ở 1 nguồn nước 4 mùa trong xanh trên đỉnh núi cao nơi tiếp giáp giữa ta với Lào. Nước từ nguồn này chảy về 2 phía trái chiều nhau. Nước chảy về phía Tây làm thành sông Sebanhieng, theo tiếng nói của bộ tộc Bru (Vân Kiều) nghĩa là “dòng nước chảy ngược”. Nước chảy về phía Đông làm thành sông Bến Hải. Một lần, có đám đàn ông lén nhìn ngẩn ngơ bầy tiên đang tắm. Chuyện đến tai Trời. Trời sai thần Núi trừng phạt người trần. Thần Núi phán rằng, bất cứ ai qua đây cũng phải mang gông vào cổ để khỏi liếc dọc liếc ngang. Ngọn núi do đó có tên Động Mang từ đây. Có ai ngờ, dòng sông bắt nguồn từ Động Mang đã mang trên mình cái gọi là “giới tuyến” không cho người ở đôi bờ nhìn nhau trong suốt 2 mươi năm trường.
Không ảnh khu vực hạ lưu sông Bến Hải
Năm 1954, ngày 21 tháng 7, sau trận Điện Biên Phủ, Hiệp Định
Genève được ký kết giữa Pháp và CSBV, lấy vĩ tuyến 17 (vĩ tuyến
17°B), dọc sông Bến Hải, thuộc tỉnh Quảng Trị, làm phân định
giới tuyến Bắc – Nam tạm thời cho Việt Nam, chuẩn bị cuộc tổng
tuyển cử vào năm 1956. Đến năm 1955, quy chế hoạt động tại giới
tuyến được đưa ra, đặt dưới sự giám sát của Ủy ban quốc tế gồm
Ba Lan, Canada, và Ấn Độ. Đây là Khu Phi Quân Sự rộng 1.6km (1
dặm Anh) về mỗi phía tính từ bờ sông Bến Hải, bắt đầu từ biên
giới Việt Nam–Lào cho đến bờ biển Đông. Cũng từ đó, dòng Bến
Hải chạy dọc vĩ tuyến 17 thành nơi chia cắt đất nước Việt Nam
trong suốt hơn 20 năm.
Tháng 5/1950, Pháp xây cây cầu 7
nhịp, dài 178m, trụ bằng bê tông cốt thép, dầm cầu bằng thép,
mặt cầu rộng 4m lát ván gỗ thông, 2 bên có thành chắn cao 1m²,
trọng tải 18 tấn (trước kia dân 2 bờ đi lại bằng thuyền). Cầu
Hiền Lương nối liền thôn Hiền Lương ở bờ Bắc với thôn Xuân Hòa ở
bờ Nam. Đứng trên cầu nhìn về phía Tây có thể thấy rõ nơi hợp
lưu Bến Hải–Sa Lung. Đi về phía Đông thêm 10km nữa thì đến Cửa
Tùng. Theo Hiệp Định Genève mỗi bên có chủ quyền 89m cầu. Trong
Hiệp Định chỉ rõ: “Cầu Hiền Lương và
Sông Bến Hải là giới tuyến
quân sự tạm thời giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, hoàn toàn
không thể coi là mốc ranh giới về chính trị hay về lãnh thổ”.
Ngay từ giữa năm 1966, quân cộng sản Bắc Việt (CSBV) liên
tục xâm nhập miền Nam qua khu vực Phi Quân Sự này nhưng Hà Nội
lúc nào cũng chối rằng không có quân đội Bắc Việt hiện diện tại
miền Nam.
Để giúp cho VNCH ngăn chận sự xâm nhập của cộng
sản Bắc Việt qua Khu Phi Quân Sự. Bộ Tư Lệnh Quân Sự Mỹ tại Việt
Nam đã thiết lập 1 “Hệ
Thống Căn Cứ Án Ngữ” từ cửa biển đến
biên giới Lào và các Căn cứ hỏa lực (CCHL) để dồn địch vào các
hành lang dễ dàng cho phi cơ và đại bác yểm trợ các đơn vị bộ
chiến tấn công để diệt địch.
Các Căn cứ này tọa lạc tại 1
số Cao điểm trong vùng từ duyên hải Quảng Trị để quan sát và
điều khiển hỏa lực Pháo Binh, nhưng đồng thời cũng để quan sát
vị trí đặt súng lớn của địch quân ngay ở phía Bắc Khu Phi Quân
Sự để pháo kích vào các vị trí Việt–Mỹ nằm về phía Nam.
Trong số các Căn cứ đặt gần Khu Phi Quân Sự tỉnh Quảng Trị, Căn
cứ lớn nhất và quan trọng nhất là Cồn Thiên (Cồn Thiên) do TĐ1/9
TQLC Hoa Kỳ dưới quyền chỉ huy của Trung tá R. S. Schening trấn
ngự, tọa lạc trên 3 ngọn đồi, ngọn cao nhất 158m nằm về phía Nam
cách Khu Phi Quân Sự khoảng 3km đường chim bay. Yểm trợ cho Căn
cứ này là Căn cứ hỏa lực Carroll (Tân Lâm) nằm trên Quốc lộ 9,
cách Cam Lộ khoảng 4km. Gần cuối năm 1966, Thủy Quân Lục Chiến
Hoa Kỳ còn xây thêm 1 Căn cứ nữa lấy tên là Rock Pile xa về
hướng Tây cách Cồn Thiên khoảng 10 dặm, trên đỉnh 1 ngọn núi
cao hơn 300 mét, án ngữ các đường dọc theo thung lũng từ hướng
Tây và Bắc xuống. Tại 2 CCHL Carol và Rock Pile với các Pháo Đội
đại bác tự hành 175ly có khả năng tác xạ xa đến tận phía Bắc Khu
Phi Quân Sự và bên kia biên giới Việt–Lào. Hai Căn cứ tiền đồn
Làng Vei và Khe Sanh án ngữ mặt cực Tây là 2 Cứ điểm quan trọng
của Hệ Thống Căn Cứ Án Ngữ.
Đầu năm 1967, Quân đội
Hoa Kỳ bắt đầu thiết lập hàng rào điện tử theo kế hoạch hàng rào
điện tử Mc Namara bao gồm việc khai quang 1 hành lang dài 24km
rộng 600 mét dọc theo phía Nam Khu Phi Quân Sự từ bờ biển phía
Đông. Trên dải đất này quân đội Mỹ sẽ thiết lập hàng rào kẽm
gai, bãi mìn, các dụng cụ ghi nhận bằng điện tử xen kẽ giữa các
Căn cứ án ngữ để ngăn chặn sự xâm nhập của CS qua khu PQS.
Cuối tháng 3/1967, cuộc chiến tại khu giới
tuyến đã bùng nổ khi Cộng quân pháo kích dữ dội vào 1 Căn cứ phòng thủ của
Liên Quân Việt–Mỹ gần quận lỵ Gio Linh, cách cầu Hiền Lương khoảng
6km trong đêm 20 tháng 3/1967. Cộng quân cũng đã mở trận hỏa tập
bằng súng cối và phi đạn vào vị trí đóng quân của các Tiểu Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ và 1 đơn vị thuộc Trung Đoàn
2 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) chung quanh Cồn Thiên và Gio
Linh. Cộng quân cũng phục kích 1 đoàn xe chở đạn của Thủy Quân
Lục Chiến Hoa Kỳ chỉ cách Gio Linh hơn 3km, nơi mà trước đó vài
ngày, đã diễn ra trận đụng độ ác liệt giữa 1 Đại Đội Thủy Quân
Lục Chiến Hoa Kỳ và 1 đơn vị cộng sản Bắc Việt (CSBV). Tối
ngày 5 tháng 4/1967, Cộng quân tấn công vào yếu khu La Vang ở
phía Tây thị xã Quảng Trị, đồng thời pháo kích dữ dội vào tỉnh
lỵ làm nhiều doanh trại quân sự bị hư hại nặng. Đặc công Việt
cộng đã yểm trợ để các tù binh cộng sản phá trại giam vượt
thoát. Tại phía Nam sông Bến Hải khi trận chiến xảy ra, Lực
Lượng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và Trung Đoàn 2 Bộ Binh VNCH do
Thiếu tá Vũ Văn Giai làm Trung đoàn trưởng đã kịp thời chận đứng
được các đợt xung phong của quân cộng sản Bắc Việt.
Bản đồ khu giới tuyến
Đến ngày 6 tháng 4/1967, toàn khu giới tuyến trở thành điểm
nóng, Cộng quân đã điều động Sư Đoàn 324B phối hợp cùng Sư Đoàn
341 Tổng Trừ Bị vượt vĩ tuyến 17 tấn công cường tập vào tuyến
phòng ngự của VNCH dọc bờ Nam sông Bến Hải, đồng thời đánh chiếm
1 đồn Cảnh Sát Quốc Gia ở phía Nam của cầu Hiền Lương, và 1 số xã thuộc quận Trung Lương (quận giới tuyến).
Ngày 7
tháng 4/1967, được sự yểm trợ về phi pháo và hải pháo, Trung
Đoàn 2 Bộ Binh VNCH và các đơn vị thuộc Sư Đoàn 3 TQLC Hoa Kỳ đã
đẩy lùi các cuộc tấn công của quân cộng sản và giữ vững tuyến
Cồn Thiên và Gio Linh, làm cho lực lượng địch phải tạt lên phía
Tây–Bắc để tránh tổn thất.
Đầu tháng 5/1967, quân cộng
sản Bắc Việt lại khởi động 1 đợt tấn công mới vào các Căn cứ
của Liên Quân Việt–Mỹ, bắt đầu bằng cuộc tấn công vào Căn cứ Cồn
Thiên vào rạng sáng ngày 7 tháng 5/1967. Lực lượng Cộng quân
tham gia cuộc tấn công này là Tiểu Đoàn K2 và Tiểu Đoàn K4 thuộc
Trung Đoàn 80 CSBV. Sau 1 giờ giao tranh, đơn vị Thủy Quân Lục
Chiến trú phòng đánh bật cuộc tấn công. Địch quân rút đi và để
lại quanh Căn cứ 238 xác bộ đội, 7 cán binh cộng sản bị bắt
sống, 212 súng bị tịch thu cùng nhiều đạn dược. Song song với
cuộc tấn công bằng bộ binh vào Cồn Thiên, Cộng quân cũng pháo
kích dữ dội vào khu vực Gio Linh và Đông Hà gây tử thương cho 36
binh sĩ Hoa Kỳ và 99 người bị thương. Nhờ có hệ thống công sự
chiến đấu kiên cố, các đơn vị Bộ Binh VNCH và Thủy Quân Lục
Chiến Hoa Kỳ đã chịu đựng được các trận hỏa pháo của Cộng quân.
Khi vừa dứt đợt pháo, Không Quân Hoa Kỳ xuất trận oanh tạc vào
các mục tiêu được ghi nhận là có địch tập trung. Theo ước định
của các chuyên viên tình báo, Sư Đoàn 324B CSBV bị thiệt hại gần
1/3 quân số.
Sáng ngày 17 tháng 5, 1 Đại Đội Thủy Quân
Lục Chiến hành quân tuần tiểu quanh Cồn Thiên đã chạm súng với 1 đơn vị Cộng quân và đã đánh tan Đại Đội Cộng quân này, hạ sát
96 cán binh cộng sản tại chỗ.
Theo phân tích của Bộ Tư
Lệnh Liên Quân Việt–Mỹ vào thời gian này, thì các trận tấn công
của 2 Sư Đoàn cộng sản Bắc Việt vào khu giới tuyến là Cộng quân
muốn chọc thủng tuyến phòng ngự của Liên Quân Việt–Mỹ tại vùng
Phi Quân Sự (DMZ), để đánh chiếm Quảng Trị, nhưng kế hoạch của
Cộng quân đã bị Liên Quân Việt–Mỹ vô hiệu hóa.
Phóng đồ Hành Quân Hickory, Beau Charger, Belt Tight, và Lam Sơn 54
Để truy lùng và tấn công 2 Sư Đoàn cộng sản Bắc Việt 324B và
341 vừa xâm nhập phía Nam Khu Phi Chiến, Liên Quân Việt–Mỹ đã
huy động tới 15 ngàn chiến binh để khởi động 4 cuộc hành quân
song song vào sáng sớm ngày 18/5/1967:
1. Cuộc
Hành Quân Hickory ở phía Tây Căn cứ Cồn Thiên do các đơn vị hỗn hợp
Liên Quân Việt–Mỹ gồm 2 Tiểu Đoàn 2/9 và 2/26 TQLC Hoa Kỳ, và cùng
1 Tiểu Đoàn của Sư Đoàn 1BB VN đảm trách phối hợp với lực lượng đổ bộ Tiểu Đoàn 3/4 của Hạm Đội 7 Hoa Kỳ. Cuộc hành quân
khởi động từ lúc 11:00g ngày 18/5 để truy lùng 2 Tiểu Đoàn
cộng quân ẩn náu trong khu vực này. Sau 2 ngày hành quân các đơn
vị đã tìm ra dấu tích của 2 Tiểu Đoàn cộng quân nhưng các đơn
vị VC đã đoạn chiến và bỏ chạy để lại 41 xác đồng bọn. Cuộc hành
quân tiếp tục truy kích cộng quân từ Căn cứ Cồn Thiên cho đến
sông Bến Hải, và kéo dài tới cuối tháng 5/1967.
2.
Cuộc Hành Quân Beau Charger khởi động 3 giờ sau cuộc
Hành Quân Lam Sơn 54 ở Khu Phi Quân Sự phía Đông sát bờ biển do
Lực Lượng Thủy
Bộ SLF Alpha Marine đổ bộ từ hạm đội. Lực lượng này đổ bộ vào
khu DMZ tại bờ Nam sông Bến Hải (cửa Tùng) rồi càn quét về hướng
Nam dọc bờ biển đến Cửa Việt. Lực Lượng Hành Quân đã chạm địch
dữ dội trong Khu Phi Chiến và 83 quân CSBV bị hạ tại trận.
3. Cuộc Hành Quân Belt Tight ở hướng Đông–Bắc
Căn cứ Cồn
Thiên, do các TĐ2nd, 3rd SLF Bravo Marine đổ bộ từ hạm đội vào
ngày 20/5/1967. Cuộc hành quân đã chạm địch mạnh và có cả thảy
73 bộ đội BV bị giết trong vòng 48 giờ đầu tiên.
4.
Và
cuộc Hành Quân Lam Sơn 54 bắt đầu từ lúc 5:00g sáng ngày N
(18/5/1967) do Sư Đoàn 1 Bộ Binh VNCH đảm trách từ Căn cứ Cồn
Thiên đến ranh giới của Beau Charger. Cuộc hành quân bao gồm 2
Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 1BB càn quét từ Quốc lộ 1 về phía Đông
tiếp cận với lực lượng Hành Quân Beau Charger của lực lượng đồng
minh, và 3 Tiểu Đoàn Nhảy Dù trách nhiệm càn quét dọc theo QL1
về hướng Tây
Lực Lượng Bạn:
–
Trung Đoàn 1/SĐ1BB với 2 TĐBB.
– Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn II
ND do Trung tá Đào Văn Hùng chỉ huy với 3 Tiểu Đoàn Nhảy Dù và
các đơn vị tăng phái như CBND, TTND, QYND, và PBND...:
•TĐ3ND, Tiểu đoàn trưởng là Thiếu tá Trần Quốc Lịch.
•TĐ5ND,
Tiểu đoàn trưởng là Thiếu tá Nguyễn Vỹ.
•TĐ9ND, Tiểu đoàn
trưởng là Thiếu tá Lê Văn Huệ..
Lực Lượng địch:
– 1 Trung Đoàn/SĐ341 CSBV.
– 1 Trung Đoàn/SĐ325B CSBV.
SĐ1BB tổ chức cuộc Hành Quân Lam Sơn 54 được tăng cường Chiến
Đoàn II Nhảy Dù, Chiến đoàn trưởng là Trung tá Đào Văn Hùng, gồm
3 TĐ: Tiểu Đoàn 3ND do Thiếu tá Trần Quốc Lịch làm Tiểu đoàn trưởng,
TĐ5ND do Thiếu tá Nguyễn Vỹ làm Tiểu đoàn trưởng, và TĐ9ND do
Thiếu tá Lê Văn Huệ làm Tiểu đoàn trưởng.
5:00g sáng
ngày N (18/5/1967) các đơn vị Nhảy Dù cùng xuất phát từ Gio Linh
chia thành 2 mũi dùi tấn công vào Khu Phi Chiến, nơi mà các
Trung Đoàn CSBV đã lén lút xâm nhập và bám trụ làm Cứ điểm xuất
phát tấn công các đơn vị đồng minh và VNCH trong thời gian qua.
TĐ9ND làm nỗ lực chính đi dọc đường rầy xe lửa và QL1, TĐ5ND đi
cánh trái tiếp giáp với Căn cứ Cồn Thiên và hơi chếch về phía
sau nhằm ngăn chận cộng quân đánh bọc hậu, và Tiểu Đoàn 3ND đi
cánh phải QL1.
Địa thế Khu Phi Quân Sự từ QL1 về phía
Đông thì bằng phẳng và trống trải, toàn là những đụn cát thẳng
tắp do Trung Đoàn 1/SĐ1BB trách nhiệm; nhưng về phía Tây là khu
rừng rậm, đồi núi chập chùng, chính nơi đây quân CS thường xâm
nhập ẩn núp. Một Trung Đoàn CSBV đã lén lút xây dựng Căn cứ tại
đây vì họ cho là Khu Phi Quân Sự, an toàn không bị oanh tạc hay
pháo dập.
Phóng đồ khu vực Hành Quân Lam Sơn 54
Mục đích cuộc hành quân này ngoài việc truy lùng, đánh đuổi các
đơn vị CSBV xâm nhập, giải tỏa áp lực cộng quân quanh Căn cứ Cồn
Thiên do 1 đơn vị của Hoa Kỳ trấn giữ, còn thêm 1 nhiệm vụ
quan trọng nữa là yểm trơ cho các chuyên viên thuộc Tiểu Đoàn 11
Công Binh thuộc SĐ3TQLC Hoa Kỳ thiết bị các trang cụ điện tử
trong hệ thống “hàng rào điện tử” để có thể phát hiện sự hiện
diện của cộng quân bằng các tín hiệu địa chấn, âm thanh, từ
trường... Hàng rào điện tử này có chiều dài khoảng 10km từ Căn
cứ Cồn Thiên đến Căn cứ Gio Linh.
Chiến Đoàn II Nhảy Dù
được chỉ định càn quét khu vực Phi Quân Sự phía Nam sông Bến Hải
từ Quốc lộ 1 chạy dài đến Căn cứ Cồn Thiên. Thông thường, gặp
những mục tiêu quan trọng, Nhảy Dù thường dùng hỏa lực Pháo Binh
hay Phi Cơ dập nát rồi mới xung phong để tiết kiệm xương máu
binh sĩ. Nhưng đây là Khu Phi Quân Sự chúng ta phải tránh ồn ào
có thể làm cái nguyên nhân cho bọn phản chiến quậy phá và CSBV
có cơ hội tuyên truyền.
Ngày 25/5 khi các mũi dùi Nhảy Dù
vừa vào đến bìa rừng của ngọn Đồi 117 (gọi là Đèo Ba Dốc) cách
Cồn Thiên 5km đường chim bay, Cộng quân đồng loạt nổ súng. Lực
Lượng Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù đã sẵn sàng ứng chiến, dàn hàng ngang,
đồng loạt hô xung phong tiến vào mục tiêu với hỏa lực hùng hậu,
đủ loại súng lớn súng nhỏ.
Địch quân như đã chuẩn bị với
những công sự phòng thủ kiên cố chống trả dữ dội. Chiến Đoàn
Nhảy Dù đã gọi Pháo Binh, Hải Pháo rồi tới
khu trục tham chiến, trận chiến mỗi lúc 1 khốc liệt. Các đơn
vị Nhảy Dù cố gắng tấn chiếm mục tiêu trước khi trời tối. Nhưng
1 loạt đạn AK đã làm cho Trung uý Đức Đại đội trưởng 92 bị
thương nặng. Thiếu uý Trần Hữu Bảo cùng Trung Đội xông lên tiếp
ứng nhưng Anh cũng bị bắn bể xương vai.
Trận chiến giằng
co đến xế chiều mà chưa chiếm được mục tiêu. Thiếu tá Lê Văn
Huệ, TĐT nóng lòng hò hét đốc thúc các Đại Đội nhiều phen nhưng
không kết quả. Ông vội móc khẩu súng colt và đứng thẳng lên bờ
cao của đường rầy tại Đèo Ba Dốc, vừa bắn vừa hô “xung phong”.
Ngay lập tức ông bị 2 viên đạn ghim trúng đầu và bụng, chết
không kịp 1 lời trăng trối.
Sau khi Thiếu tá Lê Văn Huệ,
Tiểu đoàn trưởng TĐ9ND bị tử thương, trời bỗng nổi cơn giông tố,
mây đen kéo đến đầy trời, rồi cơn mưa ầm ầm trút xuống. Và nhờ
cơn mưa bất chợt xối xả đó làm tầm quan sát của địch quân bị
giới hạn. Các khinh binh của Trung Đội tiền phong nhào lên dùng
lựu đạn ném vào tiêu diệt ổ thượng liên của địch. Trung Đội vừa
hô xung phong vừa bắn tràn ngập mục tiêu làm địch quân hoảng sợ
rối loạn hàng ngũ và tháo chạy.
Sau khi Thiếu tá Huệ,
TĐT/TĐ9ND tử trận, Trung tá Đào Văn Hùng Chiến đoàn trưởng Chiến
Đoàn II Nhảy Dù đã điều động 2 Tiểu Đoàn 3 và 5 Nhảy Dù thừa
thế xông lên truy sát địch, vừa đuổi vừa bắn cộng quân chạy về
bên kia bờ sông Bến Hải.
Chiến Đoàn II ND đại thắng, sau khi thu dọn chiến trường, tịch
thu rất nhiều vũ khí có cả súng cối 82ly mà cộng quân dùng để
pháo vào Căn cứ Mỹ, bắt sống tù binh và giải tỏa hoàn toàn khu
vực quanh Căn cứ Cồn Thiên.
Tổng kết chiến trận 342 xác
cộng quân bỏ tại trận, 30 tù binh, và tịch thu gần 100 súng đủ
loại, phía Nhảy Dù có 21 chiến sĩ hy sinh kể cả Thiếu tá Huệ
TĐT/TĐ9ND và Trung uý Đức ĐĐT ĐĐ92ND, và 116 binh sĩ bị thương.
Chiến trận chấm dứt vào ngày 27/5/1967. Chiến Đoàn II ND
được di chuyển về Huế để bắt đầu 1 cuộc Hành Quân mới Lam Sơn
60. Sau trận này, Thiếu tá Lịch và Thiếu tá Vỹ được ân thưởng Đệ
4 Đẳng Bảo Quốc Huân Chương và Tiểu Đoàn 3 Dù được thêm 1 nhành Dương Liễu trên quân kỳ.
Cảnh 1 quả đạn 122ly CSBV
pháo trúng ụ chứa đạn tại Căn cứ
đại bác 175mm của Hoa Kỳ
tại Gio Linh, bên cạnh khu DMZ năm 1967,
trong chiến tranh Việt Nam (AP Photo)
Tài liệu tham khảo:
1. Trận Chiến Cồn Thiên trong Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập của Nguyễn Đức Phương, nxb Làng Văn Canada 2001.
2. Trận Chiến Cồn Thiên 1967 của Vương Hồng Anh trên trang Vantuyen.net.
3. Operation Hickory–Belt Tight–Beau Charger–Lam Son 54 by Hugh Connelly.
4. 1st. Amphibian trên trang web: Amtrac.org.
5. FMFPAC, Operation of Marine Forces Vietnam, May 1967, VNCD–029.
6. Mặt trận vùng Phi Quân Sự trong 1 Cánh Hoa Dù của Trương Dưỡng.
7. Phỏng vấn các chiến hữu trong SĐND.
******20******
20.
Trận Dakto (Đồi 1416) (3–22/11/1967)
Trận
Dakto (Đồi 1416)
(November 3–22/11/1967)
Dakto (Đắc–tô) là
1 quận trong 4 quận của
tỉnh Kontum ở trung tâm
cao nguyên Việt Nam nằm trong 1 thung lũng được bao bọc
chung
quanh bởi những dãy núi chập chùng có những ngọn cao trên 1400 thước
trải dài tới vùng 3 biên giới Việt–Miên–Lào. Rừng cây
cao mút từng xanh chen lẫn với những rừng tre bạt ngàn bao phủ dầy
mặt đất. Thời tiết ở đây vô cùng khắc nghiệt, ban ngày nóng cháy da
người đến 95˚F [~ 35˚C], về đêm nhiệt độ giảm nhanh đôi khi chỉ có 55˚F
[~ 13˚C].
Dakto là 1 vị trí chiến lược quan trọng trong chiến
tranh Việt Nam vì là nơi có thể chế ngự con đường mòn HCM trên đất
Lào, con đường mà CSBV dùng để xâm nhập người, vũ khí, và chiến cụ
nhằm thôn tính miền Nam. Tên những địa danh ở khu vực cao nguyên này
thường lấy theo ngôn ngữ của dân tộc Bana.
Theo truyền
thuyết của dân tộc Bana, Kontum khởi thủy là 1 thôn xóm của
người Bana. Thuở xưa, có 1 bộ tộc người Bana ở gần bên dòng
sông Đăk–bla với tên gọi Kon Trang. Lúc ấy, bộ tộc Kon Trang
rất thịnh vượng với dân số khá đông. Bấy giờ, giữa các
thôn xóm luôn gây chiến với nhau để chiếm đoạt của cải và
bắt người về làm nô lệ. Hai người con trai của 1 “Già làng”
Ja Xi – (người có thế lực trong bộ tộc Kon Trang) tên là Jơ Rông
và Uông không thích cảnh chiến tranh nên đã rủ nhau làm nhà ở
riêng gần chỗ có hồ nước, cạnh dòng sông Đăk–bla. Vùng đất
này rất thuận lợi cho lối sống định cư, nên dần dần có
nhiều người đến ở, mỗi ngày một phát triển thêm đông, lập
thành làng mới có tên gọi là Kontum. Từ đó, Kontum trở
thành tên gọi chính thức cho 1 làng mới lập của người
Bana, cạnh dòng Đăk–bla, nơi có nhiều hồ nước trũng. Theo
tiếng Bana, Kontum có nghĩa là Làng Hồ (Kon là làng, Tum là
hồ, ao, bầu nước).
Vùng đất cao nguyên này được coi là
thuộc lãnh thổ Đại Việt từ năm 1470, khi vua Lê Thánh Tông ngự giá
thân chinh đánh chiếm Trà Bàn của Chiêm Thành, lập phủ Quy Nhơn,
nhưng trải qua các triều đại, ở đây vẫn theo chế độ tự trị “già
làng”.
Qua thời gian, Kontum đã thay đổi nhiều lần về diện
tích cũng như tên gọi. Năm 1893, sau khi thôn tính Đông Dương, người
Pháp đã cho lập 1 tòa Đại lý hành chính tại Kontum, ban đầu trực
thuộc Tòa công sứ Attopeu ở Lào, đến năm 1905 mới trực thuộc Tòa
công sứ Quy Nhơn.
Dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, tỉnh Kontum
được thu hẹp lại và chia thành 4 quận theo Nghị định số
348–BNV/HC/NĐ ngày 27 tháng 6 năm 1958:
quận Kon Plong, quận Đak–tô,
quận Đak–sut, và quận Kontum.
Kontum có diện tích 9,615km²,
nằm ở phía bắc vùng Tây Nguyên, phía bắc giáp tỉnh Quảng Tín, phía
nam giáp tỉnh Pleiku, phía đông giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía tây có
biên giới dài 150km giáp với Lào và 127km với Vương quốc Campuchea.
Do phần lớn diện tích nằm ở phía Tây dãy Trường Sơn nên địa hình
Kontum nghiêng dần từ Đông sang Tây và thấp dần từ Bắc xuống Nam.
Phía Bắc tỉnh là dãy núi Ngọc Linh có độ cao trung bình khoảng
800–1,200m, trong đó có đỉnh
Ngọc Linh 2,596m, Ngọc Phan 2,251m, Ngọc Krinh 2,066m, Bôn Sơn
1,939m, Kon Bo Ria 1,500m, Kon Krông 1,330m.
Vị trí của Dakto trong tỉnh Kontum
Vùng này là nơi bắt nguồn của nhiều con sông lớn như sông Cái
chảy sang Quảng Nam, sông Sê San chảy sang Kampuchea, sông Trà
Khúc chảy vào tỉnh Quảng Ngãi, và sông Ba chảy sang Phú Yên.
Phía Nam tỉnh có độ cao trên dưới 500m. Từ phía Tây Ngọc
Linh có 1 dải thung lũng hẹp chạy đến giữa tỉnh thì mở rộng ra
tạo nên cánh đồng bằng phẳng trải dài 50km tới tận thị xã Kontum. Đây là khu vực đồng bằng nằm ở độ cao 252m so với mặt biển
và được phù sa 2 nhánh sông Se San là sông Đắk–Pô–kô và
Đắk–Bla bồi đắp.
Cực Nam tỉnh có thác Yaly cao 60m đổ
sang địa phận Pleiku. Từ nguồn nước của thác này đã xây dựng
trên đất Pleiku nhà máy thủy điện Yaly công suất 720MW.
Người Bana là 1 trong những dân tộc sinh sống lâu đời tại
Kontum. Họ không những giỏi săn bắn mà còn là dân tộc đầu tiên của
Tây Nguyên biết dùng trâu, bò cày kéo và chữ viết. Người Bana
can đảm và trọng nghĩa tình, thể hiện trong tập tục cà răng,
căng tai làm đẹp của trai gái và những vết sẹo trên ngực đàn ông
do tự lấy than lửa hoặc dao rạch ngực mình để tỏ lòng thương
tiếc người quá cố.
Đến nay những tập tục này đã bị bỏ dần
nhưng ý nghĩa của nó thì còn mãi trong dân gian. Đến với buôn
làng người Bana cũng như buôn làng của các dân tộc thiểu số khác
(Jarai, Rhade, Koho, Mnong, Stieng...) ở Kontum người ta còn
được chứng kiến nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng độc đáo tiến
hành trong “nhà rông” có mái nhọn cao vút.
Trận chiến Dakto tại Quân Khu 2 năm 1967
Vào tháng 10/1967 tin tức tình báo thu thập được cho thấy các
đơn vị CSBV đã có mặt quanh Dakto lên tới 4 Trung Ðoàn Bộ chiến
và 1 Trung Ðoàn Pháo, chuẩn bị tấn chiếm 2 Trại Lực Lượng Ðặc
Biệt Dakto và Ben Het. Trại Dakto được thiết lập từ tháng
8/1962 và Trại Ben Het đang còn trong thời kỳ xây dựng bên cạnh
Liên tỉnh lộ 512. Thay vì chờ địch tấn công, Thiếu tướng Peers,
Tư lệnh SÐ4BB Mỹ, quyết định ra tay trước. Lữ Ðoàn 173 Nhảy Dù
Mỹ, bản doanh đóng ở Tuy Hòa được yêu cầu cấp tốc tăng viện thêm
Tiểu Ðoàn 4/503 cho chiến trường. BTL/SÐ4BB Mỹ đóng tại Dakto mở
cuộc hành quân truy lùng địch về phía Nam của Liên tỉnh lộ 552
gồm các TÐ3/12, 3/8, và TÐ4/503/173 ND Mỹ.
Trận đánh tại
Dakto từ ngày 3 đến 22/11/1967 là 1 trong những trận
đánh chính yếu từ khi cộng quân bắt đầu khai triển chiến dịch mở
các mặt trận dọc biên giới như Bình Long, Sông Bé, Cồn Thiên, và Khe
Sanh nhằm đánh lạc hướng QLVNCH và Hoa Kỳ để bí mật đưa quân
tổng tấn công vào các thành phố nhân dịp Tết Mậu Thân.
Lực Lượng địch: do Tướng CSBV Hoàng Văn Thái chỉ huy gồm 4 Trung
Ðoàn Bộ chiến và 1 Trung Ðoàn Pháo.
1. Trung Ðoàn 24,
1620 tay súng.
2. Trung Ðoàn 32, 1337 tay súng.
3. Trung
Ðoàn 66, 1335 người.
4. Trung Ðoàn 174, 2000 người.
5.
Trung Đoàn 40 Pháo Binh 800 người gồm 1 TÐ cối 120ly và 2 TÐ Hỏa tiễn
122ly.
6. Ngoài ra còn có Tiểu Đoàn 304 Kontum (bộ đội địa
phương).
Lực Lượng Bạn:
1. SÐ4BB
Hoa Kỳ (–) do Trung tướng William R. Peers làm Tư lệnh Sư Đoàn
kiêm chỉ huy mặt trận Dakto
2. Lữ Đoàn 173 Nhảy Dù Hoa Kỳ do
Thiếu tướng Leo H. Schweiter chỉ huy.
3. Chiến Ðoàn III
Nhảy Dù Việt Nam (CĐT: Trung tá Nguyễn Khoa Nam) gồm 3 Tiểu Ðoàn
Nhảy Dù:
• Tiểu Đoàn 2ND, Thiếu tá Trần Kim Thạch XLTV chức vụ
Tiểu đoàn trưởng thay thế Thiếu tá Lê Quang Lưỡng TĐT, đi du
khảo ở Okinawa.
• Tiểu Đoàn 3ND, Thiếu tá Nguyễn Viết Cần
TĐP chỉ huy thay thế Thiếu tá Trần Quốc Lịch TĐT, cùng đi
Okinawa với Thiếu tá Lưỡng.
• Tiểu Đoàn 5ND Thiếu tá
Nguyễn Vỹ làm Tiểu đoàn trưởng.
4. Trung Ðoàn 42BB Việt
Nam với 2 Tiểu Đoàn 2 & 3/42 BB.
5. Các Tiểu Đoàn Pháo
Binh
thuộc Quân Khu 2 và SĐ22BB.
Diễn tiến:
Ngày 3/11/1967 Ðại Ðội B thuộc TÐ3/12 chạm địch với Trung
Ðoàn 32 CSBV gần Cao điểm 1338 phía Nam của Dakto. Phía Mỹ vô
sự, VC bỏ lại trận địa 4 xác. Một tù binh ngành Pháo Binh CS tên
là Vũ Hồng cho biết lực lượng cộng quân đang tập trung quanh
Dakto là 4 Trung Đoàn bộ binh và 1 Trung Đoàn Pháo gồm khoảng
6,000 người. Trong số này 3 Trung Đoàn 66, 32, và 174 thuộc
SĐ1 CSBV tân lập do Hoàng Văn Thái chỉ huy, Trung Đoàn 24 Biệt
lập, và Trung Đoàn 40 Pháo. Mục đích cuộc điều quân này của CSBV
là tấn chiếm Dakto và tiêu diệt các đại đơn vị của Hoa Kỳ.
Với những dữ kiện xác nhận sự tập trung hùng hậu của Cộng
quân trong vùng, Thiếu tướng W. R. Peer đã điều động thêm 2 Tiểu
Đoàn 1/503 và 2/503 của Lữ Đoàn 173ND đang hành quân tại Tuy Hòa
cũng được lệnh di chuyển đến Dakto.
Ngày 4/11/1967 Ðại
Ðội A/TÐ3/8 lại đụng độ với TĐ6/Trung Ðoàn 32 CSBV, Mỹ 2 chết VC
bỏ lại 8 xác. ÐÐB/TÐ3/12 tấn công 1 đơn vị khác thuộc Trung
Đoàn 32 CSBV. Mỹ có 4 binh sĩ tử trận, VC bỏ lại 13 xác. Trong
khi đó TÐ4/503/173ND mở cuộc hành quân song hành phía Nam của
LTL552, càn quét cộng quân từ Ben Het đến Đỉnh Ngok Kam Leat.
Ngày 6/11/1967 TÐ4/503 đụng độ mạnh với TÐ9/66
CSBV tại Cao điểm 823. Sau 2 ngày giao tranh ác liệt phía Mỹ có 6 binh sĩ tử
thương, VC bỏ lại 28 xác chết. 34 súng bị tịch thu kể cả 6 súng
cộng đồng và 2 B40.
Ngày 7/11/1967 thêm ÐÐB/TÐ4/503 được
tăng viện và đổ xuống Cao điểm 823 để thiết lập CCHL15. Sau vài
giờ đổ quân xuống đỉnh đồi, quân CSBV kéo đến tấn công và bao
vây đơn vị này, ĐĐB/TÐ4/503 phản công quyết liệt đẩy lui nhiều
đợt tấn công của địch. Trận chiến kéo dài đến sáng hôm sau, phía
Mỹ có 9 binh sĩ tử thương, quân CS trên 100 xác bỏ tại trận địa.
Tiểu Đoàn 1/503 đến thay thế Đại Đội B/4/503 để tiếp tục thiết
lập Căn cứ hỏa lực 15.
Chiến Đoàn III Nhảy Dù VN xông trận:
Càng ngày, các cuộc giao tranh càng gia tăng. BTL QĐ1/HK quyết
định tăng cường thêm lực lượng cho Dakto. Các Tiểu Đoàn 1/8, 2/8,
và 1/12 thuộc SĐ1KBKV HK được gởi tới.
Ngày 8/11/1967,
Chiến Đoàn III ND–VN do Trung tá Nguyễn Khoa Nam làm Chiến đoàn
trưởng gồm 3 Tiểu Ðoàn 2, 3, và 5ND được gởi đến tăng viện phía
Bắc Tân Cảnh để ngăn chận Trung Ðoàn 24 CSBV tại Cao điểm 1416
cùng với 2 TÐ2/42BB, và 3/42BB trách nhiệm an ninh Liên tỉnh lộ
552 và bảo vệ Căn cứ Dakto nơi đặt BTL Hành Quân SÐ4BB.
Tại đỉnh Đồi Ngok Van cao chót vót 1416m, Trung Đoàn 24 CS đã
lợi dụng địa thế hiểm trở thiên nhiên nơi này để làm Cứ điểm,
chuẩn bị các công sự phòng thủ dầy đặc. Cộng quân đã thiết trí
3 khẩu đại liên phòng không 12.8ly tại 3 vị trí quanh triền núi
trong các hốc đá kiên cố nên các phi cơ oanh kích không làm gì
được. Trước đây không lâu, các đơn vị thuộc Sư Đoàn 4 Bộ Binh
Hoa Kỳ đã tổ chức cuộc Hành Quân Kham Jey 167 luân phiên liên
tiếp tấn công để cố chiếm cho bằng được đỉnh đồi trọng yếu 1416
nhưng đều thất bại. Lên được lưng chừng núi, Lực Lượng Hoa Kỳ
liền bị hỏa lực mạnh mẽ của 3 khẩu đại liên 12.8ly này từ trên
cao đẩy xuống chân đồi.
Rút kinh nghiệm về sự thất bại
của Hoa Kỳ. Sau 2 lần thử mở cuộc tấn công ban ngày thấy không
hiệu quả, nên Trung tá Nam, Chiến đoàn trưởng đổi chiến thuật,
quyết định đánh đêm để lợi dụng yếu tố bất ngờ. Trung tá Nam
quyết định như vậy vì 2 lý do:
Thứ nhất VC lợi dụng địa
thế núi cao và hiểm trở, cây cối rậm rạp, độ dốc lớn, nhiều điểm
che giấu và ẩn núp tốt khi phi cơ oanh kích, địch thường đinh
ninh là quân ta sẽ không thể và không dám tấn công ban đêm. Do
đó, ta có thể lợi dụng sự phòng thủ lỏng lẻo về đêm của địch.
Thứ 2 Lực Lượng Nhảy Dù–VN dùng yếu tố bất ngờ bằng cách
đột nhập lên đỉnh đồi cao rồi từ trên đánh xuống. Để tránh sự
phát hiện của địch quân, Chiến Đoàn III Dù đã chọn đường tiến
lên đỉnh núi từ phía núi dốc nhất, gai góc, và yên tĩnh nhất mà
từ lúc khai diễn trận đánh, các đơn vị Hoa Kỳ cũng như các chiến
sĩ Dù Việt Nam không hề sử dụng con đường này vì địa thế hiểm
trở của nó.
Ngày 9/11/1967 khoảng 10:00g đêm,
3
Tiểu Đoàn Nhảy Dù được trang bị lựu đạn tối đa, khai triển đội hình
tác chiến với TĐ3ND làm nỗ lực chính, Tiểu Đoàn 2 đi cánh trái,
và TĐ5 bảo vệ cạnh sườn phía tay phải.
Riêng Tiểu Đoàn
3ND, Thiếu tá Trần Quốc Lịch TĐT, đã lựa chọn 1 số những chiến
sĩ khỏe mạnh từ 4 Đại Đội trực thuộc, tổ chức thành 1 “Biệt
Đội Xung Kích Cảm Tử” khoảng 100 người giao cho Đại uý Bùi Quyền
chỉ huy dẫn đầu đoàn quân. Biệt Đội này được trang bị vũ khí cá
nhân với hỏa lực tối đa, lưỡi lê, và nhiều lựu đạn (không mang
theo ba–lô...)
Sau khi vượt tuyến xuất phát các binh sĩ
Nhảy Dù vừa leo vừa bò hướng lên đỉnh cao, dò dẫm từng thước đất
với đồi núi chập chùng, rừng tre bạt ngàn. Tất cả đều tuyệt đối
giữ im lặng... kể cả truyền tin, chỉ đàm thoại khi chạm địch.
Sau hơn 4 tiếng đồng hồ leo trèo, các chiến sĩ Dù đã tới
được Đỉnh Ngok Van... Theo hiệu lệnh xuất quân bằng tiếng kèn
đồng, toàn thể Biệt đội Xung Kích Nhảy Dù từ trên đỉnh núi, đồng
loạt hô xung phong và khai hỏa vào vị trí địch như các Thiên
Thần đến từ trời cao. Bị bất ngờ tấn công như sấm sét từ mọi
hướng, địch quân còn đang say ngủ, ngơ ngác hỗn loạn bỏ chạy tứ
tung, bỏ lại tất cả súng nặng, máy truyền tin, và các chiến cụ
quan trọng. Một số lớn địch bị tiêu diệt trong các công sự phòng
thủ bởi hỏa lực dữ dội của các chiến sĩ Nhảy Dù, 1 số đưa tay
xin hàng, 1 số chạy bổ xuống hướng chân núi chém vè bằng cách
phóng hỏa đốt cháy rừng tre để ngăn chận bước tiến truy sát của
các “Thiên Thần Sát Địch”.
Lực Lượng Nhảy Dù tung lựu đạn tấn
chiếm vị trí 3 khẩu đại liên phòng không, tiêu diệt hết các xạ
thủ. Tất cả các xạ thủ chân còn bị xiềng vào súng.
Khoảng
5:00g sáng, các chiến sĩ của Chiến Đoàn III Dù hoàn toàn chiếm
được đỉnh đồi. Khi mặt trời lên, quân ta từ trên cao đánh xuống
các đơn vị địch bố trí lưng chừng núi. Từ trên cao, quân ta tung
lựu đạn xuống các hầm hố địch ở lưng đồi để tiêu diệt các tên
còn ngoan cố. Đến 10:00g sáng, Chiến Đoàn đã làm chủ tình hình
toàn thể các khu vực quan trọng... Chiến lợi phẩm thu được rất
nhiều.
Trong lúc Chiến Đoàn III Dù đang đánh cận chiến
với địch tại Đỉnh Ngok Van thì các đơn vị của Lữ Đoàn 173 Nhảy
Dù và Sư Đoàn 4 Bộ Binh Hoa Kỳ cũng đồng loạt mở lại các cuộc
tiến công lên 2 ngọn Đồi 875 và 1338. Giao tranh ác liệt cả
đôi bên đều tổn thất nặng.
Quanh Cao điểm 830 TÐ3/8BB Mỹ
chạm địch không rõ quân số đối phương, giao tranh liên tiếp
trong 3 ngày phía Mỹ thiệt hại nặng (39 tử thương 193 bị thương).
VC bỏ lại chiến trường 92 xác.
Ngày 10/11/1967,
TÐ1/503/173 Nhảy Dù Mỹ khi lục soát quanh CCHL 15 đã chạm mạnh
với 2 Tiểu Ðoàn 8 và 9/Trung Ðoàn 66 CSBV. Phía Mỹ có 20 binh sĩ
tử thương, đổi lại VC bỏ xác tại trận trên 200.
Ngày
11/11/1967 Cộng quân đã khuấy rối 1 đơn vị Công Binh yểm trợ
phía Bắc Dakto nhưng không gây thiệt hại nào.
Trong khi
đó, Chiến Ðoàn III Nhảy Dù Việt Nam với 3 Tiểu Đoàn 2, 3, và
TÐ5ND sau 4 ngày giao tranh ác liệt chiếm lại từng tấc đất và đã
quét sạch Trung Ðoàn 24 CSBV quanh đỉnh Đồi 1416 phía Đông–Bắc
Dakto. Cộng quân bỏ lại chiến trường 390 xác chết, 2 bị bắt làm
tù binh, tịch thu 94 súng đủ loại gồm cả 3 khẩu đại liên phòng
không 12.8ly, và nhiều chiến cụ khác, phá hủy 2 súng cối, nhiều
tấn đạn dược. Phía Nhảy Dù có 66 chiến sĩ thương vong. (kể cả
Trung uý Lê Viết Tùng, Đại đội trưởng Đại Đội 31, K19 Đà Lạt bị
thương, Thượng sĩ I Đệ Trung đội phó, Y tá trưởng Nguyễn Mạnh Am,
và 4 chiến sĩ của Tiểu Đoàn 3ND bị thương vì phi cơ Mỹ dội bom
sát phòng tuyến, và 1 tân binh bị cánh quạt trực thăng tản
thương H34 chém trúng).
Sau nhiều ngày tảo thanh các đơn
vị Cộng quân quanh vùng hành quân nhưng vẫn không thấy dấu vết
của Trung Ðoàn 174 CS. BTL Hành Quân ra lệnh cho TÐ2/503/173
Nhảy Dù Hoa Kỳ thiết lập thêm CCHL 16 về phía Tây Nam Dakto,
cách biên giới khoảng 7km để yểm trợ cho các cuộc hành quân tảo
thanh xa hơn.
Ngày 12/11/1967, ÐÐA/2/503 khi lục soát
quanh CCHL16 đã bắt được 1 tù binh VC thuộc TÐ4/174 CSBV.
Chuẩn tướng L. Schweiter Lữ đoàn trưởng LÐ173 Nhảy Dù đã tung 2
TÐ1/503 và TÐ2/503 càn quét khu vực trên trục tiến quân từ Ðông
sang Tây, từ Đồi 882 đến CCHL 16.
Ngày 15/11/1967, sáng
sớm, Cộng quân pháo kích vào phi trường Dakto phá hủy 2 vận tải
cơ C130 và làm hư hại 1 chiếc khác, buổi chiều cộng quân lại
tiếp tục pháo 78 đạn súng cối, và hỏa tiễn 122ly lại pháo vào
phi trường làm nổ tung kho đạn.
Ngày 18/11/1967 TÐ1/503/173
tiến chiếm ngọn Đồi 882, đụng độ dữ dội với Trung Ðoàn 66 CSBV.
Sau 1 ngày giao tranh phía Mỹ có 6 binh sĩ tử trận. CS bỏ lại
chiến trường 51 xác.
Trận chiến trên Đồi 875:
Ngày 19/11/1967
theo tin tức tình báo và những báo cáo của các đơn vị chạm địch,
Trung Ðoàn 174 CSBV lẩn khuất quanh ngọn Đồi 875 với những hệ
thống địa đạo và công sự phòng thủ kiên cố, cách Đồi 882 khoảng
chừng 3km. Tướng Tư lệnh LÐ173 Nhảy Dù ra lệnh cho TÐ2/503/173
tiến chiếm ngọn Đồi 875. Sáng ngày 19/11, 2 ÐÐ B & C/503 tấn
chiếm đỉnh đồi và ÐÐA/2/503 trừ bị trấn đóng ở chân đồi. Trong
khi TÐ2/174 CSBV nghinh chiến với lực lượng tấn công của TÐ2/503
Nhảy Dù Mỹ thì TÐ3/174 CSBV đã tấn công và bao vây ÐÐA dưới chân
đồi. Bị tấn công bất ngờ, ÐÐ này bị tan rã, các binh sĩ sống sót
đã rút về với 2 ÐÐ B và C.
Thêm 1 xui xẻo khác cho đơn
vị này, khi gọi phi pháo yểm trợ, 1 phi cơ Mỹ đã thả bom lầm
vào vị trí của TÐ2/503 này làm cho 42 binh sĩ bị tử thương và 45
người khác bị thương. Trong số 16 sĩ quan của TÐ này thì phân
nửa đã bị tử trận và phân nửa còn lại đều bị thương.
Ngày
20/11/1967, TÐ4/503 Nhảy Dù từ CCHL16 được lệnh vào thay thế
TÐ2/503. Việc thay thế hoàn tất vào buổi chiều. Các trực thăng
tản thương trong khi cố gắng đáp xuống chiến trường để tản
thương và tiếp tế có 6 chiếc bị bắn hạ.
Ngày 21/11/1967,
TÐ4/503 được lệnh tấn chiếm đỉnh Đồi 875, nhưng gặp sự kháng cự
mạnh mẽ của địch quân với hỏa lực hùng hậu trong các công sự
phòng thủ kiên cố. Sau 2 giờ giao tranh TÐ4/503 được lệnh lui về
tuyến xuất phát với 39 quân nhân tử thương và 72 bị thương. Sau
đó phi pháo đã liên tục cày nát các hệ thống địa đạo và công sự
phòng thủ của đối phương.
Trận chiến tại Đồi 875
Ngày 23/11/1967, nhằm ngày Lễ Tạ Ơn, các đơn vị Hoa Kỳ chuẩn
bị cho cuộc tấn công dứt điểm. Nhưng khi các đơn vị này đặt chân
lên 2 đỉnh đồi thì chỉ gặp sự kháng cự lẻ tẻ vì các đơn vị
địch đã quyết định đoạn chiến vào đêm trước đó và rút chạy về
phía biên giới sau khi hay tin Đỉnh Ngok Van 1416 đã lọt vào tay
các chiến sĩ Dù Việt Nam.
Trận đánh chiếm lại các đỉnh
875, 1338, và 1416 tại Kontum chỉ thực sự kết thúc khi các chiến
sĩ thuộc Chiến Đoàn III Nhảy Dù Việt Nam làm chủ tình hình tại
Đỉnh Ngok Van 1416. Trận chiến Đỉnh 1416 đã mang lại sự hãnh
diện cho QLVNCH cũng như Sư Đoàn Nhảy Dù, và đem lại sự kính nể
từ phía Hoa Kỳ cũng như quân lực các nước Đồng Minh đang tham
chiến trong khoảng thời gian này.
Tổng kết trận đánh phía
Việt cộng 1,644 bị giết, trong khi phía Mỹ có 289 tử thương 985
bị thương, về phía VNCH có 73 tử trận.
Các chiến sĩ Nhảy
Dù tham dự trận đánh đều được ân thưởng xứng đáng. Hiệu kỳ của
Chiến Đoàn III Nhảy Dù được tuyên dương trước Quân Đội và được
ân thưởng Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương Liễu. Trung tá
Nguyễn Khoa Nam được ân thưởng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương
kèm Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương Liễu, và là sĩ quan cấp
Trung tá thứ nhì của Sư Đoàn Nhảy Dù được ân thưởng huy chương
cao quý này sau Trung tướng Đỗ Cao Trí. Ngoài ra, Trung tá Nam
cũng được ân thưởng huy chương “Distinguished Service Medal”
của Hoa Kỳ và được đề nghị thăng cấp đặc cách tại mặt trận lên đại
tá.
Thiếu tướng Dư Quốc Đống Tư
lệnh
Sư Đoàn Nhảy Dù đang gắn huy chương cho
Trung tá Nguyễn Khoa Nam,
Chiến đoàn trưởng CĐIIIND
Tài liệu tham khảo:
– The battle of Dakto on Wikipedia.
– Chiến Tranh Việt Nam toàn tập của Nguyễn Ðức Phương, nxb Làng Văn 2001.
– Việc từng ngày năm 1967 của Đoàn Thêm, Xuân Thu xuất bản.
– Hoạt Động của Chiến Đoàn III Dù Trong Năm 1966–1967 trên trang nhà http://nguyenkhoanam.com.
******21******
21.
Tổng Công Kích Năm Mậu Thân (từ ngày 29/1/1968)
Tổng
quát
Tổng Công Kích Năm Mậu Thân
(từ ngày 29/1/1968...)
Ngày Tết đến, đối với người Việt
Nam là 1 ngày thiêng liêng, nhất là người dân thành thị đã đón
mừng Xuân Mậu Thân 1968 với tiếng
pháo
liên hồi. Tết Mậu Thân là Tết nhiều pháo nổ hơn mọi Tết khác rất
nhiều. Giới giàu có, giới mại bản đốt những tràng pháo năm bảy thước
và đốt rất nhiều. Giới ít tiền cũng tranh hơi cố gắng bỏ tiền đốt 1 vài tràng pháo đón Xuân lấy hên.
Cộng sản Bắc Việt (CSBV)
và công cụ của họ là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) đã xuất
toàn lực đánh lén Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) vào những ngày đầu Tết
Mậu Thân trong năm 1968 trên khắp lãnh thổ Miền Nam khi họ đột ngột
không giữ lời đề nghị ngưng chiến do chính họ đưa ra. Cộng sản Bắc
Việt cũng đã không nghĩ gì đến 3 ngày Tết Nguyên Đán, ngày truyền
thống của dân tộc, những ngày đầm ấm nhất của xứ sở mỗi năm, hay sự
yên vui của đồng bào để xum họp và cúng bái tổ tiên, 1 tập tục
thiêng liêng từ ngàn xưa. Tuy mưu mô đã khéo, thuật xảo sắp đã hay,
tiếng súng của cộng sản chỉ tạo được lợi thế bất ngờ trong vỏn vẹn
ít tiếng đồng hồ ở Thủ đô Sài Gòn và 1 số thị trấn của Việt Nam
Cộng Hòa. Tính chung, cộng sản đã thảm bại vì Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa đã phản ứng rất mau lẹ. Và ngược lại, điều tai hại cho họ là đã
đụng đầu với sự lạnh nhạt của đồng bào Miền Nam khắp nơi.
Lợi
dụng việc bỏ giới nghiêm và lệnh hưu chiến do chính họ long trọng
ưng thuận, Việt cộng đã mở cuộc tổng công kích trên toàn thể miền
Nam tự do để đánh vào các lực lượng của Quân đội VNCH trong giờ phút
uy linh đón mừng Xuân mới. Đột nhiên xen lẫn giữa tiếng pháo mừng
Xuân, tiếng súng Việt cộng bùng nổ. Hậu phương đang thanh bình,
trong giây phút biến thành tiền tuyến.
TẾT MẬU THÂN
Đêm giao thừa 30 Tết, tức ngày 29/1/1968,
Việt cộng đồng loạt
tấn công vào 5 thị xã thuộc Vùng 2 Chiến Thuật: (5 tỉnh thành
này thuộc Quân Khu 5 của CSBV, họ theo lịch của Hà Nội, giao thừa
trước 1 ngày nên không đồng loạt với các cánh quân khác):
Thị xã Nha Trang lúc 0:30g.
Thị xã Darlac
[Ban Mê Thuột] lúc 1:30g.
Thị xã Kontum lúc 2:00g.
Thị xã Qui Nhơn
lúc 4:10g.
Thị xã Pleiku lúc 4:40g.
Đồng thời, Việt cộng pháo kích và đột nhập vào Tổng Hành
Dinh Quân Đoàn I lúc 3:40g sáng. Cũng trong đêm này, Việt cộng đột kích vào chi khu Hội An, pháo kích vào
thị xã Quảng
Trị, phi trường Đà Nẵng, phi trường Non Nước về phía Nam Đà Nẵng
khoảng 4km, và pháo kích tấn công nhiều đồn bót lẻ tẻ trên toàn
quốc. Cả 5 thị xã kể trên và Tổng Hành Dinh Quân Đoàn I đều bị
Việt cộng lọt vào. Tuy nhiên tại Qui Nhơn, Nha Trang, và Pleiku
áp lực Việt cộng đã được giải tỏa nhanh chóng. Tổng Hành Dinh
Quân Đoàn I cũng đẩy lùi địch quân trong vài giờ đồng hồ. Các
lực lượng Việt cộng tại các thị xã Ban Mê Thuột và Kontum cũng
bị đẩy lui ngay. Tuy nhiên, tại 2 thị xã này, Việt cộng đã bám
sát và tạo áp lực mạnh quanh vùng. Sau nhiều ngày chiến đấu,
Quân đội VNCH mới hoàn toàn làm chủ tình hình. Khi xảy ra vụ tấn
công đêm giao thừa, chính quyền trung ương VNCH đã thông báo
ngay cho các địa phương biết để kịp phòng bị.
Sáng ngày
Mồng 1 Tết (30/1/1968), trên Đài phát thanh Quốc Gia Sài Gòn
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tố cáo Việt cộng vi phạm trắng trợn
việc hưu chiến trong dịp Tết và tuyên bố hủy bỏ lệnh ngưng bắn
của Chính Phủ VNCH.
Đêm mồng 1 Tết, tức 24 giờ sau các
cuộc tấn công vào các tỉnh lỵ miền Cao nguyên và miền Trung,
Việt cộng mở các cuộc tấn công vào Đô thành Sài Gòn–Chợ Lớn và
các tỉnh lỵ miền Nam. Tính theo kế hoạch tổng công kích, Việt
cộng đã đồng loạt mở các cuộc tấn công và đột kích vào 25 tỉnh
lỵ và thị trấn trong số 44 tỉnh của VNCH (xem bản đồ phía trên)
thời gian như sau:
Các địa phương bị tấn công trong dịp Tết Mậu Thân
Tại Vùng 1 Chiến Thuật:
1. Huế
bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 02:00g.
2. Quảng
Trị bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 4:00g.
3.
Quảng Tín bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 4:00g.
4. Quảng Ngãi bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 4:00g.
Tại Vùng 2 Chiến Thuật:
1.
Bình Thuận bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 3:25g.
2. Tuyên Đức bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 Tết lúc 2:00g.
Tại Vùng 3 Chiến Thuật:
1.
Thủ đô Sài Gòn–Chợ Lớn–Gia Định bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng
2 Tết lúc 2:00g.
2. Bình Dương bị tấn công đêm mồng 2 rạng
mồng 3 lúc 4:25g.
3. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 25BB bị tấn công lúc
8:30g sáng mồng 2 Tết.
4. Biên Hòa bị tấn công đêm mồng 2 rạng
mồng 3 lúc 3:00g.
5. Long Khánh bị tấn công đêm mồng 4 rạng
mồng 5 Tết lúc 1:00g.
Tại Vùng 4 Chiến Thuật:
1. Phong Dinh bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 3:00g.
2. Vĩnh Long bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 lúc 3:30g.
3. Kiến Hòa bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 3:00g.
4.
Định Tường bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 4:00g.
5.
Kiên Giang bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 2:40g.
6.
Vĩnh Bình bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 4:15g.
7. Kiến
Tường bị tấn công đêm mồng 4 rạng mồng 5 lúc 4:15g.
8. Bộ Tư
Lệnh Biệt Khu 44 bị tấn công đêm mồng 6 rạng mồng 7 lúc 1:25g.
9. Gò Công bị tấn công đêm mồng 7 rạng mồng 8 âm lịch lúc 2:35g.
10. Bạc Liêu bị tấn công đêm 12 rạng 13 âm lịch, tức ngày
10/2/1968.
Như vậy trong 44 tỉnh lỵ, Việt cộng đã tấn công
vào 28 nơi. Cuộc tấn công của Việt cộng kể ra cũng khá linh
hoạt, tuy không diễn ra trong 1 lúc nhưng khoảng cách của các
trận đánh ở các tỉnh lỵ không quá rời rạc. Tại Sài Gòn, Quân Lực
VNCH kịp thời đưa quân tăng viện vào Thủ đô để đối phó. Quân số
trực tiếp tham chiến tại Thủ đô tính đến ngày 4 tháng 2/1968 đã
lên hơn 10 Tiểu Đoàn, không kể các Lực Lượng Cảnh Sát Đô thành.
Xem tiếp các chương về những Trận chiến Tết Mậu Thân 1968
22. Mặt Trận Sài Gòn (30/1/1968)
23. Mặt Trận Quảng Trị (30/1/1968)
24. Mặt Trận Huế (30/1/1968)
25. Mặt Trận Khe Sanh (1–15/4/1968)
26. Mặt Trận A–shau (19/4 – 17/5/1968)
27. Trận Mậu Thân đợt 2 (từ ngày 5/5/1968)
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by mđ nguyễn minh hoàng chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, April 23, 2015
Cập nhật ngày Thứ Sáu, May 23/2025 – đổi sang hệ thống bootstrap framework 5.x
tkd. Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH