|
Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang Quân
sử VNCH
Chủ đề:
quân sử sư đoàn nhảy dù qlvnch
Tác giả: MĐ
Nguyễn Hữu Viên & MĐ Tín Võ
****** |||
******
MỤC LỤC
*
A.
PHẦN A: TỔ CHỨC
B. Chiến Sự
1. Trận Điện Biên Phủ (13/3/1954
– 7/5/1954)
2. Tình Hình Việt Nam Sau Hiệp Định Geneve
3. Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng (23/5/1955
– 6/12/1955)
4. Chiến Dịch Hoàng Diệu (từ 21/9
– 24/10/1955)
5.
Chiến Dịch Nguyễn Huệ (từ 1/1 – 17/2/1956)
6. Binh Biến ngày 11/11/1960
7. Trận Phước Thành (18–19/9/1961)
8. Trận Ấp Bắc (2–3/1/1963)
9. Trận Tân Châu Hồng Ngự (2–4/3/1964)
10. Trận Bình Giã (3/12/1964 – 3/1/1965)
11. Trận Hắc Dịch (9–10/2/1965)
12. Trận Ba Gia (28/5/1965
– 2/6/1965)
13. Trận Đồng Xoài (9–20/6/1965)
14. Trận Đức Cơ (4–15/8/1965)
15. Chiến dịch Ia Drang – Thần Phong 7 (14–18/11/1965)
16. Hành Quân Thần Phong 11 (28/1 – 6/3/1966)
17. Đại Bàng 800 (12/11/1966)
18. Hành Quân Liên Kết 81 (16–22/2/1967)
19. Lam Sơn 54–Khu Phi Quân Sự (18–27/5/1967)
20. Trận
Dakto
(Đồi 1416) (3–22/11/1967)
21. Tổng Công Kích Năm Mậu Thân (từ ngày 29/1/1968)
22. Mặt Trận Sài Gòn (30/1/1968)
23. Mặt Trận Quảng Trị (30/1/1968)
24. Mặt Trận Huế (30/1/1968)
25. Mặt Trận Khe Sanh (1–15/4/1968)
26. Mặt Trận Ashau (19/4 – 17/5/1968)
27. Trận Mậu Thân đợt hai (từ ngày 5/5/1968)
28. Trận Gò Nổi (Tây Ninh) (19/5/1969)
29. Chiến Dịch Bình Tây (Từ ngày 27/3/1970)
30. Hành Quân Toàn Thắng 42 (29/4 – 22/7/1970)
31. Hành Quân Toàn Thắng 43 (1/5 – 30/6/1970)
32. Hành Quân Toàn Thắng 45 (6/5 – 30/6/1970)
33. Hành Quân Lam Sơn 719 (8/2
– 6/4/1971)
34. Trận đánh Căn Cứ Hỏa Lực 6 (4–17/4/1971)
35. Trận đánh Căn Cứ Hỏa Lực 5 (24/5 – 19/6/1971)
36. Mùa Hè Đỏ Lửa
37. Mặt Trận Tây Nguyên (17/3 – 28/5/1972)
38. Mặt Trận Bình Long (2/4 – 8/6/1972)
39. Mặt Trận Quảng Trị (30/3 – 15/9/1972)
40. Trận Thường Đức (18/8 – 8/11/1974)
41. Trận Ban Mê Thuột (10–16/3/1975)
42. Trận Khánh Dương (19/3 – 1/4/1975)
43. Trận Phan Rang (1–17/4/1975)
44. Trận Long Khánh (9–21/4/1975)
C.
PHẦN C: CÁC VỊ TƯ LỆNH SĐND
******06******
6.
Binh Biến ngày 11/11/1960
Binh
Biến ngày 11/11/1960
Sau ngày đất nước bị chia cắt,
toàn thể nhân dân miền Nam đều mong muốn có 1 sự đổi đời tươi
sáng. Mọi người đều hy vọng có được
1 lãnh tụ xứng đáng có thể tạo lập
1 chính quyền quốc gia vững mạnh
để củng cố và xây dựng 1 miền Nam hùng cường hầu có thể thống nhất
lãnh thổ trong 1 tương lai gần với thế mạnh.
Nhưng thực tế
đã làm tan biến dần những hy vọng của hàng triệu người dân miền Nam.
Dưới hình thức chống cộng, chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm
đã che giấu ý đồ tiêu diệt các phần tử đối lập và đàn áp dân chúng để
củng cố địa vị cho gia đình và phe đảng. Ông Ngô Đình Diệm với bản
tính đa nghi, ông không tin cậy ai ngoài anh em ruột thịt, hoặc
người cùng làng, cùng tôn giáo, hay người của đảng Cần Lao xu thời
nịnh hót. Thái độ ngạo mạn của những thành viên trong gia đình của
ông Điệm là 1 trong những nguyên nhân đưa đến bất mãn trong dân
chúng.
Trong bối cảnh đó, 18 chính trị gia tên tuổi, gồm có
Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Trần Văn Đỗ, v.v.
trong đó có đến 11 Tổng trưởng, Bộ trưởng của chính chính phủ Đệ
Nhất Cộng Hòa của ông Diệm, họp tại nhà hàng Caravelle, Sài Gòn, vào
ngày 26/4/1960, đã ra Tuyên Ngôn phản đối chế độ độc tài Ngô Đình
Diệm, đòi ông thay đổi chính sách.
Do những sự bất mãn đó đã
dẫn đến cuộc đảo chánh ngày 11/11/1960. Ban đầu, quân đảo chính kiểm
soát được 1 số vị trí quan trọng tại Sài Gòn do yếu tố bất ngờ,
tuy nhiên nhanh chóng thất bại khi các thủ lãnh quân sự không kiên
quyết cũng như không có được sự ủng hộ của đông đảo các thành phần
quân cán chính. Trong ngày này 3 Tiểu Đoàn Nhảy Dù cộng với 1 đơn
vị Thủy Quân Lục Chiến đã bao vây Dinh Độc Lập và yêu cầu Tổng thống
Diệm cải tổ chính phủ. Người chỉ huy trực tiếp cuộc binh biến này là
Trung tá Vương Văn Đông (chứ không phải Đại tá Nguyễn Chánh Thi).
Vương Văn Đông là 1 sĩ quan gốc miền Bắc, từng là sĩ quan trong
quân đội Pháp, từng tham gia chiến tranh chống Việt Minh cộng sản,
từng đi học ở Fort Leavenworth, Kansas Hoa Kỳ, do đó được các Cố vấn
quân sự Mỹ đánh giá cao.
Trung tá Đông đã chiêu dụ thêm vị
chỉ huy trực tiếp của ông là Đại tá Nguyễn Chánh Thi vào giờ phút
chót. Cuộc vây hãm Dinh Độc Lập tỏ ra thất bại ngay từ lúc 5:00g
sáng, ngày 11 tháng 11, kế hoạch đảo chính đã được thực hiện không
hiệu quả, quân đảo chính đã không tuân thủ chiến thuật đã được đề ra
lúc ban đầu như chiếm giữ Đài phát thanh và phong tỏa các con đường
dẫn vào Đô thành Sài Gòn, không cắt đường giây điện thoại từ trong
Dinh Độc Lập, nhờ vậy ông Diệm đã liên lạc được với các vị sĩ quan
còn trung thành với chính phủ.
Về sau, Vương Văn Đông đã liên
lạc với Đại sứ Mỹ Durbrow, tìm sự yểm trợ. Ông này trả lời cho biết:
“Chúng tôi sẽ ủng hộ chính quyền đương nhiệm, chừng nào chính phủ đó
bị lật đổ”. Trung tá Vương Văn Đông và Đại tá Nguyễn Chánh Thi chỉ
có 1 con đường thoát: dùng máy bay chạy trốn sang Cam Bốt và bắt
đầu 1 cuộc sống lưu vong 3 năm.
Nhưng Chính biến 11 tháng
11, 1960 cũng báo hiệu thời kỳ suy sụp của chính quyền Ngô Đình
Diệm. Một sự suy sụp mà ông Ngô Đình Nhu đã tiết lộ với nhà báo Hoa
Kỳ Karnow rằng kẻ thù của ông không phải chỉ có cộng sản mà chính là
những người bạn cùng sát cánh với ông trong việc chống đối chế độ
cộng sản miền Bắc.
Ba năm sau đó, chính quyền Ngô Đnh Diệm đã
bị lật đổ và anh em ông Diệm đã bị thảm sát. Trong khi đó, những
người lưu vong ở Kampuchea chuẩn bị trở về vì đã có người khác làm
thay cho công việc mà 3 năm trước họ đã thất bại.
Thành phần
chủ động trong cuộc đảo chánh bao gồm các nhân vật quân sự và dân sự
đã được Trung tá Vương Văn Đông kể lại trong quyển Binh Biến
11/11/1960 như sau:
– Trung tá Vương Văn Đông.
– Trung tá
Nguyễn Triệu Hồng.
– Thiếu tá Trần Văn Đô, TĐT TĐ1ND.
– Thiếu tá
Nguyễn Văn Lộc TĐT TĐ3ND.
– Thiếu tá Nguyễn Huy Lợi, Phòng 3/TTM.
– Thiếu tá Phan Trọng Chinh (Chỉ huy trưởng BĐQ).
– Đại uý Nguyễn
Văn Thừa TĐ8ND.
Phía dân sự có nhóm Liên Minh Dân Chủ gồm các
Ông: Luật sư Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Bảo Toàn, Xuân Tùng, Lê Vinh...
Theo kế hoạch, cuộc đảo chánh tiến hành theo 2 giai đoạn như
sau:
Giai Đoạn I:
• Trước tiên Thiếu
tá Trần Văn Đô và Đại uý Nguyễn Thành Chuẩn chỉ huy TĐ1ND tấn chiếm
Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống sau đó tiến chiếm Đài phát thanh,
rồi bắt giữ Đại tướng Lê Văn Tỵ và Thiếu tướng Nguyễn Khánh.
•
Thiếu tá Nguyễn Văn Lộc và TĐ3ND tấn chiếm Dinh Độc Lập bắt giữ gia
đình Ông Ngô Đình Diệm.
• Thiếu tá Nguyễn Huy Lợi với 1 Đại
Đội TQLC biệt phái chiếm đóng Bộ Tổng Tham Mưu.
• Thiếu tá
Phan Trọng Chinh chiếm giữ BTL Dù và Căn cứ Tân Sơn Nhất, điều phối
các đơn vị trừ bị, tập hợp các phương tiện vận tải, truyền tin cần
thiết cho việc di chuyển và liên lạc.
• Đại uý Nguyễn Văn Thừa
điều động 2 Đại Đội thuộc TĐ8ND chiếm đóng Tổng Nha Cảnh Sát Đô
thành.
• Trung uý Nguyễn Vũ Từ Thức với Đại Đội Không Vận tiến
chiếm Quân Khu Thủ đô và Sở Liên Lạc Chính Trị.
• Đại uý
Nguyễn Kiên Hùng, bắt giữ Đại uý Bằng TĐ phó (1 SQ Cần Lao) và chỉ
huy TĐ3TQLC tiến chiếm BTL/HQ, cầu Bình Lợi, BCH Trung Đoàn Địa
Phương 135, biệt phái cho Thiếu tá Lợi 1 Đại Đội trấn giữ Bộ Tổng
Tham Mưu.
• Đại uý Trần Đình Vy cùng đi với Thiếu tá Hinh cùng
2 Đại Đội Nhảy Dù tiến chiếm BCH trại Trung Đoàn Thiết Giáp đóng ở
Gò Vấp.
• Một Đại Đội TĐ8ND án ngữ tại mũi tàu Phú Lâm ngăn
chận viện quân từ miền Tây.
• Thiếu tá Nguyễn Công Khanh với
Trung Đội Đặc Biệt bắt giữ Trung tướng Thái Quang Hoàng, Bác sĩ Trần
Kim Tuyến, và những nhân vật được chỉ định khác.
• Thiếu tá
Phạm Văn Liễu đưa Đại uý Trần Đình Vy đón Thiếu tá Hinh Chỉ huy phó
Thiết Giáp rồi về BTTM phụ tá cho Thiếu tá Lợi.
Cổng chính Bộ tổng tư lệnh QLVNCH
Giai Đoạn 2:
• Thiếu tá Đô biệt phái
1 đơn vị Dù chiếm đóng Nha An Ninh Quân Đội.
• Thiếu tá Lộc biệt phái 1 đơn vị Dù chiếm giữ Quốc Hội, Bộ Quốc Phòng, và Bộ Nội Vụ.
• Thiếu tá Lợi tổ chức phòng Thủ đô thành và tiếp nhiệm BTTM.
• Đại uý Nguyễn Văn Thừa tổ chức phòng thủ những mục tiêu đã chiếm được, trung ương truyền tin, sở nghiên cứu chính trị.
• Đại uý Nguyễn Kiên Hùng tổ chức phòng thủ mặt Biên Hòa ngăn chặn viện binh từ Bình Dương.
• Đại uý Trần Đình Vy mang Lực Lượng Thiết Giáp về tăng cường cho TĐ3ND và đặt dưới quyền điều động của BTTM.
Diễn Tiến:
Ngày
10/11/1960, 3 Tiểu Đoàn 1, 3, & 8ND cùng TĐ3TQLC đều có mặt tại
Sài Gòn (do sự sắp xếp của Thiếu tá Lợi P3/TTM) Thiếu tá Nguyễn
Văn Lộc, Tham mưu trưởng Liên Đoàn Nhảy Dù ra lệnh cấm trại toàn
thể các đơn vị Dù (thực tế không có lệnh cấm trại).
Đến
7:00g đêm, tất cả Ban tham mưu đảo chánh tập họp tại Bộ Chỉ Huy TĐ3ND tại vườn cao su Phú Thọ. Thiếu tá
Ngô Xuân Soạn
TĐT/TĐ5ND cũng được mời tới đây nhưng Ông từ chối tham gia và
đòi bỏ ra về nên đã bị nhân viên an ninh hạ sát. Riêng Đại uý
Trương Quang Ân TĐT TĐ8ND khi được Thiếu tá Lộc mời tới doanh
trại TĐ3ND rồi bị giữ lại, Ông không sốt sắng tham gia nhưng
trước hoàn cảnh không lối thoát Ông miễn cưỡng chấp nhận và phái
1 Đại Đội án ngữ mũi tàu Phú Lâm, ngăn chận viện quân từ miền
Tây.
11:00g đêm, Trung tá Đông, Trung tá Nguyễn Triệu
Hồng, Thiếu tá Phan Trọng Chinh, Thiếu tá Đô, Thiếu tá Lộc, và
Đại uý Nguyễn Thành Chuẩn tới nhà riêng để bắt giữ Đại tá Nguyễn
Chánh Thi. Thiếu tá Lộc vào trước và cho lệnh toán lính gác về
Căn cứ Hoàng Hoa Thám, và sẽ cho toán lính khác thay thế.
Khi gõ cửa, Đại tá Thi mở cửa và ông được mời đi, lúc đầu
ông không chịu đi nhưng với sự cương quyết của mọi người ông
chịu đi theo.
Trên đường về nơi tập họp, Thiếu tá Đô và
Đại uý Chuẩn ghé TĐ1ND ra lệnh tập họp và nắm quyền chỉ huy đơn
vị TĐ1ND (lúc này TĐT/TĐ1ND là Đại uý Dư Quốc Đống không có mặt
tại đơn vị). Thiếu tá Chinh về thẳng Căn cứ Hoàng Hoa Thám tập
họp các đơn vị như ĐĐ súng cối, ĐĐ Công Binh, ĐĐ Công Vụ, Phân
Đội Truyền Tin, TĐ8ND. Trung uý Lưu Danh Rạng sĩ quan Truyền Tin
của Liên Đoàn Dù cắt đứt tất cả đường dây liên lạc từ bên ngoài
Nhảy Dù.
Ngày 11/11/1960 giờ bắt đầu nổ súng dự trù là
1:00g nhưng vì tập trung quân số chậm chạp và thiếu phương
tiện chuyên chở nên tới 2:30g tiếng pháo lệnh mới bắt đầu. Và
Lực Lượng Đảo Chánh bắt đầu tấn công các mục tiêu. Giờ chót
Thiếu tá Hinh Chỉ huy phó Thiết Giáp đã không tham gia, nên
không có đơn vị Thiết Giáp ở Gò Vấp tham dự. Đại uý Trần Đình Vy
muốn bắt giữ Hinh nhưng Thiếu tá Liễu ngăn cản, khi Trung tá
Đông ra lệnh trở lại bắt thì Thiếu tá Hinh đã mang vợ con trốn
khỏi nhà. TĐ3TQLC chỉ tham gia có 1 Đại Đội mà thôi vì Đại uý
Nguyễn Kiên Hùng TĐT/TĐ3TQLC, lúc khởi sự tập họp đơn vị, tinh
thần bị giao động không kiểm soát nổi đơn vị để cho Đại uý Bằng
TĐP, 1 SQ cần lao chỉ huy thay vì y phải bị bắt giữ trước khi
khởi sự.
Tại ngã tư Phan Đình Phùng–Công Lý 1 đơn vị
Nhảy Dù khởi sự chận bắt những quân nhân di chuyển trên đường
phố khoảng hơn hai chục người tập trung họ lại trên vỉa hè đường
Công Lý, sát hàng rào Dinh Độc Lập. Số người bị bắt giữ mỗi lúc
1 đông, trong khi tiếng súng bắt đầu nổ ran.
Việc chiếm
đóng BTTM, Nha Cảnh Sát Đô thành không gặp trở ngại, riêng tại
BTL Quân Khu Thủ đô và tư thất Tướng Thái Quang Hoàng gặp sự
chống trả mãnh liệt, nhưng 1 giờ sau 2 địa điểm này cũng thất
thủ, Tướng Hoàng bị bắt giữ hồi 4:30g. Sáng ngày 11/11/60 Đại
tá Đỗ Mậu bị bắt giữ tại Tổng nha Công An.
Ngay sau khi
chiếm giữ Bộ Tổng Tham Mưu, không biết việc Thiếu tá Hinh, CHP
Thiết Giáp không tham gia vì Thiếu tá Liễu không báo cáo, Thiếu
tá Lợi đã dùng hệ thống liên lạc của BTTM gọi Trung Đoàn 5
Thiết Giáp đồn trú ở Mỹ Tho về Sài Gòn. Theo kế hoạch, Thiếu tá
Hinh sẽ đón Thiết Đoàn này tại Phú Lâm và tăng cường cho Lực
Lượng Đảo Chánh. Khi biết không có Hinh, Thiếu tá Lợi gọi ra
lệnh cho Thiếu tá Lâm Quang Thơ CHT Thiết Đoàn, đem Thiết Đoàn
này về trình diện TTM nhưng Thơ lại đem Thiết Đoàn này bảo vệ
Dinh Độc Lập hồi 10:00g sáng.
Tại BTTM, Trung uý
Trần Đình Vượng có nhiệm vụ phá Tổng đài Điện thoại nhưng phải
trễ tới 5 giờ sau mới thực hiện được.
Tại Hoàng Hoa Thám,
Thiếu tá Phan Trọng Chinh sau khi cho lệnh xuất phát (bằng những
công điện giả) đã mang 1 đơn vị đến chiếm giữ Căn cứ Tân Sơn
Nhất bắt giữ Trung tá Nguyễn Xuân Vinh Tư lệnh Không Quân, Trung
tá Hiền Tham mưu trưởng, Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ chỉ huy Phi Đoàn
Vận Tải. Những sĩ quan này được giam tại Hoàng Hoa Thám. Nhưng
sau đó Trung tá Nguyễn Xuân Vinh trốn khỏi vì sự sơ hở vô tình
hay cố ý của Đại uý Hồ Tiêu, người có trách nhiệm canh gác.
Thiếu tá Chinh gởi công điện ra lệnh TĐ6ND đem 1 ĐĐ đến
chiếm phi trường Vũng Tàu, 1 Đại Đội về chiếm phi trường Biên
Hòa, phần còn lại của Tiểu Đoàn chiếm giữ BTL SĐ7BB do Trung tá
Huỳnh Văn Cao làm Tư lệnh đóng cạnh phi trường Biên Hòa. TĐ5ND
được lệnh đem 1 Đại Đội tới chiếm BTL Quân Khu 1 đóng tại Thủ
Đức, 1 ĐĐ tới chiếm Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, và phần còn
lại của TĐ về trình diện Căn cứ Hoàng Hoa Thám làm thành phần
trừ bị.
5:00g, 3 Đại Đội còn lại của TĐ3TQLC do Đại uý
Bằng TĐP chỉ huy đã đến bao vây Bộ Chỉ Huy Đảo Chính tại Nhà thờ
Đức Bà, nhưng thấy không kham nổi nên kéo quân theo đường Nguyễn
Du về tăng cường cho lực lượng phòng thủ Dinh Độc Lập.
Bộ
Chỉ Huy cuộc đảo chánh gồm có Trung tá Vương Văn Đông, Trung tá
Nguyễn Triệu Hồng, và Trung uý Lưu Danh Rạng. Lúc đầu Bộ Chỉ Huy
đặt tại góc đường Hai Bà Trưng và Thống Nhất, sau vì cuộc chiến
có nhiều biến chuyển nên dời về Nhà thờ Đức Bà, Trung uý Rạng
cho chiếm giữ Bưu điện Sài Gòn, tập trung các nhân viên và ra
lệnh cắt đứt hệ thống điện thoại. Nhưng chỉ cắt được 1 phần
lớn, còn lại 1 số vẫn liên lạc được.
Tại Trung Đoàn
Thiết Giáp Gò Vấp, Đại uý Trần Đình Vy với 2 đơn vị Dù biệt phái
vừa đến nơi đã bị các Chiến Xa dưới quyền điều động của Thiếu tá
Hinh và Thiếu tá Thẩm Nghĩa Bôi Trung đoàn trưởng, bao vây vào
giữa sân cờ.
Trong khi đó, Dinh Độc Lập được phòng thủ bởi:
• 1. Đại
Đội cận vệ khoảng 100 quân nhân.
• 2. Một Đại Đội Bộ binh 150
quân nhân, thay phiên vào mỗi buổi chiều.
• 3. Một Chi Đoàn
Chiến Xa thường trực trong Dinh.
Khoảng 2:30g
rạng sáng ngày 11/11/1960, Thành Cộng Hòa và Dinh Độc Lập bắt đầu bị
tấn công. Trung uý Vũ Thế Quang
dẫn 1 Đại
Đội Nhảy Dù tới cổng trước của Thành Cộng Hòa cầm
chân quân Lữ Đoàn Phòng Vệ, không cho ra khỏi thành Cộng Hòa.
Khi Lực Lượng Nhảy Dù bắt đầu tấn công vào Dinh Độc Lập,
Thiếu tướng Nguyễn Khánh đang giữ chức Thư ký Thường Trực Quốc
Phòng ở Phủ Tổng Thống. Tướng Khánh đang ở nhà, nghe tin có đảo
chánh, đã chạy vào Dinh Độc Lập, đến cổng Nguyễn Du đập cửa xin
vào Dinh. Trung uý Nguyễn Văn Lễ, Đại đội trưởng canh gác, không
dám mở cổng, sợ quân đảo chánh tràn vào. Trung uý Lễ xin cho
thòng dây xuống để Thiếu tướng Khánh leo qua hàng rào. Tổng
thống Diệm phong cho Tướng Khánh làm “Tư lệnh toàn quyền” để
thương lượng với phe đảo chánh.
Bên trong Dinh Độc Lập,
Tổng thống Ngô Đình Diệm, Cố vấn Ngô Đình Nhu, BS Trần Kim Tuyến,
và Thiếu tướng Nguyễn Khánh ngồi trong phòng Ông Tôn Thất Thiết,
Chánh sự vụ Sở Nội Dịch, ở tầng dưới, sát nhà bếp để theo dõi
tình hình.
Từ sáng sớm, Tổng thống Diệm đã phái người
liên lạc với Trung tá Huỳnh Văn Cao, Tư lệnh Sư Đoàn 7, đưa quân
về ngay để cứu viện, đồng thời dùng hệ thống Truyền tin của Dinh
liên lạc trực tiếp với Đại tá Trần Thiện Khiêm, Tư lệnh Sư Đoàn
21 ở Cần Thơ; Thiếu tá Thơ, Tỉnh trưởng Mỹ Tho, và Thiết Giáp
của tỉnh cùng đem quân về gấp để giải vây.
Tới 5:00g sáng
Lực Lượng Nhảy Dù mới chiếm được 1 phần doanh trại của Liên
Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, Tướng Nguyễn Khánh đã trốn
khỏi nhà. Trong đợt tấn công đầu tiên Trung uý Sơn Ngọc Phường
đã tử thương.
Quanh Dinh Độc Lập, tiếng súng mỗi lúc 1 mãnh liệt, Trung tá Đông ra lệnh cho Thiếu tá Đô tăng cường thêm
cho TĐ3ND 1 hoặc 2 Đại Đội Nhảy Dù và các Thiết Vận Xa chiếm
được của Liên Binh Phòng Vệ. Nhưng Thiếu tá Đô không tìm ra được
người nào biết lái xe Thiết Giáp từ các quân nhân đã bắt được.
Trung tá Nguyễn Triệu Hồng dự định đi đón Luật sư Thụy để
chuẩn bị giai đoạn chính trị, trước khi đi, ông muốn quan sát
tình hình quân sự tại Dinh Độc Lập, tại đây Trung uý Nguyễn Bá
Mạnh Hùng vừa chiếm được vọng gác phía trước cửa Dinh. Trung tá
Hồng đang quan sát thì 1 viên đạn từ ổ phòng thủ tại góc đường
Hồng Thập Tự & Công Lý bắn trúng và hy sinh ngay tại chỗ.
6:00g, Thiếu tá Lộc chỉ huy TĐ3ND báo cáo, đơn vị chưa
vào được trong Dinh Độc Lập, Ông đang ở phía Sân Tao Đàn & Hồng
Thập Tự, và hiện có 1 đơn vị Thiết Giáp đang đánh bọc hậu nên
xin viện binh. Thật sự Thiếu tá Lộc đã tấn công Dinh Độc Lập
không đúng theo kế hoạch. Theo như kế hoạch đã định sẵn phải tấn
công ở 2 phía trước cửa Dinh và mặt sau của Dinh. Đàng này Ông
đã đổ quân bên phía Hồng Thập Tự rồi cho quân tẻ ra 2 phía tấn
công vào gặp hàng rào cản khó có thể vượt qua nên mất đi yếu tố
bất ngờ. Hơn nữa lực lượng phòng thủ bên trong có xe Thiết Giáp
yểm trợ. (tại sao không dùng đại bác không giật 75ly phá hỏng
hàng rào phòng thủ đánh thốc vào trong? Thời điểm này đơn vị
được trang bị rất nhiều).
Một ĐĐ/TĐ6ND đã chiếm xong phi
trường Vũng Tàu, thành phần còn lại đã đến chiếm phi trường Biên
Hòa và BTL SĐ7BB. Một ĐĐ/TĐ5ND chiếm BTL Quân Khu 1 ở Thủ Đức
không gặp sự kháng cự nào, nhưng đến Liên Trường Võ Khoa thì
phải khựng lại vì Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm Chỉ huy Trường dùng
Chiến Xa để ngăn chận. 2 ĐĐ khác của TĐ5ND được tăng cường cho
TĐ3ND để tiếp tục tấn công vào Dinh Độc Lập. 1 ĐĐ/TĐ5ND được
phái đến chiếm cầu Bình Lợi để ngăn chận Viện Binh từ Bình Dương
thay thế cho đơn vị TĐ3TQLC như dự trù.
Thay đổi chiến
thuật, Trung tá Đông đã đến trả tự do cho Đại tá Thi và giao 2
nhiệm vụ (tại khu vực Dinh Độc Lập) kêu gọi lực lượng Liên Binh
Phòng Vệ đầu hàng, và liên lạc với Trung tá Lê Quang Tung để rút
lui Lực Lượng Đặc Biệt đang hoạt động phía sau các đơn vị Nhảy
Dù.
7:00g sáng, Trung tá Đông đến nhà Luật sư Thụy,
tại đây có mặt đầy đủ các nhân vật dân sự thuộc khối Liên Minh
Dân Chủ như Ông Nguyễn Bảo Toàn, Xuân Tùng, Lê Vinh, v.v. Trung
tá Đông yêu cầu Ông Thụy cho phổ biến 2 bản Tuyên Ngôn của Hội
Đồng Cách Mạng và bảng hiệu triệu Quân nhân các cấp, (2 bản văn
này đã được soạn thảo từ trước). Trung tá Đông đã cắt cử Đại uý
Phó Quốc Chu ở lại với nhóm L/S Thụy làm Sĩ quan liên lạc. Đại
tá Nguyễn Chánh Thi vừa được trả tự do (lý do Đại tá Thi nhận
được bản văn này: L/S Thụy chờ mãi không thấy bản tuyên ngôn
được đọc trên Đài truyền thanh, nên đã nhờ 1 đồng chí mang bản
thứ hai đến tìm và giao cho Trung tá Hồng, nhưng Hồng đã chết
trong khi đó Trung tá Đông không có mặt tại đây nên nhờ 1 sĩ
quan Dù giao lại cho Trung tá Đông, do đó bản văn đến tay Đại tá
Thi) đã tự động lên Đài phát thanh đọc bản hiệu triệu nhân danh
Tổng tư lệnh Quân Đội thuộc Hội Đồng Cách Mạng, hầu nắm lấy cơ
hội đặc biệt biến vai trò “bất đắc dĩ” thành vai trò lãnh đạo
cách mạng.
Bản Hiệu Triệu Quân Đội:
“Tướng lãnh, Sĩ Quan, Hạ Sĩ
Quan, Binh Sĩ.
Chính phủ Ngô Đình Diệm sau sáu năm cầm
quyền đã tỏ ra hoàn toàn bất lực trong công cuộc cứu quốc và
kiến quốc giữa lúc cộng sản ngày càng gia tăng áp lực.
Ngô Đình Diệm đã áp dụng chính sách độc tài, phong kiến, gia
đình trị mù quáng, đặt tham vọng ích kỷ của gia đình lên trên
quyền lợi tối cao của đất nước. Quân Đội, lực lượng chính yếu
của quốc gia bị nghi kỵ, chia rẽ. Mọi tầng lớp nhân dân bị bốc
lột, áp bức, miệt thị. Tự do không được bảo đảm, dân tộc bị dồn
vào họa diệt vong.
Trước tình thế đen tối của đất nước,
quân đội đã đứng lên lật đổ chính quyền NĐD và tạm thời điều
khiển chính phủ với sự tham gia của những nhân sĩ quốc gia để
kịp thời thi hành những biện pháp cần thiết chống độc tài, cứu
quốc.
Cuộc cách mạng quân đội đã thành công. Quân đội
đoàn kết tiến lên diệt độc tài, bảo vệ tự do, đem an ninh cho
đất nước.
Quân Đội không đảng phái, chỉ nghe theo tiếng
gọi thiêng liêng của tổ quốc, sẽ tôn trọng quyền lợi của đồng
bào.
Hội Đồng Cách Mạng và chính phủ lâm thời hoàn toàn
tin tưởng ở lòng ái quốc và ý chí diệt cộng của quân đội.
Vậy toàn thể quân nhân các cấp, các đơn vị phải bình tĩnh
tuân theo kỷ luật, cố gắng tiếp tục nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho
đồng bào trong giờ phút quyết liệt này.
Nhiệm Vụ Chúng ta
là nhiệm vụ lịch sử, Hành động chúng ta là hành động cứu quốc.
Quân đội sẽ hoàn thành nhiệm vụ cứu quốc.
Hội Đồng
Cách Mạng.”
(Khi đọc trên đài Đại tá Thi đổi là: Tư lệnh Quân Đội Cách Mạng)
Thiếu tá Lợi, tại BTTM cho nhân viên tới nhà mời Thiếu
tướng Phạm Xuân Chiểu vào BTTM nhưng ông từ chối, và hứa khi
nào có mặt Đại tướng Lê Văn Tỵ thì ông sẽ vào.
Tại Hoàng
Hoa Thám, Thiếu tá Chinh đã cử 1 Trung Đội ND do Thiếu tá
Nguyễn Quốc Tuấn chỉ huy thành công để tiếp thu 1 đơn vị Thiết
Giáp đóng tại cầu Bình Lợi để ngăn chận các đơn vị của TĐ5ND
không thể qua được cầu về Sài Gòn.
9:00g, nhận thấy
Đại uý Trương Quang Ân, không sốt sắng trong nhiệm vụ điều động
1 ĐĐND do Đại uý Nguyễn Văn Nhâm chỉ huy, tại mũi tàu Phú Lâm,
Thiếu tá Chinh đã đến Phú Lâm để kiểm soát, lượt về ông đã gặp
sự kháng cự của đơn vị Bảo An đồn trú tại BTL Bảo An của Trung
tá Lâm Văn Phát chỉ huy. (sự kháng cự này báo hiệu sự phản công
của phía chính phủ).
Khi tiếng súng phe đảo chánh bắt đầu
nổ, Trung Đoàn 12 của Thiếu tá Nguyễn Hữu Duệ, thuộc Sư Đoàn 7
do Trung tá Huỳnh Văn Cao làm Tư lệnh đang đóng tại Bà Rịa. Lúc
hơn 4:00g sáng, khi nghe tin Sài Gòn có đảo chánh, do đơn vị
Nhảy Dù làm chủ động. Lập tức, Thiếu tá Duệ cho báo động, và ra
lệnh cho các Tiểu Đoàn thuộc Trung Đoàn sẵn sàng di chuyển theo
lệnh. Đồng thời lúc đó, ông cũng được lệnh Sư Đoàn phải đem quân
ngăn chận trên đường từ Vũng Tàu về Sài Gòn, không cho đơn vị
Tiểu Đoàn 6 Dù về Thủ đô. Tiểu Đoàn này do Đại uý Đỗ Kế Giai làm
Tiểu đoàn trưởng. Khi Trung Đoàn 12 ra chận ở cầu Cỏ May, thì
Tiểu Đoàn Nhảy Dù này vừa di chuyển qua rồi. Ngay sau đó Thiếu
tá Duệ đã điều động Tiểu Đoàn 2/12 đang đóng ở Phước Thành (Bình
Long), do Đại uý Bùi Sanh Châu làm Tiểu đoàn trưởng, Tiểu Đoàn
3/12 do Đại uý Nguyễn Tri Phương làm Tiểu đoàn trưởng cùng với
Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn di chuyển ngay về Sài Gòn. Về phía quân
đảo chánh, lúc 10:00g sáng ngày 11/11/1960, Trung tá Đông và
Đại tá Thi đã đến tư dinh của Đại tướng Lê Văn Tỵ yêu cầu Đại
tướng hãy vào BTTM. Trong khi đó Ông Võ Văn Hải bí thư của Ông
Diệm vội vã đến gặp Trung tá Đông tình nguyện làm trung gian
điều đình giữa Hội Đồng Cách Mạng và Ông Ngô Đình Diệm để tìm
giải pháp ổn thỏa, đôi bên có thể chấp nhận được hầu tránh sự
lợi dụng của CS. Trung tá Đông đồng ý trên nguyên tắc (thật sự
thì chiến trận đã nghiêng về phía chính phủ) với điều kiện Ông
Diệm phải tuyên bố từ chức, thì phe cách mạng mới ngưng tấn
công. Khi 2 bên chưa thỏa thuận được điểm nào thì Đại tá Trần
Thiện Khiêm đã đem lực lượng bộ binh thuộc Quân Khu 5 đang di
chuyển về Sài Gòn gần tới Phú Lâm gồm Trung Đoàn 2 Thiết Giáp và
2 Tiểu Đoàn của Sư Đoàn 21, còn các lực Lượng SĐ7BB của Trung tá
Huỳnh Văn Cao và SĐ5BB đang hành quân cũng trở về đang chuẩn bị
vượt sông Sài Gòn bằng tàu Hải Quân. Các đơn vị này nhận lệnh
trực tiếp với Ông Diệm qua Hệ Thống Chỉ Huy Đặc Biệt từ Phủ Tổng
Thống.
Giờ này thấy sự hiện diện của Đại tướng Tỵ, Thiếu
tướng Phạm Xuân Chiểu cũng vào BTTM. Tình hình quân sự lúc này
thật là bất lợi cho phe đảo chính. Một đơn vị BĐQ trách nhiệm
quanh Thủ đô dưới quyền chỉ huy của Đại uý Lữ Đình Sơn, (em vợ
của Tướng Thái Quang Hoàng) về giải vây Dinh Độc Lập đã chiếm
giữ vườn Tao Đàn gia tăng áp lực vào cánh phải của TĐ3ND. Tại
Phú Lâm, tiền quân của Trung Đoàn Thiết Giáp do Thiếu tá Lâm
Quang Thơ điều động đã phá vỡ rào cản của ĐĐ/TĐ8ND tiến về phía
Dinh Độc Lập.
Đứng trước tình cảnh bất lợi về quân sự như
thế, và không muốn ở thế rút lui về 1 địa phương để tổ chức
kháng chiến sẽ bất lợi cho Lực Lượng Quốc gia dù cách mạng có
thành công hay không nên Hội Đồng Cách Mạng chấp nhận giải pháp
điều đình để gỡ thế bí.
11:00g, 1 đơn vị thuộc Quân Khu
Thủ đô dưới quyền điều động của Trung tá Lê Văn Nhật hoạt
động ngăn chận đường tiếp tế của các đơn vị ND từ Căn cứ Bà Quẹo
theo đường Lê Văn Duyệt.
13:00g lệnh phá sập cầu Bình
Lợi để ngăn chận viện binh của SĐ7BB từ phía Bắc Thủ đô Sài Gòn.
Để có thêm yếu tố thuận lợi, Trung tá Đông đã đến tư dinh của
Tướng Mc Garr, Trưởng phái bộ viện trợ Hoa Kỳ, nhờ Ông và Đại sứ
Hoa Kỳ thúc hối Ông Diệm chấp nhận điều kiện do HĐCM đưa ra.
Sau 4 lần liên lạc qua Ông Hải, Tướng Nguyễn Khánh và Ông
Diệm, Trung tá Đông chấp nhận thương lượng trực tiếp với Ông Ngô
Đình Diệm trước cửa Dinh Độc Lập và với sự bảo đảm an toàn của
Tướng Mc Garr, trưởng phái bộ viện trợ Hoa Kỳ. Và lúc này Đại uý
Lữ Đình Sơn giả vờ ủng hộ đảo chánh (trá hàng) đến tình nguyện
đặt dưới sự điều động của HĐCM.
Khoảng chiều tối, điện
thoại trong Dinh reo. Đại tá Khiêm thông báo Sư Đoàn 21 đã vào
Sài Gòn, Pháo Binh hiện đặt tại Phú Lâm và xin trung thành với
Tổng thống.
Hồi 17:30g, Đại tá Thi qua trung gian của
Đại uý Phan Lạc Tuyên phụ tá của Đại uý Lữ Đình Sơn, đến gặp và
mời bác sĩ Phan Quang Đán lãnh tụ Khối Dân Chủ Đối Lập (đã được
CIA Mỹ khuyến khích) tham gia cách mạng và làm cố vấn chính trị
cho ông. Ông Đán nhận lời và mau lẹ liên lạc với báo chí tổ chức
họp báo tại BTTM vào lúc 19:00g. Sự hiện diện đột ngột của
Ông Đán trong Hội Đồng Cách Mạng làm cho nhóm của Luật sư Thụy
ngỡ ngàng.
Ngay lúc đó, Tổng thống Ngô Đình Diệm có ông
Cố vấn và Thiếu tướng Khánh bên cạnh, đã nói chuyện điện thoại
với Đại tướng Lê Văn Tỵ, có Trung tá Vương Văn Đông bên cạnh.
Qua Đại tướng Tỵ, phe đảo chánh muốn đưa ra cho Tổng thống 4 yêu
sách:
1. Tổng thống sẽ
cải tổ Nội các, mở rộng Chính phủ.
2. Phe đảo chính sẽ tổ chức
1 cuộc biểu tình vào sáng ngày 12.
3. Lữ Đoàn Nhảy Dù sẽ
canh gác Dinh chung với Lữ Đoàn Phòng Vệ PTT.
4. Hai bên cử
phái đoàn để thảo luận 3 yêu sách trên đây.
Sau đó, 2 bên cử phái đoàn ra thương thảo ngay trên đường
Thống Nhất, khúc giữa Dinh Độc Lập và Nhà thờ Đức Bà. Phe đảo
chính cử Đại tá Nguyễn Chánh Thi làm đại diện. Tổng thống Diệm
cử Thiếu tướng Nguyễn Khánh thay mặt.
Lúc 18:00g hơn,
Đại tá Thi, Trung tá Đông, và Thiếu tướng Khánh lại gặp nhau
trước Dinh Độc Lập lần thứ năm, qua đó Ông Diệm đồng ý giải tán
chính phủ và thành lập chính phủ liên hiệp quốc gia, nhưng chần
chờ chưa chịu chính thức công bố trên Đài phát thanh về thỏa
hiệp này. Từ giờ này, Đại tướng Lê Văn Tỵ, Thiếu tướng Phạm Xuân
Chiểu, và Ông Võ Văn Hải (dưới áp lực của 1 số sĩ quan trẻ có
mặt tại BTTM) đã tỏ ra tích cực thúc hối ông Diệm chính thức
công bố để tránh việc xung đột giữa quân đội.
Lúc 19:00g, Trung tá Đông tuyên bố trong cuộc họp báo: HĐCM muốn tránh
đổ máu cho QLVNCH, nhằm bảo toàn tiềm lực chống cộng nên đã chấp
nhận giải pháp điều đình. Hiện tại HĐCM còn chờ thái độ dứt
khoát của Ông Diệm đối với các điều kiện đưa ra, nếu đến 20:00g không nhận được sự trả lời lực lượng nổi dậy sẽ tiếp tục tấn
công.
20:00g, ông Diệm gọi điện thoại trực tiếp cho
Đại tướng Lê Văn Tỵ trao trách nhiệm thành lập chính phủ quân
nhân cho Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH. Tuy rằng không đúng như ý,
nhưng sự nhượng bộ của ông Diệm về việc giải tán chính phủ hiện
tại có thể chấp nhận được. HĐCM hối thúc Đại tướng Tỵ soạn thảo
nhật lệnh kêu gọi quân đội trở lại vị trí và nhiệm vụ cũ, thông
báo việc thành lập chính phủ quân nhân với sự chấp nhận của
HĐCM, bản nhật lệnh do Đại tướng Tỵ đọc và phát thanh vào lúc
21:00g ngày 11/11/1960 như sau:
“Sĩ quan, Hạ sĩ quan, Binh sĩ,
Giữa lúc cuộc Chính biến nghiêm trọng diễn ra tại Thủ đô hôm
nay, tôi đã hội đàm với Tổng thống Ngô Đình Diệm và đi đến những
thỏa thuận sau đây để duy trì sự đoàn kết của quân đội:
1. Tổng thống đồng ý giải tán chính phủ hiện tại sau khi đã thảo
luận về vấn đề quốc sự với HĐCM
2. Với sự đồng ý của
HĐCM, Tổng thống ủy thác cho các Tướng lãnh trong Quân Đội Cộng
Hòa trách nhiệm thành lập 1 chính phủ quân nhân lâm thời.
Chính phủ này tiếp tục chiến đấu chống CS để bảo vệ Tổ Quốc.
3. Ngay sau khi nhận được lệnh này, tất cả các đơn vị phải
lập tức ngừng bắn, tiếp tục hoạt động trở lại, và phải luôn luôn
bình tĩnh đề cao cảnh giác đề phòng sự phá hoại của CS.
KBC 4002 ngày 11/11/1960
Đại tướng Lê Văn Tỵ.”
Đại sứ Mỹ Durbrow và Tướng Mc Garr điện thoại đến chúc mừng
Đại tướng Tỵ đã thành công trong việc dung hòa đòi hỏi của đôi
bên, và tránh được sự tan rã của quân đội.
Chiều ngày
11/11/1960 rất nhiều đoàn thể chính trị ở Thủ đô ra tuyên cáo
ủng hộ HĐCM và dân chúng vừa vui mừng, vừa hiếu kỳ tập họp đông
đảo trước Dinh Độc Lập. Đại tá Thi có mặt trong đám đông này với
vai trò đối lập chỉ trích gia đình ông Diệm và ông Nhu được dân
chúng hoan hô nhiệt liệt.
Ngày 12/11/1960 Sau khi phát
thanh nhật lệnh của Đại tướng Tỵ, HĐCM phải tiếp tục đường lối
tranh đấu để ông Diệm đồng ý thoái vị, sau nhiều lần thương
lượng gay go, Ông Diệm đồng ý đọc trên băng nhựa ghi âm hồi 3:30g ngày 12/11/1960 như sau:
Tuyên cáo của Tổng
thống VNCH.
“Quốc
Dân đồng bào,
Tiếp theo cuộc nổi dậy tại Thủ đô tối nay,
để cho quân đội chúng ta được toàn vẹn trong cuộc chiến đấu
chống cộng sản, tôi, Tổng thống VNCH đã quyết định giải tán
chính phủ hiện thời.
Tôi kêu gọi các Tướng lãnh quân đội
VNCH thành lập 1 chính phủ lâm thời để có thể tiếp tục chiến
đấu chống cộng sản và bảo vệ xứ sở.
Đồng thời, tôi sẽ
phối hợp với HĐCM thành lập 1 chính phủ liên hiệp. Để tránh đổ
máu và trấn an dân chúng, tôi ra lệnh hội đồng các Tướng lãnh
tìm tất cả phương pháp thích nghi chấm dứt mọi cuộc tuyên truyền
xuyên tạc và ngừng bắn.
Ngô Đình Diệm”
Đại tá Thi là người được cử liên lạc với Phủ Tổng Thống, gặp
Tướng Khánh để lấy cuốn băng ghi âm của ông Diệm và đưa lên phát
thanh hồi 4:00g sáng. Trung tá Đông tiếp tục thương lượng với
Tướng Khánh về việc canh gác Dinh Độc Lập. Các đơn vị Dù sẽ phối
hợp với đơn vị Thiết Giáp trong Liên Binh Phòng Vệ để canh gác
quanh Dinh, nhưng đơn vị Dù ở đây đã theo Đại tá Thi để tiếp
nhận cuốn băng ghi âm của ông Diệm. Sự kiện này sẽ gây hậu quả
nghiêm trọng trong buổi sáng ngày 12/11/1960 khi dân chúng kéo
biểu tình trước Dinh Độc Lập theo lời kêu gọi của ông Phan Quang
Đán và ông Diệm đã ra lệnh cho Thiết Giáp đàn áp biểu tình thẳng
tay.
Sau buổi họp báo lúc 20:00g ngày 11/11, thay vì ở
lại bên cạnh HĐCM, ông Đán lên thẳng Đài phát thanh để phát đi
những lời chỉ trích gia đình ông Diệm, và kêu gọi dân chúng biểu
tình truất phế ông Ngô Đình Diệm tạo nên sự nghi ngờ càng thêm
phát triển giữa khi đôi bên đang thương lượng. HĐCM đã 2 lần
phái Đại uý Đoàn Bội Trân tới Đài phát thanh kêu gọi ông Đán
ngưng phát biểu nhưng vô hiệu, sau cùng Thiếu tá Lợi phải đến
Đài phát thanh triệu hồi ông Đán về họp tại BTTM, nhưng ông đi
thẳng không đến họp. Tướng Chiểu phê phán nghiêm khắc hành động
của Ông Đán là phá hoại.
Lúc 4:00g sáng HĐCM và nhóm
Liên Minh Dân Chủ họp lần đầu tiên tại BTTM, Trung tá Đông đã
trình bày diễn tiến và đưa đến quyết định điều đình để tránh sự
đụng độ giữa quân đội, đồng thời giao cho L/S Thụy soạn thảo
tuyên ngôn của HĐCM thâu băng rồi đưa lên Đài phát thanh phổ
biến. Và cắt cử nhân sự để điều hành khối quần chúng kéo đến
biểu tình sáng ngày 12/11 theo lời kêu gọi của ông Đán.
Ngay khi ông Diệm nhượng bộ, giải tán Nội Các, Đại tướng Lê Văn
Tỵ đã ký công điện mời các Tướng lãnh đến họp tại BTTM để bàn
định việc lập chính phủ, nhưng sáng ngày 12/11 không 1 ai đến
họp (tất cả còn chờ thời). Về phía SĐ7BB, buổi chiều ngày 11/11,
cầu Bình Lợi đã bị phá sập bởi Công Binh Nhảy Dù rồi, nên Trung
Đoàn 12/SĐ7BB phải sử dụng xa lộ mới, nhưng gặp trở ngại vì cầu Xa
Lộ phía trên Thủ Đức chưa làm xong. Khi đến cầu xa lộ, Tiểu Đoàn
2/12 từ Phước Thành cũng theo kịp đến đó. Có cả Thiếu tá
Nguyễn Minh Mẫng (*) [Tác giả ghi chú: đây là tên ghi theo giấy Khai sinh]
là Tỉnh trưởng Phước Thành, cùng về theo. Ông Tỉnh trưởng hứa là
về đến Sài Gòn sẽ giúp Anh Em Trung Đoàn lo việc liên lạc với
Phủ Tổng Thống, vì trước đây ông làm việc ở đó. Sau đó, các đơn
vị viện binh được 1 đoàn tàu Hải quân ghé vào, giúp vượt sông
1 cách dễ dàng. Thế là cả đoàn quân đến tòa Tỉnh trưởng Gia
Định khoảng 5:00g sáng hôm sau, ngày 12/11/1960. Thiếu tá Mẫng
tìm mọi cách để liên lạc với Phủ Tổng Thống mà không được sau
phải dùng hệ thống liên lạc quân sự để liên lạc với Nha chiến
tranh tâm Lý của Trung tá Nguyễn Văn Châu. Trung tá Châu đã yêu
cầu viện quân cố gắng lấy lại Đài phát thanh để trấn an tinh
thần anh em quân đội cũng như dân chúng hết hoang mang. Thiếu tá
Mẫng, Tỉnh trưởng Phước Thành hăng hái tình nguyện đi cùng Tiểu
Đoàn 2/12 để tái chiếm Đài phát thanh. Khoảng 10:00g sáng ngày
12/11, Tiểu Đoàn 2/Trung Đoàn 12 đã bố trí chiếm giữ các cao
điểm quanh Đài phát thanh và sẵn sàng yểm trợ cho đơn vị tấn
công vào đài. Sáng sớm ngày 12/11, 1 số quân Thiết Giáp và TĐ3
Thủy Quân Lục Chiến do Đại uý Bằng TĐP chỉ huy, mới vào tăng
cường trong Dinh Độc Lập.
Lúc 10:00g sáng, tại Đài phát
thanh, lực lượng phòng ngự trong đài ước lượng khoảng trên dưới
1 Đại Đội.
– Tất cả giơ tay lên và ở đâu đứng đó. (Lực
Lượng Xung Kích bắt đầu tấn công. Lệnh phá đài đã không được
quân canh gác thi hành.) Thế là đài đã được tái chiếm trong độ
20 phút và không có tổn thất gì, vì đơn vị bảo vệ không chống
cự. Thiếu tá Mẫng mở đầu loan báo chiếm lại Đài phát thanh và
tất cả sĩ quan, hạ sĩ quan, và binh sĩ nguyện trung thành với
Tổng thống.
Lúc 11:30g, có tiếng súng nổ giao tranh
bên ngoài Dinh Độc Lập, Đại uý Lữ Đình Sơn sau khi giả vờ ủng hộ
quân đảo chánh và đem quân bố trí quanh vườn Tao Đàn theo thế
cài răng lược với các Đại Đội của TĐ3ND và vì không thể điều
đình phe nổi dậy thả Tướng Thái Quang Hoàng nên cho lệnh đơn vị
BĐQ của ông bất thần tấn công bắt giữ Thiếu tá Phan Trọng Chinh
rồi kéo vào Dinh Độc Lập.
Nghe Thiếu tá Chinh bị bắt,
Trung tá Đông gọi vào Dinh điều đình với ông Diệm để đổi với bà
Trần Thiện Khiêm (Bà Khiêm bị bắt khi phe nổi dậy nghe tin ông
Khiêm mang quân về Sài Gòn) và muốn nói chuyện với Thiếu tá
Chinh. Thiếu tá Chinh nói với Trung tá Đông: HĐCM cứ tiếp tục
nhiệm vụ cứu quốc đừng quan tâm đến ông. Sau đó Thiếu tướng
Khánh, thừa lệnh Tổng thống Diệm, điện thoại cho phe đảo chính
và nói với họ: Tổng thống chấp thuận thả Thiếu tá Chinh và yêu
cầu họ thả phu nhân Đại tá Khiêm.
Thiếu tá Lộc nghe tin
Thiếu tá Chinh bị bắt Ông phải trở lại điều động đơn vị Nhảy Dù,
và sau đó ông về ở luôn trong BTTM.
Từ lúc sáng sớm
ngày 12/11, dân chúng khắp nơi kéo về biểu tình trước Dinh Độc
Lập. Họ tập họp đả đảo chế độ và đòi truất phế Ngô Đình Diệm.
Tướng Khánh yêu cầu phe nổi dậy giải tán đám dân chúng biểu
tình. Trong đám biểu tình hỗn độn đó, 1 số nhân viên thường
phục của Trung tá Lê Quang Tung len lỏi trong dân chúng nổ súng
làm cho họ hoang mang. Cuộc biểu tình ra ngoài tầm kiểm soát của
HĐCM. Ông Diệm ra lệnh cho 2 Trung Đoàn Thiết Giáp của Lâm Quang
Thơ và Thẩm Nghĩa Bôi bắn vào đám dân chúng, máu đã đổ, 1 số
lớn thường dân đã ngã gục. Và cuộc mít–tinh tan vỡ không đầy 5
phút sau đó.
Trước khi ra lệnh đàn áp biểu tình, ông Diệm
đã cho lệnh SĐ7BB vượt sông Sài Gòn tập trung tại xa lộ Biên Hòa,
và quân của Trần Thiện Khiêm cũng vào sát tới Phú Lâm. HĐCM phản
đối việc điều quân này thì Tướng Khánh bảo rằng để đề phòng dân
chúng biểu tình kéo vào chiếm Dinh Độc Lập.
Tình hình mỗi
lúc 1 thêm căng thẳng, lực lượng bộ binh cứu giá kéo vào thành
phố càng lúc càng đông, bao vây các khu vực Nhảy Dù chiếm đóng.
Ông Diệm lo ngại HĐCM nương theo dân chúng tràn vào Dinh Độc Lập, phe đảo chánh càng lo ngại về các biến chuyển quân sự.
Trong khi đó ông Đán không có những lo nghĩ của những người
trong cuộc trước các diễn biến bất lợi, nên ông họp báo ở rạp
Thống Nhất chỉ trích gia đình ông Diệm đồng thời chỉ trích Thiếu
tá Lợi không cho ông tiếp tục đả kích chế độ trên Đài phát
thanh.
Có lẽ do sự khuyến cáo của Đại sứ Hoa Kỳ hoặc của
Tướng Mc Garr, Thiếu tướng Khánh đề nghị tập trung 2 lực lượng
đối kháng về 2 nơi riêng biệt để tránh những sự đụng độ không
cần thiết. Phe nổi dậy rút về khu vực TTM, phe cứu giá tập trung
quanh khu Dinh Độc Lập. Sau nhiều lần bàn cãi HĐCM đồng ý rút về
BTTM, Tân Sơn Nhất, và Căn cứ Hoàng Hoa Thám.
TĐ1ND
được lệnh rút về chiếm giữ khu Tân Định, Phú Nhuận, và Gò Vấp,
Đơn vị chiếm giữ nha Công An Cảnh Sát rút về chiếm giữ rừng cao
su Phú Thọ, TĐ3ND chiếm giữ khu Mc Mahon, TĐ8ND rút về cố thủ
Căn cứ Bà Quẹo.
11:00g. Các Trung Đoàn Thiết Giáp kéo
đến uy hiếp các đơn vị phòng thủ TTM. Tổng hành Dinh của HĐCM,
Quang cảnh tại đây lúc này giống như buổi chợ chiều. Các sĩ quan
trước đó làm phận sự hăng hái giờ nay đã lặng lẽ bỏ đi tìm sự
bình yên ở gia đình. Luật sư Thụy về thăm nhà rồi không trở lại.
Đại uý Phan Lạc Tuyên lấy cớ đi thăm đơn vị còn đóng tại Tân Sơn
Nhất rồi leo lên xe dùng đường bộ lên Tây Ninh rồi sang Cam Bốt.
Đại tá Thi thì nói sang Tân Sơn Nhất lấy phi cơ thả bom Dinh Độc
Lập. Trước văn phòng Đại tướng Lê Văn Tỵ thấy người lính Quân
Cảnh áo quần thẳng nếp đứng canh gác như không có chuyện gì xảy
ra.
Hồi 10:00g HĐCM hội họp lần chót, lúc này còn có
các ông Nguyễn Ngọc Linh, Đinh Trịnh Chính do Thiếu tá Liễu dẫn
tới để phụ giúp soạn hiến ước tạm thời, có lẽ chưa hiểu rõ tình
hình quân sự hiện tại. Trung tá Đông cám ơn và khuyên họ nên rời
sớm đừng để dính líu thêm sẽ nguy hiểm.
12:00g Lệnh
triệu tập các sĩ quan nòng cốt để duyệt xét tình hình, nhưng
không 1 ai trở về, và vị Sĩ quan liên lạc của Sứ quán Hoa Kỳ
đến báo cho họ biết 1 đơn vị Thiết Giáp đã tiến vào BTTM, và
lực lượng của Trung tá Tung đã vào chiếm khu trường học dành cho
các con em ngoại giao đoàn cạnh BTTM.
Trước tình trạng
thất bại hoàn toàn, HĐCM và 1 số các sĩ quan rút về Tân Sơn
Nhất, quyết định ra ngoại quốc để tránh thiệt hại vô ích thêm
cho các đơn vị. Và mang theo Tướng Thái Quang Hoàng để làm con
tin.
Đại uý Phan Phụng Tiên được chỉ định chỉ huy Căn cứ
TSN khi bắt đầu đã tìm được 1 chiếc phi cơ còn bay được, phi
cơ cất cánh hồi 13:00g ngày 12/11/1960 sang đáp ở phi trường
Nam Vang. Việc không cô lập được khu đầu não Dinh Độc Lập đã tạo
nên sự bất lợi lớn của phe đảo chính. Ngô Đình Diệm khôn khéo vờ
thương thảo để hoãn binh, gấp rút soạn thảo và cho phát thanh
bài luận văn với hứa hẹn sẽ bầu cử tự do và tiến hành nhiều hoạt
động tự do–dân chủ khác. Mặt khác, ông cho điều các lực lượng
thân cận về giải vây cho khu đầu não.
Về việc người Mỹ
dính dáng vào “vụ đảo chánh hụt” này là có thật. Không có Mỹ thì
không ai dám đảo chánh, các tướng tá, chính khách muốn hành động
gì thì cũng dựa vào Mỹ. Trước khi biến cố này xảy ra, George
Alexander Carver Jr. Một nhân viên mật vụ tòa Đại sứ Mỹ đã liên
lạc với Hoàng Cơ Thụy và khuyến khích phe đối lập đứng lên chống
đối chính quyền.
Nhưng 1 số lớn chính khách chỉ theo
nhóm đảo chính sau khi Chính biến đã xảy đều hy vọng có cơ thành
công, nhưng rồi thất bại. Đám đầu não trong khi đảo chính, đã
chuẩn bị nếu thất bại thì có đường rút nhờ có sự bảo đảm của Mỹ.
Đám chính khách còn ở lại thì đều bị bắt như quý ông: Phan Quang
Đán, Phan Khắc Sửu, Vũ Hồng Khanh, Phan Bá Cầm, Bùi Lượng, Trần
Văn Tuyên, Nguyễn Xuân Chữ, Đinh Xuân Quảng, Nguyễn Thành
Phương, Nguyễn Thành Vinh, Vĩnh Lợi, Trần Tương, Trương Bảo Sơn,
Luật sư Lê Ngọc Chấn, và người cuối cùng là Nhất Linh Nguyễn
Tường Tam.
Sau đảo chánh, Trung tá Cao Văn Viên được chỉ
định về làm Tư lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù. Thiếu tá Hồ Châu Tuấn về
theo làm Chỉ huy trưởng Hậu cứ, và Ngô Đình Châu cũng biệt phái
về Lữ Đoàn Dù, để theo dõi mọi hành động của các sĩ quan Dù.
Gia đình của cố Tổng thống Ngô Đình
Dinh Gia Long
Tài liệu tham khảo:
– Binh Biến 11/11/1960 của Vương Văn Đông, do nhà Văn Nghệ xuất bản năm 2000 tại California, Hoa Kỳ.
– Việt Nam 1 trời tâm sự của Nguyễn Chánh Thi tác giả xb 1987.
– Hai cuộc đảo chính 11/11/1960 và 01/11/1963 Đại tá Phạm Văn Hưởng tường thuật trên diễn đàn Thông Luận.
– Cuộc Binh Biến 11/11/1960 của Ngô Đình Châu.
– Cuộc đảo chánh 11/11/1960 của Đại tá Nguyễn Hữu Duệ.
– Và các cuộc phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù.
******07******
7.
Trận Phước Thành (18–19/9/1961)
Trận
Phước Thành
(18–19/9/1961)
Để bảo vệ an ninh lãnh thổ và
phát triển, chính phủ Ngô Đình Diệm đã ban hành sắc lệnh sắc lệnh số 25–NV ngày 23 tháng 1 năm 1959 của
Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa để thành lập tỉnh Phước Thành gồm 3 quận Tân Uyên,
Hiếu Liêm, và Phú Giáo lấy từ quận Tân Uyên tỉnh Biên Hòa, và phần đất của các tỉnh Phước Long, Long Khánh, Bình Dương. Tỉnh lỵ đặt tại Phước Vĩnh do Thiếu tá Nguyễn Minh Mẫng làm tỉnh trưởng.
Phước Thành có vị trí quan trọng cả về chiến lược và chiến thuật án
ngữ trên trục lộ giao thông chiến lược 14 và ngay cửa ngõ Chiến khu
D, 1 Căn cứ địa quan trọng của cộng sản trực tiếp chỉ huy các hoạt
động phá hoại của VC ở miền Đông và Sài Gòn. Sở dĩ chính phủ Việt
Nam Cộng Hòa cho thành lập tỉnh này là để kiểm soát con đường xâm
nhâp dọc theo hành lang sông Bé và trục di chuyển QL14, không cho
Cộng quân di chuyển vào Việt Nam từ các mật khu an toàn của chúng
trên đất Kampuchea. Phước Thành cùng với Chơn Thành, Bình Long, Đồng
Xoài, Lộc Ninh, Phước Long tạo thành 1 hệ thống Cứ điểm Quân sự
liên hoàn bao vây Chiến khu D và Chiến khu Dương Minh Châu của Việt
cộng. Tỉnh bị giải thể theo Sắc lệnh số 131–NV ngày 6 tháng 7 năm
1965 của Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa.
Tỉnh Phước Thành phía Bắc giáp tỉnh Phước Long, phía Đông là
Long Khánh, phía Nam giáp tỉnh Biên Hòa, phía Tây là 2 tỉnh
Bình Dương và Bình Long. Diện tích toàn tỉnh là 1,300km². Đất
Phước Thành phần nhiều là đồng bằng, rừng, và vườn trái cây,
không có núi cao. Sông chính của tỉnh là sông Bé (1 chi lưu
của sông Đồng Nai), từ Bình Long và Phước Long chảy qua theo
hướng Bắc–Nam, đến An Linh chảy theo hướng Đông–Bắc và Tây–Nam, và
có 1 phụ lưu là sông Giai. Kế đến là sông Đồng Nai, chảy sát
ranh giới với Long Khánh và Biên Hòa ở phía Nam. Ngoài ra, tỉnh
còn có các sông, suối đáng kể khác như Da Sa Mạch, rạch Rát,
suối Lạch Bé, suối Ma Da, suối Ram, suối Trong, suối Tiên. Ngoài
số đồng bào Kinh sinh sống phần đông ở đây, còn có đồng bào
Thượng sắc tộc Stiêng, Mạa Churu, và đồng bào gốc Khmer, Chàm.
Trong thời gian này, lực lượng bảo vệ an ninh tỉnh lỵ chỉ có
2 Đại Đội Địa Phương Quân, 1 Pháo Đội 105ly, 1 Đại Đội Cảnh sát
dã chiến, và 1 Chi Đội Chiến Xa trấn giữ. Sau ngày đảo chánh
11/11/1960 của Trung tá Vương Văn Đông tại Sài Gòn, Việt cộng
tin tưởng rằng họ có thể chiếm đươc chính quyền miền Nam bằng
chính trị. Do đó CSBV đã chuẩn bị thành lập 1 cơ cấu chính
quyền bù nhìn của họ tại miền Nam để thay thế chính quyền Việt
Nam Cộng Hòa khi sụp đổ. Vì vậy ngày 20 tháng 12 năm 1960, Mặt
trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam được công bố thành lập tại Tây
Ninh.
Lực lượng địch
– Gồm 2 Trung Đoàn Q761
và Q762 do Nguyễn Hữu Xuyến Tư lệnh Quân Khu chỉ huy. Nguyễn
Việt Hồng – Chính ủy; Đặng Ngọc Sỹ – Chỉ huy phó; Đặng Hữu Thuấn
– Tham mưu trưởng.
– Ngoài ra còn Tiểu Đoàn Quân Chủ lực
Phân Khu Miền Đông D500, Đại Đội C260, 1 Phân Đội Đặc công,
1 Trung Đội DKZ (3 khẩu).
Lực Lượng Bạn
– 2 Đại Đội Địa Phương Quân.
– 1 Pháo Đội 105ly.
– 1 Đại
Đội Cảnh sát dã chiến, và
– 1 Chi Đội Chiến Xa trấn giữ.
Diễn Tiến:
Ngày 15/2/1961, Bí thư
Trung ương cục Miền Nam của CSBV là Nguyễn Văn Linh đã triệu tập
1 cuộc họp tại Đồng Rùm để phát động chiến dịch bạo lực cách
mạng, đề ra nghị quyết nâng đấu tranh vũ trang lên ngang hàng
với đấu tranh chính trị và lấy ngày 15/2/1961 làm ngày thành lập
Lực Lượng Quân Đội Giải Phóng do Trần Nam Trung tức Tướng CS
Trần Lương phụ trách. Lực Lượng Quân sự VC được tổ chức gồm 3
thành phần: Chủ lực, Địa phương, và Du kích. VC bắt đầu thành lập
Trung Đoàn 1 Chủ lực do Thiếu tá Tư Chương chỉ huy, về sau Trung
Đoàn này trở thành Trung Đoàn Q761 thuộc Công Trường 9. Tiếp
theo là Trung Đoàn thứ 2 (Q762) được thành lập do Tám Vân làm
Trung đoàn trưởng. Rồi Trung Đoàn thứ ba là U70 cũng được thành
lập, sau đổi lại là Trung Đoàn 87 bảo vệ cục R. Nhận xét Phước
Thành nằm giữa lòng Chiến khu D, là địa bàn quan trọng đối với
chiến trường miền Đông và còn là cửa ngõ then chốt, yết hầu của
Chiến khu D – Căn cứ địa quan trọng đối với cả chiến trường miền
Nam nên Cộng quân không thể hoạt động dễ dàng được. Chính vì
những yếu tố trên, nên Phước Thành trở thành mục tiêu phải tấn
công dứt điểm tỉnh lỵ nhằm phá tan sự bao vây và chia cắt Chiến
khu D.
Để Chuẩn bị cho trận đánh, ngày 25/8, Khu ủy và Bộ
Tư Lệnh Quân Khu miền Đông chỉ thị cho cán bộ trinh sát do Đặng
Ngọc Sỹ chỉ huy tiến hành nghiên cứu chiến trường với chiến
thuật kết hợp giữa Đặc công với bộ binh. Vừa bí mật thâm nhập,
vừa vận động tấn công, kết hợp trong đánh ra ngoài đánh vào.
Vào khoảng nửa đêm ngày 18/9/1961, cộng sản bất thần tung 2
Trung Đoàn, do Nguyễn Hữu Xuyến Tư lệnh Quân Khu chỉ huy (tin
tình báo của tỉnh Phước Thành cho là Huỳnh Công Nghệ chỉ huy,
nhưng thật sự Nghệ đã chuyển ra Bắc và không còn nắm quyền chỉ
huy quân sự) với khoảng 1,500 quân bao vây và tiến chiếm tỉnh Lỵ
Phước Vĩnh, sau khi đã mở chiến dịch gồm 41 trận đánh lớn nhỏ
trên khắp lãnh thổ miền Đông để áp đảo và chia xẻ lực lượng
VNCH.
Vào khoảng 22:30g các cánh quân của VC tấn
chiếm trận địa, áp sát mục tiêu (Cộng quân đã móc nối được với
viên thượng sĩ già thường vụ trong tỉnh đường Phước Vĩnh làm nội
gián).
Đúng 23:00g, khởi động cuộc tấn công, cộng quân
dùng đại bác không giật 57ly bắn sập pháo đài chỉ huy của tỉnh
đường, tiếp theo 1 tiếng nổ long trời của quả bộc phá 12kg làm
sập 1 góc nhà Dinh tỉnh trưởng, phát lệnh mở đầu cuộc tấn
công, sau đó CS tung quân tấn công tràn ngập thị trấn, đánh chiếm
các mục tiêu. Tỉnh trưởng Nguyễn Minh Mẫng điều động binh sĩ trú
phòng phản công, nhưng vì lực lượng địch quá đông, trong khi lực
lượng bảo vệ tỉnh lỵ chưa đến 2 Đại Đội Địa Phương Quân. Sau
cùng ông đã bị 1 tràng đạn AK rồi ngã gục, trên tay còn cầm
khẩu Thompson. (Cộng quân chỉ tấn công tỉnh Phước Thành sau khi
1 Chi Đội Thiết Giáp phòng thủ tỉnh lỵ gồm 4 Chiến Xa có trang
bị hỏa lực mạnh rút về công xưởng để tu sửa khoảng 1 tuần lễ.
Sau khi Thiếu tá Nguyễn Minh Mẫng, Tỉnh trưởng tử trận, Cộng
quân tiếp tục tấn công tiêu diệt tất cả các ổ kháng cự và chiếm
giữ tỉnh đường. Phó tỉnh trưởng cùng với 1 số viên chức hành
chánh bị bắt.
Sau đó Cộng quân chia thành 3 mũi tấn công vào
khu Đại Đội Cảnh Sát, khu đóng quân của Đại Đội Bảo An, Chi Đội
Thiết Giáp, và kho xăng dầu, và 1 mũi đánh vào trại giam giải
thoát tù chính trị (trong số đó có thân nhân của Huỳnh Công
Nghệ, 1 cán bộ cao cấp của CS).
Cộng quân chiếm giữ
tỉnh lỵ khoảng 6 giờ liên tiếp rồi rút lui vào rừng sâu. Sáng
sớm ngày hôm sau, Lữ Ðoàn Nhảy Dù gồm 3 Tiểu Ðoàn do Ðại tá Cao
Văn Viên, Tư lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù trực tiếp chỉ huy nhảy dù
xuống chiếm lại tỉnh lỵ và tổ chức lực lương phòng thủ, và hành
quân giải tỏa chung quanh tỉnh lỵ. Sau đó, Tổng thống Ngô Ðình
Diệm tới thăm mặt trận, Thiếu tá Hồ Tiêu TÐT/TÐ5ND giữ an ninh
thành phố, Thiếu tá Hồ Trung Hậu, SQ tùy viên quân sự được chỉ
định ở lại làm tỉnh trưởng thay thế Thiếu tá Mẫng. Sau đó 3 tuần
lễ, tại Diễn Đàn Quốc Hội, Tổng thống Diệm chính thức tuyên bố
với quốc dân và thế giới là Việt cộng, với sự chỉ đạo và yểm trợ
của cộng sản quốc tế đã chính thức biến cuộc chiến tranh Du kích
trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa thành 1 thứ chiến tranh xâm
lăng quy mô thực sự, có sự tham chiến của quân chính quy cộng
sản, được trang bị tối tân và hùng hậu.
Lính Nhảy Dù xung phong
Tài liệu tham khảo:
– Người Bình Xuyên của Nguyên Hùng trên trang nhà vnthuquan.net.
– Phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù.
– Các tin tức do bào đệ Cố Thiếu tá Nguyễn Minh Mẫng cung cấp.
******08******
8.
Trận Ấp Bắc (2–3/1/1963)
Trận
Ấp Bắc
(2–3/1/1963)
Cuối tháng 12/1962, tin tức tình
báo cho biết 1 lực lượng VC khoảng 2 Đại Đội đã hiện diện tại ấp
Tân Thới đồng thời cũng phát giác
được
vị trí 1 Đài phát thanh của cộng sản trong vùng cách Ấp Bắc khoảng
1.5km về hướng Tây–Bắc.
Ấp Bắc là 1 địa danh thuộc xã Tân
Phú Trung quận Cai Lậy tỉnh Kiến Tường, cách Sài Gòn 65km về hướng
Tây–Nam và cách Mỹ Tho 27km về hướng Tây–Bắc, cách QL4 khoảng 5km.
Ấp Tân Thới ở về phía Bắc của Ấp Bắc liền nhau như hình cánh cung và
ngăn đôi bởi Rạch Ấp Bắc. Trong thôn ấp nhiều nhà dân xen kẽ với
những vườn cây ăn trái sầm uất và nhiều mương rãnh thuận lợi cho
việc ẩn núp phòng thủ của quân CS.
Tướng Huỳnh văn Cao vừa
được Tổng thống Ngô Đình Điệm chỉ định làm Tư lệnh Vùng 4 Chiến
Thuật nên bàn giao cho Ðại tá Bùi Ðình Ðạm chức vụ Tư lệnh SĐ7BB.
Ðại tá Bùi Ðình Ðạm và Cố vấn John Paul Vann cấp tốc soạn thảo kế
hoạch hành quân mang tên Ðức Thắng I sẽ bao gồm 3 mũi để tấn công
tảo thanh 2 mục tiêu này với sự yểm trợ của trực thăng Hoa Kỳ.
• Cánh thứ nhất là Tiểu Ðoàn 1/11/7BB trực thăng vận xuống phía
Bắc của ấp Tân Thới.
• Cánh thứ nhì gồm 2 Ðại Ðội Bảo An thuộc
Tiểu Khu Định Tường sẽ tiến song song đánh vào phía Nam của Ấp Bắc.
• Cánh thứ 3 gồm 13 Thiết Vận Xa M113 chở 1 ÐÐ bộ binh tiến
thẳng vào Ấp Bắc từ hướng Tây. Các M113 này đều trang bị đại liên 50
(12.7ly) có 1 chiếc gắn thêm súng phun lửa.
• Ðể yểm trợ hỏa
lực cho các đơn vị này là nhờ Pháo Binh và Không Quân yểm trợ.
• 2 Ðại Ðội BÐQ do tàu Hải Quân chuyên chở từ kinh Ba tiến vào
vùng hành quân làm lực lượng trừ bị.
Lực lượng địch:
• Tiểu Đoàn Chủ Lực tỉnh Mỹ Tho 514 do Mười Ðiệp chỉ huy.
•
Tiểu Đoàn Chủ Lực Miền 261 do Bảy Ðen chỉ huy.
• 1 Trung Ðội Du
kích quận Châu Thành.
• 1 Khẩu Đội súng cối 60ly.
Lực Lượng VNCH:
• Chỉ huy mặt trận: Ðại tá Bùi Ðình
Ðạm – Tư lệnh SÐ7BB.
• Tiểu Ðoàn 1/Trung Ðoàn 11/Sư Đoàn 7BB (trực
thăng vận).
• Chi Ðoàn 4/Thiết Ðoàn 2 Kỵ Binh (15 Thiết Vận Xa
M113, Đại uý Lý Tòng Bá chỉ huy).
• 2 ÐÐ Ðịa Phương Quân của Tiểu
Khu Ðịnh Tường.
• 2 Ðại Ðội BÐQ án ngữ trên kinh Nguyễn Tấn Thành.
• 2 Đại Đội/TĐ8ND.
Diễn Tiến:
VC cần
phải gây dựng lại uy tín và tinh thần cán binh đã mất trong vài
tháng trước khi Tiểu Đoàn Chủ Lực 502 bị tổn thất hàng trăm quân tại
ranh giới Mỹ Tho–Sa Đéc trong trận đụng độ ác liệt với Chi Đoàn 7
Thiết Quân Vận vào ngày 18 tháng 2 năm 1962. Trong trận đánh này,
1 nửa quân số của TĐ502 bị loại ra khỏi vòng chiến ngay trong
những giờ phút đầu tiên của trận đánh, 1 nửa còn lại đã phải ngụp
lặn trong cánh đồng ngập nước để tìm cách chém vè trong đêm tối
nhưng hầu hết đều bị bắt sống.
Phóng đồ trận Ấp Bắc
Ngày 31/12/1962 VC bất ngờ tung 2 ÐÐ 1/514 Địa phương tỉnh Mỹ
Tho do Mười Ðiệp chỉ huy đến chiếm ấp Tân Thới, ÐÐ1/261 thuộc
Quân Khu 8 do Bảy Ðen (Ðặng Minh Nhuận) chỉ huy và 1 Trung Đội
Du kích Châu Thành Mỹ Tho đến chiếm giữ Ấp Bắc, tất cả những đơn
vị này đều do Hai Hoằng (tên thật là Nguyễn Văn Ðiều) tổng chỉ
huy. Ngoài ra còn có thêm Tiểu Ðoàn Tây Ðô trên đường di chuyển
1 số vũ khí để chuẩn bị thành lập 1 đơn vị mới Chủ lực tại
khu 2 Đồng Tháp do Lê Quốc Sản ngoài Bắc vào làm Tư lệnh, từ Trà
Vinh vừa về đến Mỹ Tho đóng tại kinh Năng thì bị phát giác.
Lực lượng Cộng quân thật sự vào khoảng 350 tay súng của cả 2 Tiểu Đoàn 514 địa phương và 261
Chủ lực (không kể TÐ Tây Ðô)
được trang bị hỏa lực hùng hậu, hầu hết dùng loại súng Carbin
M1, mỗi Đại Đội 1 đại liên 30ly, mỗi Trung Đội được trang bị 2
khẩu trung liên Bar (vì tàu chở vũ khí bị phát giác nên chúng
cấp tốc phân phát số vũ khí này cho lực lượng địa phương Mỹ Tho
và Bến Tre vừa mới tập trung để hình thành đơn vị Chủ lực Khu
2). Cộng quân chuẩn bị tác chiến trong những công sự phòng thủ
chắc chắn từ ấp Tân Thới lên đến Ấp Bắc và ẩn núp dưới những tàn
cây rậm rạp nên rất khó phát hiện.
Ngày 2/1/1963 lúc
07:00g, 10 chiếc trực thăng CH21 chuyển 1 Đại Đội của
TÐ1/11/7BB đáp xuống phía Bắc ấp Tân Thới. Do nơi sương mù quá
nhiều nên chuyến thứ nhì và thứ 3 phải chờ tới 9:30g mới tiếp
tục được.
Lúc 07:45g 2 đơn vị Bảo An từ Ðiềm Hy tiến
vào ấp Cai Tổng Vàng xã Tân Phú gặp VC phục kích sẵn nổ súng dữ
dội, làm tử thương vị Ðại đội trưởng và ÐÐP ngay những giây phút
đầu tiên làm mũi tấn công bị khựng lại. Cánh Hải Quân chở đơn vị
BÐQ theo kinh Nguyễn Tấn Thành cũng bị Trung Đội Du kích địa
phương ngăn chận quấy rối.
Trong khi đó, 10 phi cơ CH21
đổ quân TÐ1/11/7BB xuống nơi bãi đáp phía Tây Ấp Bắc khoảng
200m, do không có Phi Pháo yểm trợ, Cộng quân từ các công sự
phòng thủ ào ra tấn công dữ dội vào bãi đáp trực thăng. Một chiếc
CH21 chuyển quân bị bắn rơi ngay tại bãi đáp, 1 chiếc khác
cũng bị rơi cách đó không xa, chiếc thứ ba định đáp xuống để cứu
phi hành đoàn nhưng cũng bị trúng đạn và rơi ngay trước mũi tiến
quân của Thiết Vận Xa khoảng 500m. Một trực thăng vũ trang UH1A
đáp xuống cạnh chiếc trực thăng CH21 bị rớt để cứu phi hành
đoàn đã bị bắn rơi lật ngược xuống ruộng. Một chiếc UH1A khác
cố gắng tiếp cứu đồng đội cũng bị bắn rơi luôn, 2 phi hành đoàn
được cứu thoát nhưng cơ khí trưởng bị tử thương. Cộng quân đã
bắn rơi tất cả 5 chiếc trực thăng.
Vào lúc 13:45g, Chi
Đoàn 4/2 Thiết Quân Vận được lệnh tấn công vào Ấp Bắc đồng thời
để giải cứu các phi hành đoàn. Giao tranh xảy ra khốc liệt, 8 xạ
thủ đại liên 50 trên Thiết Vận Xa M113 đã bị tử thương ngay
trong đợt tấn công đầu tiên (có 1 SQ là Chuẩn uý Nguyễn Văn
Nho). Ðến 14:30g, cả 4 hướng của cuộc hành quân đã bị hỏa
lực VC chận đứng.
Trận đánh kéo dài tới chiều, theo lời
yêu cầu của Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao, BTTM đã tăng viện
TÐ8ND. BCH/TÐ8ND gồm có TÐT: Ðại uý Trần Văn Hai, TÐP: Ðại uý
Nguyễn Ðình Vinh, Trưởng Ban 3 Ðại uý Nguyễn Văn Nghiêm, ÐÐT 81
Trung uý Phạm Huy Sảnh, ÐÐT/82: Trung uý Nguyễn Văn Nghi,
ÐÐT/83: Trung uý Tăng Thường Lực, ÐÐT/84: Trung uý Hoa Hải
Ðường, ÐÐT/ÐÐ80: Trung uý Nguyễn Nghiêm Tôn.
2 chiếc H21 & HU1A bị bắn rơi trên đồng lúa
Binh chủng Nhảy Dù hồi đó là Lực Lượng Tổng Trừ Bị duy nhất của
quân đội. Chiến trận chưa đến nỗi sôi bỏng như các năm về sau,
hoạt động địch quân hầu hết là du kích chiến hơn là trận địa
chiến. LĐND năm 1963 gồm 5 Tiểu Đoàn tác chiến cùng các đơn vị
tiếp vận, đảm trách nhiệm vụ “lính cứu hỏa”
cho toàn quốc, mặt trận nào gay cấn là được Tổng Tham Mưu gọi đi
chữa cháy. Ngoại trừ những đơn vị đi hành quân xa, tại Sài Gòn
hằng ngày đều có 2 Tiểu Đoàn Nhảy Dù ứng trực: 1 Tiểu Đoàn trực
hành quân bộ (ground
alert), với 1
đoàn xe GMC đậu sẵn trong doanh trại, có lệnh là lên xe đi. Một
Tiểu Đoàn trực hành quân không vận, được gọi là
air alert:
đơn vị ra nằm sẵn tại phi trường Tân Sơn Nhất,
khi hữu sự thì lên máy bay đi can thiệp những nơi dầu sôi lửa
bỏng. Nếu từ sáng đến chiều không có chuyện gì xảy ra, thì lính
Dù chỉ nằm dài bên cạnh những bộ dù được xếp ngay ngắn ngay tại
sân bay chờ lệnh.
Ngày 2 tháng 1 năm 1963, TĐ8ND có nhiệm
vụ ứng trực không vận, 1 ngày trực có vẻ êm ả cho đến gần 5:00g chiều thì có lệnh nhảy hành quân. Ngay sau đó,
1 quang
cảnh thật là hấp tấp diễn ra, các sĩ quan vừa nhận được lệnh
hành quân và bản đồ đang quay đầu bàn bạc với nhau, còn anh em
binh sĩ mạnh ai nấy mang dù chứ không được huấn luyện viên kiểm
soát như trong những lần nhảy bồi dưỡng hay nhảy trận khác.
Đến 6:00g chiều thì mọi người bắt đầu lên 7 chiếc phi cơ C123
Fairchild với phi hành đoàn Hoa Kỳ. Loại phi cơ này thả dù bằng
2 cửa, khác với C47 Dakota chỉ có 1 cửa
[sau đuôi phi cơ].
Mỗi chiếc C123 thả được 40–45 quân nhân trong khi C47 chỉ chở
được 25 người tối đa.
Lúc 6:30g, Các vận tải cơ C123
bay đến trận địa và thả dù đợt đầu tại phía Tây Ấp Bắc gồm 2
Đại Đội tác chiến và Tiểu Ðoàn Phó. Vì quá gấp rút, các thủ tục
kiểm soát an toàn và bố trí bãi thả dù không thực hiện được đầy
đủ nên việc thả dù có nhiều sơ hở. Khi các cánh dù còn đang lơ
lửng trên không thì 1 cảnh tượng hãi hùng đang diễn ra từ mặt
đất: đạn lửa chằng chịt như 1 bãi pháo bông, cộng quân từ tứ
phía tấn công dữ dội bắn lên các cánh dù đang căng gió. Càng
xuống gần đất, tiếng súng nổ càng chát chúa, đến khi đáp được
xuống ruộng thì đạn bay vèo vèo, các chiến sĩ Nhảy Dù vội vã tìm
nơi ẩn núp sau các bờ ruộng.
Lúc đó khoảng 18:30g, trời
bắt đầu tối, tầm nhìn xa bị giới hạn. Một trực thăng H21 vừa
đáp phía sau bãi nhảy độ 300 thước bị 1 tia đạn lửa từ trong
làng bắn ra đã kịp thời bay đi. Trời bắt đầu tối hẳn, địch quân
ẩn núp trong các hầm hố làm sẵn trong Ấp Bắc, quan sát đoàn quân
Nhảy Dù vừa đáp xuống rất rõ, vẫn tiếp tục bắn ra như mưa nên
việc tập họp để lấy đội hình tấn công rất khó khăn. Đại uý
Nguyễn Ðình Vinh TĐP, cùng các sĩ quan vừa gom lại được đang bàn
tính cách đối phó trong hoàn cảnh nguy hiểm này. Các vị này được
biết là chỉ có nửa Tiểu Đoàn nhảy xuống mà thôi, phần còn lại
cùng Tiểu đoàn trưởng kẹt lại phi trường TSN vì trời tối máy bay
không thả được nữa.
Một nửa TÐ8ND rơi tản mác trên 1 cây số ngoài đồng ruộng, địa thế sình lầy di chuyển khó khăn.
Tuy nhiên với quân số tập trung lại được, Lực Lượng Nhảy Dù cũng
đã tấn công 3 lần vào vị trí phòng thủ của địch nhưng đều bị
đánh bật trở lại vì không có Phi Pháo và Pháo Binh yểm trợ, chỉ
có đại liên 30 là lớn nhất.
TÐ8ND cũng chẳng liên lạc
được với Bộ Tư Lệnh Hành Quân ở Tân Hiệp, Mỹ Tho. Ðến 10:00g
đêm, lợi dụng đêm tối, Cộng quân rút lui về hướng Ðồng Tháp Mười
và mang theo hầu hết tử và thương binh. Khi trời tờ mờ sáng thì
tiếng súng thưa thớt rồi im hẳn. Sáng ngày 3/1/1963 hôm sau, các
đơn vị Dù tập trung quân và tiến vào Ấp Bắc thì địch quân đã rút
lui nên không 1 cuộc chạm súng nào xảy ra. Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù
cũng đã thu thập được mấy binh sĩ Nhảy Dù rớt vào làng chiều qua
bị địch giết, người còn đeo đai dù nhưng lá dù thì đã bị địch
cắt mang đi. Chiều cùng ngày TÐ8 rút bằng đường bộ và khi ra tới
đường cái QL4 đi lục tỉnh, xe đò chở hành khách chạy ngược xuôi
như chẳng việc gì xảy ra...
Nhận Xét:
Trận Ấp Bắc tuy là 1 trận đánh nhỏ so với những chiến dịch
to lớn sau này trong chiến tranh Việt Nam như chiến dịch Ia
Drang, chiến dịch Bình Tây Kampuchea, chiến dịch Hạ Lào hay mùa
hè đỏ lửa nhưng ảnh hưởng của nó rất lớn, đánh dấu 1 biến
chuyển, 1 khúc quanh trên đường lối chỉ đạo chiến tranh của cả
3 phe tham chiến: VNCH, Hoa Kỳ, và CSBV.
Theo Bác sĩ
Hoàng Cơ Lân (nguyên Y sĩ Trưởng SĐND, đã cùng nhảy dù xuống Ấp
Bắc chiều ngày 2/1/1963 với TĐ8ND) nhận định rằng: "thất bại này
của phe ta, hoàn toàn do sự thiếu kinh nghiệm bất lực của cấp
chỉ huy chiến trường. Lý do chính là việc dùng người của Tổng
thống Ngô đình Diệm, không tin những ai thật sự yêu nước và có
khả năng, mà chỉ vì ưa nịnh hót và sợ đảo chính, đã cho giai cấp
gà nhà nắm hầu hết chức vụ then chốt trong Quân đội. Trường hợp
điển hình là việc điều quân 1 cách bết bát ngoài sức tưởng
tượng trong trận Ấp Bắc. Không 1 cấp chỉ huy cao cấp nào của
trận chiến có mặt tại trận địa (Tư lệnh Vùng, Sư Đoàn, Trung
Đoàn, Tiểu Khu...) để kịp thời có quyết định thích ứng, chỉ theo
dõi diễn tiến và ra chỉ thị tại Bộ Tư Lệnh Hành Quân ở Tân Hiệp,
phó mặc các cán bộ cấp uý lo liệu tại chỗ. Thấy tình hình không
ổn, Tướng Huỳnh Văn Cao mới gọi Nhảy dù xuống tiếp viện, song
quá muộn và trong điều kiện vô cùng bất lợi khiến chúng ta đáng
lẽ thắng lớn, mà đành phải chịu thua 1 địch quân yếu hơn chúng
ta nhiều. Chỉ tội nghiệp cho những quân nhân của Quân đội ta đã
hy sinh trong ngày 2 tháng 1 năm 1963 tại Tân Thới–Ấp Bắc vì
họ đã không được chỉ huy đúng cách, và đặc biệt 18 chiến binh
của TĐ8ND đã nhảy xuống vùng đồng lầy nước đọng này chiều tối
hôm đó đã bỏ mình 1 cách oan uổng vì sự kém cỏi cũng như tính
toán nhầm lẫn của những người chỉ huy đương thời."
Trận Ấp
Bắc còn có 1 ảnh hưởng chiến lược lớn lao: trước hết đồng minh
Hoa Kỳ đã đánh giá rất thấp tài năng của cấp chỉ huy VN trong
cuộc HQ này và mượn cớ này để sửa soạn đổ quân ào ạt vào miền
Nam, điều mà chính Tổng thống Ngô đình Diệm cũng không muốn! Thứ
nữa là bộ máy tuyên truyền của CSBV ở Hà Nội mở hết tốc lực thổi
phồng chiến thắng Ấp Bắc lên như 1 Stalingrad của phe cộng
sản, vận động tinh thần quân cán và gửi thêm nhiều người và
chiến cụ vào miền Nam từ sau trận này.
Tổn Thất:
– VC: Chết 41, tù binh 36, bị thương không rõ. (Theo lời của
1 cán binh CS tên Bình với chức vụ Tiểu đội phó có tham dự
trận này kể lại trong quyển “Đồng Bằng Gai Góc” trang 88, 89 của
nhà văn Xuân Vũ thì đơn vị VC của y tham dự trận đánh khoảng 200
người, bị thiệt hại khoảng 150 người, hầu hết Ban Chỉ Huy đều bị
tử trận, Tiểu Đoàn chỉ còn lại khoảng 50 người).
– Hoa Kỳ:
Chết 3, bị thương 6, mất 5 trực thăng trong đó có 3 chiếc H21
và hai chiếc HU1A,
– VNCH: Chết 63, bị thương 109,
– TÐ8ND:
Chết 18, bị thương 33 kể cả 1 Trung sĩ Cố vấn Mỹ.
Tài liệu tham khảo:
– Chiến tranh VN toàn tập 1963–1975 của Tiến sĩ Nguyễn Đức Phương, Làng Văn xuất bản 2001.
– Battle of Ap Bac From Wikipedia, the free encyclopedia.
– Đồng Bằng Gai Góc của nhà văn Xuân Vũ, nxb Xuân Thu California 1996.
– Trận Ấp Bắc Thực Tế và Huyền Thoại Tác giả: Lý Tòng Bá trên vantuyen.net.
– Trận Ấp Bắc ký ức của 1 Quân Y Sĩ của BS Hoàng Cơ Lân trên trang nhà medicinemodernlife.com.
– Và các cuộc phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù.
******09******
9.
Trận Tân Châu Hồng Ngự (2–4/3/1964)
Trận
Tân Châu Hồng Ngự
(Từ ngày 2–4 Tháng 3 năm 1964)
Hồng Ngự là
1 quận lỵ cực Bắc của tỉnh Kiến Phong, nằm trên bờ
Đông của sông Cửu Long. Chỉ có 1 con đường bộ duy nhất QL30 nối
liền với tỉnh lỵ Cao Lãnh khoảng 60km về hướng Tây–Bắc, xuyên qua
kinh Đồng Tiến và quận Kiến Văn. Đối diện với quận lỵ là cù lao Long
Khánh trù phú, dân cư đông đúc với những vườn cây trái xum xuê, rậm
rạp. Đặc biệt, mỏm Bắc của Cù Lao là vùng đất bồi do phù sa của sông
Cửu Long tích tụ lâu đời. Trên đầu doi này có 1 ngôi đình cổ Long
Khánh không biết được xây cất từ bao giờ tọa lạc trên 1 thế đất
cao như 1 ngọn đồi. Từ ngôi đình cổ hoang vắng, người ta có thể
quan sát được 1 vùng sông nước mênh mông bát ngát với những bờ
sông cát trắng, nước trong xanh, phong cảnh hùng vĩ hữu tình tuyệt đẹp.
Hình chụp vào buổi tối bên bờ sông tại quận Hồng Ngự
Ranh giới của quận Hồng Ngự về phía Bắc và Đông–Bắc là vùng biên
giới Việt–Miên, chạy dài tới tận tiền đồn biên phòng Cái Cái giáp
ranh tỉnh Kiến Tường (Mộc Hóa). Phía Tây là sông Cửu Long giáp quận
Chợ Mới thuộc tỉnh An Giang (Long Xuyên). Về phía Tây–Bắc, nằm trên
bờ Tây của sông Cửu Long chỉ cách Hồng Ngự chừng 5, 6 cây số là quận
Tân Châu cũng thuộc tỉnh An Giang. Tại Tân Châu có 1 đơn vị Hải
Quân là Giang Đoàn 58 Tuần Thám trấn đóng, Phía Nam giáp kinh Đồng
Tiến với khu vực Phước Xuyên trong vùng Đồng Tháp Mười nổi tiếng
chạy dài tới quận Mỹ An.
Hồng Ngự chiếm địa thế quan trọng
nằm ngay yết hầu thủy lộ sông Cửu Long và chặn đường xâm nhập của
Cộng quân từ Cam Bốt tràn xuống. Vì vậy Quân Lực VNCH đã thiết lập
Trại LLĐB A432 tại Thường Thới nằm tại phía Bắc của cù lao Long
Khánh để quan sát dọc ven sông và vùng biên giới nhằm phát hiện và
ngăn chặn mọi di chuyển của địch quân. (Trại LLĐB A432 tại Thường
Thới do Thiếu tá Phạm Công Danh làm Chỉ huy trưởng; Trại có 3 Đại
Đội Biệt Kích giữ nhiệm vụ biên phòng, 1 trong 3 Đại đội
trưởng là
Nguyễn Duy Thanh sau này là Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Địa Phương
Quân 543 nổi tiếng của Biệt Khu 44).
Vào khoảng tháng 3 năm
1964, chiến cuộc tại Miền Nam Việt Nam bắt đầu trở nên sôi động sau
cuộc chạm súng với Cộng quân tại Ấp Bắc vào đầu năm 1963. Bên quốc
gia láng giềng Cam Bốt, cộng sản Bắc Việt đã lập nhiều Căn cứ trong
nội địa Cam Bốt và tập trung 1 số đơn vị Chủ lực để tiến hành các
cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa.
Theo tin tức
tình báo và sự ghi nhận của đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt A432 tại
Thường Thới, quận Hồng Ngự, thì Cộng quân đã điều động Lực Lượng Chủ
lực cấp Trung Đoàn Z14 tại Giồng Bàn sát biên giới Việt–Miên. Cộng
quân đã đào giao thông hào trên 10km để di chuyển từ “Cồn Bà Ca” Bến
Đình dọc theo lằn ranh biên giới đến tận Rạch Hồng Ngự nhằm che mắt
quan sat của Quân lực VNCH, quyết tâm giành quyền kiểm soát khu vực
có tầm mức chiến lược quan yếu này để củng cố các trục xâm nhập vào
Việt Nam.
Bản đồ vùng Hồng Ngự
Để truy lùng lực
lượng này của cộng sản, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH gấp rút điều động
1 Chiến Đoàn Đặc Nhiệm gồm Lữ Đoàn Nhảy Dù với 2 Tiểu Đoàn 1 và
8ND cùng với Giang Đoàn 22 xung kích, Giang Pháo Hạm Thiên Kích
329, và 1 Chi Đoàn Thiết Vận Xa M113 do Đại tá Cao Văn Viên, Tư
lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù trực tiếp chỉ huy khởi động cuộc hành quân quy mô vào
đầu tháng 3/1964.
Lực lượng bạn:
– Lữ
Đoàn Nhảy Dù do Đại tá Cao Văn Viên làm Tư lệnh tham chiến với 2
Tiểu Đoàn.
–
TĐ1ND, Tiểu đoàn trưởng là Thiếu tá Đoàn Văn Nu, TĐP là Đại uý Lê
Văn Đặng.
– TĐ8ND, Tiểu đoàn trưởng là Đại uý Trần Văn Hai. TĐP là
Đại uý Đào Văn Hùng.
Lực lượng địch:
Trung Đoàn Z14
Việt cộng gồm Tiểu Đoàn 502 và các đơn vị địa phương tập trung tại
biên giới Việt–Miên, khu vực Tân Châu Hồng Ngự để tấn chiếm vùng đất
chiến lược này.
Cuộc hành quân được giữ bí mật đặc biệt, các
quân nhân tham chiến không được mang bất cứ giấy tờ tùy thân gì liên
quan đến QLVNCH. Mục tiêu của cuộc hành quân phía bên kia biên giới,
Chiến Đoàn được lệnh đánh bọc hậu địch quân và trở về trước 8:00g
sáng. Cộng quân thường lợi dụng Luật Quốc Tế về đường biên giới, ẩn
núp để tấn công Quân Đội VNCH rồi rút trốn sang lãnh thổ Campuchia
như 1 nơi an toàn bất khả xâm phạm.
Ngày 2/3/1964 để đánh
lạc hướng tình báo địch, các đơn vị Nhảy Dù xuống tàu tại Mỹ Tho
được Giang Pháo Hạm 329 và lực lượng Hải Quân xung kích chuyển vận 2
ngày 1 đêm tới đổ quân tại Trại Lực Lượng Đặc Biệt Thường Thới ở
phía Bắc của thị trấn Tân Châu. Tại đây, LLĐB cung cấp 1 Tổ Thám
Sát hướng dẫn lộ trình.
Đổ quân xong khoảng 8:00g đêm ngày
3/3/1964, trời tối đen, phải di chuyển ngay đến mục tiêu. Tiểu Đoàn
1ND được lệnh đi đầu, BCH Lữ Đoàn đi với TĐ1ND. Tiểu Đoàn 8ND đi bọc
hậu. Tất cả đơn vị đều được lấy hướng đi tiêu chuẩn theo địa bàn,
giới hạn tối đa ánh sáng, tiếng động, và ước lượng đến 5:00g sáng
sẽ tới mục tiêu rồi dàn đội hình tác chiến tấn công, thanh toán mục
tiêu trước khi mặt trời mọc.
Đến 5:00g sáng ngày 4/3/1964 mà
đơn vị dẫn đầu chưa tới mục tiêu chỉ định. Đại tá Tư lệnh Lữ
Đoàn
cho lệnh các đơn vị dừng quân và bố trí cho các anh em binh sĩ nghỉ
ngơi chờ sáng.
Đến khi trời sáng dần, để khỏi bị lộ, Đại tá
LĐT cho lệnh hủy bỏ cuộc tấn công và các đơn vị dàn đội hình chuẩn
bị lui binh, TĐ1ND vẫn giữ nhiệm vụ đi đầu và xoay về hướng Đông–Nam
trở về biên giới Việt Nam.
Khi các chiến sĩ Dù vừa chuẩn bị
đội hình di chuyển xong. Bỗng nhiên từ hướng Đông–Bắc, ở rặng cây
xanh cách vị trí dừng quân chưa tới 100m (Giồng Ổ Quạ), địch quân
vừa phát hiện được sự hiện diện của quân ta và khai hỏa dữ dội. Một
quả đạn 57ly trúng vào BCH Hành Quân và BCH/Tiểu Đoàn 1, Đại tá
Chiến đoàn trưởng bị thương ở cánh tay phải, Đại uý Nguyễn Minh
Tiến, Sĩ Quan Hành Quân bị thương nặng gẫy xương chân và mù 1 mắt,
Cố vấn trưởng của Tiểu Đoàn 1ND là Đại uý Mc Cathy và Binh I Trần
Văn Đức thuộc đơn vị Công Binh Nhảy Dù bị tử thương ngay tức khắc.
Trước tình thế nguy hiểm, không 1 chút nao núng, Đại tá Lữ
đoàn trưởng điều động Chiến Đoàn phản công quyết liệt, Tất cả chiến
binh Nhảy Dù dàn đội hình nhắm hướng vị trí địch quân xung phong.
Tiếng hô xung phong, tiếng đạn reo xé gió, đoàn quân Mũ Đỏ tiến như
nước vỡ bờ, áp đảo tinh thần quân địch. Trong khoảnh khắc Lực Lượng
Nhảy Dù đã tràn ngập phòng tuyến của đối phương. Cộng quân bỏ chạy
tán loạn.
Khởi đầu, Đại Đội 13/TĐ1ND (sau này đổi lại là
ĐĐ15) chiếm đuợc đầu giao thông hào phía Đông của địch quân,
khẩu
đại liên 30 bắt đầu khai hỏa khoá mồm các họng súng dưới chiến hào,
địch quân hoảng loạn bỏ chạy. Các đơn vị Nhảy Dù khác nương theo đó
tấn chiếm chiến hào của địch.
Sau đó, Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù
cùng Chi Đoàn Thiết Vận Xa M113 bọc hậu sang phía tay phải để
chận đường lui binh của địch. Sau 2 giờ giao tranh, Chiến Đoàn
Nhảy Dù kiểm soát chiến trường, địch quân rút chạy về phía bên
kia biên giới và bỏ lại trên 60 xác, 1 số vũ khí đủ loại kể cả
1 đại bác 57ly và khoảng 20 thủy lôi. Nhảy Dù có 9 quân nhân
hy sinh kể cả viên Cố vấn Mỹ, 15 bị thương trong đó có Đại tá Tư
lệnh Lữ Đoàn và Đại uý
Nguyễn Minh Tiến. Sau đó Chiến Đoàn Đặc Nhiệm thu dọn chiến trường
và rút nhanh về bên này biên giới. Các thương binh được đưa về Tổng
Y Viện Cộng Hòa, trong số đó có Đại tá Cao Văn Viên, Chiến đoàn
trưởng. Riêng TĐ8ND được duy trì ở lại để tiếp tục hành quân truy
lùng tàn quân cộng sản trong vùng đến gần 1 tháng sau mới trở về
Hậu cứ. Chiều ngày hôm sau Trung tướng Nguyễn Khánh với chức vụ Quốc
Trưởng và Trung tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng trưởng Quốc Phòng kiêm
Tổng Tham mưu trưởng đến tận giường bệnh trao gắn cấp bậc thiếu
tướng, đặc cách mặt trận cho Đại tá Cao Văn Viên. Và 1 thời gian
ngắn sau đó Tướng Viên bàn giao nhiệm vụ Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn Nhảy
Dù cho Trung tá Dư Quốc Đống để nhận nhiệm vụ khác.
Đại tá CAO VĂN VIÊN Tư lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù và Trung tá J.H. HAYES,
Cố vấn trưởng
trên Quân Vận Đỉnh của Hải đoàn 22 Xung Phong tiến ra vùng hành quân
Đại tá CAO VĂN VIÊN bị thương cùng với Trung tá HAYES đang ngồi tại mặt trận
sau khi đã tiến chiếm mục tiêu. (Hình ảnh do cựu Trung uý J.G. Campbell cung cấp)
Trung sĩ Quý và Trung sĩ Nhất TRẦM (Ban 2/TĐ1ND) Đang thu dọn chiến trường (thủy lôi của
VC)
Đại uý TOM MC.CARTHY Cố vấn Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù đang nằm nghỉ ngơi trên Quân vận đỉnh
trên đường ra vùng hành quân (đã anh dũng hy sinh khi tấn chiếm vào mục tiêu)
Tài Liệu Tham Khảo:
– Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù của La Trịnh Tường trên trang nhà nhaydu.com.
– Hồi ký Đôi Dòng Ghi Nhớ của Phạm Bá Hoa, nxb Ngày Nay ấn bản lần thứ 4 năm 2007.
– Giang Ðoàn 26 Xung Phong Tại Chiến Trường Tân Châu – Hồng Ngự (Phần 2) của Trần Ðỗ Cẩm trên trang nhà vietnam.ictglobal.net.
– Lời tường thuật của Thiếu tá Nguyễn Duy Thanh Tiểu đoàn trưởng
Tiểu Đoàn 543ĐPQ/Đặc Khu 44.
– Thomas Weller McCarthy trên trang nhà arlingtoncemetery.net/thomaswe.htm.
– Phỏng vấn các chiến hữu trong SĐND.
******10******
10.
Trận Bình Giã (3/12/1964 – 3/1/1965)
Trận
Bình Giã
(3/12/1964 – 3/1/1965)
Trận
Bình Giã là trận đánh xảy ra
vào cuối tháng 12 năm 1964 trong Chiến tranh Việt Nam tại làng Bình
Giã, tỉnh Phước Tuy, giữa Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa và quân CSBV.
Bình Giã tọa lạc 2 bên trục lộ
trải đá trên 1 địa hình cao với rào tre bao quanh. Trục giao
thông chính của Bình Giã là LTL7 nối liền giữa 2 tỉnh Bà
Rịa và Long Khánh. Đa số đồng bào định cư tại đây là giáo
dân từ Thanh Hóa và Nghệ An di cư năm 1954. Khi bắt đầu định
cư dân số làng Bình Giã độ khoảng 2,000 người. Đến năm 1964
dân số của làng Bình Giã lên đến khoảng 6,000 người.
Làng Bình Giã thuộc Chi Khu Đức Thạnh cách tỉnh lỵ Phước Tuy
khoảng 18 cây số, cách Sài Gòn khoảng 67 cây số về phía Đông
theo đường chim bay. Ngôi làng nhỏ này chỉ có 2 Trung Đội Địa
Phương Quân phòng thủ.
Người dân Bình Giã rất ngoan đạo
dưới sự lãnh đạo của một Cha xứ. Khi quốc sách Ấp chiến
lược ra đời, làng Bình Giã được tổ chức thành 1 ngôi làng kiểu
mẫu, những lũy tre xanh nhanh chóng mọc lên quanh làng. Dân
làng được cha xứ tổ chức thành đội ngũ, được trang bị vũ
khí đến cấp Trung Đội. Những trạm canh quanh làng được tăng
cường với hệ thống mìn bẫy sáng tháo tối gài.
Bản đồ làng Bình Giã
Khởi đầu xâm lược miền Nam, CS đã hoạt động tuyên truyền,
phá hoại, ám sát viên chức chính quyền. Các hoạt động
này dường như xảy ra khắp nơi nhưng tuyệt đối đã không xảy
ra tại vùng Bình Giã. CS đã thất bại không gài được hạ
tầng cơ sở của chúng trà trộn với dân làng như tại
những địa phương khác. Ngược lại, mỗi người dân Bình Giã
là 1 tình báo viên. Mọi tin tức đều được báo cáo lên
cha sở để cha sở đúc kết gởi lên Quận. Có thể nói là
tin tức tình báo mà Chi Khu Đức Thạnh và Tiểu Khu Phước
Tuy nhận được từ Bình Giã là những nguồn tin đáng tin
cậy nhất. Khi trận Bình Giã xảy ra, người Bình Giã với 2
bàn tay không đã tham gia chiến đấu sát cánh với lực
lượng bạn khi hành quân tái chiếm làng. Khi CS tấn công
làng, dân chúng ẩn núp trong hầm kín đáo theo dõi và báo
cáo về Quận mọi lực lượng của địch, che giấu thương binh
và khi đơn vị tái chiếm làng, cả làng mang thực phẩm
và nước uống ra tiếp đón, ủy lạo.
Làng Bình Giã
cũng là nơi địch quân lựa chọn để bắt đầu leo thang
chiến tranh từ du kích chiến lên trận địa chiến. CS đã áp
dụng chiến thuật “công đồn đả viện”, đánh chiếm
làng Bình Giã
bằng Lực Lượng Địa Phương để nhử đánh các đơn vị tiếp
viện. Bình Giã được chọn làm mục tiêu vì Bình Giã ở cách
xa Quận/Chi Khu, và chỉ được bảo vệ với 2 Trung Đội Bảo
An (Lực Lượng Địa Phương sau này cải tên thành Địa Phương
Quân).
Lực Lượng CSBV:
CS đã
tung vào chiến trường 2 Trung Đoàn chính quy Q761 và Q762,
được tăng cường Trung Đoàn 80 Pháo Binh Miền cùng với 2
Tiểu Đoàn 500 và 800 Chủ lực Quân Khu miền Đông, Tiểu
Đoàn 186 của Quân Khu 6, Đại Đội D445, và các đơn vị du
kích huyện và xã tỉnh Bà Rịa. Lực lượng tham dự tổng
cộng lên đến trên 7,000 người được đặt dưới sự chỉ huy
của Trần đình Xu và Chính ủy Lê văn Tưởng.
Lực lượng VNCH:
– 2 Trung Đội Bảo An trấn giữ
Bình Giã.
– Chi Đoàn 3 Thiết Vận Xa, Chi Đoàn M24 Thiết Giáp.
– Các Tiểu Đoàn 30, TĐ33, và TĐ38 Biệt Động Quân.
– Tiểu Đoàn 4
Thủy Quân Lục Chiến.
– Tiểu Đoàn 1, 3, và 7 Nhảy Dù.
Diễn tiến:
Vào đầu tháng 12 năm 1964
các hoạt động du kích CS gia tăng gấp bội tại quanh vùng
Bình Giã trong khi các đại đơn vị của chúng từ Chiến Khu
D di chuyển tập trung tại khu rừng phía Bắc Chi Khu Đức
Thạnh. Mục tiêu chính của CS là đánh chiếm làng Bình Giã
bằng Lực Lượng Địa Phương để nhử đánh các đơn vị tiếp
viện. Bình Giã được chọn làm mục tiêu vì Bình Giã ở cách
xa Quận/Chi Khu, và chỉ được bảo vệ với 2 Trung Đội Bảo
An (Lực Lượng Địa Phương sau này cải tên thành Địa Phương
Quân).
Làng Bình Giã hầu như bị địch khuấy phá
thường xuyên để thăm dò các vị trị bố phòng của làng.
Rạng sáng ngày 3/12/1964 Đại Đội D445 thuộc Lực Lượng
Địa Phương tỉnh Bà Rịa tấn công Ấp chiến lược Bình Giã.
Đồng lúc đó, Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn Q761 bao vây và
pháo kích Chi Khu Đức Thạnh.
Hai ngày sau BTL Quân
Đoàn III cho trực thăng vận Tiểu Đoàn 30 Biệt Động Quân
xuống trận địa tại 1 địa điểm phía Tây–Nam Chi Khu để
từ đây mở cuộc hành quân giải tỏa Bình Giã. Cuộc đụng
độ khá ác liệt nhưng quân CS yếu thế đã rút lui. VC bỏ
lại trận địa 32 xác.
Ngày 8/12 Đại
Đội 445 cùng
với một Đại Đội thuộc Trung Đoàn Q761 tấn công làng Bình
Giã lần thứ nhì. Trong lúc đó, Tiểu Đoàn 3 thuộc Trung
Đoàn Q761 và Tiểu Đoàn 5 thuộc Trung Đoàn Q762 đánh Chi
Khu Đất Đỏ. Các đơn vị thuộc Đoàn 80 Pháo Binh pháo
kích 2 Chi Khu Đức Thạnh, Xuyên Mộc, và Trung Tâm Huấn
Luyện Vạn Kiếp để cầm chân yểm trợ cho các cuộc tấn
công trên. Tuy nhiên, quân CS đã bị đẩy lui. Các cuộc pháo
kích của địch quân không gây ra thiệt hại nào đáng kể.
Ngày 9/12, Chi Đoàn 3 thuộc Trung Đoàn 1
Thiết Giáp
được lệnh mở cuộc hành quân giải tỏa Liên tỉnh lộ 2.
Bốn ngày sau (13/12), trên đường hành quân trở về, Chi
Đoàn 3 lọt vào ổ phục kích của Trung Đoàn Q762 tại Bình
Ba, trên trục lộ Phước Tuy–Hàm Tân, cách sông Cầu khoảng 600
thước. Có đến 14 chiếc M113, hơn phân nửa Thiết Vận Xa
của Chi Đoàn bị phá hủy và Đại uý Ngọc, Chi Đoàn trưởng
bị tử thương.
Ngày 14/12 1 ngày sau khi
Chi Đoàn
3 Kỵ Binh bị phục kích, Tiểu Đoàn 4 TQLC được trực thăng
vận xuống bìa làng phía Tây Bình Giã để giải tỏa áp
lực địch và giải vây cho phần còn lại của Chi Đoàn 3
Kỵ Binh còn đang cố thủ tại nơi bị phục kích. Khi Tiểu
Đoàn 4 TQLC bắt tay được với Chi Đoàn 3 Thiết Kỵ thì
địch quân đã rút lui, trận địa chỉ còn lại xác người và xác
các xe Thiết Vận Xa M113 bị phá hủy trong rừng cao su bỏ hoang.
Việt cộng đã tháo gỡ, thu nhặt hết vũ khí, luôn cả quân trang
trên người đã chết chúng cũng không từ. Tiểu Đoàn 4 TQLC bố
trí yểm trợ cho Chi Đoàn 3 Thiết Kỵ thu dọn chiến trường
và rút ra khỏi trận địa. Tiểu Đoàn 4 TQLC tiếp tục hành
quân tiến về phía Rừng Sác gỉải tỏa áp lực địch dọc theo
Quốc lộ 15 từ Phước Tuy đến Quận Long Thành. Không có
hoạt động nào đáng kể của địch quân được ghi nhận.
Ngày 16/12/1964 TĐ4 TQLC di chuyển bằng xe GMC về Dỉ An và hằng
ngày ứng chiến cho QĐIII tại phi trường Biên Hòa.
Chi Đoàn 3 Thiết Giáp lọt vào ổ phục kích của Q762 tại Bình Ba
Những ngày sau trận Bình Ba, không có 1 dấu hiệu nào
cho thấy sự hiện diện của địch trong vùng. Các đơn vị
tham chiến của địch đã rút sâu vào rừng gần bãi biển
Hàm Tân để tiếp nhận vũ khí đạn dược từ 1 chiếc tàu
từ miền Bắc vào cặp bến tại Lộc An ngày 22/12/1964 mang
theo 44 tấn vũ khí gồm súng trường CKC, Tiểu liên AK47, K50,
thượng liên RPD, và súng chống Chiến Xa B40. Số vũ khí này được
trang bị ngay cho các cán binh VC đang tham chiến.
Rạng
sáng ngày 28/12, Đại Đội D445 cùng với Đại Đội 2 thuộc
Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn Q761 trở lại tấn công Bình Giã
lần thứ ba đồng thời dùng đại bác 75ly không giật trực
xạ vào Chi Khu Đức Thạnh. Ngôi làng nhỏ Bình Giã này chỉ có
2 Trung Đội Địa Phương Quân trấn giữ, chỉ sau 1 vài giờ giao
tranh là bị thất thủ. Sau khi chiếm xong làng, địch quân tăng
viện thêm quân để cố thủ.
Sáng ngày hôm sau 29/12, Tiểu Đoàn 38 BĐQ được trực thăng
vận xuống trảng trống phía Tây–Nam Chi Khu Đức Thạnh để
tái chiếm Bình Giã và tiếp cứu quân bạn. Tiểu Đoàn 38 chia
làm 3 mũi tiến quân vào Bình Giã nhưng cả 3 mũi đều chạm
súng nặng. Việt cộng đã bố trí trận địa, đào sẵn các công sự
kiên cố chờ đánh viện binh trực thăng vận ở các bãi trống quanh
làng, phục kích Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân ngay khi vừa chạm
chân xuống đất. Tiểu Đoàn này đã anh dũng chống trả mãnh liệt
nhưng vẫn bị thiệt hại nặng, Tiểu đoàn trưởng và 1 Đại đội
trưởng bị tử thương. Hơn 1 trăm chiến binh còn sống sót đã kéo
vào tử thủ ở ngôi nhà thờ chính trong làng. Trước tình hình
nghiêm trọng, lúc 3:45g chiều ngày 29/12/1964 BTL Quân Đoàn III
cho trực thăng vận tăng viện Tiểu Đoàn 33 Biệt Động Quân,
TĐT là Đại uý Nguyễn văn Đương xuống trận địa tại một địa
điểm phía Tây–Nam Chi Khu để từ đây mở cuộc hành quân
giải tỏa Bình Giã. Đợt đầu trực thăng thả hai ĐĐ 1/33 & ĐĐ
2/33 xuống trước. Sau đó, trực thăng quay về Biên Hòa bốc phần
còn lại là BCH/TĐ33 và hai ĐĐ3/33 BĐQ & ĐĐ4/33 BĐQ nhảy xuống LZ
gần dốc La Sơn. Cuộc đụng độ khá ác liệt, VC phục kích
bãi đổ quân gây thiệt hại nặng cho Tiểu Đoàn này.
TĐP/TĐ33 BĐQ là Đại uý Bửu Nghi bị tử thương. Ngày hôm sau,
Tiểu Đoàn 30 BĐQ được trực thăng vận xuống phía Tây–Nam
làng Bình Giã. Cuộc đổ quân không gặp sự kháng cự nào
của địch quân. Nhưng Tiểu Đoàn này bị cầm chân ngay khi
bắt đầu tiến vào làng và suốt ngày hôm đó Tiểu Đoàn
30 vẫn không tiến lên được để bắt tay với Tiểu Đoàn 38 BĐQ
đang cố thủ cách bìa làng độ 300 thước. Trong khi đó, nhờ
sự che chở tích cực của dân làng, hơn 1 trăm tay súng TĐ38
Biệt Động Quân vẫn giữ được vị trí, dù tất cả đều mang thương
tích trên người.
Ngày 30/12, Tiểu
Đoàn 4 TQLC được
trực thăng vận xuống phía Đông–Nam ấp La Vân để tăng
cường cho lực lượng đã có sẵn tại đây, chiếm lại Bình Giã. Quân số khiển dụng của TĐ4
TQLC khoảng 550 người. (TĐT Thiếu
tá Nguyễn Văn Nho, TĐP Đại uý Trần Văn Hoán, ĐĐT: Trung uý Trần
Ngọc Toàn, Trung uý Đỗ Hữu Tùng, Thiếu uý Nguyễn Văn Huệ, Trung
uý Nguyễn Đằng Tổng. Hai SQ Cố vấn là Thiếu tá Elle & Trung uý
Brady, và sau tăng cường Đại uý DG Cook và 2 hạ sĩ quan TQLC Mỹ).
Sau đó TQLC bắt tay được với các cánh quân của 2
Tiểu Đoàn 30 và 38 BĐQ đẩy lùi quân CS về phía đông đồn
điền cao su Quảng Giao. Đêm đến quân CS trở lại tấn công
làng Bình Giã nhưng đã bị đẩy lui sau gần 1 giờ giao
tranh. Tuy nhiên trong khi yểm trợ cho quân bạn, một trực
thăng của Mỹ đã bị bắn rơi trong đồn điền cao su Quảng
Giao cách làng Bình Giã khoảng 4 cây số. Phi hành đoàn 4
người đều bị tử thương. Sáng sớm ngày 31/12, Tiểu Đoàn
4 TQLC được lệnh đưa quân vào đồn điền cao su Quảng Giao
để tìm trực thăng bị nạn. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh cho
ĐĐ2 hành quân thi hành nhiệm vụ này. Khi tiến đến đồn
điền cao su, cách làng Bình Giã độ 2 cây số về phía Đông,
ĐĐ2 đã tìm thấy trực thăng bị bắn rơi cùng với xác của
phi hành đoàn. Đại Đội 2 mở rộng đội hình khám phá ra
nhiều gò mả mới chôn nhưng thật ra là các vị trí độn
thổ phục kích của địch. Ngay lúc đó quân VC đã tràn lên
tấn công. ĐĐ2 siết chặt đội hình chống trả mãnh liệt,
chận đứng nhiều đợt xung phong của địch. Được tin, Tiểu
đoàn trưởng điều động Tiểu Đoàn từ làng Bình Giã đến
tiếp cứu. Khi Tiểu Đoàn đến thì VC đã rút lui vì biết
rằng sẽ có trực thăng đến tản thương và chắc chắn sẽ
có trực thăng võ trang yểm trợ. Khoảng nửa giờ sau, 1
trực thăng tản thương và 2 trực thăng võ trang đến. Trực
thăng tản thương đáp xưống nhận xác phi hành đoàn nhưng
từ chối chuyên chở 12 xác TQLC bất chấp sự phản đối
của các sĩ quan Cố vấn Mỹ của TĐ. Tiểu Đoàn tiếp tục
bố trí quân chờ trực thăng đến di tản xác 12 quân nhân
TQLC. Chờ mãi không thấy và trời cũng đã xế chiều nên
Tiểu đoàn trưởng quyết định di chuyển xác theo đường bộ
về làng Bình Giã. Tiểu Đoàn vừa thu quân chuyển sang đội
hình hành quân thì địch quân xuất hiện khắp 4 phía
tấn công tới tấp, nã súng không giật và súng cối, và
tiếp theo là xung phong lên tấn công Tiểu Đoàn. Tiểu Đoàn
chống trả chận đứng nhiều đợt xung phong biển người của
địch. Khoảng nửa giờ sau khi chạm súng Thiếu tá Nguyễn
văn Nho Tiểu đoàn trưởng bị tử thương và Đại Đội phó
Đại úy Hoán bị thương nặng. Trung úy Trần ngọc Toàn Đại
đội trưởng Đại đội 1 nắm quyền chỉ huy điều động Tiểu
Đoàn cố thủ trên ngọn đồi giữa rừng cao su Quảng Giao.
Tại đây Tiểu Đoàn đã chận đứng nhiều đợt xung phong và
gây thiệt hại nặng cho VC. Trận đánh khốc liệt tiếp tục
cho đến khi trời sụp tối.
Trận Bình Giã ngày 31/12/1964
Tối đến, phi cơ lên vùng thả hỏa châu soi sáng trận địa. Dưới
ánh sáng hỏa châu, Trung uý Nguyễn Đằng Tổng ĐĐT/ĐĐ4 hướng dẫn
các quân nhân còn tản lạc tìm đường trở lại Bình Giã. Quân CS
cũng rút lui ra khỏi trận địa và dùng xe bò chuyên chở
xác các cán binh tử trận về hướng Rừng Lá và Xuyên Mộc.
Đại tướng Nguyễn Khánh chỉ định Đại tá Lâm Quang Thơ đang là
Chỉ huy trưởng Trường Thiết Giáp làm Chỉ huy trưởng Chiến Đoàn 5
mở cuộc hành quân Hùng Vương 2 để tảo thanh vùng Bình Giã.
Sáng ngày 1/1/1965 nhiều đơn vị quân đội đuợc vận chuyển
tới để tiếp viện cho mặt trận Bình Giã. 102 xác VC bỏ tại trận.
Ngày 3/1/1965 BTL Tiền Phương của Chiến
Đoàn 5 cùng Chi
Đoàn Kỵ Binh gồm 15 Chiến Xa M24 cùng với TĐ35 BĐQ tùng thiết di
chuyển từ Bà Rịa lên Đức Thành đã lọt vào ổ phục kích của Trung
Đoàn Q762 trên LTL7. Lực Lượng Hành Quân bị thiệt hại nặng, hầu
hết sĩ quan của BTL Tiền Phương đều bị tử trận.
Ngay sau
đó, BTL Quân Đoàn III trực thăng vận 2 Tiểu Đoàn 1 & 3
Nhảy Dù xuống phía đông Bình Giã mở cuộc hành quân truy
kích, và TĐ7ND mở đường từ Phước Lễ đến Ba Bình thu nhặt những
xác binh sĩ tử trận của 2 đơn vị Thiết Giáp và BĐQ nhưng không
có cuộc giao tranh nào xảy ra, quân CS đã rút lui. Sau đó 3 TĐND
được trực thăng vận đánh thẳng vào mật khu Hắc Dịch để càn
quét. Cuộc hành quân không có đụng độ lớn vì địch quân lẩn
tránh. Các Tiểu Đoàn Dù khám phá được nhiều kho lương
thực, vũ khí, đạn dược của Việt cộng.
Các sĩ quan ĐĐ32 Nhảy Dù tại
Bình Giã. Từ trái sang phải:
Chuẩn uý Nguyễn văn Tèo,
Chuẩn uý Trương Văn Ngoạt, ĐĐT Trung uý Lê Minh Ngọc, Thiếu uý Nguyễn Đức Cần
Tổng kết:
– Phía Việt Nam Cộng Hòa tổng cộng có 201 quân nhân thiệt mạng (trong đó có 5
Cố vấn Mỹ), 192 người bị thương (trong đó có 8 người Mỹ), và 68 người mất tích
(trong đó có 3 người Mỹ).
– Thiệt hại của TĐ4 TQLC bao gồm 112 tử trận, 71 bị thương, 22 sĩ quan của TĐ đã tử trận kể cả
Tiểu đoàn trưởng. Các Cố vấn Donald G. Cook (Cố vấn TĐ4 TQLC), Harold G. Bennett, và Charles E. Crafts (Cố
vấn TĐ33 BĐQ) bị bắt
làm tù binh.
– Về phía Việt cộng, theo lời xác nhận của
1 SQ cao cấp CS thì sự thiệt hại của họ trên 1,000 nhân mạng
gồm cả Chủ lực, Du kích, và Dân công.
Sự thất bại về quân sự của trận
Bình Giã đã ảnh hưởng rất lớn đến chính sách sử dụng
quân đội Mỹ để thay thế QLVNCH trong đường lối chỉ đạo chiến tranh “lùng và diệt địch”.
General William Westmoreland Bending in Field
Original caption: General William C. Westmoreland, Commander of the U. S. Forces in Vietnam
will return to Washington on July 1st to become Chief of Staff of the Army,
President Johnson announced late on March 22nd. General Westmoreland is shown here
going through heavy jungle bush at Binh Gia, South Vietnam, in a January 10, 1965 photo.
Tài Liệu Tham Khảo:
– Chiến tranh VN toàn tập 1963–1975 của Tiến sĩ Nguyễn Đức Phương, Làng Văn xuất bản 2001.
– Trận Bình Giã của Huỳnh bửu Sơn trên trang nhà www.bariaphuoctuy.org.
– Những sự thật về trận Bình Giã của Trần Ngọc Toàn, Cựu TĐT/TĐ4/TQLC trên trang nhà tvvn.org.
– Trận Bình Giã lúc khởi đầu của MX Trần Ngọc Toàn trên tqlcvn.Victoria, blog.360.yahoo.com.
– Phỏng vấn các chiến hữu trong SĐND.
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by mđ nguyễn minh hoàng chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, April 23, 2015
Cập nhật ngày Thứ Sáu, May 23/2025 – đổi sang hệ thống bootstrap framework 5.x
tkd. Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH