Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Lịch sử
Lời giới thiệu:
Nhân dịp Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH tổ chức Hội ngộ Binh chủng thường
niên vào tháng 7/2015 tại Thủ đô Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, Ban Kỹ
Thuật xin được hân hạnh giới thiệu với
Quý Độc giả và Quý ACE cựu quân nhân SĐND về trang điện tử mới được
thành lập “Trang
Nhảy Dù Washington, D.C. [GĐMĐVN Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận]”
Cũng nhân dịp
này, BKT xin được hân hạnh giới thiệu bộ sách “Binh chủng Nhảy Dù –
20 năm chiến sự” do các tác giả Đại úy Võ Trung Tín và Đại úy Nguyễn
Hữu Viên thực hiện. Đây là bộ sách nói về Chiến sử của Sư Đoàn Nhảy
Dù Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ ngày thành lập. Bộ sách gồm 3 phần,
kính mời Quý vị theo dõi phần Mục lục bên dưới. Trân trọng. --BKT.
****** ||| ******
MỤC LỤC
B. PHẦN B - CHIẾN SỰ
1.
Trận Điện Biên Phủ (13-3-1954 đến
7-5-1954)
2.
Tình Hình Việt Nam Sau Hiệp Định Geneve
3. Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng (23-5-1955 đến 6-12-1955)
4.
Chiến
Dịch Hoàng Diệu (từ 21/9 đến 24-10-1955)
5.
Chiến Dịch Nguyễn Huệ
(từ 1-1- đến 17-2-1956)
6.
Binh Biến ngày 11-11-1960
7.
Trận
Phước Thành (18 - 19-9-1961)
8.
Trận Ấp Bắc (2 - 3-1-1963)
9.
Trận Tân Châu Hồng Ngự (2 đến 4-3-1964)
10.
Trận Bình Giả
(3-12-1964 - 3-1-1965)
11.
Trận Hắc Dịch (9/2 đến 10-2-1965)
12. Trận Ba Gia (28-5-1965 đến 2-6-1965)
13.
Trận Đồng Xoài (9
đến 20-6-1965)
14.
Trận Đức Cơ (4-8-1965 - 15-8-1965)
15.
Chiến dịch Ia Drang - Thần Phong 7 (14 - 18-11- 1965)
16.
Hành
Quân Thần Phong 11 (28/1 – 6-3-1966)
17.
Đại Bàng 800
(12-11-1966)
18.
Hành Quân Liên Kết 81 (16/2 đến 22-2-1967)
19. Lam Sơn 54–Khu Phi Quân Sự (18-27-5-1967)
20.
Trận Dak To
(đồi 1416) (3 – 22-11-1967)
21.
Tổng Công Kích Năm Mậu Thân (từ
ngày 29-1-1968)
22.
Mặt Trận Sài Gòn (30-1-1968)
23.
Mặt Trận
Quảng Trị (30-1-1968)
24.
Mặt Trận Huế (30-1-1968)
25. Mặt Trận Khe Sanh (1 - 15-4-1968)
26.
Mặt Trận Ashau (19/4 –
17-5-1968)
27.
Trận Mậu Thân đợt hai (từ ngày 5-5-1968)
28.
Trận Gò Nổi (Tây Ninh) (19-5-1969)
29.
Chiến Dịch Bình Tây (Từ
ngày 27-3-1970)
30.
Hành Quân Toàn Thắng 42 (29/4 – 22-7-1970)
31. Hành Quân Toàn Thắng 43 (1/5– 30-6-1970)
32.
Hành Quân Toàn
Thắng 45 (6/5 – 30-6-1970)
33. Hành Quân Lam Sơn 719 (8/2 đến 6-4-1971)
34.
Trận đánh Căn Cứ
Hỏa Lực 6 (4/4 đến 17-4-1971)
35.
Trận đánh Căn Cứ Hỏa Lực 5
(24/5 - 19-6-1971)
36.
Mùa Hè Đỏ Lửa
37.
Mặt Trận Tây Nguyên
(17/3 - 28-5-1972)
38.
Mặt Trận Bình Long (2/4 - 8-6-1972)
39.
Mặt Trận Quảng Trị (30/3 - 15-9-1972)
40.
Trận Thường Đức (18/8 -
8-11-1974)
41.
Trận Ban Mê Thuột (10/3 - 16-3-1975)
42.
Trận
Khánh Dương (19/3 - 1-4-1975)
43.
Trận Phan Rang (1/4 -
17-4-1975)
44.
Trận Long Khánh (9/4 – 21 -4-1975)
C. PHẦN C: CÁC VỊ TƯ LỆNH SĐND
TIỂU SỬ CÁC TÁC GIẢ
(Võ Trung Tín & Nguyễn
Hữu Viên)
******37******
37. Mặt Trận Tây Nguyên (17/3 - 28-5-1972)
Mặt Trận Tây Nguyên
(Từ 17/3/1972 đến 28/5/1972)
Bắt đầu từ ngày 27-1-1972. Tin tức tình báo của ta đã ghi nhận được những biến chuyển của Lực lượng CSBV tại cao nguyên do mặt trận B3, Tư lệnh là tướng Hoàng Minh Thảo chỉ huy gồm có sư đoàn 320 Bắc Việt, vừa di chuyển vào từ Thanh Hóa, sư đoàn 2 BV, đơn vị cơ hữu F10 của mặt trận B3, và một Trung đoàn chiến xa. Ngoài các đơn vị kể trên CSBV còn điều động sư đoàn 3 Sao vàng và các đơn vị địa phương tăng gia hoạt động tại vùng duyên hải tỉnh Bình Định và miền Nam quân khu II và Sư Đoàn 968 từ Hạ Lào vừa kéo sang làm thành phần trừ bị. Những mục tiêu chính trong chiến dịch tấn công cao nguyên của CSBV là Tân Cảnh, Dakto, các căn cứ hỏa lực dọc theo dãy Rocket Ridge, thị trấn Kontum và Pleiku.
Rocket Ridge là
dãy núi có các cao điểm chạy dài từ Bắc xuống Nam, nằm dọc theo Quốc
Lộ 14, kéo dài từ Tân Cảnh đến Kontum. Các đơn vị địa phương của CS
thường tấn kích khuấy rối nhằm mục đích đánh lạc hướng các đơn vị
Quân lực VNCH, đồng thời hỗ trợ cho hai sư đoàn chính quy CSBV tấn
công vào Kontum. Mọi cố gắng của CSBV trong giai đoạn này là nhằm
thực hiện cho được mưu đồ nhằm chia cắt Việt Nam Cộng Hòa làm 2
phần.
Khoảng đầu tháng Ba năm 1972, vào mỗi đêm từ Ben Het
hướng về phương Bắc, người ta có thể nhìn thấy ánh đèn pha và nghe
thấy tiếng động cơ nổ vang rền của đoàn cơ giới cộng sản di chuyển
về hướng Nam trên đường mòn Hồ Chí Minh bên Lào. Trong khi đó, tại
Vùng 2 Chiến Thuật, theo tài liệu tịch thu cho biết Sư Đoàn 320 cộng
sản Bắc Việt và Trung đoàn 54 Pháo đã xuất hiện tại vùng Tam Biên,
nhưng cố vấn trưởng của Quân Đoàn 2 là John Paul Vann, lúc ấy vẫn
còn đặt nghi vấn.
Khi biết tin sư đoàn 320 CSBV và Trung đoàn
54 pháo binh BV đã xuất hiện tại vùng ba biên giới vào đầu tháng
3/72, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH điều động LÐIIND tăng phái cho QÐ2
hành quân tảo thanh VC ở vùng phía Tây Tân Cảnh. BCH/LÐIIND đến trấn
đóng tại làng Võ Ðịnh, cạnh QL-14 giữa khoảng Kontum và DakTo. Các
đơn vị trực thuộc được bố trí trên các cao điểm ở dãy núi Rocket
Rigde về phía Tây QL-14 với các căn cứ Alpha, Yankee, Charlie,
Delta, Hotel...
Ngày 15/3/1972, TÐ1ND được trực thăng vận đưa
vào vùng hoạt động thiết lập căn cứ Alpha phía Bắc của Charlie, bảo
vệ Pháo Ðội A1 của Ðại úy Đặng Thành Tửu với 4 khẩu dội 105ly. Vừa
đáp xuống mục tiêu TÐ1ND đã đụng mạnh với các lực lượng chính quy
của CSBV quanh căn cứ.
Lực lượng Ðịch:
Theo tin tức
khai thác từ các tù binh CS thì mặt trận QK2 sẽ bùng nổ vào trung
tuần tháng 3/1972, nhưng Hà Nội đã ra lệnh cho Tướng Hoàng Minh Thảo
tấn công vào đầu tháng 4/1972 để phối hợp nhịp nhàng với các mặt
trận khác tại Quân đoàn I (Quảng Trị) và Quân đoàn III (Bình Long).
Tướng Hoàng Minh Thảo sẽ xử dụng Sư đoàn 2 của CS Bắc Việt đương đầu
với các đơn vị của Sư đoàn 22BB cầm chân sư đoàn này tại Tân Cảnh,
để Sư đoàn 320 của CS sẽ tiến quân vào Kontum.
- Mặt trận B3:
Tư Lệnh là Tướng Hoàng Minh Thảo
- Sư Ðoàn 320A gồm 3 Trung
đoàn 52, 64 và 48 di chuyển từ Thanh Hóa vào
- Sư Ðoàn 2 CSBV
gồm 2 Trung đoàn 1 và 141
- Sư đoàn 10 gồm có bốn Trung đoàn
bộ binh: 24, 28, 66 và 95 do Nguyễn Mạnh Quân làm Tư Lệnh, Đặng Vũ
Hiệp làm chính ủy
- Sư đoàn 968 làm thành phần trừ bị với 3
Trung đoàn bộ binh
- 1 Trung đoàn đặc công 400
- 1 Trung
Ðoàn chiến Xa
- 2 Trung Ðoàn Pháo Binh và 6 Tiểu đoàn pháo phòng
không
- Ngoài ra còn có sự tham gia của các lực lượng vũ
trang tại địa phương. Tổng cộng quân số tham chiến khoảng 20,000
người.
Lực lượng Bạn:
Để đối phó với tình thế, Tướng
Ngô Du đã xử dụng Lữ Đoàn II Nhảy Dù và các đơn vị tăng phái vừa
được Bộ TTM tăng cường, tiến chiếm dãy đồi phía Tây sông Poko và
thiết lập 2 căn cứ hỏa lực mới là “Charlie” và “Delta” để ngăn chặn
Sư đoàn 320 của CS. Kế hoạch phối trí này rất tốt đẹp lúc đầu.
- SÐ22BB gồm 4 Trung Ðoàn 40, 41,42 và 47BB
- SÐ23BB gồm
3 Trung Ðoàn 44, 45 và 53 BB
- Lữ Ðoàn II ND với các TÐ1, 2,
3, 7, 9, 11ND do Đại tá Trần Quốc Lịch chỉ huy lập vòng đai từ Tân
Cảnh đến Võ Ðịnh
- TĐ2PBND, ĐĐ2TSND và các đơn vị yểm trợ
- Thiết Đoàn 14 Kỵ Binh
- BTL/SÐND Tiền Phương đóng tại
Kontum
- TÐ5 BĐQ Biên phòng tại Ben Het để củng cố vững chắc
đồn cửa ngõ đi vào lãnh thổ Quân Đoàn II và Quân khu II
-
Không Đoàn 72/SĐ2KQ – Pleiku với 1 phi đoàn quan sát (O-1, O-2), 1
phi đoàn cường kích (A-1H), 2 phi đoàn và 2 phi đội trực thăng võ
trang (UH-1H).
Trận đánh Căn cứ Delta
Delta là một
ngọn đồi nằm về hướng Nam căn cứ Charlie, đây là ngọn núi cao nhất
nằm phía Tây Bắc Thị xã Kontum, trên đỉnh đồi cao 1049m một bên là
rừng già dầy đặc, một bên là cánh rừng thưa, có thể dọn làm một vị
trí đóng quân với bãi đáp trực thăng được. Nơi đây cộng quân đã
thiết đặt một đơn vị phòng không do một Tiểu đoàn của Trung đoàn
3/SĐ320 bố trí hệ thống chốt kiền bảo vệ. Do đó địch quân thường gây
khó khăn cho các phi vụ tiếp tế của VNCH từ Pleiku đến Tân Cảnh. Vì
vậy mà Tướng Ngô Du đã treo giải thường 100,000 đồng cho đơn vị nào
bắt được một tù binh của SĐ320 tại vùng này. Bộ Chỉ Huy LĐIIND sau
khi quan sát địa thế khu vực đã quyết định chọn nơi đây làm Căn Cứ
Delta.
Sáng ngày 17/3/1972, sau những trận địa pháo và phi
pháo vừa chấm dứt, địch quân chưa kịp hoàn hồn, thì một đoàn trực
thăng chuyển quân sà thấp sát đất thả các Thiên Thần Trinh Sát 2 của
“Út Bạch Lan” phóng xuống trận địa như những con diều hâu vồ mồi
quanh vị trí Delta để săn lùng và tiêu diệt các chốt của TÐ1/Trung
Ðoàn 3/SÐ320. Cả Đại Đội vừa bắn vừa hô xung phong vang rền khắp núi
rừng khiến địch quân hoảng hốt đưa tay lên đầu hàng, kẻ nào ngoan cố
chống cự đã bị các chiến sĩ Nhảy Dù diệt gọn. Chỉ trong chớp nhoáng,
Các chiến sĩ Trinh Sát 2 của Trương Văn Út (danh hiệu truyền tin Út
Bạch Lan) đã làm chủ tình hình. Nguyên toán tiền đồn của TĐ1/Trung
đoàn 2/SĐ320 đã bị tóm gọn không sót một mống. ĐĐ2TSND đã bắt sống
được 12 tù binh và lãnh tiền thưởng đầu tiên của Tướng Ngô Du.
Ngày 18/3/1972 Tiểu Ðoàn 1/3/SÐ320 phản công bao vây để dứt điểm
ÐÐ2TS. Út Bạch Lan, Ðại Ðội Trưởng/TS2ND không nao núng, điều quân
phân tán mỏng để một toán nhỏ lừa địch, rồi đưa toàn bộ Đại Đội vòng
ra bọc hậu đánh thẳng vào BCH/Tiểu đoàn địch và tiêu diệt gọn
TÐ1/3/320 giết chết viên TÐT là Ðại úy Trương Hà... Ngay sau đó, để
phục thù Trung Ðoàn 3/320 tập trung quân còn lại bao vây TS2 và thề
bắt sống Út Bạch Lan cho bằng được. (Út Bạch Lan nổi danh từ dạo ấy)
Ngày 20/3/1972 TÐ2ND được trực thăng vận đổ quân xuống thiết lập
và trấn đóng tại Charlie, và từ Charlie đánh bọc ngang hông Trung
đoàn 3/320 để cứu bồ giải vây cho ÐÐ2 Trinh Sát ND. Buổi chiều,
TÐ3ND do Thiếu tá Trần Văn Sơn làm TĐT vừa được không vận đến vùng
hành quân và được chỉ định chia quân trấn đóng tại căn cứ 5 & 6 ở về
phía cực Bắc của dãy núi Rocket Rigde. Bộ chỉ Huy Tiểu đoàn đóng tại
đồi yên ngựa về phía Tây Nam của Căn Cứ 5.
Sau đó, TĐ3ND lập
ngay cường điểm hỏa lực (CĐHL, một cứ điểm có nhiều súng cối) tại
đỉnh đồi 1338 phía Tây Nam căn cứ 5 để yểm trợ cho các Đại Đội hoạt
động chung quanh cũng như tác xạ hỏa tập ngăn chận các cuộc chuyển
quân của địch trên đường mòn HCM gần đó. Chỉ huy cường điểm này do
Thiếu tá Trần Bá Ngôn TĐP phụ trách và ĐĐ33 bảo vệ an ninh.
Đến ngày 23/3/1972 sau 3 ngày hỗn chiến với địch và được TÐ2ND giải
vây, 2 đơn vị Nhảy Dù đã dùng ngoại công nội kích với những chiến
thuật thần kỳ tam mãnh “mãnh đã, mãnh xung và mãnh truy” đã phá nát
Trung Ðoàn 3/SĐ320 của CSBV, Sư Đoàn được hỗn danh là “Thép” giờ đây
đã bị chảy ra thành nước.
Tin chiến thắng bất ngờ đã làm cho
Quân Dân Quân Đoàn 2 phấn khởi, Trung tướng Ngô Du đã bay ngay đến
Delta để trao gắn cấp bậc Đại úy tại mặt trận cùng Đệ Ngũ Đẳng Bảo
Quốc Huân Chương cho Trương Văn Út và trao ngay 1 triệu 200 ngàn
tiền thưởng đã bắt được 12 tù binh CS cũng như thăng thưởng và ủy
lạo cho tất cả các chiến sĩ Nhảy Dù tham chiến.
Ðại Ðội 2
Trinh Sát sau đó được bốc về Võ Ðịnh để nghỉ ngơi và tái trang bị.
Trong khi đó cộng quân khởi sự trận địa pháo liên tục bằng các loại
107, 122, và 130ly vào các vị trí đóng quân của các đơn vị VNCH kể
cả Tân Cảnh và Võ Ðịnh. Ngày 25/3/1972 Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù vừa từ
Sài Gòn ra được trực thăng vận vào Charlie thay thế TĐ2ND. Theo sự
bố trí đội hình: Ðại úy Hùng (mập), Đại Đội Trưởng Đại Đội 113ND
đóng quân phía bắc Charlie 3km gần chân đỉnh Yankee (C1) ở cao độ
trên 1,000m. Trung úy Thinh, Đại Đội Trưởng ĐĐ111ND, đóng tại C hay
Charlie bảo vệ địa điểm lấy nước và bãi đáp trực thăng. Ðại úy Hùng
(móm) Đại Đội Trưởng 112ND. Ðại úy Nho, Đại Đội Trưởng 110ND, Bộ Chỉ
Huy Tiểu Ðoàn và Đại Đội 114 của Trung úy Phan Cảnh Cho đóng tại C2,
đỉnh cao phía Nam cách Charlie hơn 500 thước. Từ điểm cao C2 này,
Tiểu đoàn xử dụng để tiếp tế hay khi cần tăng viện, một cách dễ dàng
hơn. TÐ2ND sau khi bàn giao Căn cứ Charlie cho TÐ11ND, tiến về phía
Nam nơi đã bắt tay với Trinh Sát 2ND trước đây để thiết lập căn cứ
Delta.
Ngày 28/3/1972, Trung đoàn 3/SĐ320 tấn công dò dẫm,
tung đặc công xâm nhập vào Delta nhưng bị bẻ gãy, các toán đặc công
và tiền sát viên tiến vào quanh Delta đều bị bắt trọn ổ. Khai thác
tù binh quân ta biết được cộng quân sẽ dùng 2 Trung đoàn còn lại của
SĐ320 để tấn công vào Delta.
Tại Võ Ðịnh, BCH/LÐIIND đã cho
TÐ9ND và Trinh Sát 2 mở rộng các phạm vi hoạt động quanh căn cứ và
phát giác ra các toán đặc công và tiền sát viên của địch ở phía Bắc
và Nam của BCH Lữ Ðoàn và đã diệt gọn. BCH Lữ Đoàn ra lệnh cho TĐ2ND
phòng thủ cẩn thận và tiên liệu các mục tiêu tác xạ yểm trợ cận
phòng cần thiết. Một cuộc đọ sức giữa TĐ2ND và đơn vị tinh nhuệ
SĐ320 của CSBV sắp bắt đầu.
Ngày 29/3/1972 cộng quân bắt đầu
uy hiếp các tiền đồn xung quanh và pháo kích liên tục vào căn cứ
Delta. Súng phòng không của địch cũng khởi sự làm khó khăn cho các
chuyến tiếp tế và tản thương. Một trực thăng tiếp tế trúng đạn phòng
không bị nổ tung, tất cả phi hành đoàn đều tử trận. Kể từ đó việc
tiếp tế cho Delta bị gián đoạn. Vì ngoài tầm phản pháo của ta, nên
Nhảy Dù đã tung các toán Viễn Thám của Trinh Sát 2 để hoạt động gài
mìn claymore và các bẫy lựu đạn, kết quả tốt đẹp. Các báo cáo xin
yểm trợ bằng phi cơ chiến lược B-52 đều bị Quân Đoàn làm lơ. Việc sử
dụng các đơn vị Nhảy Dù đóng đồn tại một địa điểm cố định như những
đơn vị Địa Phương Quân là hoàn toàn trái ngược với chiến thuật lưu
động của các đơn vị Tổng Trừ Bị, mặc dù BTL/SĐ và Lữ Đoàn Nhảy Dù đã
khuyến cáo nhưng Quân Đoàn vẫn không để ý đến. Ngày này TĐ9ND được
trực thăng vận đổ xuống trấn đóng tại phi trường Phượng Hoàng để làm
thành phần trừ bị, và TĐ7ND được đổ xuống trấn đóng tại căn cứ Hotel
phía Nam Delta để làm giảm áp lực của địch.
Ngày 1/4/1972 căn
cứ Delta không thể tiếp tế được, địch quân bám sát chu vi phòng thủ.
Ðiểm lấy nước dưới chân đồi bị địch chiếm giữ và một tổ tiền đồn cấp
Tiểu Đội bị địch tràn ngập. Sáng ngày quân ta đã chiếm lại được hai
vị trí này. BCH/TÐ phải điều động ÐÐ24 của Đại úy Giới đang hoạt
động bên ngoài trở về để tăng cường phòng thủ. Sáng sớm ngày này,
một Trung đoàn của SĐ320 CSBV cũng bắt đầu tấn công Charlie từ hướng
Nam, trực diện Ðại Đội 114 của Trung úy Phan Cảnh Cho. Sau trận mưa
đại pháo các loại, địch quân ào ạt xung phong đông như kiến, bám
theo các thân cây cổ thụ, dùng đủ các loại súng bắn thẳng vào vị trí
Dù. Trong lúc đó, pháo địch cũng chuyển hướng tác xạ vào các vị trí
Pháo Binh của ta để cấm chỉ không cho yểm trợ. Ðại Đội 114 anh dũng
bắn trả, Ðại Đội 112 của Hùng móm cũng tiếp ứng, những người lính
Nhảy Dù thiện chiến nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đứng thẳng
từ các chiến hào đan một lưới lửa ra ngoài phòng tuyến, và tất cả hệ
thống tác xạ Pháo Binh Nhảy Dù đều chuyển qua yểm trợ khi biết
Charlie bị tấn công. Những tràng đạn pháo 105ly bắn hiệu quả tua tủa
được gởi tới mục tiêu, những cây cổ thụ ngoài phòng tuyến bật gốc,
bụi tung mù mịt, cứ hễ dứt loạt đạn pháo của ta thì địch cũng nhỏm
dậy bắn vào. Cộng quân đã đào hầm hố núp ngoài vị trí nên liều lĩnh
bắn che cho tốp khác từ hướng Tây Nam tiến lên, bất kể đạn pháo,
những con thiêu thân dàn hàng xung phong lên đồi. Lúc này thì phi cơ
đã lên vùng sẵn sàng thả bom yểm trợ. Xác địch quân đầy ngoài tuyến
nhưng chúng vẫn bám chắc không chịu rút lui. Pháo Binh Nhảy Dù ngưng
tác xạ để phi cơ Mỹ làm việc, những chiếc phóng pháo cơ gầm thét
ngang trời thả những loạt bom ngoài vòng rào, chỉ cách vị trí cỡ
50m, những núi lửa bốc lên cao sau mỗi tiếng nổ. Lần đầu tiên Nhảy
Dù chịu chơi dám cho thả bom gần như vậy và bắn pháo binh cách mình
hai ba chục mét (hiệu quả sát hại của pháo binh 105ly là từ 50 đến
100m, bắn cách mình cỡ hai 30m là rất liều lĩnh và hết sức nguy
hiểm). Con cháu bác và đảng cũng không ngờ những người lính Dù chịu
đựng dưới mưa pháo khủng khiếp nhiều ngày, phòng tuyến bể hết mà vẫn
gan dạ tử thủ như thế. Dứt loạt phi pháo, địch hô xung phong,
nhưng tiếng hô càng lúc càng yếu, chúng đã chém vè vì bị thiệt hại
rất nặng nếu không thì đã nhào lên tiếp để lãnh đạn. Những tiếng
pháo địch thưa dần nhưng tại các vị trí pháo của ta vẫn còn bị cấm
chỉ.
Ngày 2/4/1972 tình hình tại Delta rất nguy ngập, pháo
địch ngoài tầm phản pháo của ta liên tục nã vào căn cứ giữa ban
ngày, Sĩ quan liên lạc không trợ không xin được các phi vụ diệt pháo
địch và các đơn vị địch quân đang bao vây quanh Delta. Việc tiếp tế
và tản thương không thể thực hiện được, tình trạng đạn dược và tiếp
liệu của TĐ2ND đã cạn kiệt, một Chinook của Mỹ cố gắng đáp xuống
tiếp tế đã bị bắn rơi ngay trong căn cứ Delta, 4 phi công phi hành
đoàn bị kẹt lại trong căn cứ. Toán rescue của Hoa Kỳ cố gắng làm
việc nhưng không thể bốc được phi hành đoàn. Ðêm đến, cộng quân tiền
pháo hậu xung biển người hết lớp này đến lớp khác, nhằm mục đích bắt
sống cho được 4 phi công Mỹ. Các binh sĩ của hai ĐĐ22 của Thái Doãn
Anh và ĐĐ20 của Đỗ Văn Hiến đều đứng đậy khỏi chiến hào ghìm súng
nhả từng tràng đạn. Đám nhóc con Cán binh cộng sản hình như say
thuốc “hùng binh” của Trung cộng, mặt mày ngơ ngác hàng hàng lớp lớp
tiến lên rồi rơi rụng trước họng súng đã đỏ nòng của các chiến sĩ
Nhảy Dù.
Trong ngày 2/4 này, bị cản trở trong việc chuyển
quân trên đường mòn HCM vì hỏa lực từ CĐHL 1338 do TĐ3ND gây ra,
cộng quân đã tập trung đại pháo 130ly, hỏa tập kinh hồn vào cường
điểm này gây thiệt hại nặng về nhân mạng cho Đại Đội 33 (Đại Đội
Trưởng 33 là Trung úy Nguyễn Hữu On bị thương nặng phải di tản) và
làm nổ tung hầm đạn 81ly dự trữ và hầm chứa mìn chống chiến xa. Sau
2 giờ pháo khốc liệt vào cứ điểm, cộng quân ào ạt tấn công biển
người vào cường điểm này. Trước áp lực quá mạnh của địch quân,
BCH/TĐ3ND ra lệnh cho ĐĐ33 phá hủy các súng cộng đồng và triệt thoái
khỏi cứ điểm. Hai ngày sau Thiếu tá TĐP và 49 quân nhân ĐĐ33ND còn
sống sót đã về đến được căn cứ Charlie do TĐ11ND trấn đóng. Sau đó,
Trung úy Nguyễn Hữu Viên được chỉ định thay thế chức vụ ĐĐT/ĐĐ33 và
đơn vị này được di chuyển đến trấn giữ an ninh cho Pháo Đội A2 của
Trung úy Nguyễn Cẩn Ngọc tại làng Polei Dak Mut cạnh bờ sông Po Ko
gần Võ Định.
Trận ác chiến đêm 3/4/1972 trên đồi Delta:
Từ lúc nửa đêm rạng sáng ngày 3/4/1972, Sư đoàn 320 CSBV liên
tiếp tấn công biển người vào căn cứ “Delta” để cố tràn vào chiếm khu
vực trung tâm căn cứ Delta nhưng đã gặp sức kháng cự vô cùng mãnh
liệt của các chiến sĩ Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù. Sau nhiều đợt tấn công và
pháo kích tới tấp bằng hỏa tiễn 122ly và cối 120ly kéo dài hơn 1
giờ, từ các cao điểm ở phía Tây và Tây Nam vào vị trí bố phòng của
Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù, sau đó bộ binh xung phong theo chiến thuật biển
người. Từng đoàn cộng quân tràn lên phòng tuyến đã bị các chiến sĩ
Mũ đỏ của hai Đại Đội 20 và 22 bắn hạ. Lớp này đến lớp khác, theo
lệnh của cán bộ chỉ huy thúc ở phía sau, binh lính CQ đa số còn trẻ,
như những người “điếc không sợ súng”, điên cuồng cầm súng chạy lên
phía trước, chiến binh Dù bắn gần hết đạn. Xác cộng quân la liệt
quanh vòng đai phòng thủ của các Đại Đội Nhảy Dù. Với lối đánh thí
quân này, cuối cùng cộng quân đã chọc thủng một phần tuyến phòng ngự
đầu tiên của Đại Đội 22ND. Liên lạc giữa bộ chỉ huy Tiểu đoàn và Đại
Đội 22 bị gián đoạn. Tướng Ngô Du và Bộ Tham Mưu đã bay lên căn cứ
Võ Định cạnh Quốc Lộ 14 để chỉ huy mặt trận. Cố vấn Paul Vann được
tin này cũng bay lên quan sát 2 căn cứ “Delta” và “Charlie”. Paul
Vann thấy rõ một số cộng quân đông đảo đang bao vây quanh căn cứ
“Delta” giữa hàng rào thứ nhất và thứ hai, ông liền gọi các phi tuần
của Không lực Hoa Kỳ cất cánh từ Thái Lan qua oanh kích liên tục
chung quanh căn cứ “Delta để yểm trợ căn cứ này.
Trận chiến
trở nên hỗn loạn khi cộng quân chọc thủng phòng tuyến tràn vào tới
khu vực hầm Trung Tâm Hành Quân (TOC) của Tiểu đoàn. Đại úy Đỗ Văn
Hiến Đại Đội Trưởng Đại Đội 20 (Đại Đội Chỉ Huy), điều động toàn Đại
Đội nỗ lực chận địch để bảo vệ bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Đại Đội trưởng
Hiến đã trực tiếp chỉ huy hai khẩu đội đại bác 57ly và súng cối 81ly
bắn trả quyết liệt, đẩy lùi được các đợt xung phong của địch quân.
Dù bị tổn thất nặng, cộng quân vẫn cố tiến chiếm khu vực trung tâm
căn cứ. Trước tình hình nguy kịch, Đại úy Hiến điều động tổ đại liên
tác xạ vào phía địch quân để bảo vệ cho Tiểu đoàn Trưởng và toán phi
hành đoàn 4 quân nhân Hoa Kỳ rút ra phía sau đồi. Cộng quân vẫn cố
tràn lên để chiếm hầm truyền tin, Đại úy Đỗ Văn Hiến đã cùng với Đại
Đội 20 tử chiến để ngăn chận địch. Trong khi đang điều động, vị Đại
Đội Trưởng dũng cảm này đã bị trúng đạn AK vào ngực, anh đã ngã
xuống ngay trên khẩu đại bác 57ly.
Đại úy Hiến tử trận, áp
lực địch quá mạnh, lực lượng trú phòng buộc phải rút ra khỏi đồi,
cộng quân chiếm hầm truyền tin và chỉ huy. Đến giữa đêm căn cứ bị
địch tràn ngập, liên lạc giữa Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù với bộ chỉ huy Lữ
Đoàn II Nhảy Dù bị gián đoạn.
Nhưng các chiến sĩ Dù vẫn tiếp
tục kháng cự vô cùng mãnh liệt, khoảng 4.00 giờ sáng ngày hôm sau,
tại Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn II Nhảy Dù, Đại tá Trần Quốc Lịch đã ủy nhiệm
cho Thiếu tá Bùi Đức Lạc, Tiểu đoàn Trưởng TĐ1 Pháo Binh, sử dụng
trực thăng CNC do một Trung tá phi công Hoa Kỳ điều khiển, bay vào
vùng đồi Delta. Trực thăng này đã bị các cụm súng phòng không của CQ
bố trí quanh các cao điểm bắn lên như mưa, tuy nhiên vị Trung tá Hoa
Kỳ này là một phi công nhiều kinh nghiệm về tránh phòng không địch,
ông đã cho tắt đèn nên các xạ thủ cộng quân không định hướng bay của
phi cơ được.
Thiếu tá Lạc, khi vào vùng Delta ngồi
trên CNC, nhìn các đường đạn bắn qua lại thì ông nhận ra ngày là
Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù đã rút quân khỏi Delta, ông đã điều chỉnh tác xạ
đạn nổ chụp ngay trên đỉnh Delta cộng quân đã bị tổn thất nặng, hằng
trăm cộng quân phơi xác.
Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù tái chiếm đồi
Delta:
7 giờ sáng, từ vòng ngoài Delta, Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù
mở cuộc phản công. Cánh quân đầu tiên gồm Đại Đội 20 và Đại Đội 22
do Thiếu tá Nguyễn Đình Ngọc, Tiểu đoàn Phó chỉ huy. Với lối đánh
tốc chiến, hai Đại Đội 20 và 22 đã trở lại đánh bật cộng quân ra
khỏi khu vực trung tâm của căn cứ. Tiếp đó, Thiếu tá Lê Văn Mạnh,
Tiểu đoàn Trưởng, chỉ huy ba Đại Đội 21, 23 và 24 đang đóng ở các
cao điểm phía Bắc, Tây, và Tây Bắc từ ba hướng đồng loạt tiến về đồi
Delta để tái chiếm các vị trí còn lại. Một giờ sau, Tiểu đoàn 2 Nhảy
Dù đã kiểm soát toàn bộ khu vực đồi chiến lược Delta. Kết quả Sư
đoàn 320 của CSBV bị thảm bại nặng nề tại căn cứ “Delta”. Hàng trăm
cộng quân nằm chết ngổn ngang trên đồi, tướng Hoàng Minh Thảo phải
bổ sung quân số cấp tốc cho sư đoàn này để sau đó khoảng 10 ngày
(14/4/1972) lại cho mở cuộc tấn công vào căn cứ “Charlie”. Tiểu đoàn
2 Nhảy Dù tịch thu hơn 200 vũ khí đủ loại, trong đó có cả súng phòng
không 12.4ly (súng phòng không loại mới nhất của CS vào thời điểm
này).
Trong lúc căn cứ Delta bị cộng quân tấn công như vũ bảo
thì căn cứ Charlie hoàn toàn yên tĩnh. Đại tá Trần Quốc Lịch, Lữ
Đoàn Trưởng Lữ Đoàn II Nhảy Dù nhận định rằng địch quân không đủ khả
năng mở hai mặt trận cùng một lúc, đối phương thừa rõ đang gặp phải
đối thủ có tinh thần và khả năng chiến đấu vượt trội hơn các binh
đoàn chủ lực CSBV. Tuy nhiên CQ vẫn không để Charlie yên, đối phương
đã sử dụng pháo binh 130ly để bắn vào mỗi khi có trực thăng đáp
xuống. Từ những dấu hiệu đó, Đại tá Lịch đã ước tính là CQ sẽ tấn
công căn cứ Charlie. Trong lần thị sát căn cứ này vào ngày 1/4/1972,
ông đã lưu ý Trung tá Nguyễn Đình Bảo phải làm hai hầm trung tâm
hành quân (TOC), các tiền sát viên Pháo binh cần phải điều chỉnh tác
xạ cận phòng, tác xạ tiên liệu và vạch sẵn những tác xạ tiêu hủy
ngay trên điểm đóng quân. Hôm đó cũng là lần cuối Đại tá Lịch đi thị
sát căn cứ Charlie. Đại tá Lịch dặn dò Trung tá Bảo kế hoạch phòng
ngự và không quên nhắc vị Tiểu đoàn Trưởng một số điểm như sau: cộng
quân đã sử dụng pháo 130ly, pháo 122ly, cũng như các loại hỏa tiễn
khi tấn công vào căn cứ Delta. Nếu địch dùng đầu nổ chậm thì không
một hầm dã chiến nào của quân trú phòng có thể chịu đựng được, do đó
các cấp chỉ huy nên có hầm trú ẩn riêng cho từng người. Hầm Trung
Tâm Hành Quân không nên làm lớn.
Ngày 7/4/1972 TÐ2ND rút ra
QL-14 để bổ sung quân số, toàn bộ Tiểu đoàn 7ND vào thay thế để khai
thác chiến trường và truy kích địch. Trong ngày này, các vị trí đóng
quân của Lữ Đoàn II Nhảy Dù kể cả Charlie cũng đã bắt đầu bị pháo
địch, nhưng vẫn còn ở mức độ nhẹ vì mỗi nơi chỉ bị khoảng 100 đạn đủ
loại mỗi ngày mà phần lớn là hỏa tiễn, còn loại pháo 130ly chỉ ở mức
5 đến 10 quả.
QĐII đã không màng đến những thương vong của chiến sĩ ND vì pháo địch...
Trận đánh Charlie (từ 9 –
14/4/1972)
Charlie là một Căn cứ quân sự nằm trên 3 đỉnh đồi
(960m; 1,020m và 1,050m) nối nhau bởi những dốc đồi yên ngựa thoai
thoải, cách Tân Cảnh khoảng 8km về hướng Tây Nam, cách biên giới
Miên-Việt chừng 30km, là một căn cứ hỏa lực nhỏ của Mỹ bỏ đã lâu
trông rất hoang tàn. Ở xa về hướng Đông Nam, con sông Poko màu bạc
uốn khúc theo dãy Trường Sơn rồi đổ ra cắt ngang Quốc Lộ 14 và dãy
Trường Sơn ở hướng Tây trùng điệp đồi núi ngút ngàn với đỉnh cao Big
Mamma 1773m và 1513m. Bao quanh Charlie là những ngọn núi với cao độ
trên dưới 1,000m. Phía Tây dưới chân Charlie có một con suối nhỏ dốc
đứng rất khó lên xuống là nguồn tiếp tế nước uống và tắm giặt cho
các chiến binh trấn thủ nơi đây. Trận chiến diễn ra ác liệt tại
quanh khu vực này nên gọi chung là trận Charlie.
Kể từ những ngày
đầu năm 1972, Căn cứ Charlie được tái lập bởi đơn vị Công Binh
SÐ22BB do Trung Ðoàn 42 trách nhiệm trấn thủ. Charlie nằm chận trên
con đường chiến lược của địch quân di chuyển từ khu vực tam biên, Hạ
Lào sang QL-14 rồi xâm nhập vào Tỉnh Kontum vì vậy cộng quân phải
dồn mọi nổ lực để nhổ cái gai Charlie.
Khi Tiểu đoàn 11 đổ
quân xuống, sửa sang lại giao thông hào và giăng lại kẽm gai cho
tiện việc phòng thủ. Tình hình mỗi ngày mỗi thêm căng thẳng, địch
pháo liên tục từ dãy Big Mamma và bao vây Charlie hằng ngày cỡ trăm
quả, nhiều nhất là 130ly, rồi đến 122ly ngoài tầm phản pháo của ta.
Ðại tá Trần Quốc Lịch, LĐT/Lữ Ðoàn II Dù cũng đã trình lên Tướng Du
xin cho Nhảy Dù rút ra ngoài các căn cứ, Nhảy Dù mà nằm đưa đầu ra
lãnh pháo như thế này thì phản chiến thuật quá, nhưng Trung tướng
Ngô Du, Tư Lệnh Quân Ðoàn 1 vẫn lặng thinh, và Cố Vấn John Paul Vann
chẳng hiểu biết gì chiến thuật và vẫn kiên trì áp lực... tử thủ.
Quân Đoàn II còn lệnh cho TĐ11 Dù ra hố pháo tìm chứng tích của đầu
nổ 130ly mới cho B-52 dập. Quân Đoàn cũng chẳng màng gần một phần ba
quân số Nhảy Dù bị loại ra ngoài vòng chiến vì đạn pháo và chưa được
di tản. Cái hào quang chiến thắng của các cấp chỉ huy chiến trường
ngoài binh chủng đo bằng máu của các chiến sĩ Dù thật quá đắt. Một
đơn vị Tổng Trừ Bị cơ động vào bậc nhất của Quân Đội bị chôn chân ở
một nơi cố định làm vật tế thần ở Charlie, ngày ngày ăn pháo không
khác nào con dê bị trói vào cột đợi ngày hiến tế. Phòng thủ thụ động
chờ lãnh pháo, chờ địch đến vây đánh; sở trường lưu động và tác
chiến tấn công của Nhảy Dù không được sử dụng. Sự thông minh tinh tế
và bao năm kinh nghiệm xương máu trên chiến trường của những người
Sĩ quan trẻ tuổi ưu tú của QLVNCH đành bó tay để bảo vệ cái đồi trọc
960 này với căn cứ Charlie trơ trọi bốc hơi nóng hừng hực dưới nắng
Hè oi bức với những cơn gió Lào nóng rát cắt da xẻ thịt; họ phải
chịu đựng, họ phải phục tùng kỷ luật tuyệt đối của Binh Chủng Nhảy
Dù.
Ngày 8/4/1972 Không quân VNCH phát giác một rừng phòng
không của địch quanh Charlie, chạm địch lẻ tẻ cấp Ðại Ðội quanh căn
cứ vào sáng sớm. Rõ ràng địch đã thăm dò và chọn Charlie làm mục
tiêu tấn công. Sau khi thất bại ở đỉnh Delta, Tướng Hoàng Minh Thảo
của VC cho bổ sung quân số quyết tấn công dứt điểm Charlie để phục
hận. Hai Trung đoàn địch quân số gấp 8 lần TĐ11ND, đang bao vây
quanh charlie cả 3 hướng Ðông, Tây, và Nam, chỉ còn hướng Bắc, gần
với ngọn đồi Charlie của Ðại Đội 111 lại là dốc thẳng đứng.
Ngày 9/4/1972 hỏa tiễn và đại pháo 120, 130ly địch cày tung hệ thống
phòng thủ, sau 4 giờ pháo kích, với hàng ngàn quả đạn công phá. Ðịch
bắt đầu tấn công Charlie vào tuyến Đại Đội 111, trong khi đó chúng
vẫn pháo vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn. Trung úy Thinh chẳng khác nào một
Triệu Tử Long tại trận Đương Dương, Trường Bản, tả xung hữu đột điều
động Ðại đội 111 chống trả quyết liệt. Pháo binh, khu trục, trực
thăng võ trang trút đủ loại bom đạn lên đầu địch. Sau nhiều đợt xung
phong không kết quả, địch rút đi và để lại hàng trăm xác chết với vũ
khí ngổn ngang đầy ngất sườn đồi. Lúc này thì địch đã công khai vừa
đánh chúng vừa điều quân, di chuyển quân xa ban ngày, tiếng xích sắt
xe tăng, tiếng xe Molotova có thể nghe thấy sau những loạt pháo.
Bằng mọi giá chúng phải nhổ cái gai Charlie dầu có hy sinh cả hai
Trung đoàn này thì còn những Trung đoàn khác sẵn sàng vào trận để
lấy tiếng trên bàn hội nghị. Máy bay yểm trợ cho Charlie thì phải
bay đánh một vòng về hướng Tây để thả bom, xong phải chúi mũi về
hướng Ðông ra thẳng Quốc Lộ 14, địch đã đặt hai cây phòng không tại
đây chận đầu khiến cho máy bay không dám xuống thấp, thỉnh thoảng
chúng còn nhắm xuống Charlie trực xạ. mỗi lần máy bay vào vùng là
tiếng phòng không từ các hướng nổ đầy trời, và ít nhất cũng cả chục
cây phòng không đã được dàn trận. Pháo Binh của ta thì gần như bị tê
liệt vì bị pháo cấm chỉ của địch, nhiều chiếc Chinook từ phi trường
Phượng Hoàng tải đạn Pháo Binh vừa đến Yankee thì bị pháo và phòng
không từ hướng Đông bắn qua phải trở lui, cứ như vậy cả ngày. Pháo
của ta cố gắng bắn dập hai cây phòng không này nhiều lần mà cũng
chẳng ăn thua gì. Cả nửa tháng nay chúng đã đào hầm trong núi đợi
giờ quyết tử dứt điểm 11 Dù, dầu có bắn trúng cây này thì chúng cũng
sẽ điều cây khác đến. Mấy chiếc khu trục đã trúng đạn phòng không,
còn trực thăng võ trang của ta hay Cobra của Mỹ là miếng mồi dễ lãnh
đạn phòng không nhất nên khó có thể vào vùng.
Sang ngày 10/4/1972
đến giờ phút này thì đã rõ thế nào bọn chúng cũng dứt điểm Charlie,
địch quân bắt đầu trận địa pháo, Căn cứ nhỏ bé như thế mà phải lãnh
đủ trên 3 ngàn quả đạn cùng ngày. Ðại Đội 111 bị pháo nặng nề nhất,
ngay Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn cũng đang bị pháo, tất cả các đại đội đều
đang bị pháo. Pháo Binh của ta cũng bị cấm chỉ không yểm trợ được.
Tiếng rít của hỏa tiễn và pháo 130ly làm tê liệt lệnh lạc. Sau khi
ngưng tiếng pháo, Bộ Binh địch quân bắt đầu tấn công... dưới chân
đồi 960, lúc nhúc những bóng người ngụy trang bằng những cây lá đang
từ từ bò lên dốc. Các chiến sĩ 111 Nhảy Dù ghìm tay súng chờ chúng
đến gần rồi đồng loạt khai hỏa. Mìn claymore, súng cối, phóng lựu,
đại liên, M-16... Bom đạn nổ rền khắp cả sườn đồi. Lính CS say thuốc
hùng binh, lớp này ngã gục lớp khác chồm tiến lên như những con
thiêu thân lao vào bóng đèn nóng bỏng.
Các chiến sĩ Nhảy Dù bắn hết đạn tới dùng lưỡi lê đánh cận chiến
và sau cùng BCH Tiểu đoàn phải gọi Trung úy Thinh triệt thoái
ĐĐ111 về C2. Việt cộng tràn lên vị trí đóng quân của Đại Đội lo
tranh nhau kiếm mấy cái ba lô của binh sĩ bỏ lại, lục lọi tìm
kiếm những gạo sấy, đồ hộp khui ra ăn tại chỗ. Họ đã bị bỏ đói
nhiều ngày, đói quá nên không còn sợ súng đạn gì hết. Đại đội
112 của Hùng móm phải xuống tiếp đón ĐĐ111 rút về nhập chung với
Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn. Pháo Binh Nhảy Dù phải bắn đạn nổ chụp lên
đỉnh đồi 960 để ngăn chận cộng quân tràn vào BCH Tiểu đoàn. Lữ
Ðoàn xin phi cơ quan sát lên vùng và phi pháo của Hoa Kỳ bắt đầu
vào vùng oanh tạc quanh căn cứ Charlie. Các phi tuần của Không
Quân VNCH tiếp theo vào vùng bay thật thấp để thả chính xác
những trái bom napalm, trải những thảm lửa xuống đồi 960. Lửa
thiêu cháy Charlie, thiêu luôn cả những con thiêu thân đợi ngày
giải thoát. Trực thăng tản thương không thể đáp được vì hỏa lực
phòng không quá mạnh của địch, toàn 12.7ly từ các khe núi bắn
ra. Trực thăng võ trang oanh kích ít gây tổn thất cho địch. Maj.
John Duffy cố vấn của Tiểu Ðoàn 11ND, theo một hệ thống riêng
của Lực Lượng Đặc Biệt, xin được mấy phi vụ B-52 sẽ thả lúc nửa
đêm...
Ngày 11/4/1972, Trung tướng Ngô Du, Tư lệnh Quân
đoàn 2, ông Paul Vann, cố vấn Quân đoàn, Đại tá Lê Đức Đạt, Tư
Lệnh Sư Đoàn 22BB, đã đến thăm bộ chỉ huy Lữ Đoàn II Nhảy Dù.
Đại tá Lịch dù đang bệnh cũng có mặt tại phòng thuyết trình và
một lần nữa, ông xin cho Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù được lưu động
trong vùng trách nhiệm, nhưng vị Tư Lệnh Quân đoàn 2 không đồng
ý. Trung tướng Du còn ra lệnh trực tiếp cho Thiếu tá Nguyễn
Trọng Nhi, Trưởng Ban 3 Lữ Đoàn, báo cho Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù
phải lấy mảnh đạn 130ly gửi về để chứng minh với Quân đoàn và Cố
vấn. Trung tướng Ngô Du cho rằng cộng quân không thể kéo đại
pháo 130ly vào Vùng 2 được. (Thật sự, việc địch kéo 130ly vào
đây rất dễ dàng, thiết giáp tới được là pháo 130ly tới được, vì
súng 130ly chỉ cần PT-76 là có thể kéo được). Ngày này địch
không tấn công và chỉ pháo cầm chừng. Buổi sáng sương mù nên mãi
gần trưa trực thăng tản thương mới vào vùng. Khu trục bao vùng,
gunships tác xạ những điểm nghi ngờ trong các khe núi để trực
thăng cố gắng đáp. Nhưng vô hiệu, phòng không địch vẫn tác xạ
như đan lưới. Một trực thăng trúng đạn đang lết ra khỏi vùng...
LÐIIND lại xin Quân Ðoàn yểm trợ B-52 nhưng không kết quả. (kể
từ 17/3/1972 khi TS2ND bắt được 12 tù binh của SĐ320CSBV) cho
đến ngày 11/4/1972, vẫn chưa có 1 box B-52 nào được thả xuống
vùng hành quân qua hệ thống yểm trợ của QĐ2).
Ngày
12/4/1972 địch quân bắt đầu pháo đón chào một ngày mới với hằng
ngàn quả đạn nhiều nhất là 130ly nổ chậm, rồi đến đại bác 122ly,
và cả hỏa tiễn 122ly. Tất cả các đại đội đều báo cáo đang bị
pháo. Pháo Binh tầm xa của địch rơi vào căn cứ, đến ngày này thì
tiền sát viên của địch đã điều chỉnh Pháo Binh tác xạ chính xác
vào Charlie, nặng nhất là vào BCH Tiểu đoàn tại C2. Từng tấc đất
bị cầy lên như địa ngục có thật, bất cứ đơn vị nào khác mà trấn
thủ nơi đây chắc phải tự động rút ra từ lâu rồi. Khoảng 11 giờ
trưa một quả đạn rớt vào giao thông hào bên cạnh TOC nên Thiếu
tá Mễ bị thương nhẹ, máu lấm tấm đầy người. Một quả 130ly trúng
hầm chỉ huy của Trung tá Bảo, mấy thân cây lớn đặt ngang hầm sụp
đổ hoàn toàn. Ngay lúc đó, Thiếu tá Duffy vừa chui ra khỏi hầm,
đầu ngực đầy máu. Trung Ta Nguyễn Đình Bảo đã tử thương. Thiếu
tá Lê Văn Mễ lên chỉ huy thay Trung tá Bảo, đã quá trưa, địch
vẫn tiếp tục pháo cả ngày. Căn cứ như bị đào sới. Cây cối đổ gãy
ngổn ngang, binh sĩ chết và bị thương càng lúc càng cao. Tử
thương gần 30 và bị thương nặng nhẹ trên 100. Charlie vẫn mịt mờ
bom đạn. Pháo giăng giăng bao phủ khung trời. Pháo vừa ngưng thì
địch bắt đầu tấn công. Từ đồi cao nhìn xuống Charlie, những bộ
kaki vàng giắt lá cây, hàng hàng lớp lớp xung phong. Giọng Thinh
chắc nịch vang lên trong máy điều động đại đội chống trả. Pháo
binh, Không Quân yểm trợ rất hữu hiệu. Ðã mấy lần địch khựng
lại, rồi lại tấn công. Mễ điều động mấy tổ đại liên và đại bác
90 của Hùng “móm” kéo xuống lưng đồi tác xạ ngang hông địch.
Đoàn Phương Hải hướng dẫn và chỉ điểm cho L-19 hướng tấn công
của địch. Khu trục tác xạ oanh kích mục tiêu, từng chiếc phi cơ
chúi xuống trút bom Napalm trên đầu địch. Cả một biển lửa bùng
lên quanh Charlie. Lửa hừng hực thiêu đốt rừng người, lửa nhân
gian cuồng bạo. Bắc quân la hét lăn lộn trong biển lửa. Lửa từ
lưng trời chụp xuống, lửa từ chân núi cháy lên, chỗ nào cũng lửa
và lửa.
Phòng không địch tác xạ như đan lưới. Hai khu
trục trúng đạn, một nổ cháy như một cây đuốc trên không, chiếc
còn lại với làn khói trắng sau đuôi bay chập choạng về hướng Tân
Cảnh. (Kỳ bị bắn rớt, còn Long bị bắn ngay đuôi). Sau nửa ngày
thiêu đốt Charlie, từng thảm TOT hỏa tập pháo binh bắn cận phòng
với đầu nổ chụp. Ðịch bắt đầu tháo chạy. (TOT là lối tác xạ của
nhiều pháo đội Pháo Binh từ nhiều hướng khác nhau cùng bắn tập
trung rất nhiều quả đạn vào cùng một mục tiêu). Ngày 13/4/1972,
Không Quân và trực thăng võ trang bắn phá để trực thăng tản
thương cố gắng vào vùng. Nhưng tất cả đều vô hiệu, một trúng đạn
ở phía bắc Yankee, một nổ tung gần Charlie và một chập choạng
bay khỏi vùng với làn khói trắng bên hông. Thế là hết! Hy vọng
tan theo mây khói. Thiếu tá Mễ ra lệnh cho Hùng mập ÐÐ113 lục
soát kiếm bãi đáp phía bắc Charlie. Hùng báo cáo chạm địch khi
kiếm ra bãi đáp. Hình như địch quân bố trí tại tất cả những
trảng trống chung quanh Charlie để ngăn chặn tiếp tế hoặc đổ
quân tiếp viện. Trung úy Thinh với ÐÐ111 còn khoảng 50 người,
dàn đội hình bung mạnh về hướng Đông xem có chỗ nào tải thương
được không. Ðộ nửa tiếng sau, súng nổ vang dội từ triền đồi bên
kia, 111 lên được gần đến đỉnh đồi thì địch khai hỏa, bằng luôn
cả phòng không trực xạ và hàng hàng lớp lớp biển người tấn công.
Giao tranh dữ dội, Trung úy Thinh, điều động binh sĩ xung phong
nhằm áp đảo tinh thần đối phương mong thoát qua được vùng tử địa
mà địch quân đã chờ sẵn. Nhưng một tràng đạn AK đã trúng vào
người Anh. Chuẩn úy Ba, một Trung Đôi Trưởng đã nhào lên điều
binh bắn trả và rồi Anh cũng bị cùng chung số phận. Đại Đội chỉ
còn lại một Sĩ quan Tiền Sát Viên duy nhất là Trung úy Nguyễn
Văn Khánh, Anh đã cùng Trung sĩ Lung, tay tổ trưởng nổi tiếng
tháo vát đã chiến đấu cực kỳ dũng mãnh để đưa xác Thinh và đồng
đội trở về căn cứ. Lung là một HSQ gan dạ, nhiều kinh nghiệm
chiến trường, tay cầm đại liên quạt tới tấp mở đường máu cho Đại
Đội rút lui. Cộng quân nhiều lần xông lên nhưng đều bị cây đại
liên của Lung quật ngã. Một quả B-40 sau cùng đã bắn tung người
Lung như một quả bóng. Buổi chiều, địch bắt đầu tấn công sau khi
đã mưa pháo vào căn cứ từ lúc trưa. Hơn tuần lễ nay, hầu như
ngày nào cũng vài tiếng đồng hồ ăn pháo. Cây cối đổ gãy thêm,
nằm ngổn ngang. Binh sĩ móc thêm những hàm ếch thật sâu trong
các giao thông hào. Chỉ cần đường tơ kẽ tóc để sống còn, nên hệ
thống trú ẩn đã được đào sới rất công phu.
Sáng ngày
14/4/1972 BCH Tiểu đoàn gồm Thiếu tá Lê Văn Mễ, Thiếu tá Ðoàn
Phương Hải Trưởng Ban 3 giờ kiêm Tiểu đoàn Phó, Trung úy Ðúng SQ
Pháo Binh, Bác Sĩ Tô Phạm Liệu, một bác sĩ Nhảy Dù mê đánh trận
còn hơn cầm ống chích, cùng lấy quyết định cuối cùng: bỏ Charlie
vào lúc 5.00 giờ chiều, sau khi Duffy xin được mấy phi vụ B-52
thả xuống phía Nam và phía Đông căn cứ để Tiểu đoàn di tản.
Nhưng vào buổi trưa sau những đợt pháo kích dữ dội, địch xung
phong lên từ phía Ðại Đội 114 đồng thời pháo luôn các vị trí
pháo của ta, địch nhào lên đông như kiến cỏ, Ðại Đội 114 chống
cự không nổi phải rút về dàn hàng với BCH Tiểu đoàn, phi cơ cũng
đã lên vùng bỏ bom ngay trên tuyến 114, hai bên giành nhau từng
hầm hố, từng giao thông hào. Pháo Binh ta bị cấm chỉ coi như bị
tê liệt. Ðợt bom lửa cuối cùng thả ngay trên tuyến phòng thủ đại
đội 114 của Trung úy Cho đã đánh bật địch quân ra khỏi tuyến
phòng thủ. Chiến trường tạm lắng dịu, chỉ còn tiếng pháo binh
tác xạ yểm trợ vào những điểm nghi ngờ địch quân tập trung dưới
chân đồi. Giờ phút này, mặc dù chiếm được gần một nửa C2 nhưng
địch vẫn chưa dám nhào tới cận chiến nên phòng tuyến thứ hai của
ta vẫn giữ được.
Tiểu đoàn 11 chính thức rời bỏ Charlie
vào lúc này, nhờ mấy phi vụ đánh bom hồi chiều và ba toán tiền
đồn nằm sẵn từ buổi trưa, đoàn quân ào đi không gặp kháng cự.
Cũng may địch sợ ta dùng chiến thuật “đồng ư quy tận” tức là gọi
Pháo Binh bắn ngay trên đầu cùng chết với địch nên không dám
đuổi, nhờ vậy đoàn quân xuống đến chân đồi không có phát súng
nào bắn vói. Trời hơi tối, địch cũng không dám pháo kích nữa sợ
lộ vị trí, vả lại chúng đã lên đầy trên C2 và giờ đây có lẽ đang
lục hầm kiếm thức ăn, nên Pháo Binh của ta hoạt động lại được
bắn chận không cho địch truy kích.
Rút theo hướng Đông
Nam độ vài trăm mét thì nghe nhiều tiếng rít xé trời, bom B-52
rơi xuống Charlie cày nát thành bình địa. Ðại Đội 113 ở hướng
Bắc hầu như còn nguyên vẹn từ ngày đầu đến giờ không bị đánh
cũng như không thiệt hại vì pháo kích, nên được lệnh đi ngược
xuống Yankee tìm đường ra bãi bốc trên bản đồ cách Charlie
khoảng gần 4km. Trời tối, đồi cao, rất khó đi, máy bay lên vùng
thả hỏa châu soi sáng, những dây đạn M-79 từ phi cơ OV10 rót đều
phía sau chận hậu. Binh sĩ còn khỏe dìu những người bị thương,
hết lương thực, đạn dược, thuốc men, và dưới những cơn mưa pháo
khủng khiếp nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, hơn một
trăm con người còn lại chia đều mỗi người đã lãnh cỡ gần 100
trái đại bác, thử hỏi còn có ai chịu đựng được như thế không?
Danh tướng Mac Authur đã nói “Tôi thương những người lính bộ
binh hằng ngày 24 giờ phải đối diện cái chết trên chiến trường,
lại còn phải gánh chịu những bất công của thượng cấp”, hoàn cảnh
của Lính Dù còn tệ hại hơn thế nữa, bị trói tay để đánh.
Ngày 15/04/1972 đến gần sáng thì ra đến bãi bốc giống như một
cái thung lũng cạnh một con suối, đây là một khoảng trống đầy
lau sậy, đại đội 113, Hùng “mập” đang rải quân sát bìa rừng và
tung các toán tiền đồn ra xa. Chiến đấu? Chiến đấu trong thế
cùng lực kiệt với quân số 167 người, kể cả thương binh đang kiệt
sức vì đói khát đã 3 ngày, nhưng Nhảy Dù là “cố gắng” nên đoàn
quân mũ đỏ lại vùng lên và hướng nhìn Duffy, viên Thiếu tá Lực
Lượng Ðặc Biệt đã sống với Nhảy Dù như anh em, chia nhau từng
bát cơm hộp cá. Vết thương rỉ máu trên đầu, trên ngực, nhưng
Duffy vẫn cứng như một thỏi thép với cây XM18 và chiếc máy
truyền tin đặc biệt của các toán Lực Lượng Ðặc Biệt khi nhảy xâm
nhập.
- Chúng ta sẽ có máy bay Mỹ trong 15 phút!
Khi ánh nắng mặt trời đầu tiên trong ngày vừa sáng hẳn lên từ
phương Đông thì có tiếng trực thăng bay đến, dẫn đầu là hai
chiếc Cobra và phía sau là một đoàn Trực thăng UH1B, hai chiếc
Cobra có trang bị rocket bay một vòng quanh bãi bốc quan sát,
một trái khói màu vàng được thả ra đánh dấu chỗ trực thăng đáp
xuống, chiếc UH1B thứ nhất vừa sà xuống mặt đất thì có tiếng đạn
cối rơi xuống nổ ngay chóc bãi đáp rồi hằng chục tiếng pháo cối
82ly tiếp tục rơi xuống, những chiếc trực thăng vội vàng bay
thẳng lên không bốc được toán nào. Dứt loạt cối, Việt cộng từ
hai bên triền đồi xuất hiện như mọi da đỏ dàn hàng ngang xung
phong y hệt trong phim cao bồi viễn tây, vì đồi lau sậy thưa
thớt nên rất dễ thấy, chúng không thổi kèn xung phong mà vừa
chạy, vừa bắn, vừa hô “hàng sống chống chết” vang trời. Tiểu
đoàn 11 Dù đang bị nguyên một Trung đoàn Việt cộng phục kích,
Trung đoàn này được lệnh đi đánh phi trường Phượng Hoàng đêm
trước, khi Tiểu đoàn 11 Dù rút lui khỏi Charlie, chỉ huy của
chúng đoán được ta sẽ bốc quân tại đây nên cho lệnh Trung đoàn
này lui trở lại để phục kích định hốt gọn 11 Dù, bọn chúng tưởng
khi pháo ở giữa tất nhiên ta sẽ bung chạy tản ra chung quanh,
bọn chúng đã phục kích sẵn sẽ hốt gọn, nhưng không ngờ khi chúng
tràn xuống, thì Nhảy Dù cũng bung ra chống cự mãnh liệt. Trận
chiến lúc này như một cái nia đựng đậu đen và đậu trắng sàng qua
sàng lại lẫn lộn như đang đánh xáp lá cà, chỗ nào cũng có tiếng
AK-47 và M-16 nổ lẫn lộn, một chiếc trực thăng liều chết đáp
xuống đất, một số người chạy tới leo lên, những chiếc sau vừa sà
xuống thì Việt cộng cũng rượt gần đến nơi, xạ thủ đại liên
Nguyễn Tấn Vinh dừng lại ôm Ðại liên 60 ria hết luôn một dây đạn
còn lại, Việt cộng ngã rạp xuống đồi rụng như sung, viên đạn đại
liên cuối cùng vừa ra khỏi nòng là mấy cây AK đã chĩa vô đầu
Vinh, có lẽ vì cảm phục tinh thần anh dũng của người lính Nhảy
Dù này mà chúng không giết để trả thù cho đồng bọn, chỉ bắt
sống. Ðơn vị tan thành từng mảnh nhỏ, từng toán chiến đấu đơn
độc. Tiếng chửi thề và tiếng la hét của ta, của địch vang khắp
khu rừng lau và các sườn đồi kế cận, chỗ nào cũng có súng nổ.
Ðịch gọi tên Mễ, tên Hải ra đầu hàng! Chắc chúng tra khảo thương
binh để lấy tin tức. Ngay lúc đó, Duffy vừa liên lạc được với 2
chiếc trực thăng võ trang Cobra và một O2 quan sát. Nhờ địa thế
trống trải của khu rừng lau nên Cobra thấy rất rõ đâu là địch,
đâu là bạn. BCH Tiểu đoàn còn 36 người được bốc di tản làm 5 đợt
vì mỗi trực thăng chỉ bốc được 6 người. Nhờ hỏa lực yểm trợ của
Cobra, một chiếc trực thăng sau cùng liều mạng đáp xuống bốc
được Toán còn lại Mễ, Duffy, Hải và Trung úy Long đang bị địch
quân đuổi bắt ráo riết. Thiếu tá Ðoàn Phương Hải Trưởng ban 3
lại bị một viên đạn AK bắn xuyên bàn chân từ dưới đất lên, rớt
xuống máy bay, may nhờ Thiếu tá Duffy gan dạ quay trực thăng trở
lại kéo lên.
Trong mấy chuyến trực thăng di tản vừa qua,
phi công Mỹ muốn Duffy được bốc đầu tiên, nhưng Duffy nhìn các
đồng đội và nói: Tôi không bỏ các anh, những chiến hữu đúng
nghĩa nhất mà tôi chưa hề gặp trong cả đời chinh chiến. Tôi biết
rõ, nếu tôi đi đợt đầu thì chắc khó hy vọng có máy bay trở lại
bốc nốt các anh. Sáng ngày 15, sau khi BCH Tiểu đoàn 11 di tản,
Thiếu tá Thành bay trực thăng quanh Charlie, cảnh hoang tàn khói
lửa vẫn còn nghi ngút, Charlie không còn nữa mà chỉ còn là một
vùng đất đỏ, trông như một khu đất mới được cầy lên để chuẩn bị
canh tác không một công sự nào còn tồn tại, tất cả mọi sinh vật
trong vùng này đều bị hủy diệt và chắc chắn không còn nguyên vẹn
hình hài, Một lần cuối cùng Thành nghiêng mình chào vĩnh biệt
những thiên thần ớ lại Charlie, và liên lạc với các đơn vị lẻ tẻ
bốc họ về Tân Cảnh”.
Riêng các Chiến Binh 11 còn sót lại,
Họ bị vây đánh tơi bời, một số bị bắt sống làm tù binh, một số
đã lách được vào các bụi rậm trốn thoát được và gom góp lại mấy
ngày sau về tới được Tân Cảnh và được trực thăng tới bốc. Tiểu
đoàn 11 Nhảy Dù, Song Kiếm Trấn Ải Charlie đã để lại nơi đây
người anh cả Nguyễn Ðình Bảo cùng 300 đồng đội, và Tiểu đoàn về
được tới Võ Ðịnh trước sau chỉ có mấy chục người, chưa được một
Ðại Đội.
Vị trí căn cứ Tân Cảnh
Trong ngày này, toàn bộ TÐ9ND do Trung tá Trần Hữu Phú chỉ huy
được điều động vào vùng hành quân tăng phái cho BTL SĐ22BB, 2
Ðại Ðội do Thiếu tá Võ Thanh Ðồng TÐP chỉ huy dùng trực thăng
vận đến chiếm giữ những dãy đồi hướng Ðông và Ðông Bắc của Tân
Cảnh, hai trực thăng bị bắn rơi vì việc dọn bãi đáp quá sơ sài
làm 12 chiến sĩ Nhảy Dù bị hy sinh. 2 Ðại Ðội còn lại tung vào
lục soát khu vực xung quanh căn cứ Tân Cảnh, BCH Tiểu đoàn trấn
ngự tại phi trường Phượng Hoàng. Nhờ TĐ9ND án ngữ và an ninh
vòng đai này nên các toán Trinh sát và tiền sát viên pháo binh
của địch bị tóm gọn và ta biết được kế hoạch tấn công Tân Cảnh
của địch.
Ngày 18/4/1972 khoảng 23.00 giờ, địch pháo và
đánh thăm dò căn cứ Tân Cảnh bằng các loại hỏa tiễn 122ly có dây
điều khiển. Đến ngày 19/4/1972 cộng quân di chuyển súng phòng
không và đại pháo chỉ cách Tân Cảnh 1km mà thôi. Các đoàn chiến
xa và xe cộ của VC di chuyển ban ngày. Quân Ðoàn 1 đã không có
những phản ứng bảo vệ đúng mức.
Ngày 20/4/1972, Ðại Ðội 2
Trinh Sát Nhảy Dù hành quân lục soát quanh BCH Lữ Đoàn II ND đã
tiêu diệt các tiền sát viên của CS tiến gần căn cứ Võ Ðịnh. Các
toán biệt kích và viễn thám của ta phục kích sâu trong rừng,
hằng đêm đều nghe tiếng chiến xa của CS di chuyển. BTL/QĐ2 báo
động về sự xuất hiện của chiến xa T54 để Tướng Ngô Du và Paul
Vann tìm cách đối phó nhưng Paul Vann thì vẫn thái độ hoài nghi.
Ông cho rằng đó chỉ là loại xe thường, hoặc là PT-76S, chiến xa
lội nước hạng nhẹ không đáng kể.
Trong những ngày 20, 21
và 22/4/1972, các sư đoàn địch đã áp sát bao vây Tân Cảnh. Khi
đã khám phá đầy đủ các vị trí của địch xuất hiện, Bộ Tham Mưu QĐ
trình Tướng Ngô Du phải diệt địch ngay bằng B-52 theo như kế
hoạch trước đây mà ông và Paul Vann đã tính toán. Nhưng Paul
Vann đã từ chối xử dụng B-52, vì trong thâm ý, ông không muốn
yểm trợ cho Đại tá Lê Đức Đạt. Tướng Ngô Du nổi giận la to: “Ông
Paul Vann, ông là bạn hay là kẻ thù của tôi?”. Paul Vann
làm thinh bỏ đi.
Ngày 21/4/1972 các đơn vị của TÐ9ND trên
các cao điểm chạm địch mạnh, một ÐÐT (Trung úy Nguyễn Văn Phiếu)
tử thương, TÐP Võ Thanh Đồng bị thương không sao tản thương được
vì phòng không của địch quá mạnh. Các Ðại Ðội Nhảy Dù ở hướng
Bắc Tân Cảnh bắt được Tiền Sát Viên pháo địch thuộc SÐ968. (theo
cung từ của tù binh này đương sự mới từ ngoài Bắc về đơn vị này
và di chuyển từ vùng Hạ Lào sang). Vào lúc 18.00 giờ, địch bắt
đầu pháo vào Tân Cảnh càng lúc càng nặng. Đến 23.00 giờ đêm ngày
22/4/1972, toán Cố Vấn SÐ22BB và Đại tá Philip Kaplan trốn khỏi
căn cứ trên một trực thăng đáp cạnh Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn
và không thông báo cho BTL SÐ22BB biết.
Không ảnh căn cứ Tân Cảnh
Khoảng 2g sáng, ngày 23/4/1972, 15 chiến xa địch từ hướng Dakto
chạy về đã bao vây căn cứ và bắt đầu tấn công Tân Cảnh. Chiến xa
tiến vào phía cổng chính BTL SÐ22BB và khởi sự bắn đại bác không
giật và đại liên vào căn cứ. Các quân nhân trong căn cứ cố gắng
chống trả, 10 chiến xa bảo vệ căn cứ nghinh chiến nhưng đã bị
bắn cháy hết 8 chiếc bằng hỏa tiễn AT3, 2 chiếc còn lại bị đứt
xich. Lực lượng phòng thủ đã kháng cự mãnh liệt suốt ngày với sự
yểm trợ tối đa của không quân Việt Nam. Sau cùng lực lượng trú
phòng tìm cách mở hàng rào để băng sang phi trường Phượng Hoàng,
hy vọng bắt tay với TÐ9ND nhưng không được vì hàng rào quá kiên
cố. Ðại tá Ðạt biết tình hình rất bi đát, địch sẽ tràn ngập căn
cứ. Ông ra lệnh cho tất cả các Sĩ quan và binh sĩ hảy tìm cách
thoát ra ngoài trước khi trời sáng. Cho đến 1.00 giờ trưa, thiết
giáp PT-76 của địch đã vào tới cột cờ, Căn cứ Tân Cảnh thất thủ,
Tư Lệnh SĐ22BB tử trận, lúc này TÐ9ND cũng đang bị tấn công
mạnh, bốn đại đội tác chiến đều ở ngoài nên BCH/TÐ không có khả
năng tiếp cứu.
Sau khi mặt trận Tân Cảnh bị thảm bại, Tư
lệnh Sư đoàn 22BB tử trận ngay bên trong căn cứ. Tướng Ngô Du
rất khổ tâm trong thời gian này, Ông bị xúc động mạnh khi được
tin Đại tá Lê Đức Đạt tử trận. Những hy vọng thắng trận vinh
quang mà ông ấp ủ trong lòng trên 3 tháng nay đã tiêu tan và
biến thành thảm bại cay đắng vì có những bất đồng giữa ông và
Paul Vann, và thành kiến không tốt của Paul Vann đối với Đại tá
Lê Đức Đạt. Do đó, bịnh tim của ông bị tái phát. Ông cho lệnh
triệt thoái quân phòng ngự tại các Căn Cứ Hỏa Lực 5 và 6. Trục
lộ từ Tân Cảnh về Kontum lúc đó hầu như bị bỏ ngõ.
Ngày
24/4/1972, LÐIIND nhận được lệnh từ QÐ2 hướng dẫn những quân
nhân thất tán tập trung lại một chỗ rồi phối hợp và chỉ huy 2
phi đoàn Trực Thăng và hai phi đội Chinoock (một chinoock có thể
chở 1 khẩu Ðại Bác 155 hoặc một trung đội Bộ Binh), bốc các đơn
vị ra Kontum. Sau khi bốc xong LÐIIND sẽ nhận nhiệm vụ mới, đồng
thời Pháo Ðội A1 của Đại úy Đặng Đình Tựu đang đóng tại Căn Cứ
Mạnh Mẽ (khoảng giữa KonTum và Võ Ðịnh) do TÐ/BÐQ bảo vệ đang bị
áp lực rất nặng nề của địch, được lệnh của Quân Ðoàn phá hủy
súng rồi trong đêm di chuyển băng rừng rút ra Kontum.
Ðại
tá Trần Quốc Lịch/LÐT/LD2ND cho lệnh TÐ9ND, cánh quân Alpha do
Trung tá Phú Tiểu Ðoàn Trưởng chỉ huy gồm BCH/TÐ và hai ÐÐ đang
hoạt động phía Bắc và Tây Bắc Tân Cảnh, di chuyển băng rừng về
căn cứ Võ Ðịnh, cánh quân Bravo do T/T Ðồng Tiểu Ðoàn Phó chỉ
huy gồm 2 Ðại Ðội do Ðại úy Lê mạnh Ðường và Trung úy Nguyễn văn
Phiếu làm Ðại đội Trưởng chuẩn bị bãi đáp để được bốc về Võ
Ðịnh, cánh quân này được ưu tiên bốc trong ngày 24/4/72, (vì lúc
đó Thiếu tá Ðồng bị thương nặng, Trung úy Phiếu tử thương) nên
Ðại úy Ðường chỉ huy cánh quân Bravo. Đúng 09.30G trên 40 trực
thăng vào vùng bốc toàn bộ cánh quân Bravo của TÐ9ND ra khỏi
vùng chết về thẳng KonTum. Ðịch không kịp trở tay để bắn ngăn
chặn, những chiếc trực thăng cuối có bị địch khai hỏa bằng súng
cá nhân nhưng ta hoàn toàn vô sự.
Ngày 25/4/1972 sau chót
là màn trực thăng vận các quân nhân tại căn cứ Võ Ðịnh ra
Kontum, lần này không còn dễ dàng nữa chúng pháo liên tục bằng
đủ loại pháo và hỏa tiễn. Mãi tới 18.00G Pháo đội A1/ND mới di
chuyển bằng đường bộ về tới Kontum. Cuối cùng thì tất cả các đơn
vị cũng ra được Kontum trong ngày. Vì áp lực của cộng quân trên
Quân Khu 1 quá nặng nên ngày 27 tháng 4, Bộ Tổng Tham Mưu Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa ra lệnh rút Bộ Tư Lệnh nhẹ / Sư Đoàn Nhảy
Dù, Lữ Đoàn II Nhảy Dù, cùng với 3 Tiểu đoàn ra khỏi Vùng 2
Chiến Thuật. Để điền khuyết, Sư Đoàn 23 Bộ Binh với Trung đoàn
53 cơ hữu và Liên Đoàn 6 Biệt Động Quân được gửi vào từ Huế để
đảm trách khu vực hành quân của sư đoàn Nhảy Dù.
Ngày
28/4/1972, quân cộng sản tấn công đồn Ben Het bằng 10 chiến xa
T54, nhưng đã bị 2 trực thăng võ trang Cobra của Mỹ trang bị hỏa
tiễn chống chiến xa, tiêu diệt 5 chiếc T54 tại chỗ, 5 chiếc còn
lại phải chạy trốn qua biên giới Lào. Sau đó ta rút quân khỏi
đồn này, vì vị trí quá xa và hẻo lánh.
LÐIIND nhận được
lệnh di chuyển ra Huế để tái chiếm Quảng Tri. Trước khi di
chuyển ra Huế QÐ2 bắt buộc LÐIIND phải khai thông trục lộ Pleiku
Kontum nhất là đèo Chu Pao. (Tướng Ngô Dzu chơi chẳng đẹp tí
nào) Trước đó một tháng đèo Chu Pao do đơn vị cơ hữu của Quân
Đoàn trấn giữ, đơn vị này đã để Chu Pao lọt vào tay địch quân.
(Quân Đoàn II muốn cầm giữ Nhảy Dù bằng cách, giao cho Nhảy Dù
nhiệm vụ chiếm lại đỉnh Chu Pao, ai cũng tin rằng Nhảy Dù không
sao hoàn thành nhiệm vụ một sớm một chiều được, mà phải mất
nhiều ngày, có nhanh cũng phải hàng tuần lễ. Đồng thời theo tin
tình báo ba sư đoàn của cộng quân đang hướng về Kontum, cộng
quân sẽ khởi sự đánh Kontum nay mai, lúc đó Lữ Đoàn II Nhảy Dù
đang có mặt tại chỗ, Quân Đoàn II cần có đơn vị đối phó ngay với
tình hình chiến trường mới, Quân Đoàn II lấy lý do chính đáng đó
để giữ LĐIIND lại. Nhưng cả Quân Đoàn II không ngờ, LĐIIND chỉ
sử dụng hai Đại Đội của Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù, trang bị nhẹ (súng
cá nhân và lựu đạn), hỏa lực yểm trợ sơ sài, đã lấy lại đỉnh Chu
Pao chỉ trong vòng ít tiếng đồng hồ. Quả thật Thiếu tá Nguyễn Lô
đã đánh một trận để đời, cả bạn lẫn địch đều không ngờ. Sau khi
Tân Cảnh bị thất thủ, Tư lệnh Sư đoàn 22BB chết tại mặt trận,
thành phần Bộ Tham Mưu Sư Đoàn và các cấp chỉ huy cũng như binh
sĩ bị bắt làm tù binh hay bị chết, chỉ một số rất ít chạy được
về Kontum. BTL/Sư Đoàn 22BB tan rã. Vì thế, phòng tuyến kiên cố
nhất để bảo vệ thị xã Kontum coi như không còn nữa. Tòa hành
chánh tỉnh Kontum với dân số 25,000 người sống trong thị xã đã
hoang mang giao động cao độ, chuẩn bị tản cư. Thông thường chiến
thuật cộng quân là thừa thắng xông lên. Do đó BTL/QĐ2 ước lương
cộng quân sẽ đánh Kontum, vì nơi đây chỉ có Ðịa Phương Quân và
Nghĩa Quân trấn giữ. Tướng Ngô Du phải cho điều động 2 Trung
đoàn Bộ Binh từ Ban Mê Thuột lên cố thủ Kontum, chỉ để lại một
Trung đoàn phòng thủ 7 tỉnh phía Nam của Quân đoàn. Ðại tá Lý
Tòng Bá, Tân Tư lệnh Sư đoàn 23BB, được chỉ định làm Tư lệnh mặt
trận Kontum. Tướng Ngô Du hy vọng Tướng Hoàng Minh Thảo hoãn tấn
công vào Kontum 5 ngày thôi, thì ông và Ðại tá Lý Tòng Bá đủ
thời gian phối trí quân và đào công sự vững chắc phòng thủ thị
xã này.
Cộng quân không tiến quân vào Kontum sau 5 ngày
như Tướng Ngô Du dự tính mà đến 20 ngày sau. Như vậy Sư đoàn 320
và Sư đoàn 2 của cộng quân đã bị tổn thất khá nặng trong các
cuộc chạm súng trước đây với Lữ đoàn Dù và Sư đoàn 22BB. Các
chiến xa T54 của địch cũng bị tiêu hao một số tại phi trường
Dakto do Không quân VNCH bắn cháy và một số tại đồn Ben Het do
Cobra của Hoa Kỳ phá hủy. Vì thế, Tướng Hoàng Minh Thảo cần có
thời gian củng cố lại đơn vị của ông chớ không thể mở cuộc tấn
công mới ngay được.
Phối trí xong lực lượng tại Kontum,
Tướng Ngô Du ngã bịnh nặng. Ông đã điện thoại yêu cầu Tổng thống
Thiệu đề cử người thay thế ông. Tại Sài Gòn, TT Thiệu và Đại
tướng Cao Văn Viên tham khảo ý kiến với nhiều vị Trung tướng sau
cùng TT Thiệu chọn Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn, vì Tướng Toàn
đồng ý tử thủ tại Kontum.
Thiếu tướng Nguyễn Văn
Toàn và Quân đoàn II
Ðầu tháng 5/1972, TT Thiệu
bổ nhiệm Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn giữ chức vụ Tư lệnh Quân
Đoàn II thay thế Trung tướng Ngô Du. Ðến Pleiku, việc đầu tiên
của Tướng Toàn là tập họp các Sĩ quan Quân Đoàn lại và chỉ trích
Bộ Tham Mưu của Quân Đoàn yếu kém, thiếu khả năng tham mưu nên
tình hình Quân Đoàn mới đen tối như hiện nay. Ông giận dữ và tỏ
ý muốn đưa hết các Sĩ quan trong Bộ Tham Mưu ra tuyến đầu với
các đơn vị để chiến đấu. Sau khi nghe tường trình về tình hình,
ông chỉ thị Ðại tá Vĩnh Phúc, Trưởng phòng IV Quân Đoàn, ra làm
việc tại phi trường Kontum tiếp nhận vũ khí và đạn dược từ Sài
Gòn không vận ra. Thời gian này phi trường Kontum luôn luôn bị
pháo kích bằng hỏa tiễn 122ly, nên có một vài phi cơ C-130 tiếp
vận của ta đã bị trúng đạn bốc cháy. Tướng Toàn bay lên Kontum,
Ðại tá Lý Tòng Bá và Ðại tá Rhotenberry hướng dẫn Tướng Toàn
thăm tuyến đầu bảo vệ Kontum về phía Bắc 5km. Tại đây, các Sĩ
quan các cấp và các binh sĩ Sư đoàn 23BB, mỗi người một chiêc
xẻng cá nhân, đang hăng say đào công sự phòng thủ. Tướng Toàn
vui vẻ an ủi, khích lệ và nhắc nhủ mọi người phải cố gắng chuẩn
bị chiến đấu, quyết tâm tử thủ, không để CS chiếm một tấc đất
nào tại Kontum. Ông chỉ thị cho Ðại tá Lý Tòng Bá và các Trung
đoàn Trưởng, Tiểu đoàn Trưởng phải chọn một số binh sĩ can đảm
để thành lập ngay các tổ chống chiến xa bằng súng M72, cho các
binh sĩ này thực tập tác xạ để họ tin tưởng rằng vũ khí M72 có
thể tiêu diệt được các chiến xa T54 của cộng quân. Ông cho Ðại
tá Bá biết ông sẽ cho không vận Trung đoàn còn lại của Sư Đoàn
23BB tại Ban Mê Thuột lên Kontum để Ðại tá Bá có đầy đủ quân số
và thống nhất chỉ huy. Về hành chánh, Tướng Toàn chỉ thị Ðại tá
Nguyễn Bá Long tự Thìn, Tỉnh trưởng Kontum, phải lo trấn an và
ủy lạo dân, làm cho họ tin tuởng vào chính phủ và quân đội.
Khuyến khích dân chúng phải hết sức ủng hộ Quân Đoàn để tử thủ.
Trở về Pleiku, Tướng Toàn bàn ngay với cố vấn Paul Vann nhiều
giờ về kế hoạch bảo vệ Kontum. Sau đó, ông chỉ thị Ðại tá Hoàng,
Tham mưu phó Chiến Tranh Chính trị Quân đoàn xử dụng phi cơ C-47
của ông đi Phan Thiết và Sài Gòn mua cá tươi và xoài tượng đem
lên phân phát cho các binh sĩ tại Kontum để bữa ăn có thêm chất
tươi.
Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Khu 2 (1972)
Về hành quân, Tướng Toàn chỉ thị Trung tá Nguyễn Ðức Dung chỉ
huy Lữ đoàn II Thiết Giáp với một Liên Đoàn Biệt Ðộng Quân tăng
cường phải đem các chiến xa lên Kontum bằng mọi giá. Ông nói
rằng không cần thanh toán các lực lượng địch chốt tại đèo Chu
Pao mất thời giờ, phải mở Quốc Lộ 14bis vòng quanh sau lưng địch
để đi; ông chỉ thị trong 3 ngày phải thực hiện xong cuộc hành
quân này. Cuộc hành quân của Trung tá Dung gặp rất nhiều khó
khăn vì sức kháng cự của cộng quân rất mãnh liệt. Nhưng với
quyết tâm thi hành đúng chỉ thị của Tư lệnh Quân đoàn, Lữ đoàn
II Thiết Giáp và Biệt Ðộng Quân đã thanh toán và đè bẹp các lực
lượng của cộng quân, mở được Quốc Lộ 14bis quanh đèo Chu Pao đem
nhiều chiến xa lên mặt trận Kontum đúng ngày N+3. Ðoàn xe thiết
giáp và Biệt Ðộng Quân qua cầu Dak-Bla tiến vào Kontum, đồng bào
trong thị xã chạy ra xem rất đông, nồng nhiệt chào mừng và hoan
hô vang trời. Ðây là chuyện chưa từng có trước đây. Tướng Toàn
gắn cấp bậc Ðại tá tại mặt trận cho Trung tá Nguyễn Ðức Dung ở
đầu cầu Dak-Bla. Tính đến ngày thứ ba, kể từ ngày nhận chức,
Tướng Toàn đã tăng cường cho Ðại tá Lý Tòng Bá Bá một Trung đoàn
Bộ Binh, một Liên đoàn Biệt Ðộng Quân, trên 20 chiến xa thiết
giáp, nhiều đạn dược, nguyên liệu, và thuốc men mới được không
vận từ Sài Gòn lên. Số đạn dược và nhiên liệu này đủ để bảo đảm
cho các đơn vị tại Kontum phòng thủ trong thời gian một tháng.
Tình hình Kontum bắt đầu sôi động. Các hỏa tiễn 122ly của địch
cứ đều đều rót vào các căn cứ quân sự và phi trường Kontum làm
tinh thần dân và quân luôn luôn bị căng thẳng. Về tình báo,
Tướng Toàn chỉ thị Phòng 2 QĐ phải báo cáo cho ông biết trước
ngày giờ cộng quân tấn công vào Kontum và làm gấp kế hoạch trải
thảm B-52 phía Bắc tuyến đầu của ta để ông và Paul Vann áp dụng
kế hoạch khi địch tấn công. Hôm sau, P2 trình lên ông kế hoạch
100 “Box” B-52 (mỗi Box chiều dài 3km, chiều ngang 1km) chận
đứng các mũi tấn công và tiêu diệt các ổ phòng không của địch,
căn cứ vào địa hình, địa vật và tin tức bằng không ảnh. Tướng
Toàn và Paul Vann đã chấp thuận hoàn toàn ý kiến của Phòng 2.
Kontum bấy giờ vẫn nắng bụi, mưa lầy. Nhưng trong cái nắng, cái
bụi như đang mang mang một cái gì không yên, chứa đựng một cái
gì bồn chồn lo âu trên mọi nét mặt từ dân tới lính. Dăm ba trái
hỏa tiễn 122ly của CS rót vào thành phố, càng tạo một không khí
chiến tranh thực sự đã về sát Kontum.
Tướng Hoàng
Minh Thảo của CS bị thảm bại trong đợt đầu.
Tướng Toàn rất chú trọng đến vai trò tình báo, nhất là các toán
tình báo kỹ thuật điện tử, ngày đêm bám sát địch, không được
chểnh mảng trong nhiệm vụ giao phó.
Ngày 13/5/72, nhân
viên kỹ thuật báo cáo đã bắt được mật điện của B3. Trong mật
điện này, Bộ tư lệnh B3CS đã ra lệnh như sau: “Mũi tấn công
hướng Bắc-Sư đoàn 2-Stop-Tăng cường mỗi sư đoàn 10 T54-Stop-Ngày
giờ tấn công hướng Tây Bắc Sư đoàn 320-Stop-Ngày giờ tấn công
05g00 ngày 14/5/72-Stop”.
Phòng 2 QĐ vội vàng trình ngay
tin này cho Tướng Toàn. Ðọc xong mật điện, ông liền bay lên
Kontum. Trong giao thông hào của tuyến đầu, Tướng Toàn và Ðại tá
Lý Tòng Bá đi từng hầm để nhắn nhủ từng binh sĩ hãy can đảm nằm
yên tại chỗ khi địch tấn công. Tướng Toàn nói: “Khi địch nổ súng
thì sẽ có B-52 thả ngay trên đầu địch. Các em phải chịu khó bịt
tai lại và hả miệng để bớt áp lực của bom nổ”. Áp lực của bom sẽ
rất lớn đối với các binh sĩ của ta vì theo kế hoạch đã vạch sẵn,
B-52 sẽ thả bom sát quân ta, ở mức an toàn là 500m thay vì 1000m
như thường lệ. Tại hầm chỉ huy SĐ23BB, Tướng Toàn, Ðại tá Bá,
Ðại tá Rhotenberry nghiên cứu trên bản đồ và thảo luận vị trí
từng Box B-52 sẽ dội bom xuống và thời gian dội. Paul Vann gọi
máy yêu cầu Không quân chiến lược Hoa Kỳ (Strategic Air Command)
tại Thái Lan để thảo luận về cách thức trải các Box B-52 cho
thật hợp với tình hình mặt trận dưới đất. Ðêm 13 rạng 14/2/72,
Tướng Toàn và Bộ tham mưu Việt-Mỹ đều thức suốt đêm theo dõi
tình hình từng phút và hồi hộp chờ đợi. Phi đoàn A37 của Sư đoàn
6 Không quân tại Pleiku túc trực 100%. Nhiều cặp phi cơ trực
thăng võ trang Cobra của Hoa Kỳ đã ở trong tư thế sẵn sàng chiến
đấu kể từ 12g đêm. 2 phi đoàn B-52 từ đảo Guam và Sattahip ở
Thái Lan đã cất cánh và xuất hiện trên bầu trời biển Thái Bình
Dương. Tất cả hồi hộp chờ đợi giờ G (tức 5g00 sáng). Kém 5 phút
đến 5g, Ðại tá Bá báo cáo trên máy rất lớn, địch đã bắt đầu nổ
súng. Trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn cấp tốc bay về hướng
Kontum trong sương mù. B-52 vào vùng đúng 5g ngày 14/2/72. Tất
cả 25 Box B-52 đồng loạt bấm nút thả xuống trên 3,000 quả bom đủ
loại, từ 100 lbs đến 500 lbs, trên đầu Sư đoàn 320 và Sư đoàn 2
của cộng quân, tiếng nổ long trời lỡ đất, khói bụi bay mịt mù.
Diện tích trải thảm của các B-52 là 75km². Tiếp theo từng đoàn
A37 và AD6 của Sư đoàn 6 Không quân VNCH bay vào mục tiêu tiếp
tục bắn vào các chiến xa và các ổ phòng không địch. Vì bị áp lực
quá mạnh của bom, nhiều đoàn quân của cộng quân bị ngất ngư, đã
hốt hoảng chạy lui về phía sau, lại bị trực thăng võ trang Cobra
bọc hậu thanh toán rất nhiều. Tại tuyến đầu, 9 chiến xa T54 của
địch nằm ngoài khu ném bom của B-52 đã hốt hoảng lao vào phía ta
và đã bị các chiến xa của ta bắn cháy mất 6 chiếc. 3 chiếc còn
lại bỏ chạy, nhưng vì các chiến binh của cộng quân điều khiển
các xe này đã bị sức dội quá mạnh của B-52, không còn chủ động
được, nên các binh sĩ của ta đã nhào ra bắt sống. Một giờ sau,
Tướng Toàn bay vào vùng thả bom B-52 để kiểm soát thì thấy rất
nhiều xác của cộng quân trong các hố bom, không thể đếm hết.
Không quân ta và Không quân Hoa Kỳ tiếp tục thanh toán tàn
quân và các ổ phòng không địch trong vùng suốt ngày 14/5/72.
Trong các cuộc oanh kích này, Không quân ta bị thiệt mất một AD6
do Thiếu tá Phạm Thặng làm hoa tiêu. Phòng không địch đã bắn
trúng chiếc phi cơ do Thiếu tá Thặng lái khiến ông bị tử thương
và chiếc phi cơ rớt ở phía Nam Kontum. Chắc chắn Tướng Hoàng
Minh Thảo, Tư lệnh mặt trận B3, đã phải ôm hận vì đã gặp phải
một đối thủ nguy hiểm là Tướng Toàn, một vị tướng có nhiều kinh
nghiệm trên chiến trường. Theo ước tính về phía Hoa Kỳ, trong
cuộc tấn công này, địch đã thiệt mất ít nhất 1,000 người và 20
chiến xa T54. Quân ta đã thắng trận đầu. Các chiến xa T54 của
địch mà ta đã bắt sống được mang về triển lãm tại Sài Gòn.
Cộng sản tấn công lần 2 vào Kontum
Thị xã Kontum nằm trong một thung lũng, chung quanh là đồi núi
cao. bên cạnh bờ sông Dak-Bla nằm về hướng Bắc. Sông Dakbla uốn
quanh như con rồng rất đẹp và cảnh 2 bên bờ sông rất thơ mộng,
nước sông chảy mạnh từ hướng Ðông qua hướng Tây. Dân số Kontum
độ 25,000 người, cả Kinh lẫn Thượng, đa số sinh sống trong thị
xã và các vùng phụ cận thị xã. Khoảng 70% dân theo đạo Thiên
Chúa. Vì thế, Tòa Giám mục giáo phận Kontum (gồm Kontum và
Pleiku) đã được đặt ở số 44 Trần Hưng Ðạo, Kontum, do Ðức cha
Seitz, một giáo sĩ người Pháp làm Giám mục. Ông nói và viết
thông thạo cả tiếng Việt lẫn tiếng Thượng. Ông đã bị cộng sản
trục xuất sau 30/4/75.
Kế hoạch phòng thủ Kontum được
giao cho Sư đoàn 23BB của Ðại tá Lý Tòng Bá. Sư đoàn này có
nhiệm vụ đảm trách 3 mặt nặng nhất của tỉnh là Ðông, Tây và Bắc.
Phía Bắc thị xã dọc Quốc Lộ 14 nối liền Tân Cảnh-Kontum, cách
thị xã khoảng 2km; Trung đoàn 44BB lập một tuyến phòng thủ chắn
ngang Quốc Lộ 14. Trung đoàn 45 trấn ngự ở mặt phía Đông thị xã,
Trung đoàn 53 còn lại trấn ngự tai phía Tây. Hướng Nam có phần
nhẹ hơn nhờ có chướng ngại vật của thiên nhiên là con sông
Dakbla, nên giao cho Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân đảm nhiệm. Sự
thảm bại cay đắng trong trận ngày 14/5/72, Tướng Hoàng Minh Thảo
và cộng quân đã phải kiểm thảo rất chu đáo để rút kinh nghiệm.
Một câu hỏi quan trọng đã được Tướng Hoàng Minh Thảo đặt ra: Tại
sao đối phương biết rõ được lực lượng và ngày giờ cộng quân sẽ
tấn công để xử dụng B-52 ồ ạt? Tướng Thảo đoán rằng có thể kỹ
thuật rà bắt điện đài của đối phương rất cao nên đã bắt được tất
cả những mật lệnh mà Bộ tư lệnh B3 của ông đã đánh đi.
Rút kinh nghiệm, ông không xử dụng điện đài nữa mà xử dùng điện
thoại và người để liên lạc. Vì thế, sau ngày 14/5/72, cả toán kỹ
thuật của Quân đoàn II đều ngạc nhiên không thấy địch lên máy
nữa. Tướng Toàn được phúc trình về sự việc này và ông ước tính
địch còn khả năng tấn công ta vài đợt nữa trong những ngày sắp
tới. Ông ra lệnh Quân đoàn nên cẩn thận, không nên khinh địch.
Tình báo QĐ2 đã cho các biệt kích lọt vào các khu hậu cần của
địch, xử dụng máy điện thám nghe lén điện thoại, nhưng chưa ghi
nhận được điều gì quan trọng.
Sáng sớm ngày 20/5/72,
Thiếu tá Hưng, Trưởng phòng II Tiểu khu Kontum, báo khẩn cấp là
Quân CS đang tấn công Kontum, các đơn vị đặc công CS đã vượt qua
sông tiến vào chiếm được gần nửa thành phố. Bị bất ngờ, Đại tá
Tiếu Trưởng Phòng 2 QĐ hoảng hốt chạy vội vào Trung tâm hành
quân của Quân đoàn để tìm hiểu thật hư. Ðại tá Long, Tỉnh trưởng
Kontum, cho biết độ 2 Tiểu đoàn đặc công của cộng quân đã lợi
dụng đêm tối có nhiều sương mù, lội qua sông và tiến chiếm được
phi trường, kho đạn và khu Tòa Giám mục trong thành phố. Cuộc
giao tranh giữa các đơn vị của SĐ23, Ðịa Phương Quân và Nghĩa
Quân với địch quân rất dữ dội. Khu dân chúng và khu Tòa Hành
chánh chưa có địch xuất hiện.
Ðúng 5g sáng, Tướng Toàn
được báo cáo về cuộc tấn công này, ông đã hối hả chạy vào Quân
đoàn và dọa đưa Trưởng Phòng 2 QĐ ra Tòa án Quân sự. Ông hỏi:
“Tại sao để cho đặc công cộng quân vào chiếm thị xã Kontum mà
không hay biết?”. Binh sĩ ta hời hợt, mới thắng một trận mà đã
khinh dịch. Cấp chỉ huy của ta thiếu đôn đốc và kiểm soát. Cộng
quân rất tinh ranh, biết được yếu điểm của ta nên đã lợi dụng
địa hình địa vật xử dụng đặc công len lỏi vào thị xã bằng hướng
phòng thủ yếu nhất.
Tại hướng Bắc Thị xã, trời sụp tối,
Quân CS pháo kích dồn dập nã vào BCH Trung đoàn 44, đủ loại pháo
tầm xa, tầm gần. Sau khi ngưng tiếng pháo, chiến xa T54 của địch
tràn vào vị trí của Bộ chỉ huy, Trung Đội Viễn thám của Trung
đoàn đã đem súng B-40, B-41 nhắm vào thiết giáp của CS phơ hết.
(Đa số các Trung đội Viễn thám đều trang bị súng của CS). Vừa
diệt gọn hết tăng, cũng cùng lúc tùng thiết VC xếp hàng một tiến
vào phòng tuyến. Quân ta thừa thắng xông lên, khai hỏa tác xạ
tối đa vào hàng ngũ cán binh CS đang lũ lượt ùa vào. Xác địch
quân rơi rụng hàng loạt. Rồi trận chiến lắng xuống và chỉ còn
những tiếng súng, tiếng nổ thưa thớt dần. Tại tuyến phòng thủ,
mười mấy chiếc T54 (loại chiến xa hạng nặng) đều cháy hết, một
số bị mìn chống chiến xa nằm liệt trên đường tiến vào vị trí,
một số bị bắn cháy ngay trong sân; Bộ binh CS chết đếm không kể
siết xác địch ngổn ngang ngoài phòng tuyến.
Trận chiến tại Thị Trấn Kontum
Lúc 6g sáng ngày 20/5/72, Tướng Toàn bay lên Kontum. Ðến Bộ Chỉ
huy của Ðại tá Lý Tòng Bá, nơi đây đang bị pháo kích nên trực
thăng phải tìm cách lượn quanh tránh đạn mới đáp xuống được.
Trực thăng vừa đáp xuống thì Tướng Toàn đã thấy Ðại tá Bá và Bộ
Tham mưu của ông đang hốt hoảng chạy ra khỏi hầm chỉ huy và hình
như đang muốn di chuyển đi nơi khác. Mặc dù tiếng đại liên và
AK-47 nổ chát chúa rất gần, Tướng Toàn vẫn bình tĩnh nói lớn với
Ðại tá Bá: “Tử thủ, ông và tôi không chết nơi đây đâu! Không
chạy đâu hết”. Ông yêu cầu Ðại tá Bá cho biết tình hình thế nào.
Ðại tá Bá chỉ vào khu nghĩa địa của thành phố cách hầm chỉ huy
của ông độ 300m và cho biết một đại đội đặc công của địch đang
cố thủ ở đó. Ông đã xử dụng một đơn vị tinh nhuệ nhất của Sư
Đoàn vào nhằm chiếm lại khu vực này nhưng gặp sự kháng cự rất
mãnh liệt, 2 chiến xa bị cháy, đơn vị này chưa tiến lên được.
Tướng Toàn bảo đưa máy cho ông chỉ huy và chỉ thị trong máy: “Tư
lệnh Quân đoàn ra lệnh! Bằng mọi giá phải thanh toán sạch đặc
công cộng quân đó. Tôi đang đứng đằng sau các anh và chờ kết
quả”.
Bên kia đầu máy trả lời:
-
Nghe lệnh! Tin Mặt Trời rõ! Tôi đang thi hành!
Một Tiểu
đoàn của Trung đoàn 44 vừa tới nghĩa trang, đã chạm địch ác
liệt. Địch quân từ hồi đêm, đã đào công sự phòng thủ khắp nghĩa
trang. Trận chiến rất ác liệt giành giựt từng nấm mộ. Địch quân
đã ẩn núp từ các nhà dân nổ dòn giã chào đón các chiến sĩ xung
kích đi đầu. Sau khi thanh toán khẩu súng cộng đồng của địch
bằng 3 trái hỏa tiễn M72, lửa bốc thành ngọn, SQ Trung đội
trưởng, liền cho lệnh Trung Đội dàn đội hình hàng ngang dưới sự
yểm trợ hỏa lực của 3 khẩu đại liên 60. Mục tiêu được thanh toán
chớp nhoáng. Ta tịch thâu 1 súng ngựa trời, mấy cây AK, B-40,
nhóm cán binh CS bị diệt gọn. Vừa lúc đó, một đám dân còn bị kẹt
ở mấy căn nhà chung quanh chạy ào về phía quân ta, miệng la oải
oải “dân đừng bắn”. Thật là khó khăn, nếu bọn CS bám theo đám
dân này thì thật là phiền. Nhưng rất may mắn là số dân chúng này
chạy về phía sau bình yên. Tiếng đại liên trên 3 chiến xa đang
nổ dòn trong khu nghĩa địa. Trong khi đặc công CS đang tràn vào
thành phố, Chuẩn tướng John Hill dùng trực thăng có gắn 2 khẩu
đại liên 12.7ly bay quan sát vùng Võ Ðịnh (Bắc Kontum 15km) và
thấy nhiều đơn vị cộng quân di chuyển về hướng Nam, ông liền báo
cho Paul Vann biết để xử dụng B-52. Ngay hôm đó, trên 10 Box
B-52 đã làm giảm áp lực của địch. Thiếu tướng Toàn quan sát mặt
trận và chỉ thị thêm cho Ðại tá Bá đề phòng tuyến đầu vì địch có
ý định tấn công phía trước trong khi ta đang bấn loạn bên trong.
Sau một giờ đánh nhau ác liệt với đặc công của địch, vị Ðại đội
Trưởng chỉ huy trận địa báo cáo trong máy:
- Trình Mặt
Trời! Tôi đã thanh toán xong đặc công tại khu nghĩa địa.
Tướng Toàn đáp:
- Tốt! Tôi sẽ thưởng công cho anh!
Mặt trận Tòa Tổng giám mục Kontum
Ðại tá Nguyễn Bá Long tự Thìn, Tỉnh trưởng Kontum, chạy qua
trình diện Tướng Toàn đã bị xỉ vả một trận tơi bời. Sau đó,
Tướng Toàn bảo Ðại tá Long cùng ông lên xe chạy thẳng vào khu
Tòa Giám mục và nói: “Có gì ông chết tôi cũng chết”. Ðại tá Long
hướng dẫn Tướng Toàn đến quan sát các ổ kháng cự của đặc công
cộng quân trong các tòa nhà được xây cất kiên cố từ thời Pháp
trong khu Tòa Giám mục, đang chống trả với lực lượng tái chiếm
của SĐ23BB. Tướng Toàn liền tăng cường cho Ðại tá Long 5 chiến
xa, một Liên Đoàn Biệt Ðộng Quân, và chỉ thị nếu cần phải bắn
sập một vài tòa nhà trong khu Tòa Giám mục để tiêu diệt đặc công
thì cứ làm, sau này chính phủ sẽ xây cất lại, nhưng phải cố gắng
đừng gây thiệt hại về nhân mạng cho dân chúng đang ở trong khu.
Tiểu đoàn 4/44BB do Đại úy Võ Anh Tài chỉ huy được lệnh tiến
quân chiếm từng căn nhà dọc theo nghĩa trang, hướng về Tòa Tổng
giám mục. Địch quân đã đào hầm phòng thủ vững chắc, nên khi tiến
quân, các đơn vị phải giao chiến thật ác liệt và vất vả giành
từng căn nhà, cho tới lúc chiều tối mới thanh toán xong mọi tên
địch, vào được Tòa TGM. Đêm đó đơn vị phòng thủ tại một khu nhà
vắng vẻ các cửa nẻo đều khóa, chung quanh có tường cao và kẽm
gai, đó là nhà dòng của Kontum, nhà dòng đã di tản. Đơn vị được
bố trí một số trên sân thượng, một số ở dưới đất. Nửa đêm, quân
CS di chuyển dưới đường, quân ta âm thầm gởi ngay xuống từng
chục trái lựu đạn tấn công chúng để khỏi lộ vị trí, bọn VC lớp
chết, lớp chạy tán loạn vào nhà dân. Sau đó tình hình yên tĩnh
cho tới sáng.
Mặt trận Bệnh viện 2 Dã chiến
Bệnh viện 2 Dã chiến đã bị địch chiếm đóng, tất cả thương
binh của ta không kịp di chuyển đều bị CS giết sạch. Địch quân
đã chuẩn bị vị trí phòng thủ vững chắc.
Trung đoàn 44
được phái đến dàn một phòng tuyến gồm các Tiểu đoàn 1, 2 và 4
đối diện với Bệnh viện để tấn công chiếm lại, phòng tuyến ta và
địch chỉ cách một sân rộng. 3 chiếc thiết vận xa M-113 yểm trợ
hỏa lực để một đơn vị cấp Đại Đội tiến chiếm mục tiêu lập đầu
cầu tấn công. Đội hình Bộ binh thiết giáp của ta vừa chuyển động
chừng 20m, pháo địch cùng với lực lượng phòng thủ bên trong bắn
xối xả phủ chụp xuống toàn sân cỏ. Quân ta thối lui và tìm
phương cách khác đối phó. Khoảng xế trưa, Đơn vị xung kích cho
một tổ khinh binh đột kích qua phòng tuyến địch. 5 binh sĩ lẹ
làng vượt qua sân cỏ, chiếm ụ đất sát một căn nhà bệnh viện. 5
người vừa bám chân ụ, hỏa lực cộng quân đổ ập tới tức khắc, 2
binh sĩ chết tại chỗ, 3 người còn lại bị thương nặng cầu cứu.
Tức tốc, vị Đại Đội Trưởng chộp vội vàng chiếc nón sắt đựng đầy
lựu đạn, chạy ào qua sân tung lựu đạn qua bờ đất bên kia. Tiểu
đội Thám Báo ào lên kéo hết 5 BS thương vong trở lại phòng
tuyến. Liệng liên tiếp mấy trái lựu đạn nữa rồi chạy lui về an
toàn. Trời vừa sập tối, những trái pháo lẻ tẻ, rớt bên phải, bên
trái, trước, sau, rồi ngay phòng tuyến. Các cấp chỉ huy của ta
biết bọn tiền sát địch đang điều chỉnh các khẩu đội của họ nên
báo động cho các chiến binh sẵn sàng tác chiến. Ầm... ầm... ầm,
đàng trước, đàng sau, ngay giao thông hào. Tiếng đạn gào thét,
khói lửa như cơn bão lửa ập xuống tuyến phòng thủ của ta, một
vài đoạn giao thông hào bị sụp đổ, nghẽn đường di chuyển. Dứt
pháo, hàng hàng lớp lớp bộ binh CS xung phong.
Quân ta
nhảy lên khỏi giao thông hào khai hỏa, tung lựu đạn! Ngay trước
tuyến phòng thủ, rực lên một khối pháo bông, vừa kịp đón tiếp
bọn cán binh CS trờ tới. Đầu, mình, tay, chân, máu, lửa tung
tóe, hết đợt này đến đợt khác tràn lên như những con thiêu thân
lao vào đống lửa. Bãi đất trống phía trước bây giờ là bãi máu
xương, thịt, súng đạn bầy nhầy, trở thành một chướng ngại kinh
hoàng mà bọn cán binh CS không thể vượt qua nổi nữa. Những trái
hỏa tiễn M72 khai hỏa. Ầm... ầm, những trái hỏa tiễn chống biển
người lao thẳng vào hàng ngũ rối loạn của địch, họ tán loạn tháo
lui về vị trí phòng thủ. Thật là hãi hùng: chân, tay, thịt,
xương, máu me treo lủng lẳng khắp tấm lưới để chống B-40. Không
còn cảnh tượng nào rùng rợn, kinh hoàng hơn.
Sau các thất
bại nặng nề vừa qua, CS không còn khả năng mở những cuộc tấn
công lớn. Càng ngày địch càng suy sụp và hai ngày sau, lực lượng
của Ðại tá Bá và Ðại tá Long mới thanh toán sạch sẽ các lực
lượng đặc công cộng sản trong thành phố. Bên ta thiệt hại nhẹ.
Kontum kiêu hùng
Cuộc tấn công của
đặc công cộng quân đã bị ta thanh toán trong 3 ngày. Các đơn vị
chính qui của cộng quân được bố trí xung quanh để tiến vào thị
xã phối hợp tác chiến nội công ngoại kích với đặc công đã bị các
đơn vị Bộ chiến của SĐ23 chận đứng và pháo đài bay B-52 cùng
Không Quân ta tiêu diệt. Cuộc tấn công đợt 2 của Tướng Hoàng
Minh Thảo tiến chiếm Kontum bị thất bại. Cộng quân điên cuồng
trả đũa trong những ngày kế tiếp bằng những hỏa tiễn 122ly rót
vào thị xã liên tục ngày đêm, bất kể khu quân sự hay dân sự.
Kontum luôn luôn ở trong tình trạng căng thẳng. Tướng Toàn tin
là địch còn khả năng tấn công ta đợt 3 trong vòng 10 ngày tới vì
Sư Đoàn 968 trừ bị của mặt trận B3 của Tướng Hoàng Minh Thảo còn
chưa ra quân. Ước tính mức độ và cường độ đợt 3 yếu hơn đợt 1.
Tướng Toàn và Paul Vann tiếp tục nghiên cứu và xử dụng kế hoạch
dùng B-52 để tiêu diệt địch quân.
Ðúng 5g sáng ngày
28/5/72, cộng quân tấn công đợt 3 vào Kontum bằng 3 mũi chính:
- Mũi một từ hướng Bắc do lực lượng Sư đoàn 2 cộng quân
-
Mũi 2 từ hướng Tây Bắc do lực lượng Sư đoàn 320.
Mũi một
và 2 đã gặp sự kháng cự mãnh liệt của các chiến sĩ của Sư đoàn
23BB. Ðịch đã xung phong nhiều đợt để cố chiếm tuyến phòng thủ
đầu của ta nhưng đều bị đẩy lui. Phi cơ chiến đấu của Không Đoàn
72 thuộc SĐ2 Không Quân tại Pleiku xuất trận liên tục để yểm trợ
quân ta tại tuyến đầu.
- Mũi 3 từ hướng Nam do lực lượng
Sư đoàn 968, một lực lượng trừ bị của Tướng Hoàng Minh Thảo phụ
trách. Lực lượng này mới tham gia trận Kontum lần đầu, chưa nếm
mùi B-52 nên khí thế có vẻ dũng mãnh hơn mũi 1&2.
Nhờ
sông Dakbla bọc quanh phía Nam thị xã là một chướng ngại vật
thiên nhiên ngăn chặn không cho địch tiến quân một cách dễ dàng.
Sư đoàn 968 cố gắng vượt sông nhưng bị các phòng tuyến của Ðịa
Phương Quân và Nghĩa Quân ngăn chặn. Nhờ các phi tuần của Không
Quân Việt Nam và Không Quân Hoa Kỳ cất cánh từ Thái Lan trợ
chiến, sau đó các phi vụ B-52 đến trải thảm.
Trong ngày
28/5/1972 hai bên quần thảo nhau suốt ngày; đến tối địch vẫn
không chiếm được vị trí nào của ta. Tướng Hoàng Minh Thảo thấy
không thể kéo dài cuộc tấn công vì sợ B-52 đến dội bom, đã ra
lệnh rút lui thật nhanh.
Sau khi vòng đai Kontum được
giải tỏa, quân ta tiếp tục lục soát dọc Quốc Lộ 14 tiến về Tân
Cảnh-Võ Định. Không gặp một sức kháng cự nào. Chỉ còn hoang tàn,
cùng đạn dược, quân trang của cộng quân rải rác đầy rừng núi.
Dọc đường bao nhiêu hài cốt binh lính Bộ Binh, Biệt Động Quân,
v.v. vẫn còn la liệt nguyên đó trong trận tràn ngập Tân Cảnh-Võ
Định của Thiết giáp CSBV vào BTL/Sư đoàn 22BB trước đó. Đủ mọi
sắc áo, họ đã anh dũng chiến đấu cho tự do, cho quê hương miền
Nam và đem xương máu trả nợ cho núi sông. Trước sức tấn công như
vũ bão bằng chiến xa nặng của CS Bắc Việt. Họ không có vũ khí
đối đầu T54. Nhưng họ đã can trường chiến đấu, chết trước xích
sắt của quân địch. Tất cả chỉ còn là hoang tàn, chết chóc, xú
uế: chim không dám bay ngang, thú không còn sống sót, cây không
lá, đá không toàn vẹn. Trận chiến Kontum kéo dài đến 3 tháng (3,
4, 5/1972) mà cộng quân chẳng những không chiếm được vị trí nào
mà còn bị thiệt mất một số quân khá lớn. Theo ước tính của giới
chức quân sự trong trận đánh kéo dài này, mặt trận B3 của Tướng
Hoàng Minh Thảo bị thiệt mất khoảng một sư đoàn rưỡi, 30 chiến
xa T54 và nhiều đại pháo, phòng không bị thiêu hủy. Sau trận
này, Sư đoàn 2 của cộng quân đã hoàn toàn bị xóa tên.
Đại úy Đoàn Phương Hải và Trung tá Nguyễn Đình Bảo
Tài liệu tham khảo:
- Thiên Hùng Ca QLVNCH của Phạm Phong Dinh xuất bản lần thứ
I/2004
- Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập của Nguyễn Đức Phương,
Làng Văn xuất bản năm 2001
- Những sự thật Chiến Tranh
Việt Nam 1954-1975 của Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Đại tá Lê Bá
Khiếu và Tiến sĩ Nguyễn Văn, Tác giả xuất bản
- Charlie,
Ngọn Đồi Quyết Tử - Hồi ký của Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập
- Mặt
trận Tân Cảnh Kontum 1972 của Đại tá Trịnh Tiếu
- Mặt trận
Tam Biên 1972 của Một Cựu Chiến Binh VNCH trên trang nhà
doanket.orgfree.com
- Mùa Hè Đỏ Lửa của Phan Nhật Nam xuất
bản tại Sài Gòn năm 1973
- Battle Of Kontum Spring 1972 by
Lt. Col. John G. “Jack” Heslin on
www.thebattleofkontum.com.
Bảng hướng dẫn đến các chương (bấm vào các con số sẽ đi thẳng đến chương đó):
01
|
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 |
21 |
22
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37 |
38 |
39 |
40 |
41 |
42 |
43 |
44
Mục lục
Trích và cập nhật từ quyển “20 Năm
Chiến Sự” - Binh chủng Nhảy Dù
Tác giả:
Đại úy Võ Trung Tín Tiểu đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202
Đại úy Nguyễn Hữu Viên Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù – 714-897-1435
1246 S. Huron Dr. Santa Ana CA 92704
Email:
20namchiensu@gmail.com
Tổng Phát Hành: Mr. Hải Võ
1246 S. Huron Dr. Santa Ana CA
92704
Tel: 714-856-9202. Email: 20namchiensu@gmail.com
Giá
quyển sách:
$40.00USD
(Ngoài Hoa Kỳ:
$50.00USD)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by Võ Trung Tín chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, July 29, 2016
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang