Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Lịch sử
Lời giới thiệu:
Nhân dịp Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH tổ chức Hội ngộ Binh chủng thường
niên vào tháng 7/2015 tại Thủ đô Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, Ban Kỹ
Thuật xin được hân hạnh giới thiệu với
Quý Độc giả và Quý ACE cựu quân nhân SĐND về trang điện tử mới được
thành lập “Trang
Nhảy Dù Washington, D.C. [GĐMĐVN Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận]”
Cũng nhân dịp
này, BKT xin được hân hạnh giới thiệu bộ sách “Binh chủng Nhảy Dù –
20 năm chiến sự” do các tác giả Đại úy Võ Trung Tín và Đại úy Nguyễn
Hữu Viên thực hiện. Đây là bộ sách nói về Chiến sử của Sư Đoàn Nhảy
Dù Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ ngày thành lập. Bộ sách gồm 3 phần,
kính mời Quý vị theo dõi phần Mục lục bên dưới. Trân trọng. --BKT.
****** ||| ******
MỤC LỤC
B. PHẦN B - CHIẾN SỰ
1.
Trận Điện Biên Phủ (13-3-1954 đến
7-5-1954)
2.
Tình Hình Việt Nam Sau Hiệp Định Geneve
3. Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng (23-5-1955 đến 6-12-1955)
4.
Chiến
Dịch Hoàng Diệu (từ 21/9 đến 24-10-1955)
5.
Chiến Dịch Nguyễn Huệ
(từ 1-1- đến 17-2-1956)
6.
Binh Biến ngày 11-11-1960
7.
Trận
Phước Thành (18 - 19-9-1961)
8.
Trận Ấp Bắc (2 - 3-1-1963)
9.
Trận Tân Châu Hồng Ngự (2 đến 4-3-1964)
10.
Trận Bình Giả
(3-12-1964 - 3-1-1965)
11.
Trận Hắc Dịch (9/2 đến 10-2-1965)
12. Trận Ba Gia (28-5-1965 đến 2-6-1965)
13.
Trận Đồng Xoài (9
đến 20-6-1965)
14.
Trận Đức Cơ (4-8-1965 - 15-8-1965)
15.
Chiến dịch Ia Drang - Thần Phong 7 (14 - 18-11- 1965)
16.
Hành
Quân Thần Phong 11 (28/1 – 6-3-1966)
17.
Đại Bàng 800
(12-11-1966)
18.
Hành Quân Liên Kết 81 (16/2 đến 22-2-1967)
19. Lam Sơn 54–Khu Phi Quân Sự (18-27-5-1967)
20.
Trận Dak To
(đồi 1416) (3 – 22-11-1967)
21.
Tổng Công Kích Năm Mậu Thân (từ
ngày 29-1-1968)
22.
Mặt Trận Sài Gòn (30-1-1968)
23.
Mặt Trận
Quảng Trị (30-1-1968)
24.
Mặt Trận Huế (30-1-1968)
25. Mặt Trận Khe Sanh (1 - 15-4-1968)
26.
Mặt Trận Ashau (19/4 –
17-5-1968)
27.
Trận Mậu Thân đợt hai (từ ngày 5-5-1968)
28.
Trận Gò Nổi (Tây Ninh) (19-5-1969)
29.
Chiến Dịch Bình Tây (Từ
ngày 27-3-1970)
30.
Hành Quân Toàn Thắng 42 (29/4 – 22-7-1970)
31. Hành Quân Toàn Thắng 43 (1/5– 30-6-1970)
32.
Hành Quân Toàn
Thắng 45 (6/5 – 30-6-1970)
33. Hành Quân Lam Sơn 719 (8/2 đến 6-4-1971)
34.
Trận đánh Căn Cứ
Hỏa Lực 6 (4/4 đến 17-4-1971)
35.
Trận đánh Căn Cứ Hỏa Lực 5
(24/5 - 19-6-1971)
36.
Mùa Hè Đỏ Lửa
37.
Mặt Trận Tây Nguyên
(17/3 - 28-5-1972)
38.
Mặt Trận Bình Long (2/4 - 8-6-1972)
39.
Mặt Trận Quảng Trị (30/3 - 15-9-1972)
40.
Trận Thường Đức (18/8 -
8-11-1974)
41.
Trận Ban Mê Thuột (10/3 - 16-3-1975)
42.
Trận
Khánh Dương (19/3 - 1-4-1975)
43.
Trận Phan Rang (1/4 -
17-4-1975)
44.
Trận Long Khánh (9/4 – 21 -4-1975)
C. PHẦN C: CÁC VỊ TƯ LỆNH SĐND
TIỂU SỬ CÁC TÁC GIẢ
(Võ Trung Tín & Nguyễn
Hữu Viên)
******28******
28. Trận Gò Nổi (Tây Ninh) (19-5-1969)
Trận Gò Nổi (Tây Ninh)
(Bến Gò Nổi Tây Ninh - ngày 19/5/1969)
Trọng tâm của CSBV trong tỉnh Tây
Ninh là khu vực căn cứ địa to lớn gọi là chiến khu C hay chiến khu
Dương Minh Châu. Chiến khu này
nằm
trong khu rừng rậm Dầu Tiếng giữa ranh giới hai tỉnh Tây Ninh và
Bình Dương. Từ các căn cứ hậu cần an toàn trong khu Mỏ Vẹt, cộng
quân mở rộng hành lang vận chuyển thông thương từ Campuchia ngang
qua khu vực Phước Ninh trong nỗ lực xâm nhập chiến trường thuộc
QK3/Việt Nam Cộng Hòa để bao vây và uy hiếp Sài Gòn từ nhiều hướng
mà chiến khu C là trạm dừng chân gần nhất.
Đối với Việt Nam Cộng Hòa, tỉnh Tây Ninh có vai trò quan trọng về chính trị và quân sự chỉ sau Biên Hòa ở Quân Khu 3. Là thánh địa của đạo Cao Đài, cùng với Hòa Hảo ở Miền Tây là hai tôn giáo nổi tiếng chống cộng sản, tỉnh Tây Ninh thường được xem là mục tiêu chính yếu của cộng sản Bắc Việt để xây dựng các cơ sở đầu não của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) và là bàn đạp tấn công Sài Gòn từ các căn cứ địa nằm dọc theo biên giới Cam Bốt. Mục tiêu của Bắc quân là kiểm soát hành lang chiến lược nằm giữa sông Vàm Cỏ Đông và biên giới Cam Bốt trong tỉnh Tây Ninh. Đây là con đường chuyển quân quan trọng, Sông Vàm Cỏ Đông còn một nhiệm vụ trọng yếu khác là con đường chuyển vận tiếp liệu quân trang quân dụng và chiến cụ. Từ các cơ sở hậu cần của VC trên đất Campuchia, cộng quân thả nổi các chiến cụ theo dòng sông Vàm Cỏ trôi sang Việt Nam và bến Gò Nổi là điểm tiếp nhận và phân phối. Vì vậy, dù thiếu hụt quân số sau các thất bại trong chiến dịch Tết Mậu Thân, Sư Đoàn 7 CSBV được Mặt Trận B-2 giao cho nhiệm vụ tấn chiếm địa điểm chiến lược này bằng mọi giá. Để truy lùng và phá vỡ mưu đồ của địch quân, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã được Bộ TTM tăng cường lực lượng tổng trừ bị SÐND phối hợp tổ chức một chiến dịch hành quân quy mô trên toàn lãnh thổ Tỉnh Tây Ninh.
Vị trí xóm Cây Chỏ và Bến Gò Nổi, Tây Ninh
Tại xóm Cây Chỏ, gần biên giới Miên-Việt thuộc quận Thanh Ðiền
tỉnh Tây Ninh phía Nam sông Vàm Cỏ Ðông cạnh bến Gò Nổi (hay Cồ
Nổi) TÐ6ND được BCH/LÐIND chỉ định dừng quân tại đây để làm nút
chận trên con đường chuyển quân của CSBV từ khu vực căn cứ địa
Ba Thu, Mỏ Vẹt Kampuchia sang vùng Chiến Khu C và là địa điểm
tiếp nhận phân phối tiếp liệu quan yếu của VC. Vì là khu vực
chiến lược quan trọng nên Cục R (tên gọi tắt của Trung ương cục
Miền Nam của CSBV) phải bứng mục tiêu này cho bằng được.
Nửa đêm ngày 1/5/1969, Công Trường 7 VC điều động 2 Trung Ðoàn
271 và 272 với pháo binh yểm trợ đã tấn công mãnh liệt vào vị
trí đóng quân của TÐ6ND với chiến thuật biển người. TÐ6ND đã
phản công quyết liệt nhưng vì là vị trí tạm thời công sự phòng
thủ không đủ kiên cố vả lại lực lượng địch quân quá đông nên đơn
vị bị cắt ra nhiều đoạn và bị thiệt hại nhiều.
Sáng ngày
3/5/1969 TÐ3ND được điều động vượt sông Vàm Cỏ Ðông ngang khu
vực Bến Gò Nổi rồi di chuyển đến xóm Cây Chỏ thay thế TÐ6ND trấn
đóng tại đây “với mục đích nhử cho VC tấn công”.
Toàn bộ
TÐ3ND sau khi qua sông và bắt đầu di chuyển vào khoảng 5.00 giờ
chiều thì phát hiện 3 tên trinh sát CS bám theo. Khi tới khu vực
ấn định, thay vì vào vị trí đóng quân ngay vì trời đã sắp tối,
nhưng Thiếu tá Lê Văn Phát, TÐT đã cho lệnh Tiểu Ðoàn đi ngược
lên hướng Bắc qua khỏi vị trí TÐ6ND đã bị tấn công hôm 1/5 dụng
ý không cho trinh sát địch đoán biết ý định của ta. Khoảng 7 giờ
tối thì TÐ quay lại vị trí đóng quân ở đoạn ngắn của cùi chõ với
đội hình phòng thủ như sau:
1. Phía Tây là một trảng
trống lớn, xa ra khoảng 1,000 thước nữa là bìa rừng do ÐÐ34 của
Ðại úy Trương Quang Vân trấn đóng
2. Hướng chính Bắc bên
phải ÐÐ34, có một số cây lớn nhưng thưa thớt do ÐÐ33 của Ðại úy
Lê Xuân Trạch trấn đóng
3. Bên trái ÐÐ34 xạ trường chính
Nam có trảng trống rộng chừng 70–80m, bên kia là rừng rậm chạy
dài theo hướng Ðông Tây có nhiều hố bom rộng chừng 5–6m đường
kính, do ÐÐ31 của Ðại úy Lê Viết Tùng trấn đóng.
4. Về
phía Ðông vị trí đóng quân là ÐÐ32 của Ðại úy Nguyễn Khen trấn
đóng, BCH Tiểu Ðoàn và ÐÐ30 của Ðại úy Toán trấn thủ ở trung
tâm.
Thời gian này là lúc đơn vị có cấp chỉ huy hùng hậu
nhất bởi các ÐÐT như trên, SQ ban 3 là Ðại úy Lê Hồng, TÐP là
Thiếu tá Nguyễn Chí Hiếu, TÐT là Thiếu tá Lê Văn Phát đều là
những sĩ quan thâm niên dầy dạn chiến trường và “kinh nghiệm
xương máu”.
Hằng ngày Tiểu đoàn tung quân ra lục soát
bung rộng chung quanh vị trí đóng quân từ sáng đến chiều mới trở
về, chỉ để lại một Ðại Ðội canh gác cứ điểm.
Ngày
14/5/1969 như thường lệ, ÐÐ34 được luân phiên ở lại canh gác.
Trung Ðội 2/34 của Chuẩn úy Nguyễn Hữu Viên canh giữ vị trí của
ÐÐ31 ở hướng chính Nam, bên kia trảng trống là bìa rừng có nhiều
cây to. Khoảng 12.30 giờ trưa, phiên gác của Binh I Bùi Minh
Ðức. Có lẽ thấy buổi trưa Hè êm ả, không có gì đáng ngại nên
chàng Ðức nhà ta thả hồn về với “em gái hậu phương”. Chợt nghe
sột soạt có tiếng động, Ðức giật mình quay lại thì thấy 3 tên VC
đang sắp hàng một tiến vào gần tới phòng tuyến, 3 tên trinh sát
CS cũng không nhìn thấy Ðức ngồi trước mặt chúng khoảng 15m. Ðức
hốt hoảng “ới” lên một tiếng, tất cả 6, 7 người ở phía ấy kể cả
Trung Ðội Trưởng đều bật dậy vào vị trí tác chiến chỉ kịp thấy 2
tên đi sau chạy trở lại bìa rừng. 5, 6 người cùng nổ súng mà
không trúng mục tiêu, vì nhiều thân cây to nên chúng kịp thời ẩn
núp.
Còn lại tên đi đầu không theo kịp hai tên kia nên đã
nhào xuống hố bom giữa trảng trống để ẩn mình. Ðể lừa tên này,
Trung Ðội Trưởng hô to: “thôi đừng bắn nữa, nó chạy mất rồi, về
vị trí hết đi”. Vừa nghe thế, tên núp dưới hố bom nhào lên quơ
đại một tràng AK rồi ù té chạy; nó có ngờ đâu là 6, 7 tay súng
vẫn trong thế chuẩn bị tác xạ và 4, 5 khẩu M-16 và 1 quả phóng
lựu M-79 đáp lễ ngay tức khắc và tên kia đã gục ngã bên hố bom.
Thấy thế 2 tên trong bìa rừng ù tháo chạy mất dạng.
Khi
lục soát trong mình tên bị hạ có một khẩu AK-47, 3 băng đạn và 1
quyển sổ nhỏ ghi nhật ký của đương sự với tên là Trần Ðức Tạo,
sinh năm 1952 tại Thái Bình. Ðương sự từ miền Bắc đi “B” năm
1968, ở một trang trong cuốn sổ có câu thơ: “Trăng lên đỉnh núi
trăng tà. Sao trăng không tỏ xem ta vượt đèo?” Có lẽ đây là thơ
của Văn công Tố Hữu làm ra để nhồi sọ những “cán binh con nít”
Bắc Việt vượt Trường Sơn vô mặt trận miền Nam. Vậy khi chết tên
cán binh Tạo này mới có 17 tuổi. Thế là 1 trong 3 tên trinh sát
bám theo Tiểu Ðoàn khi vừa qua sông Vàm Cỏ bến Gò Nổi đã bị hạ.
Ngày 16/5/1969 hai ngày sau, cũng trong một cuộc lục soát,
Thiếu tá TÐT ra lệnh cho ÐÐ32 nằm lại phục kích trên đường trở
về vị trí đóng quân đêm. Quả nhiên 2 tên trinh sát còn lại đã
bám sát theo Tiểu Ðoàn đã bị ÐÐ32 hạ ngay và tịch thu 2 khẩu AK
và 6 băng đạn. Ðoán biết đại đơn vị của CS thế nào cũng sắp tấn
công nên BCH Tiểu đoàn đã chuẩn bị sẵn sàng ứng chiến, chuẩn bị
những hỏa tập tiên liệu gởi về cho các pháo đội thuộc TÐ2PBND
tại các CCHL quanh Thị xã Tây Ninh sẵn sàng, khai quang xạ
trường và ra lệnh tất cả binh sĩ đề cao cảnh giác.
Trận đánh tại Xóm Cây Chỏ, Tây Ninh (19/5/1969)
Ngày 19/5/1969 Công Trường 7/CSBV chuẩn bị quà sinh nhật giặc Hồ
già, đã tung 2 Trung Ðoàn thiện chiến của chúng là 271 và 272,
quyết tâm làm cỏ đơn vị TÐ3ND để tế sống HCM. Nhưng vì 3 tên
trinh sát dẫn đường của chúng đã bị tiêu diệt nên mò mẫm mãi đến
5.00 giờ sáng ngày 19/5 mới đến nơi. Lúc mà tất cả Tiểu Ðoàn đã
báo động từ lúc 1.00 giờ sáng khi một toán đặc công của CS đã mò
vào tấn công một căn cứ Hỏa Lực của TÐ2PBND tại Tây Ninh và lúc
tất cả binh sĩ đang sửa soạn nai nịt chuẩn bị cho một ngày hành
quân mới. Vì thấy ánh sáng lửa củi do các binh sĩ nấu nướng nên
địch mới xác định được vị trí và bắt đầu khai hỏa dữ dội bằng đủ
loại đại bác 75ly và 57ly không giật, rồi súng cối 82ly súng lớn
súng nhỏ đủ loại... Nhưng không còn yếu tố bất ngờ nữa, quân ta
đã nhanh chóng vào vị trí tác chiến. Hơn nữa với mọi điểm hỏa
tập tiên liệu đã có sẵn nên chỉ 2 phút sau tất cả các Pháo Ðội
của TÐ2PBND đã đáp lễ con cháu “bác Hồ” rất niềm nở. Không còn
cách nào hơn, CSBV bèn dốc toàn lực ồ ạt tấn công biển người ở 2
phía của ÐÐ34 và ÐÐ31.
Trên băng tần chỉ huy AN/PRC25,
Giọng Lê Hồng (SQ Hành Quân) vang vang trên máy xin pháo binh,
hỏa châu, và báo cáo cả Trung đoàn địch đang mưa pháo, tấn công
vào vị trí đóng quân của Tiểu Đoàn 3 Nhảy dù ở Bến Gò Nổi, ngay
ven sông Vàm Cỏ Đông.
Nhờ trảng trống phía trước phòng
tuyến và trời lờ mờ sáng nên các chiến sĩ mũ đỏ đã đốn ngã địch
quân la liệt... M-16, đại liên bóp cò liên hồi. M-79 phóng thẳng
vào phía sau nơi các tên chỉ huy đang điều quân.
Súng bắn
không cần nhắm, lựu đạn ném không cần lấy đà, địch càng ngày
càng tiến gần, tên này ngã gục thì tên khác chồm lên như những
con thiêu thân. Trong khi đó pháo binh Dù cũng đã gởi đạn nổ
chụp lên đầu phía hậu quân của địch, nên sau một thời gian ngắn
đội hình của cộng quân tan rã, tất cả các khẩu súng cối địch đã
bị khóa mồm, chúng tranh nhau nhào xuống con suối khô gần đó để
tránh tầm đạn trực xạ của chiến sĩ Dù.
Khoảng 6.30 giờ,
trời đã sáng, trực thăng võ trang đã vào vùng để yểm trợ các đơn
vị ở dưới đất, một trực thăng bị trúng đạn địch từ dưới bắn lên,
viên phi công bị thương nặng.
Sau cả đêm quần thảo với
giặc, sáng hôm sau, “Bố Già Lê văn Phát” reo vui khi báo cáo mấy
trăm xác địch nằm ngổn ngang quanh vị trí đóng quân, tịch thu
hàng trăm vũ khí đủ loại của địch.
Về sau, trời dần sáng
tỏ, tiếng súng cũng thưa thớt dần. Tàn quân của địch sau đó rút
lui theo con suối cạn độc đạo dài khoảng 2km dẫn về hướng Bắc,
nhờ những hàng cây to rậm rạp che dấu. Nhưng đúng như tiên liệu,
Trung tá Lê Quang Lưỡng LÐT/LÐIND đã điều động TÐ6ND do Thiếu tá
Trương Vĩnh Phước làm TĐT dàn quân chận địch tại nơi đây và hốt
trọn gói không chừa một mống. TÐ6ND đã trả được mối hận 18 ngày
trước.
Sau khi tiếng súng im hẳn, TÐ3ND tung quân ra
ngoài lục soát và thu dọn chiến trường với các chiến lợi phẩm
thu được như sau:
- 1 đại bác không giật 57ly
- 2 súng
cối 82ly
- 4 súng cối 61ly
- 1 đại liên 12.8ly, 4 thượng
liên
- 14 trung liên nồi
- 4 B-41, 18 B-40
- 61 AK-47 &
50
- 2 khẩu K54
- Nhiều băng đạn, đạn B-41 & 40, lựu đạn
- 161 xác chết còn nguyên vẹn
- Bắt được 2 tù binh.
Phía Nhảy Dù 3 chiến sĩ hy sinh:
- Chuẩn
úy Trần Gia Hạnh (khóa 26 SQTBTÐ) Trung đội trưởng 4/34
-
Binh I Hoa Trung Ðội 4/34
- Binh I Phan Cầm, xạ thủ Ðại liên
Trung Ðội 2/34
- và 13 binh sĩ bị thương.
Ngày
21/5/1969 TÐ3ND được lệnh di chuyển lên phía Bắc Xóm Cây Chỏ
chừng 4km (Xóm Mía) để bảo vệ an ninh cho Công Binh Nhảy Dù
thiết lập căn cứ hỏa lực Lam Sơn. Đây là căn cứ hỏa lực (CCHL)
đầu tiên do SĐND thiết lập. Mục đích CCHL này nhằm nghi binh,
nhử cho giặc tấn công. Trong căn cứ chỉ có một khẩu pháo 105ly
duy nhất, còn các khẩu pháo khác là súng giả. Và về sau chỉ còn
để lại một ÐÐ32 của Ðại úy Nguyễn Khen và Thiếu tá TÐP Nguyễn
Chí Hiếu trấn đóng.
Ngày 6/6/1969 TÐ3ND được về Sài Gòn
nghỉ dưỡng quân 5 ngày và sau đó tham dự hành quân ven đô.
Trung tướng Dư Quốc Đống
Tài liệu tham khảo:
• Phỏng vấn các Niên Trưởng và chiến hữu trong SĐND: Đại tá
Lê Văn Phát.
Bảng hướng dẫn đến các chương (bấm vào các con số sẽ đi thẳng đến chương đó):
01
|
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 |
21 |
22
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37 |
38 |
39 |
40 |
41 |
42 |
43 |
44
Mục lục
******29******
29. Chiến Dịch Bình Tây (Từ ngày 27-3-1970)
Chiến Dịch Bình Tây
(Hành Quân Kampuchia 1970)
CSBV
và VC thường xử dụng lãnh thổ
Kampuchea dọc theo biên giới Miên-Việt như là một mật khu an toàn để
dưỡng quân, chấn chỉnh
đơn
vị và xuất phát các cuộc tấn công vào miền Nam Việt Nam mà không bị
QLVNCH và đồng minh trả đũa. Và cũng là căn cứ địa tồn trữ quân
trang, quân dụng, chiến cụ và thực phẩm để tiếp tế cho Việt Công tại
miền Nam.
CSBV bắt đầu chuyển quân xuyên Kampuchea vào năm
1963. Ðến năm 1965 ông Sihanouk với chiêu bài trung lập nhưng đã bí
mật chấp nhận cho CSBV và VC thiết lập các căn cứ địa để dưỡng quân,
đồn trú, lánh nạn trên lãnh thổ xứ chùa tháp, đồng thời sử dụng hải
cảng Sihanoukville để xâm nhập người và chiến cụ do khối cộng sản
viện trợ. Mục đích chỉ là để trục lợi thôi. CSBV và VC càng lúc càng
lợi dụng tối đa lãnh thổ Kampuchea làm nơi phát xuất và tấn công vào
miền Nam Việt Nam. Trong lúc đó, CSBV cũng thành lập một đơn vị đặc
nhiệm gọi là P36 để chuyên việc huấn luyện cho bộ đội Khmer đỏ của
Polpot cũng như ngăn chận mọi việc đụng chạm giữa VC & Khmer đỏ với
lực lượng quân đội Hoàng Gia Kampuchea.
Khó chịu vì sự quá
đáng của CS, năm 1968 chính quyền Kampuchea tái khẳng định đường lối
trung lập. Lực lượng Khmer Ðỏ do Hà Nội hỗ trợ đã nổi loạn và chống
đối chính quyền. Cho đến tháng 3/1969 Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ
đồng ý chấp nhận yểm trợ sự trung lập của Kampuchea và trên 3,000
phi vụ B-52 được rải những thảm bom xuống các căn cứ địa của CSBV
trên đất Kampuchea trong suốt 14 tháng liền. Hầu hết các căn cứ địa
của Việt cộng và Khmer đỏ đều bị thiệt hại nặng. Trong chuyến viếng
thăm VNCH trong tháng 2/1970 Bộ Trưởng Quốc Phòng Laird chấp thuận
cho Tướng Abram yểm trợ QLVNCH truy kích quân cộng sản qua lãnh thổ
Kampuchea nếu thấy sự an toàn bị đe dọa. Tuy nhiên, các cuộc đột
kích đều được giữ bí mật.
Ngày 18/3/1970, lợi dụng lúc ông
Sihanouk xuất ngoại, Thủ tướng Lon Nol cùng Hoàng thân Sirik Matak
đứng lên đảo chánh lật đổ Quốc Vương Sihanouk và ra lệnh quân đội
tấn công vào các căn cứ địa của cộng sản trên đất Chùa Tháp. Trước
sự phản phé của thuộc cấp, ngày 20/3/1970 Sihanouk hô hào dân chúng
ủng hộ quân Khmer đỏ (thật sự là VC ở sau lưng) võ trang phản công
trên khắp các khu vực biên giới Miên-Việt và cắt đứt trục lộ chính
từ Cảng Sihanoukville và thành phố Kompong Cham dẫn vào Thủ đô Nam
Vang.
Ngày 27/3/1970 đáp lời kêu gọi giúp đỡ của Thủ tướng
Lon Nol, một Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân Việt Nam Cộng Hòa đã vượt biên
giới đánh bại quân CSBV tại một căn cứ trong nội địa Kampuchea cách
biên giới khoảng 3km.
Ngày 14/4/1970 Chính phủ Lon Nol chính
thức kêu gọi quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa giúp đỡ về quân sự
để đánh đuổi quân cộng sản.
Ngay trong ngày nhận được sự yêu
cầu của tân chính phủ Kampuchea, Các BTL/Quân Lực Hoa Kỳ và Việt Nam
Cộng Hòa đã quyết định thực hiện một loạt các cuộc hành quân ngoại
biên để truy quét cộng quân. Đây là những cuộc hành quân hỗn hợp với
nỗ lực chính là các Sư Đoàn Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) thuộc
các Quân Đoàn 3 và 4, một số đơn vị Tổng Trừ Bị của bộ Tổng Tham Mưu
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH). Cuộc hành quân mang tên “Toàn
Thắng” vượt qua biên giới Kampuchea do Trung tướng Ðỗ Cao Trí chỉ
huy nhằm mục đích:
1. Thanh toán các căn cứ địa của CS dọc
biên giới Miên-Việt; nơi mà VC dùng làm chỗ dừng quân, bổ sung quân
số và là nơi xuất phát các cuộc tấn công sang Nam Việt Nam
2.
Yểm trợ cho chính phủ và quân đội Kampuchea giải tỏa áp lực cộng sản
đang chiếm đóng và bao vây một số những thị trấn, đô thị hay tỉnh lỵ
3. Hồi hương và trợ giúp những Việt Kiều đang bị những người
Miên quá khích khủng bố hoặc chính phủ Kampuchea đang tập trung tại
các trại tỵ nạn với một đời sống cơ cực và tinh thần đang bị giao
động.
Phóng đồ Chiến dịch Bình Tây tháng 5 & 6/1970
Từ ngày 20/3 đến ngày 30/6/1970 có tất cả 23 cuộc hành quân cấp
khu và liên quân khu trong đó có 5 cuộc hành quân hỗn hợp
Việt-Mỹ. Sau ngày 30/6/1970 lực lượng quân sự Hoa Kỳ rút ra khỏi
Kampuchea do áp lực của Quốc Hội Hoa Kỳ, QLVNCH vẫn tiếp tục
hành quân vượt biên phá hủy các cơ sở hậu cần các căn cứ địa của
VC dọc biên giới.
Kết quả các cuộc hành quân này theo tài
liệu do Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu phổ biến cho thấy có 15,837 cán
binh VC bị hạ tại trận, 1,884 bị bắt sống, tịch thu 2,832 súng
cộng đồng và 26,186 vũ khí cá nhân. Về phía VNCH thiệt hại coi
như là quá nhẹ chỉ có 66 tử thương và 330 bị thương. Kể từ sau
các cuộc hành quân vượt biên của QLVNCH tình hình chiến sự toàn
quốc lắng dịu. VC hoàn toàn ở trong thế bị động.
The Ho Chi Minh and Sihanouk
Trails
by Thomas A. Bruscino, Jr.
Tài Liệu Tham Khảo:
- Phỏng vấn các chiến hữu trong SĐND
- 1970 Cambodian
Incursion- Parrot's Beak and Fishhook from Wikipedia
- Like
Rolling Thunder: The Air War in Vietnam, 1964-1975 By Ronald
Bruce Frankum
- Trận Phum-Long-Giêng của TĐ7ND của Trung tá
Lê Minh Ngọc LĐT/LĐ4ND
- Khoảng Tối Nhìn lên, của Đào Đức Bảo
Tác giả xuất bản tại San Diego 2003
- Tình nghĩa anh em-một
đời Mũ Đỏ của Đoàn Phương Hải, vantuyen.net
- TĐ3ND tham
chiến trong cuộc hành quân ngoại biên Toàn Thắng 43 của Đại tá
Lê Văn Phát Lữ Đoàn Trưởng LĐIIIND hiện đang cư ngụ tại Orange
County
- Đại tướng Đỗ Cao Trí Và Mặt Trận Ngoại Biên của
Vương Hồng Anh
- Hình ảnh của Trung tá Lê Minh Ngọc và của Lê
Quang Đức.
Bảng hướng dẫn đến các chương (bấm vào các con số sẽ đi thẳng đến chương đó):
01
|
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 |
21 |
22
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37 |
38 |
39 |
40 |
41 |
42 |
43 |
44
Mục lục
******30******
30. Hành Quân Toàn Thắng 42 (29/4 – 22-7-1970)
Hành Quân Toàn Thắng 42
(29/4 – 22-7-1970)
Trước cuộc hành quân Toàn Thắng
42, Trung tướng Trí đã tổ chức nhiều cuộc hành quân dọc biên giới,
nhất là cuộc hành quân Toàn
Thắng
41, cho nên khi cuộc hành quân Toàn Thắng 42 khai diễn, QLVNCH tập
trung quân đông đảo tại biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh để xuất phát
tràn sang Kampuchea thì tin tình báo cộng quân vẫn ước đoán là quân
ta chỉ hành quân loanh quanh vùng biên giới.
Hành Quân toàn
Thắng 41: Khai diễn từ ngày 13/4/1970 để càn quét khu vực biên giới
vùng Cánh Tiên, cuộc hành quân chỉ kéo dài có 3 ngày. Bắt đầu từ
08.00 giờ sáng, lực lượng hành quân vượt qua biên giới với sự trợ
giúp hỏa lực của SÐ25BB Hoa Kỳ bên này biên giới. 3 Chiến đoàn với
chiến xa yểm trợ đã càn quét một vùng rộng lớn Sway-Riêng hay còn
gọi là “Cánh Tiên” sát biên giới Gò Dầu Hạ Tây Ninh. Ðến buổi trưa
lực lượng Việt Nam Công Hòa đã đi sâu vào quá 8km. Cộng quân chống
trả yếu ớt và bỏ chạy tán loạn. Sau 3 ngày hành quân lực lượng
QLVNCH đã dẫm nát cơ sở hậu cần của địch, phá hủy nhiều kho tàng to
lớn gồm vũ khí, thuốc men, thóc gạo, mìn bẫy, v.v.
Trên 700
xác CS bỏ tại trận, 37 bị bắt sống, vô số quân trang quân dụng và vũ
khí còn tốt bị tịch thu. Về phía VNCH có 8 binh sĩ bị hy sinh.
Ngày 20/4/1970 một cuộc hành quân khác do Lữ Ðoàn 4 Kỵ Binh tổ
chức gồm 3 Thiết Ðoàn Kỵ Binh và 3 Tiểu Ðoàn BÐQ lại vượt biên giới
càn quét vùng Ổ Quạ. Sau 2 ngày đụng độ dữ dội, cộng quân rút lui và
bỏ lại nhiều kho vũ khí và quân dụng.
Ngày 28/4/1970, Thiết
Ðoàn 2 và 6 Kỵ Binh cùng với các đơn vị Ðịa Phương Quân trở lại vùng
Ổ Quạ nhưng không có cuộc đụng độ nào được ghi nhận.
Hành
Quân toàn Thắng 42: Theo kế hoạch của Quân Đoàn 3, chiến dịch hành
quân ngoại biên mang tên là Toàn Thắng 42 do Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn
soạn thảo đã tiến hành trong vòng tối mật và các đơn vị tham chiến
chỉ nhận được lệnh tổng quát vào ngày 27 tháng 3/1970 là chuẩn bị
tham dự một cuộc hành quân lớn. Sư Đoàn 18 Bộ Binh là một trong
những nỗ lực chính. Yểm trợ về không quân cho cuộc hành quân là các
không đoàn chiến thuật của Không Quân VNCH và Không Lực Hoa Kỳ tại
Việt Nam. Tổng chỉ huy chiến dịch Toàn Thắng 42 là Trung tướng Đỗ
Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn 3 và Vùng 3 Chiến Thuật.
Lực lượng hành quân:
Hành Quân Toàn Thắng 42 chính
thức khai diễn vào ngày 29/4/1970 gồm 6 giai đoạn tấn công: Năm giai
đoạn đầu Quân Lực VNCH phối hợp với quân đội Hoa Kỳ. Giai đoạn cuối
sau ngày 30/6 do Quân Đoàn III phụ trách đơn độc. Mục tiêu cuộc hành
quân giai đoạn 1 và 2 là càn quét khu Mỏ Vẹt từ biên giới tới
Sway-Riêng; giai đoạn 3 càn quét từ Sway-Riêng lên đến vùng Đầu Chó
(Tây Bắc tỉnh Tây Ninh); giai đoạn 4 khai thông QL-1 từ Sway-Riêng
đến Kompong Trabeck; giai đoạn 5 tấn công vào đồn điền Chup và giai
đoạn 6 sau cùng đưa quân tấn chiếm đồn điền Mi-mốt.
Lực lượng
tham chiến gồm có Sư Đoàn 18BB, Trung Đoàn 46/SĐ25BB, Liên Đoàn
3BĐQ, 4 Thiết Đoàn Kỵ Binh và Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù. Các đơn vị này
được tổ chức thành 3 Chiến Đoàn. Mỗi chiến Đoàn gồm một Thiết Đoàn
Kỵ Binh, 2 hay 3 Tiểu Đoàn Bộ Binh, BĐQ hay Nhảy Dù, quân số tương
đương một Trung Đoàn.
- Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 225: gồm Trung
Đoàn 46 của SĐ25BB cùng một Thiết Đoàn Kỵ Binh
- Chiến Đoàn
Đặc Nhiệm 318: Lực lượng xung kích gồm hai Trung Đoàn 43 và Trung
Đoàn 48 thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Lực lượng yểm trợ hỏa lực gồm có
một Tiểu Đoàn Pháo Binh 105ly, hai pháo đội 155ly, một pháo đội hỗn
hợp (105 và 155ly) của Tiểu Đoàn 38 Pháo Binh Quân Đoàn 3, các pháo
đội Pháo Binh thuộc Sư Đoàn 18BB, 2 chi đoàn của Thiết Đoàn 18 Kỵ
Binh, các đơn vị Công Binh Chiến Đấu thuộc TÐ302CBCÐ/Quân Đoàn 3 và
Sư Đoàn 18 Bộ Binh.
- Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 333: gồm Liên Đoàn
3 Biệt Động Quân (Liên Đoàn Trưởng Trung tá Phạm văn Phúc), Tiểu
Đoàn 7 Nhảy Dù cùng lực lượng yểm trợ gồm có Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh
(Thiết Đoàn Trưởng Trung tá Trần Văn Thoàn), các đơn vị Pháo Binh
105ly và 155ly của TĐ46PB. Trung tướng Đỗ Cao Trí đáp trực thăng
xuống thăm BCH Chiến đoàn Đặc Nhiệm 333, đích thân chỉ định TĐ7ND
làm “force de frappe” (lực lượng xung kích) cho các cánh quân (Tiểu
Đoàn Trưởng/TĐ7ND là Thiếu tá Lê Minh Ngọc) vượt biên giới qua ngã
Gò Dầu Hạ đánh từ tỉnh lỵ Soài Riêng lên thị trấn Kratie rồi vòng về
Kompong Cham.
Tổng cộng quân số tham chiến khoảng 8,700 người
(12 Tiểu Ðoàn).
Lực lượng địch:
Mặt
trận B3 CSBV do Tướng Hoàng Văn Thái làm Tư lệnh và Phạm Hùng làm
chính ủy và lực lượng phụ thuộc là Trung ương cục Miền Nam gọi tắt
là cục R với thành phần chủ lực là Sư đoàn Công Trường 9 cộng sản
của TWC/MN (SĐ9/CS).
Phóng đồ Hành Quân Toàn Thắng 42
Diễn Tiến:
Ngày 29/4/1970 Bộ Tư lệnh
Quân đoàn III/QLVNCH và Bộ Chỉ huy lực lượng Hoa Kỳ tại Vùng 3
chiến thuật đã phối hợp tổ chức cuộc hành quân ngoại biên Toàn
Thắng 42 tung quân vượt qua biên giới Kampuchea đánh thẳng vào
các mật khu, cơ quan đầu não và hậu cứ an toàn tiếp tế chính của
địch nhằm triệt hạ các căn cứ địa của quân CS trong vùng Mỏ Vẹt,
giải tỏa quốc lô 1 qua tỉnh Sway-Riêng đến tận Kompong Trabeck,
sau đó tiến lên phía Bắc từ vùng Ðầu Chó đến vùng Prey Veng và
giai đoạn cuối cùng tiến chiếm khu vực đồn điền Chup rồi đến đồn
điền Mi-mốt.
Cuộc hành quân giai đoạn 1 bắt đầu từ lúc
07.00 giờ sáng, lực lượng Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 318 từ tỉnh lỵ
Tây Ninh hành quân về phía Bắc và Tây Bắc (hướng đồn điền Chup).
Trong khi đó Chiến Đoàn 225 và 333 từ Gò Dầu Hạ hành quân phía
Tây - Tây Nam (Kompong Trabeck) nhằm mục đích khai hoang và an
ninh hai bên QL-1. Cuộc tiến quân của lực lượng Chiến Đoàn Đặc
Nhiệm 318 Bộ Binh không gặp sự kháng cự mạnh mẽ của đối phương.
Nhưng phía cánh quân của 2 Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 225 và 333 đã
gặp sự kháng cự dữ dội của các trung đoàn Công Trường 9 cộng sản
Bắc Việt (CSBV).
Sáng ngày 29/4/1970, sau 2 giờ vượt biên
giới, chiến đoàn 333 gồm 2 TÐ36, 52BÐQ và Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh
đụng độ mạnh với quân CSBV, Tiểu đoàn Biệt Động Quân đi đầu đã
bị cộng quân phục kích, cắt thành hai, tổn thất nặng. Bộ Chỉ Huy
Chiến Đoàn 333 tung tiểu đoàn Biệt Động Quân trừ bị và 2 Chi
Đoàn Thiết Kỵ vào trận địa để tiếp cứu tiểu đoàn Biệt Động Quân
nói trên. Trận chiến diễn ra rất ác liệt và kéo dài suốt 4 giờ
liền. Không Quân Việt-Mỹ đã liên tục yểm trợ phi pháo. Đến trưa
ngày 29 tháng 5 năm 1970, Chiến Đoàn 333 đẩy lùi được địch quân.
Hơn 100 cộng quân bỏ xác tại trận. Nhưng về phía Chiến Đoàn 333,
một tiểu đoàn Biệt động quân bị tổn thất nặng, nhiều thiết vận
xa M-113 của hai chi đoàn hỗn hợp bị lún trong vùng lầy.
Sau đó hai tiểu đoàn thuộc trung đoàn 271 CSBV bôn tẩu về hướng
bắc để tránh phi pháo. Khi rút ngang qua thôn Phum-Long-Giêng
(phía nam Kompong Trach) đã bị TĐ7ND phát hiện. Sĩ quan liên lạc
Cambodge cho biết làng không còn dân chúng và đã bỏ hoang từ
lâụ. Thiếu tá Lê Minh Ngọc liền điều động TĐ7ND chia làm 3 mũi:
Mũi chính gồm 2 đại đội, tùng thiết trên 1 chi đoàn của Thiết
đoàn 5 Kỵ Binh, xung thẳng vào bờ làng. Mũi thứ nhì gồm 2 đại
đội (do Thiếu tá Tiểu đoàn Phó Phạm Kim Bằng chỉ huy) tấn công
bên sườn phía tây. Mũi thứ 3 gồm 1 đại đội án ngữ về hướng bắc,
chặn đường rút. Vào lúc 2 giờ chiều khi hai Trung Đội đầu tiên
của ĐĐ71 rời chiến xa dàn hàng ngang tiến gần tới bìa làng thì
súng bắt đầu nổ.
Lợi dụng hệ thống phòng thủ kiên cố và
chuẩn bị kỹ lưỡng nên địch nổ súng khi binh sĩ Nhảy Dù còn cách
làng có mấy chục thước. Các Chiến sĩ Nhảy Dù phản công ngay tức
khắc, xung phong như vũ bão, tấn công thẳng vào bìa làng. Cánh
quân thứ hai của Kim Bằng dùng hỏa lực của chiến xa đánh vào bên
hông làng để trợ chiến.
Chi đội thiết vận xa dùng súng
phun lửa xung phong vào chính diện. Lửa cuồn cuộn đốt cháy bìa
làng, lũy tre xanh vặn mình bốc cháỵ, Đại liên 50, súng phóng
lựu M-79, hỏa tiễn M72 và đủ loại vũ khí khác đan những tấm thép
lửa chụp xuống địch quân.
Các cánh quân TĐ7ND sau đó tiến
vào làng, xác địch ngổn ngang trên các hầm hố. Lửa đã đốt hết
khí trời buộc cả đại đội địch phải chui ra khỏi hầm hố để làm
mồi cho đạn và lửa, Đại Đội 73 đang thanh toán bộ chỉ huy tiểu
đoàn của địch. Đại Đội Trưởng Nguyễn Viết Thanh ra lệnh cho các
Trung Đội Trưởng đánh bằng lựu đạn để thanh toán nốt những hầm
hố kiên cố cuối cùng. Một lúc sau Đại Đội Trưởng Thanh báo cáo
bắt sống hết bộ chỉ huy của địch. Mục tiêu Phum-Long-Giêng của
hai Tiểu đoàn cộng quân đã bị đánh tan tác lúc 04:30 giờ chiều
cùng ngày. Những toán địch quân chém vè chạy ra khỏi mục tiêu
tẩu thoát về hướng Bắc, lại hoàn toàn lọt vào vùng hỏa lực của
đại đội 72 Nhảy Dù của Võ Trọng Em án ngữ sẵn nơi đây, không còn
một mống nào sống sót. Hai tiểu đoàn cộng quân hoàn toàn tan rã,
xác địch và vũ khí đạn dược ngổn ngang, trên 40 tù binh bị bắt
sống, trong số đó có cả cán bộ cấp đại đội và tiểu đoàn. Bộ Tư
Lệnh Quân đoàn III đã gởi trực thăng đến lấy hết số tù binh
ngay, để khai thác tin tức trận liệt. TĐ7ND có 9 chiến binh hy
sinh (có Thiếu úy Nguyễn văn Thức, Trung đội Trưởng Truyền Tin)
và 30 thương binh (trong số đó có Đại úy Trần Trung Nhất
ĐĐT/ĐĐ71/TĐ7ND).
TĐ7ND tại Phum-Long-Giêng
4/70, từ trái sang phải:
TĐP - Thiếu tá Phạm Kim Bằng, Y sĩ
Trưởng - Trung úy Nguyễn Phước Trọng,
ĐĐT/ĐĐ73: Đại úy Nguyễn
Viết Thanh, SQ Ban 3: Đại úy Đoàn phương Hải,
TĐ Trưởng -
Thiếu tá Lê Minh Ngọc
Trước tình hình giao tranh ác liệt của Chiến Đoàn 333, Trung
tướng Đỗ Cao Trí cho lệnh lực lượng Sư Đoàn 18 Bộ Binh tạm ngưng
cuộc hành quân về phía Bắc và Tây Bắc hướng về đồn điền Chup, di
chuyển toàn bộ lực lượng về vùng hành quân của Chiến Đoàn 333 để
tiếp ứng, đồng thời đốc thúc các đơn vị Thiết Giáp tìm mọi cách
để đưa lần các thiết vận xa ra khỏi vùng lún lầy. Trong khi đó,
Pháo binh và Không Quân Việt-Mỹ tiếp tục oanh kích, hỏa tập vào
các vị trí được ghi nhận là cộng quân đang tập trung. Theo tin
tình báo, cộng quân đã phối trí hai trung đoàn của Công Trường 7
cộng sản Bắc Việt cố bám giữ đồn điền Chup để cho bộ chỉ huy
Công trường này có thể rút về tuyến sau.
Lực lượng đặc
nhiệm Chiến Đoàn 318, ngay khi nhận được lệnh, hai Trung Đoàn 43
và 48 Bộ Binh đã được trực thăng vận xuống vùng hành quân mới.
Sáu giờ chiều ngày 29 tháng 5 năm 1970, cuộc đổ quân hoàn tất.
Ngay sau đó, các đơn vị của Sư Đoàn 18 Bộ Binh tiếp tục di
chuyển quân trong đêm.
Đến 4 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm
1970, các đơn vị của Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã có mặt tại vị trí đã
định, hai pháo đội Pháo Binh hỗn hợp 105 và 155ly đã được các
phi cơ Chinook thả xuống vùng hành quân từ lúc gần tối. Ngay sau
đó, hai pháo đội này đã lập ngay căn cứ hỏa lực dã chiến để yểm
trợ cho cuộc hành quân. Sự tăng viện kịp thời của Chiến Đoàn 318
đã giải tỏa được áp lực của cộng quân, lập được vòng đai an toàn
cho các phi đội trực thăng đáp xuống để di tản thương binh ra
khỏi trận địa. Từ đó, các chiến đoàn Việt Nam Cộng Hòa đã hoàn
toàn làm chủ chiến trường. Trung đoàn 88 của cộng sản bị thiệt
hại nặng.
Sau hai ngày liên tục tiến quân trên đất Chùa
Tháp, đến ngày 1/5/1970 cánh quân của Sư Đoàn 18 Bộ Binh và lực
lượng tăng phái đã khai thông hoàn toàn Quốc Lộ 1, một vùng rộng
lớn từ biên giới tới tỉnh Sway-Riêng cũng được khai quang. Lực
lượng hành quân đã khám phá một căn cứ hậu cần to lớn của cộng
quân tại thị trấn Ba Thu trong khu Mỏ Vẹt. Sự rộng lớn của căn
cứ này khiến một SQ người Mỹ phải nói rằng “Nó lớn như là căn cứ
tiếp liệu của Mỹ tại Long Bình”, tịch thu 1,146 súng cá nhân,
174 súng cộng đồng trên 140 tấn quân dụng và 45 tấn gạo bị phá
hủy, 170 xác cộng quân bỏ lại trận địa.
Ngày 2/5/1970:
Khởi đầu giai đoạn 2 của chiến dịch, BTL/QÐIII tung lực lượng 2
Chiến Ðoàn 225 và Chiến Ðoàn 333 tiến về phía Nam hướng về khu
Mỏ Vẹt tấn công vào căn cứ địa 367 hay Mật Khu Ba Thu của VC, cả
hai chiến đoàn càng tiến gần tới Mỏ Vẹt càng gặp sức kháng cự
mạnh mẽ của cộng quân. Giao tranh càng lúc càng ác liệt, nhưng
nhờ hỏa lực yểm trợ hùng hậu, QLVNCH đã làm chủ được trận địa và
cộng quân bị thiệt hại nặng.
Ngày 3/5/1970 Chiến Ðoàn 318
do Đại tá Trần Quang Khôi chỉ huy triển khai lực lượng về phía
Tây thành phố Sway-Riêng dọc theo QL-1 để giúp đỡ các lực lượng
địa phương của Cambodia tại đây đang bị quân CS bao vây.
Cùng thời điểm hai mặt trận khác từ Quân khu IV và một cuộc hành
quân hỗn hợp giữa SĐ1 Không Kỵ Hoa Kỳ và LĐIIIND-VN tấn công vào
khu vực Lưỡi Câu cũng được khởi động. Địch quân đang bị hoang
mang, lúng túng kháng cự.
Từ tỉnh Kiến Tường, lực lượng
của Quân Khu IV gồm SĐ9BB, Liên Đoàn 4 BĐQ cùng 5 Thiết Đoàn Kỵ
Binh vượt biên giới đánh thẳng lên hướng Bắc tiến vào khu Mỏ Vẹt
để bắt tay với lực lượng hành quân của Quân Đoàn III. Trong khi
đó Lữ Đoàn III Nhảy Dù từ Bình Long được SĐ1 Không Kỵ trực thăng
vận để khai triển một cuộc hành quân khác mang tên là Toàn Thắng
43 tấn công vào mật khu 353 của CS trong vùng Lưỡi Câu.
Ngày 5/5/1970, 3 Ðại Ðội CIDG (Dân sự Chiến đấu) và Lực Lượng
Ðặc Biệt từ Ðức Hòa Ðức Huệ đã đươc triển khai di chuyển vào
hoạt động trong vùng Mỏ Vẹt.
Ngày 7/5/1970 giai đoạn 3
của Toàn Thắng 42 được khởi động, Lực lượng VNCH chuyển hướng
tấn công từ QL-1 lên hướng Bắc đến tận thị trấn Kampong Trach
thượng nguồn sông Kampong Spean (sang VN đổi tên là Vàm Cỏ
Đông). Trung tướng Đỗ Cao Trí luôn luôn bảo mật và triệt để áp
dụng chiến thuật cơ động chuyển hướng công kích. Các phóng đồ
hành quân do chính tay ông vẽ và trao tận tay các đơn vị trưởng
chỉ huy chiến trường. Địch quân không thể lượng định hướng tấn
công của QLVNCH để chống đỡ hay điều quân cứu ứng cho nhau được.
Chiến thuật cơ động ngoạn mục này được các Tướng lãnh người Mỹ
vô cùng thán phục. Cuộc hành quân khởi từ Bến Sỏi Tây Ninh,
Chiến Ðoàn 225 tiến về hướng Tây, trong khi Chiến Ðoàn 333 và
318 tấn công lên phía Bắc khởi từ hai thị trấn Prasot và Chiphu.
Ðến giữa trưa chiến đoàn 225 đánh tan một lực lương cộng quân
cách biên giới vài cây số trong lãnh thổ Kampuchea trong lúc đó
chiến đoàn 333 chỉ giao tranh lẻ tẻ nhưng chiến đoàn 318 thì
chạm mạnh và 150 cộng quân bị hạ tại trận.
Ngày 9/5/1970
Chiến đoàn 225 khám phá một bệnh viện dã chiến trên 200 giường
với đầy đủ tiện nghi, phòng giải phẫu và thuốc men, v.v. Chiến
Đoàn 225 cũng bắt tay được với Chiến Đoàn 318 của Đại tá Khôi
tại thị trấn Kampong Trach. Sau đó Chiến Đoàn 318 tiến quân dọc
theo hai bên tả và hữu ngạn sông Kampong Spean đánh đuổi quân
của VC rút chạy về phía Bắc.
Quân CSBV hoàn toàn bị động
tháo lui trên khắp các chiến tuyến, tình hình an ninh trong toàn
vùng sáng sủa hơn bao hết. Ngày 11/5/1970 Tổng thống Thiệu bất
ngờ tới thăm chiến trường, nghe Tướng Trí thuyết trình diễn tiến
khắp các mặt trận. Tổng thống Thiệu cũng thảo luận với Tướng Trí
về tình trạng Việt Kiều ngày càng bị ngược đãi tàn tệ tại
Kampuchea. Trung tướng Trí nhận trách nhiệm khai thông QL-1 lên
tới Phnong-Pênh để tiếp đón Việt Kiều và chuyển vận họ về VN
bằng đường bộ.
Ngày 13/5/1970 giai đoạn 4 của Hành Quân Toàn Thắng 42 khai
diễn, trọng tâm của cuộc hành quân nhằm giải thoát và hồi hương
Việt Kiều. Trung tướng Trí cho tập trung quân quanh thị trấn
Sway-Riêng. Từ đây Chiến Đoàn 318 tấn công về hướng Tây dọc theo
QL-1 hướng về Phnong-Pênh trong khi Chiến Đoàn 225 cùng các Kỵ
Binh tấn công trở lại vào mật khu Ba Thu ở hướng Đông Nam để làm
thế nghi binh. Chiến Đoàn 333 giữ an ninh trục lộ QL-1 và làm
thành phần trừ bị.
Ngày 14/5/1970 trên đường tiến quân về
phía Tây dọc theo QL-1 để bắt tay với các lực lượng hành quân
của Quân Khu 4, Chiến Ðoàn 318 đã giao tranh với cộng quân quanh
thị trấn Kompong Trabeck, Lực lượng BÐQ và Kỵ Binh Việt Nam đã
tiêu diệt 48 cộng quân và bắt sống 56 tù binh thuộc Tiểu Ðoàn D1
Tỉnh Tây Ninh.
Ngày 17/5/1970 Chiến đoàn 225 khi hoạt
động tại phía Nam QL-1 trong vùng Mỏ Vẹt đã giao tranh với một
lực lượng đông đảo cộng quân, 26 CS bị giết và 20 tù binh bị bắt
sống khai rằng họ thuộc quân số Tiểu Ðoàn 3 Trung Ðoàn 1 CSBV.
Ngày 20/5/1970 Chiến đoàn 333 chạm địch mạnh trên dọc QL-1
khoảng giữa từ biên giới đến Sway-Riêng, 9 cộng quân bị giết,
226 bị bắt sống, họ cung khai thuộc TÐ2/Trung Ðoàn 271 Công
Trường 9 VC.
Ngày 21/5/1970 Chiến đoàn 225 tiếp tục tiến
về phía Nam QL-1 và chạm địch, 12 cộng quân bị giết 15 bị bắt
sống. Một trong số này là một SQ cao cấp về tiếp vận của Trung
ương cục Miền Nam.
Quốc Lộ 1 từ biên giới Việt Nam đến
Thủ đô Nam Vang hoàn toàn được giải tỏa, một số lớn Việt Kiều
được đưa về Việt Nam bằng đường bộ.
Ngày 23/5/1970 do lời
cầu cứu của Bộ Tư Lệnh Quân Khu 1 Quân Đội Kampuchea khi SĐ9CSBV
tập trung quân uy hiếp Kompong Chàm, thành phố lớn hàng thứ ba
của nước này, cách Phnong-Pênh khoảng 70km về phía Bắc. Giai
đoạn 5 của cuộc hành quân Toàn Thắng 42 được khai triển. Lực
lượng Chiến Đoàn 225 được lệnh trấn giữ QL-1 từ biên giới Gò Dầu
Hạ đến Sway-Riêng; Chiến Đoàn 333 tiến dọc theo quốc lộ 7 từ đồn
điền Krek tiến về phía Tây; và Chiến Đoàn 318 từ Prey Veng tiến
dọc theo QL-15 đánh thẳng lên hướng Bắc. TĐ7ND trong cánh quân
Chiến Đoàn 333 đã giao tranh ác liệt với Trung Ðoàn 272 VC quanh
khu vực đồn điền Chup. Trước sức tấn công dũng mãnh của các
chiến sĩ Nhảy Dù, Trung đoàn 272 VC phải tháo chạy sau khi bị
thiệt hại nặng, 26 xác bỏ lại tại trận, 16 tù binh bị bắt sống
trong đó có 1 Tiểu Ðoàn Trưởng.
Trung tướng Đỗ Cao Trí cùng
các sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ
trong cuộc hành quân
tiêu diệt hậu cần CS Bắc Việt tại Cam Bốt năm 1970.
Hình chụp
tại thị trấn Kompong Chak gần khu Mỏ Vẹt.
Ngày 27/5/1970 Chiến Đoàn 318 cùng hai Thiết Ðoàn 15 và 18 đã
tiêu diệt tiểu đoàn 309 VC trên Liên tỉnh lộ 15. Ba ngày sau một
tiểu đoàn thứ ba - Trung đoàn 271 của VC - cũng bị đánh bại sau
8 giờ giao tranh ác liệt tại phía Tây Nam đồn điền Chup và 110
tên bị loại khỏi vòng chiến. Cuộc bao vây của CS quanh Kompong
Chàm đã bị phá vỡ.
Một hôm giữa đêm khuya ngày 29/5/1970
khi tất cả TĐ7ND còn đang ngủ thì có tiếng trực thăng chỉ huy
của Trung tướng Đỗ Cao Trí vần vũ trên đầu và đáp ngay vị trí
đóng quân. Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh và Tiểu Đoàn 7ND được lệnh di
chuyển nội trong đêm nay để đánh vào mật khu đồn điền Chup, nơi
Công Trường 9 Việt cộng đặt bộ chỉ huy. Sau đó,Trung tướng Trí
ngồi trên chiến xa chỉ huy, xua quân ào ào như nước vỡ bờ trực
chỉ đồn điền Chup. Trời chưa sáng chiến xa đã nghiền nát Chup.
Cuộc tấn công chớp nhoáng, bất ngờ đã phá vỡ hậu cần tiếp liệu
và tiêu diệt hầu hết bộ chỉ huy, bắt được một số cán bộ cao cấp
nhưng Tư lệnh Công Trường 9 trốn thoát. Lực lượng Công Trường 9
của CSBV đã bị đánh bại nên phải tháo lui. Lực lượng VNCH đã
tràn vào đồn điền Chup ngày 1/6/1970 và phá hủy rất nhiều hầm hố
công sự phòng thủ, những kho tàng, những cơ giới cùng vũ khí,
thuốc men và lương thực.
Đồn Điền cao su Chup rộng lớn
diện tích khoảng 180km², cộng quân thường lợi dụng rừng cây cao
su ngút ngàn rậm rạp để ẩn núp và bố trí công sự chiến đấu kiên
cố chống lại quân của VNCH, vì vậy những trận đánh vừa qua đã
làm cho quân số đôi bên đều bị tiêu hao. Sau khi thanh toán
chiến trường lực lượng hành quân VNCH bàn giao lại cho quân đội
Khmer trấn thủ.
Ngày 31/5/1970 Chiến đoàn 225 tấn công
vào khu vực phía Tây Cánh Tiên đã giết 34 cộng quân bắt sống 2
tù binh thuộc TÐ308 VC.
TĐ7ND tái chiếm Kompong Chàm
6/1970, từ trái sang phải:
Y sĩ Trưởng Nguyễn Phước Trọng,
ĐĐT/ĐĐ73 - Đại úy Nguyễn Viết Thanh,
TĐ Phó/Thiếu tá Phạm Kim
Bằng, TĐ Trưởng/Thiếu tá Lê Minh Ngọc,
SQ Ban 3: Đại úy Đoàn
Phương Hải
Ngày 3/6/1970 Chiến Đoàn 318 được lệnh rút về Long Khánh để nghỉ
ngơi, bổ sung quân số và tái trang bị. Ngày 12/6/1970 Chiến đoàn
318 vào vùng hành quân trở lại và di chuyển đến khu vực đồn điền
Krek thay thế cho Chiến Đoàn 333 rút về VN. Trong khi đó Trung
Đoàn 49/SĐ25BB được điều động thay thế Trung Đoàn 46 BB trong
Chiến Đoàn 225.
Giữa tháng 6/1970, lợi dụng trong lúc các
đơn vị VNCH thay quân, SÐ9CSBV mon men trở lại đồn điền Chup và
đe dọa bao vây Kompong Cham. Lực lượng quân đội Kampuchea vì quá
non trẻ không thể đủ sức phòng thủ khi đối đầu với lực lượng của
VC và Khmer đỏ, vì vậy khi Quân Đội VNCH bàn giao các địa điểm
vừa chiếm lại cho quân KPC thì một thời gian ngắn sau đó lại lọt
về tay Khmer đỏ hay CSBV như cũ.
Ngày 21/6 Quân Lực VNCH
đã phản công quyết liệt để giúp đỡ cho Quân Lực còn yếu kém của
Quốc gia láng giềng thêm một lần nữa. Trung tướng Trí đã điều
động 3 Chiến Đoàn 225, 318 và 333 cùng lúc tiến quân trên QL-7
xuất phát từ đồn điền Krek rồi chia làm ba mũi tấn công vào
Chup. Trước sự tấn công như vũ bảo của các lực lượng Nhảy Dù,
Biệt Động Quân, SĐ18 và 25BB cùng lực lượng Thiết Giáp và Pháo
Binh của QLVNCH với hỏa lực hùng hậu, quân CSBV đã không chịu
nổi nên phải tháo chạy khỏi chiến trường.
Đến ngày
29/6/1970 tình hình trong vùng hành quân hoàn toàn yên tĩnh, lực
lượng VNCH hằng ngày mở các cuộc hành quân truy lùng tuần tiểu
nhưng không gặp bất cứ một cuộc chạm súng nào.
Ngày
22/7/1970 Hành quân Toàn Thắng 42 kết thúc, các lực lượng quân
đội Việt Nam hoàn toàn rút khỏi Kampuchea.
Tài Liệu Tham
Khảo:
- Phỏng vấn các chiến hữu trong SĐND
-
1970 Cambodian Incursion- Parrot's Beak and Fishhook from
Wikipedia
- Like Rolling Thunder: The Air War in Vietnam,
1964-1975 By Ronald Bruce Frankum
- Trận Phum-Long-Giêng của
TĐ7ND của Trung tá Lê Minh Ngọc LĐT/LĐ4ND
- Khoảng Tối Nhìn
lên, của Đào Đức Bảo Tác giả xuất bản tại San Diego 2003
-
Tình nghĩa anh em-một đời Mũ Đỏ của Đoàn Phương Hải,
vantuyen.net
- TĐ3ND tham chiến trong cuộc hành quân
ngoại biên Toàn Thắng 43 của Đại tá Lê Văn Phát Lữ Đoàn Trưởng
LĐIIIND hiện đang cư ngụ tại Orange County
- Đại tướng Đỗ
Cao Trí Và Mặt Trận Ngoại Biên của Vương Hồng Anh
- Hình ảnh
của Trung tá Lê Minh Ngọc và của Lê Quang Đức.
Bảng hướng dẫn đến các chương (bấm vào các con số sẽ đi thẳng đến chương đó):
01
|
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 |
21 |
22
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37 |
38 |
39 |
40 |
41 |
42 |
43 |
44
Mục lục
******31******
31. Hành Quân Toàn Thắng 43 (1/5– 30-6-1970)
Hành Quân Toàn Thắng 43
(1/5– 30-6-1970)
Thật sự các kế hoạch hành quân
Toàn Thắng này đã được các Bộ Tư Lệnh Liên Quân Việt-Mỹ soạn thảo từ
cuối năm 1969 gọi là “Kế
Hoạch
Đồng Tiến”. Theo kế hoạch này các đơn vị cấp Lữ Đoàn của Sư Đoàn
Nhảy Dù Việt Nam sẽ hành quân song song với các đơn vị cấp Lữ Đoàn
của SĐ1KBKV. Các cuộc hành quân như vậy nhằm mục đích cho SĐND–VN
rút kinh nghiệm về hành quân không vận. Vì vậy khi cuộc hành quân
sang Kampuchea khởi động thì các đơn vị hành quân Việt-Mỹ đã sẵn
sàng hiện diện trong vùng biên giới thuộc lãnh thổ Quân Khu III.
Hai ngày sau khi khai diễn hành quân Toàn Thắng 42, vào 6 giờ
sáng ngày 1/5/1970, trong khi CSBV đang phải lo chống đỡ trong vùng
Cánh Tiên thì một gọng kềm khác được QLVNCH khai triển. Cuộc hành
quân thứ hai mang tên Toàn Thắng 43 khởi động với lực lượng chính là
Lữ Ðoàn III Nhảy Dù VNCH, nhằm mục đích càn quét mật khu 353 của CS
trong vùng Lưỡi Câu. Đây là nơi thiết đặt cơ quan đầu não của VC gọi
là Trung ương Cục Miền Nam hay gọi tắt là Cục R.
Về phía Quân
lực đồng minh Hoa Kỳ, cuộc hành quân được đặt tên là: Task Force
Shoemaker do Chuẩn tướng Robert L Shoemaker, Tư lệnh Phó Hành Quân
của SÐ1 Kỵ Binh Không Vận (1st Cavalry Divison) của Hoa Kỳ chỉ huy.
Tướng Shoemaker đã chọn Phi trường Quản Lợi để đặt Bộ chỉ huy hành
quân nhằm tiết giảm nhân lực cũng như trang thiết bị yểm trợ.
Lực lượng tham chiến gồm:
1. Lữ Ðoàn
III/SÐ1KBKV Hoa Kỳ do Đại tá R. C. Kington chỉ huy với 3 Tiểu đoàn
Bộ Chiến 1/7, 2/7 và 5/7 Calvary với TĐ1/21 Pháo Binh và Trực thăng
cơ hữu xuất phát từ Quản Lợi
2. LÐIIIND-VN do Đại tá Nguyễn
Văn Thọ chỉ huy, gồm có:
- Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, Tiểu Đoàn
Trưởng là Trung tá Phạm Hy Mai
- Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù, Tiểu Đoàn
Trưởng là Trung tá Lê Văn Phát
- Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù, Tiểu Đoàn
Trưởng là Trung tá Trần Ngọc Trí.
3. Trung đoàn 11 Kỵ Binh
Thiết Giáp Hoa Kỳ do Đại tá D. A. Starry chỉ huy với 2 hai Thiết
Đoàn 2/11 và 3/11 KBTG và phi đội trực thăng tác chiến, xuất phát từ
CCHL South trong Tỉnh Tây Ninh (Thiết đoàn 1/11 bận hành quân vùng
Chiến khu C)
4. Thiết Ðoàn 1/9/SÐ1KBKV (1st Squadron, 9th
Cavalry) bao vùng yểm trợ cho cuộc hành quân bằng những trực thăng
trinh sát và vũ trang
5. Tiểu đoàn 5/12/LĐ199 Infantry
6. 2 Tiểu đoàn/Lữ đoàn II/SĐ1KBKV
7. Tiểu Ðoàn 2/47 Bộ
Binh Cơ Giới (BBCG) tăng phái từ SÐ25BB-HK
8. Thiết Ðoàn 2/34
Thiết Giáp tăng phái từ SÐ25BB Hoa Kỳ.
Diễn tiến:
Từ ngày 26 đến 28/4/1970, Các đơn vị thuộc Sư Đoàn Nhảy Dù–VN và
SĐ1KBKV Hoa Kỳ đang hành quân tại vùng Chiến Khu C. Cuộc hành quân
này nhằm lượng định hiệu quả của cuộc hành quân hỗn hợp Việt-Mỹ
trong lãnh thổ quân khu III để chuẩn bị cho cuộc hành quân vượt biên
tấn công qua lãnh thổ Kampuchea. Ngày 30/4/1970 TĐ3 Nhảy Dù đang
hành quân tại Bù Đăng được trực thăng bốc về sân bay Hớn Quản (Quản
Lợi) An Lộc. Tại BCH hành quân Lữ Đoàn III ND đặt trong vùng Lưỡi
Câu, ba vị Tiểu Đoàn Trưởng các Tiểu Đoàn 1, 3 và 9 Nhảy Dù nhận
lệnh từ Đại tá Nguyễn Văn Thọ LĐT/LĐIIIND (lúc đó có mặt Tướng Jame
Keysi): TĐ3ND sẽ được trực thăng vận vào vùng hành quân tại bãi đáp
X-ray để lập đầu cầu cho các đơn vị khác thuộc LĐIIIND vào vùng hành
quân ngày hôm sau.
Ngày 1/5/1970 ngay sau khi Tổng thống
Nixon vừa công bố cho dân chúng Mỹ biết về cuộc hành quân vượt biên
thì lúc 5.45 phút sáng, 6 phi tuần B-52 bắt đầu oanh tạc vùng phía
Nam Lưỡi Câu, tiếp theo đó là 94 khẩu đại pháo của Pháo Binh Hoa Kỳ
khai hỏa rồi đến 148 phi tuần của Oanh tạc cơ Mỹ cày nát vùng Mật
Khu 352 và 353 của CSBV trên đất Chùa Tháp. Sau một giờ tập kích
bằng hỏa lực, trực thăng bắt đầu ào ạt đổ quân LÐIIIND Việt Nam
xuống phía Bắc mật khu 353 của VC và từ đó tấn công về phía Nam nhằm
khóa chặt các con đường rút quân của địch.
Khoảng 8.00 giờ
sáng ngày 1/5/1970, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù do Trung tá Lê Văn Phát làm
TĐT và Thiếu tá Trần Văn Sơn làm TĐP được trực thăng vận vào mục
tiêu. Tiên khởi trên 25/100 chiếc trực thăng chuyển quân được 22
chiếc Cobra hộ tống đã đến bốc Đại Đội 33/TÐ3ND của Đại úy Lê Xuân
Trạch từ An Lộc rồi đổ xuống bãi đáp X-ray để lập đầu cầu. Sau đó là
6 khẩu pháo 105ly/Pháo Đội Dù của “Trí súng” rồi tới các Đại Đội 31
của Đại úy Lê Viết Tùng, ĐĐ32 của Đại úy Phạm Xuân Thiếp và ĐĐ34 của
Đại úy Ngô Tùng Châu được thả xuống. Các Đại Đội Nhảy Dù sau khi đáp
xuống đất liền tiến chiếm các vị trí đã được chỉ định quanh căn cứ
đường kính khoảng 2km. Môt thời gian ngắn sau đó 3 khẩu đại bác
155ly cũng được thả xuống.
ÐÐ33ND khi mở rộng khu vực vừa đáp
xuống về phía Bắc đã gặp sự kháng cự mạnh mẽ của địch quân, Các
chiến sĩ Nhảy dù phản ứng mau lẹ xung phong tấn công thẳng vào vị
trí ẩn núp của địch làm cộng quân hoảng sợ bỏ chạy. Ðại úy Lê Xuân
Trạch Ðại Ðội Trưởng bị một viên đạn bể mắt cá chân nên phải di tản
khẩn cấp. Ðại úy Lê Thành Paul đang là Phụ Tá cho Đại úy Lê Viết
Tùng Ðại Ðội 31 được điều động lên thay thế cho Đại úy Trạch, tung
quân lục soát khắp các khu vực khả nghi và sau đó đã khám phá ra một
căn cứ hậu cần của CS với một kho chứa khoảng 10 tấn thuốc men, một
hầm chứa 150 khẩu súng K54, nhiều hầm khác chứa vũ khí hằng ngàn
khẩu súng đủ loại như đại liên, trung liên, súng cối, CKC, hỏa tiễn
122ly và nhiều hầm chứa khoảng 100 tấn đạn dược.
Vùng Lưỡi Câu và Hành Quân Toàn Thắng 43
Tiếp theo sau TĐ3ND, lúc 9.45 giờ, TÐ9ND do Trung tá Trần Ngọc
Trí làm Tiểu Đoàn Trưởng được 42 trực thăng chuyển quân, thả
xuống phía Bắc của TÐ3ND để thiết lập căn cứ hỏa lực Oklahoma và
TÐ1ND do Trung tá Phạm Hy Mai làm Tiểu Đoàn Trưởng được thả
xuống về hướng Đông của TĐ3ND vào lúc 10.05 giờ để thiết lập căn
cứ hỏa lực Scout. Các căn cứ cách nhau khoảng 10km.
Sau
khi đáp xuống mục tiêu, các đơn vị Nhảy Dù tung quân lục soát
khu vực trách nhiệm và bắt đầu giao tranh lẻ tẻ với các đơn vị
cộng quân, địch quân chống trả yếu ớt rồi rút chạy tán loạn sau
khi bỏ lại khoảng 200 xác đồng bọn. Tiểu đoàn 1ND cũng chạm
địch, 27 cộng quân bị hạ và bắt sống 8 tù binh. Các tù binh khai
rằng thuộc Tiểu đoàn 250 thuộc đoàn 50 hậu cần và thuộc
TĐ1/Trung đoàn 165/SĐ7CSBV.
Buổi chiều, Các xe cơ giới
của Tiểu Đoàn Công Binh Nhảy Dù được các trực thăng Chinook thả
xuống để thiết lâp CCHL East I cách biên giới Miên-Việt vùng
Lưỡi Câu khoảng 4km do TĐ3ND trấn đóng, CCHL Oklahoma do TĐ9ND
trấn đóng và CCHL Scout do TĐ1ND trấn đóng. Trong mỗi căn cứ hỏa
lực có một pháo đội 105ly Nhảy Dù để yểm trợ hỏa lực cho các
cánh quân trực thuộc đang hoạt động quanh khu vực.
Cùng
một lúc với các đơn vị của LĐIIIND-VN tấn công vào mật khu của
địch từ Bắc xuống Nam, các đơn vị bộ chiến của Hoa Kỳ từ mạn Nam
và Ðông của khu vực Lưỡi Câu cũng bắt đầu vượt tuyến xuất phát.
Mũi tên đỏ: lực lượng bộ chiến, mũi tên đen: ND Việt Nam (trực thăng vận)
Lực lượng Hoa Kỳ chia thành hai mũi dùi vượt biên giới tấn công
thẳng vào căn cứ địa của Cục R.
Mũi thứ nhất gồm hai cánh
quân vượt tuyến xuất phát từ Tây Ninh băng qua biên giới tấn
công lên mạn Bắc. Cánh quân thứ nhất là Tiểu đoàn 2/47 Bộ Binh
Cơ Giới từ Ka-Tum tảo thanh vùng phía trái Lưỡi Câu lên đến
QL-7. Cánh thứ nhì là Tiểu đoàn 2/34 Thiết Giáp trách nhiệm càn
quét về phía tay phải của trục tiến quân.
Mũi thứ nhì từ
hướng Đông, hai Thiết đoàn 2/11 và 3/11 của Trung đoàn 11 Thiết
Kỵ cũng ào ạt chĩa mũi dùi từ Bình Long tấn công về hướng Tây
Bắc thọc sâu vào mục tiêu vùng Lưỡi Câu.
Các lực lượng CS
bị bất ngờ không kịp phản ứng nên chống trả yếu ớt và tháo chạy
dưới sự truy nã ráo riết của các phi cơ trinh sát. Đơn vị trinh
sát 1/9 Cavalry đã tìm thấy 152 xác cộng quân do hỏa lực của phi
cơ oanh kích.
Lúc xế chiều, Thiết Ðoàn 2/11 bắt đầu đụng
độ với Tiểu Ðoàn 1 của Trung Ðoàn 165/SÐ7CSBV tại một bìa rừng
cách biên giới Ka-Tum khoảng 6km, VC bỏ lại 52 xác tại trận địa,
về phía Mỹ có 2 binh sĩ tử thương.
Ngày 2/5/1970 trong
khi hai đơn vị TĐ2/47 Cơ Giới và 2/34 Thiết Giáp tảo thanh dọc
hai bên QL-7 tiến về phía đồn điền Mi-mốt, Thiết Ðoàn 2/11 bắt
tay được với lực lượng của LÐIIIND Việt Nam và sau đó BTL hành
quân đã điều động Trung Đoàn 11 tiến chiếm Thị trấn Snoul, là
giao điểm của 2 hệ thống đường mòn xâm nhập của cộng quân là HCM
và Sihanouk.
Ngày 3/5/1970 Trung Ðoàn 11 Kỵ Binh mở rộng
vùng hoạt động dọc theo hai bên QL-7 đồng thời tấn công vào thị
trấn Snoul 40km về phía Bắc. Lữ Đoàn III KBKV cũng được tăng
viện 2 Tiểu đoàn thuộc LĐ2KBKV.
Trong ngày này, do các
tin tức thu lượm được từ các trực thăng Trinh Sát báo cáo nhìn
thấy nhiều kho chứa và nhiều Antenna. Ngay sau đó TÐ1/5KBKV được
thả xuống bãi đáp Terry Lynn cạnh QL-7 phía Nam thị trấn Snoul
để thiết lập CCHL North I. Sau một cuộc chạm súng khi các đơn vị
mở rộng vòng đai an ninh cho căn cứ, đã khám phá ra một Căn Cứ
hậu cần của Công Trường 7CSBV. CCHC này kéo dài khoảng 3km ngang
2km (vì quá rộng lớn nên người Mỹ đặt tên nó là “The City”) Cách
thị trấn Snoul 10km về phía Nam, cách QL-7 khoảng 1km và cách
biên giới khoảng 5km. CCHC này bao gồm 182 công sự chiến đấu,
nhiều hầm chứa quân trang, quân dụng, thực phẩm thuốc men, nhiều
bãi sửa chữa quân xa, 18 nhà ăn, nhiều lớp học, sân tập bắn và
trại chăn nuôi.
Chiến lợi phẩm tịch thu được gồm 1,282 vũ
khí cá nhân, 202 vũ khí cộng đồng, 1.5 triệu đạn súng nhỏ, 26
tấn chất nổ, 22 thùng mìn chống chiến xa, 300 xe cộ đủ loại, 30
tấn gạo, 8 tấn bắp (Tổng cộng 171 tấn quân cụ).
Những
ngày đầu, địch quân hoảng hốt bỏ chạy, phân tán mỏng, nhưng ít
ngày sau chúng trở lại quấy rối pháo kích lẻ tẻ bằng súng cối 82
hay những súng phóng lựu đặt trên dàn phóng... rồi chém vè.
TÐ8 Công binh chiến đấu được điều động đến để thiết lập các
cây cầu bắt ngang 3 con rạch nhỏ trên QL-7 giúp cho các đơn vị
Thiết Giáp đi qua để tấn công về phía Bắc, thị trấn Snoul.
Tại trung tâm thị trấn Snoul là một sân bay nhỏ, cộng quân
đã ước lượng lực lượng hành quân Việt-Mỹ sẽ đổ bộ xuống đây nên
họ đã dàn dựng sẵn một hệ thống phòng không 12.7ly dầy đặc cũng
như bố trí một số những đơn vị bộ binh hùng hậu sẵn sàng thế
trận phục kích tại
đây.
Ðoán biết được ý định của địch quân, BTL hành quân
đã điều động 2 Thiết đoàn của Trung Ðoàn 11 Thiết Kỵ rời khỏi
QL-7 tiến về phía Ðông vượt qua vườn cao su và bất ngờ tấn công
trực diện vào mặt phía Nam của Snoul. Giao tranh dữ dội ngay
trung tâm thị trấn trước khi quân Mỹ chiếm được vị trí chiến
lược này, 150 xác cộng quân bỏ lại trận địa. Trong trận này Đại
tá D. A Starry bị thương vì mảnh đạn nên phải di tản, Trung tá
Brookshire, Thiết đoàn Trưởng Thiết Đoàn 2 lên thay thế xử lý
thường vụ.
Ðể mở rộng vòng đai an ninh, Trung đoàn 11
tiến về phía Bắc Snoul càn quét khu vực chiến trường đã được
cộng quân chọn sẵn. Nhiều chướng ngại vật ngăn cản bước tiến của
chiến xa, đồng thời giăng nhiều loại mìn bẫy và các loại vũ khí
chống chiến xa. Sau 5 ngày quần thảo, khoảng 600 cộng quân bị
loại khỏi vòng chiến, lực lượng hành quân khám phá thêm nhiều
kho lương thực, vũ khí, trung tâm huấn luyện...
Đêm
5/5/1970 quân CS tấn công vào vị trí đóng quân đêm của Thiết
Ðoàn 2/34 nhưng bị đẩy lui, 17 xác cộng quân bỏ tại trận. Sau
trận này Lực lượng đặc nhiệm Shoemaker được giải tán do tầm mức
rộng lớn của chiến cuộc. BTL/SÐ1KBKV trực tiếp điều khiển cuộc
hành quân với toàn bộ 3 Lữ Ðoàn I, II, III KBKV, và Trung Ðoàn
11 Thiết Kỵ, Trong khi đó về phía QLVNCH, BTL/SÐND chính thức
chỉ huy chiến trường vùng Lưỡi Câu, điều động thêm LÐIND vào
vùng hành quân, mở mặt trận mới: Toàn Thắng 45.
The 2D Squadron, 11th Armored Cavalry, at Snoul, Cambodia on the 5/4/1970
Tài Liệu Tham Khảo:
- Phỏng vấn các chiến hữu trong SĐND
- 1970 Cambodian
Incursion- Parrot's Beak and Fishhook from Wikipedia
- Like
Rolling Thunder: The Air War in Vietnam, 1964-1975 By Ronald
Bruce Frankum
- Trận Phum-Long-Giêng của TĐ7ND của Trung tá
Lê Minh Ngọc LĐT/LĐ4ND
- Khoảng Tối Nhìn lên, của Đào Đức Bảo
Tác giả xuất bản tại San Diego 2003
- Tình nghĩa anh em-một
đời Mũ Đỏ của Đoàn Phương Hải, vantuyen.net
- TĐ3ND tham
chiến trong cuộc hành quân ngoại biên Toàn Thắng 43 của Đại tá
Lê Văn Phát Lữ Đoàn Trưởng LĐIIIND hiện đang cư ngụ tại Orange
County
- Đại tướng Đỗ Cao Trí Và Mặt Trận Ngoại Biên của
Vương Hồng Anh
- Hình ảnh của Trung tá Lê Minh Ngọc và của Lê
Quang Đức.
Bảng hướng dẫn đến các chương (bấm vào các con số sẽ đi thẳng đến chương đó):
01
|
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 |
21 |
22
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37 |
38 |
39 |
40 |
41 |
42 |
43 |
44
Mục lục
******32******
32. Hành Quân Toàn Thắng 45 (6/5 – 30-6-1970)
Hành Quân Toàn Thắng 45
(LÐIND từ ngày 6/5/1970 – 30/6/1970)
Sau trận đánh vào Snoul ngày 5/5/1970, Lực lượng Shoemaker được giải
tán để mở rộng các thành phần tham gia chiến dịch. Về phía Sư
Đoàn 1
KBKV Thiếu tướng G. W. Casey Tư Lệnh Sư Đoàn trực tiếp chỉ huy các
đơn vị hành quân Hoa Kỳ và cuộc hành quân mang tên là Rock Cruiser.
Về phía VNCH, Thiếu tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh SĐND-VN trực tiếp
chỉ huy các đơn vị Nhảy Dù tham chiến với cuộc hành quân mang tên là
Toàn Thắng 45.
Nhằm mục đích tảo thanh mật khu Cục R (Trung
ương Cục Miền Nam) của Việt cộng trên đất Kampuchea. BTL SĐND-VN đã
điều đồng thêm LÐIND do Đại tá Lê Quang Lưỡng làm Lữ Đoàn Trưởng vào
vùng hành quân với 3 Tiểu Đoàn 5, 6 và 8 Nhảy Dù:
- Tiểu Ðoàn
5 Nhảy Dù, Tiểu Đoàn Trưởng là Trung tá Nguyễn Chí Hiếu
- Tiểu
Đoàn 6 Nhảy Dù, Tiểu Đoàn Trưởng là Trung tá Trương Vĩnh Phước
-
Tiểu Đoàn 8 Nhày Dù, Tiểu Đoàn Trưởng là Trung tá Văn Bá Ninh.
Cánh quân Lữ Đoàn I Nhảy Dù–VN hoạt động song song với LÐ2KBKV
Hoa Kỳ dưới quyền chỉ huy của Ðại tá C. Clarke Lữ Ðoàn Trưởng
LÐ2KBKV. Ngày 6/5/1970 các đơn vị thuộc Lữ đoàn III Nhảy Dù vẫn tung
quân tảo thanh quanh các căn cứ hỏa lực East I, Scout và Oklahoma
trong khi LÐIND tảo thanh dọc theo khu vực phía Nam QL-7 và SĐ1KBKV
Hoa Kỳ đã điều phối thêm các đơn vị LĐ2KBKV do Đại tá C. Clarke chỉ
huy vào vùng hành quân để chuẩn bị cho giai đoạn hành quân kế tiếp.
Vùng hành quân Toàn Thắng 45
Các Tiểu Đoàn Nhảy Dù
tham dự cuộc hành quân từ các căn cứ hỏa lực tung ra các cuộc hành
quân lùng và diệt địch. Khiến cho quân cộng sản đã từng lợi dụng
lãnh thổ Căm Bốt làm hậu cần dưỡng quân, tích trữ tiếp liệu và cứ
địa an toàn mỗi khi bị lực lượng ta truy kích đã không còn nơi nào
gọi là an toàn. Cũng trong ngày 6/5/1970, TÐ6ND do Trung tá Trương
Vĩnh Phước làm Tiểu Đoàn Trưởng được thả vào vị trí phía Đông Bắc
của căn cứ East I (TÐ3ND). TĐ6ND đã tung các Đại Đội tảo thanh quanh
vị trí đóng quân của Tiểu đoàn và đã khám phá một hầm vũ khí toàn
súng CKC còn mới nguyên trong bọc nhựa, cùng nhiều loại vũ khí khác
và thuốc men. 4 chiếc trực thăng H34 chở liên tiếp mấy ngày chưa
hết.
Do tin tức từ các trinh sát cơ và các Biệt kích quân
cung cấp, Lữ Đoàn II KBKV đã điều động Tiểu Ðoàn 5/7 do Trung tá M.
Edmunds làm Tiểu Đoàn Trưởng đến thiết lập CCHL Brown cách biên giới
Miên-Việt 3km về phía Bắc và cách Tỉnh lộ 14A 2km về phía Tây. Đồng
thời Tiểu Ðoàn 2/12 của Trung tá F. Lanni cũng được trực thăng vận
đổ xuống phía Bắc CCHL Brown 10km, lục soát mở rộng vòng đai an ninh
và thiết lập CCHL Myron.
Ngày 8/5/1970 TÐ2/7 chạm địch cấp
đại đội, giao tranh kéo dài nhiều giờ, Tiểu Ðoàn phải gởi thêm Trung
Đội Trinh Sát và Đại Đội C đến tăng viện. Ngày hôm sau 9/5/1970 lực
lượng hành quân LĐ2KBKV khám phá ra một căn cứ hậu cần to lớn của
CSBV và đặt tên là Rock Island. Khác với những căn cứ hậu cần khác,
ở đây quân trang quân dụng còn đang nằm trong các kiện hàng lộ
thiên, chỉ che đậy bằng những tấm vải nhựa plastic. Tổng số vũ khí
tịch thu được lên đến 329 tấn gồm 932 vũ khí cá nhân, 85 vũ khí cộng
đồng, 469 hỏa tiễn 122ly, 4002 đạn B-40, 20886 đạn súng cối, (có
khoảng 1,000 viên đạn đại bác 85ly/D44 chưa xuất hiện trên chiến
trường trước đây) 1734 lựu đạn, hơn 7 triệu đạn súng nhỏ, 3 xe vận
tải và 2 xe chỉ huy.
Ngày 13/5/1970 Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù di
chuyển lên hướng Đông Bắc để thiết lập CCHL East II và bàn giao CC
East I lại cho Tiểu Đoàn 8/LĐIND.
Trong lúc đó, Tiểu Đoàn 9ND
được lệnh tung hai Đại Đội 92 của Trung úy Trương Văn Dũng và Đại
Đội 93 của Trung úy Đào Đức Bảo về phía Tây của CCHL, dưới sự chỉ
huy của Thiếu tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu đoàn Phó, để truy lùng vị trí
của Cục R theo các báo cáo của các Trinh sát cơ Hoa Kỳ.
Một
giờ trưa ngày hôm sau, Các Đại Đội 92 và 93 sẵn sàng tại bãi bốc,
từng đoàn trực thăng đáp xuống bốc các chiến sĩ Nhảy Dù đổ xuống mục
tiêu là một trảng trống ở bìa rừng nằm về phía Tây của Bộ Chỉ Huy
Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù. Nhưng Đoàn trực thăng của Mỹ đã vô tình hay cố
ý đã thả Đại Đội 93 của Trung úy Đào Đức Bảo cách xa mục tiêu được
ấn định đến 2km. Ngay khi đó đủ loại súng của địch quân đã khai hỏa
nhắm vào các chiến sĩ Nhảy Dù vừa đáp xuống chưa kịp chuẩn bị như
những bia thịt sống khi các trực thăng chuyển quân vừa cất cánh bay
cao. Tức khắc, các “Thiên Thần sát địch” đã phản ứng nhanh chóng
xung phong vào ngay mục tiêu là những họng súng địch quân vừa khai
hỏa. Sau đó cả đơn vị tạt qua phía bìa rừng bên trái vì hỏa lực tàn
bạo của địch quá đông. Hai phi tuần phản lực đã được gọi đến để hỏa
diệt mục tiêu bằng bom napalm.
Sau những hồi vang rền của bom
đạn oanh kích từ phi cơ, Các Trung Đội dàn hàng ngang áp sát vào bìa
rừng xung phong. Các chiến sĩ Nhảy Dù phải bám sát theo từng mô đất,
từng thân cây rừng men dần tới mục tiêu theo thế gọng kềm của 3
Trung đội đi trước. Sau 20 phút giao tranh dữ dội, cộng quân chống
trả yếu dần rồi im hẳn tiếng súng. Xác địch quân ngổn ngang nằm vắt
trên miệng hầm hay rải rác đó đây, nhiều xác bị tím bầm hay bị cháy
đen vì bom xăng đặc. Về phía Đại Đội 93 có 2 binh sĩ bị tử thương.
Sáng hôm sau, Đại Đội 93 được trực thăng bốc thả về phía mục
tiêu đã được ấn định lúc ban đầu. Vừa đáp xuống bãi đáp cộng quân
bắt đầu khai hỏa, cả Đại Đội 93 dàn đội hình hàng ngang tấn công về
phía địch quân, trong khi Đại Đội 92 của Trung úy Trương Văn Dũng
cũng đánh thúc xuống kẹp địch quân vào giữa. Giao tranh đến 6.00 giờ
chiều, cộng quân bỏ chạy hai Đại Đội 92 và 93 bắt tay được với nhau.
Sang ngày thứ ba, hai Đại Đội 92 và 93 tung quân lục soát từ hai
hướng. Đường vào cục R thật là hung hiểm, các chiến sĩ Nhảy Dù lầm
lũi tiến bước, ngày nhổ chốt để tiến lên, đêm ngủ dật dờ thiếu giấc,
chốt địch giăng mắc như mạng nhện.
Một buổi sáng sớm, Đại Đội
93 trực chỉ về hướng mục tiêu, đang ngon trớn đổ dốc về đường thông
thủy để các anh em binh sĩ chuẩn bị lấy nước. Bỗng nhiên từ phía bên
kia bờ suối vang rền tiếng súng. Cộng quân đồng loạt khai hỏa bằng
đủ loại vũ khi. Trung úy Đào Đức Bảo nhanh chóng điều động đơn vị
phản công giữ chặt tuyến phòng ngự. Các súng liên thanh của địch bắn
dọc hai bên trái, phải của Đại Đội, hình như muốn cầm chân vây bọc
đơn vị Nhảy Dù vào giữa trận địa.
Một số chiến sĩ Nhảy Dù đã bị
ngã gục, Trung úy Bảo biết rằng đã vào đúng ổ Cục R của địch bèn ra
lệnh cho 4 trung đội tháo lui trở lại lối cũ phòng thủ, đồng thời
báo cáo về Tiểu Đoàn tình hình hiện tại và gọi pháo binh tác xạ hiệu
quả lên mục tiêu. Sau hàng loạt đạn pháo tới tấp của Trung úy Nguyễn
Kim Việt, hai phi tuần Phantom của Hoa Kỳ luân phiên trợ chiến trút
bom đạn lên đầu địch quân.
Vừa dứt phi tuần oanh tạc, Đại Đội
dàn đội hình xung phong chiếm lại vị trí cũ sát bờ suối, khi còn
chừng 20 thước cách bờ nước, địch quân lại khai hỏa dữ dội. Cánh
quân đi đầu phải nép người sát xuống đất để tránh đạn. Đến 4.00 giờ
chiều, các Trung đội lần lượt chiếm lại vị trí cũ. Trung úy Bảo ra
lệnh các Trung đội chuẩn bị hầm hố cố thủ và không được lùi bước.
Tại căn cứ hậu cần của CS Rock Island, do khối lượng vũ khí tịch
thu được quá lớn, không thể chuyên chở kịp thời nên được lệnh phá
hủy. Chiều ngày 16/5 một tiếng nổ kinh hồn với cột khói bốc cao ngút
trời ở xa 15km còn trông thấy, do sự phá hủy các chiến lợi phẩm gây
nên.
Ngày 23/5/1970 TÐ5/7 KBKV trong khi tảo thanh khu đồi
428 (hay đồi Shakey) đã khám phá được một hậu cần khác của CS với 59
hầm chứa vũ khí đạn dược. Các vũ khí này được chuyển giao cho quân
đội Khmer.
Ngày 19/6/1970 Trung đoàn 11 KBTG được lệnh lui binh.
Tổng kết Chiến dịch Bình Tây: từ 1/5/1970 đến 30/6/1970
1. U.S.: 338 chết; 1,525 bị thương; 13 mất tích
2. Việt Nam
CH: 538 chết; 3,009 bị thương
3. CSBV/VC: 11,349 chết; 2,328 tù
binh
4. 600 tấn lương thực, vật liệu đã bị bắt giữ và tiêu
hủy: 22,892 vũ khí cá nhân, 2,509 vũ khí cộng đồng, 15 triệu viên
đạn súng nhỏ, 199,552 viên đạn phòng không, 143,000 viên đạn của tên
lửa, súng cối và đạn súng trường không giật, 62,022 lựu đạn, 5,482
mỏ đất, 41 tấn thuốc nổ, 55 tấn vật tư y tế, 435 xe cơ giới, 7,000
tấn gạo.
Trung tướng Dư Quốc Đống Tư
lệnh SĐND,
Đại tá Lê Quang Lưỡng LĐT/LĐIND và Bộ Tham Mưu tại
chiến trường Kampuchea
Tài Liệu Tham Khảo:
- Phỏng vấn các chiến hữu trong SĐND
- 1970 Cambodian
Incursion- Parrot's Beak and Fishhook from Wikipedia
- Like
Rolling Thunder: The Air War in Vietnam, 1964-1975 By Ronald
Bruce Frankum
- Trận Phum-Long-Giêng của TĐ7ND của Trung tá
Lê Minh Ngọc LĐT/LĐ4ND
- Khoảng Tối Nhìn lên, của Đào Đức Bảo
Tác giả xuất bản tại San Diego 2003
- Tình nghĩa anh em-một
đời Mũ Đỏ của Đoàn Phương Hải, vantuyen.net
- TĐ3ND tham
chiến trong cuộc hành quân ngoại biên Toàn Thắng 43 của Đại tá
Lê Văn Phát Lữ Đoàn Trưởng LĐIIIND hiện đang cư ngụ tại Orange
County
- Đại tướng Đỗ Cao Trí Và Mặt Trận Ngoại Biên của
Vương Hồng Anh
- Hình ảnh của Trung tá Lê Minh Ngọc và của Lê
Quang Đức.
Bảng hướng dẫn đến các chương (bấm vào các con số sẽ đi thẳng đến chương đó):
01
|
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 |
21 |
22
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37 |
38 |
39 |
40 |
41 |
42 |
43 |
44
Mục lục
Trích và cập nhật từ quyển “20 Năm
Chiến Sự” - Binh chủng Nhảy Dù
Tác giả:
Đại úy Võ Trung Tín Tiểu đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202
Đại úy Nguyễn Hữu Viên Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù – 714-897-1435
1246 S. Huron Dr. Santa Ana CA 92704
Email:
20namchiensu@gmail.com
Tổng Phát Hành: Mr. Hải Võ
1246 S. Huron Dr. Santa Ana CA
92704
Tel: 714-856-9202. Email: 20namchiensu@gmail.com
Giá
quyển sách:
$40.00USD
(Ngoài Hoa Kỳ:
$50.00USD)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by Võ Trung Tín chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, July 29, 2016
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang