Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Lịch sử
Lời giới thiệu:
Nhân dịp Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH tổ chức Hội ngộ Binh chủng thường
niên vào tháng 7/2015 tại Thủ đô Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, Ban Kỹ
Thuật xin được hân hạnh giới thiệu với
Quý Độc giả và Quý ACE cựu quân nhân SĐND về trang điện tử mới được
thành lập “Trang
Nhảy Dù Washington, D.C. [GĐMĐVN Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận]”
Cũng nhân dịp
này, BKT xin được hân hạnh giới thiệu bộ sách “Binh chủng Nhảy Dù –
20 năm chiến sự” do các tác giả Đại úy Võ Trung Tín và Đại úy Nguyễn
Hữu Viên thực hiện. Đây là bộ sách nói về Chiến sử của Sư Đoàn Nhảy
Dù Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ ngày thành lập. Bộ sách gồm 3 phần,
kính mời Quý vị theo dõi phần Mục lục bên dưới. Trân trọng. --BKT.
****** ||| ******
MỤC LỤC
B. PHẦN B - CHIẾN SỰ
1.
Trận Điện Biên Phủ (13-3-1954 đến
7-5-1954)
2.
Tình Hình Việt Nam Sau Hiệp Định Geneve
3. Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng (23-5-1955 đến 6-12-1955)
4.
Chiến
Dịch Hoàng Diệu (từ 21/9 đến 24-10-1955)
5.
Chiến Dịch Nguyễn Huệ
(từ 1-1- đến 17-2-1956)
6.
Binh Biến ngày 11-11-1960
7.
Trận
Phước Thành (18 - 19-9-1961)
8.
Trận Ấp Bắc (2 - 3-1-1963)
9.
Trận Tân Châu Hồng Ngự (2 đến 4-3-1964)
10.
Trận Bình Giả
(3-12-1964 - 3-1-1965)
11.
Trận Hắc Dịch (9/2 đến 10-2-1965)
12. Trận Ba Gia (28-5-1965 đến 2-6-1965)
13.
Trận Đồng Xoài (9
đến 20-6-1965)
14.
Trận Đức Cơ (4-8-1965 - 15-8-1965)
15.
Chiến dịch Ia Drang - Thần Phong 7 (14 - 18-11- 1965)
16.
Hành
Quân Thần Phong 11 (28/1 – 6-3-1966)
17.
Đại Bàng 800
(12-11-1966)
18.
Hành Quân Liên Kết 81 (16/2 đến 22-2-1967)
19. Lam Sơn 54–Khu Phi Quân Sự (18-27-5-1967)
20.
Trận Dak To
(đồi 1416) (3 – 22-11-1967)
21.
Tổng Công Kích Năm Mậu Thân (từ
ngày 29-1-1968)
22.
Mặt Trận Sài Gòn (30-1-1968)
23.
Mặt Trận
Quảng Trị (30-1-1968)
24.
Mặt Trận Huế (30-1-1968)
25. Mặt Trận Khe Sanh (1 - 15-4-1968)
26.
Mặt Trận Ashau (19/4 –
17-5-1968)
27.
Trận Mậu Thân đợt hai (từ ngày 5-5-1968)
28.
Trận Gò Nổi (Tây Ninh) (19-5-1969)
29.
Chiến Dịch Bình Tây (Từ
ngày 27-3-1970)
30.
Hành Quân Toàn Thắng 42 (29/4 – 22-7-1970)
31. Hành Quân Toàn Thắng 43 (1/5– 30-6-1970)
32.
Hành Quân Toàn
Thắng 45 (6/5 – 30-6-1970)
33. Hành Quân Lam Sơn 719 (8/2 đến 6-4-1971)
34.
Trận đánh Căn Cứ
Hỏa Lực 6 (4/4 đến 17-4-1971)
35.
Trận đánh Căn Cứ Hỏa Lực 5
(24/5 - 19-6-1971)
36.
Mùa Hè Đỏ Lửa
37.
Mặt Trận Tây Nguyên
(17/3 - 28-5-1972)
38.
Mặt Trận Bình Long (2/4 - 8-6-1972)
39.
Mặt Trận Quảng Trị (30/3 - 15-9-1972)
40.
Trận Thường Đức (18/8 -
8-11-1974)
41.
Trận Ban Mê Thuột (10/3 - 16-3-1975)
42.
Trận
Khánh Dương (19/3 - 1-4-1975)
43.
Trận Phan Rang (1/4 -
17-4-1975)
44.
Trận Long Khánh (9/4 – 21 -4-1975)
C. PHẦN C: CÁC VỊ TƯ LỆNH SĐND
TIỂU SỬ CÁC TÁC GIẢ
(Võ Trung Tín & Nguyễn
Hữu Viên)
******22******
22. Mặt Trận Sài Gòn (30-1-1968)
Tổng công kích Tết Mậu Thân - 68
Mặt Trận Sài Gòn
(từ ngày 30-1-1968...)
Địa danh Sài Gòn: Địa danh Sài
Gòn tồn tại trên nhiều thế kỷ, khoảng trên 300 năm, trước đó Sài Gòn
có nhiều tên khác nữa. Năm 1698
Sài
Gòn có tên là Huyện Tân Bình, lúc này chỉ khoảng 5,000km², phía Tây
là sông Sài Gòn. Vào thời kỳ cổ đại, Sài Gòn thuộc đế quốc Phù Nam.
Đầu thế kỷ 17 vùng đất này, lúc đó là một làng nhỏ, dân cư thưa thớt
và mang tên Prei Nokor, nằm trong khu vực tranh chấp giữa Chân Lạp
và Chiêm Thành.
Năm 1623, Chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu
cầu vua Chey Chettha II (Năm 1620 cưới Công Chúa Ngọc Vạn của Chúa
Nguyễn) cho lập đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei
(Bến Nghé). Đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhưng cũng là địa điểm
qua lại và nghỉ ngơi của thương nhân Việt Nam đi Campuchia và Xiêm
La. Cùng khi đó, người Việt bắt đầu tập trung sinh sống tại xung
quanh hai đồn này. Chẳng bao lâu, hai đồn thu thuế trở thành trung
tâm thị tứ công nghiệp và thương nghiệp sầm uất.
Năm 1698,
chúa Nguyễn cử Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam, thiết lập chính
quyền, các đơn vị hành chánh, chia đặt tỉnh lỵ, v.v. Nguyễn Hữu Cảnh
lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long và xứ Sài Gòn làm huyện Tân
Bình, đặt ra hai dinh Trấn Biên (Biên Hòa) và Phiên Trấn (Gia Định),
(“Trấn” là khu vực quân sự, chưa ổn định việc cai trị). Từ đó, xứ
Sài Gòn trở thành huyện Tân Bình, huyện sở đặt ở làng Tân Khai.
Những xóm làng đầu tiên của Sài Gòn là xóm Hòa Mỹ (gần đường Cường
Để) xóm Tân Khai (đường mé sông khoảng cầu Mống), xóm Long Điền, xóm
Than, xóm Bàu Sen (cây Mai), xóm Phú Giáo, xóm Lò Bún, xóm cây Củi,
xóm Rẫy Cải, xóm Ụ Ghe. Sài Gòn trở thành một thị trấn đông đúc với
hơn một vạn dân và Minh Hương là xã đầu tiên của người Hoa tại Tân
Bình.
Năm 1790, Sài Gòn được nâng lên thành Kinh Gia Định,
nơi đóng đô của Nguyễn Ánh chống quân Tây Sơn. Vào năm 1802, dưới
triều vua Gia Long, Gia Định Kinh được đổi thành Thành Gia Định (vì
kinh đô là Huế), thuộc Trấn Gia Định. Sau cuộc khởi nghĩa của Lê Văn
Khôi, thành Gia Định bị phá hủy, một thành mới nhỏ hơn gọi là thành
Phụng được xây dựng. Thành này không chống nổi cuộc vây hãm của quân
Pháp vài năm sau đó.
Vào năm 1859 sau khi chiếm được Sài Gòn,
người Pháp đã gấp rút quy hoạch xây dựng Sài Gòn thành một đô thị
lớn. Ngày 11 tháng 4 năm 1861, Phó Đô đốc Charner ra nghị định xác
định địa giới Sài Gòn lúc đó: phía đông là sông Sài Gòn, phía bắc là
rạch Thị Nghè, phía nam là rạch Bến Nghé, phía tây từ chùa Cây Mai
đến đồn Kỳ Hòa, diện tích 25km².
Từ năm 1954 sau Hiệp định
Genève, Sài Gòn chính thức là Thủ Đô của Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 22
tháng 10 năm 1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh số 143-NV
đổi “Đô thành Sài Gòn-Chợ Lớn” thành “Đô thành Sài Gòn” và chia
thành 8 quận hành chính (được đánh số: Quận 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8),
dưới quận là phường (có 54 phường), dưới phường là khóm. Đầu năm
1967 hai xã An Khánh và Thủ Thiêm của quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định kế
cận, được sáp nhập vào Đô thành Sài Gòn lập nên Quận 9. Tháng 7 năm
1969 thành lập Quận 10, Quận 11 trên cơ sở tách một phần Quận 5 và
Quận 6. Lúc này thành phố có diện tích 71km² với dân số khoảng 2
triệu người.
Thành phố tiếp tục phát triển rực rỡ và được
mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông” (The Pearl of the Far East) hay
“Paris Viễn Đông” (Paris de l'Extrême-Orient), với một hạ tầng cơ sở
được xây dựng khá hoàn chỉnh.
Trong những ngày Tết Mậu Thân,
VC muốn gây tiếng vang trong dư luận, đặc biệt là trong dư luận Hoa
Kỳ nơi phong trào phản chiến đang lan rộng. Việt cộng muốn cho mọi
người thấy rằng ngay cả Dinh Ðộc Lập là biểu tượng quyền lực của
miền Nam cũng có thể bị chúng uy hiếp. Chính vì vậy mà ngay trong
đợt tấn công đầu, hai mục tiêu quan trọng nhất của chúng là Dinh Ðộc
Lập và Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ. VC tập trung nỗ lực vào các khu lao động
đông dân chúng. Ý đồ của chúng là tuyên truyền và khích động dân
chúng nổi dậy trong kế hoạch “tổng công kích, tổng khởi nghĩa”. Cộng
sản Hà Nội đã ra lệnh cho các cán bộ và cán binh Việt cộng tấn công
vào đô thị của VNCH phải thực hiện ba nhiệm vụ quan trọng sau đây:
a) phá hoại Hoa Kỳ về phương diện quân sự và chính trị,
b) phá hoại Việt Nam Cộng Hòa bằng cách làm tan rã quân đội và làm
cho quần chúng không tin tưởng ở chính quyền quốc gia,
c) đẩy
mạnh cuộc đấu tranh chính trị bằng cách xúi dục người dân nổi dậy
lật đổ chính phủ.
Kết quả là Việt cộng đã hoàn toàn thất bại,
trong khi đó họ đã phá hủy 50,000 căn nhà của dân, đem chết chóc đến
cho 14,000 đồng bào đủ cả già trẻ gái trai và “vô sản hóa” 70,000
người đa số là dân lao động. Ngoài ra điều dã man chưa từng thấy
trong lịch sử loài người là họ đã xua những lực lượng gồm 7 phần 10
con nít vào lò lửa chiến tranh và mở những cuộc pháo kích bừa bãi
vào những khu gia cư nghèo khó, đông đúc không có lấy một cơ quan
quân sự, để trả thù sự bất cộng tác của dân chúng.
Cộng sản
dám làm tất cả, dùng bất cứ phương tiện gì dù có tàn ác nhất nếu để
đạt đến mục tiêu, tức chiến thắng cho họ.
Lực lượng
tham chiến của CSBV
Cộng sản bắt đầu tấn công vào
Sài Gòn vào lúc 2.00 sáng ngày mồng 2 Tết. Việt cộng dùng lực lượng
đặc công F100 để tấn công vào các vị trí quan trọng. Trong khi đó
các đơn vị chủ lực từ các vùng ngoại ô tiến vào các khu đông dân cư
kêu gọi dân chúng nổi dậy. Các đơn vị cộng quân tấn công vào Sài Gòn
Chợ Lớn và Gia Định đặt dưới quyền điều động của BTL tiền phương
phía Bắc do Trần Văn Trà, Mai Chí Thọ và Lê Đức Anh chỉ huy và BTL
tiền phương phía Nam do Võ Văn Kiệt và Trần Bạch Đằng chỉ huy. Danh
hiệu của những đơn vị Việt cộng trực tiếp tham chiến với các mục
tiêu tấn kích được ghi nhận trong nội ô đô thành và ở vùng phụ cận
như sau:
1. Một Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 271 (thuộc Công
Trường 9) tăng cường cho TĐ56/U80 đánh vào TTHL Quang Trung và vùng
phụ cận
2. Các Tiểu Đoàn 267 và 269 phối hợp với thành phần
của Trung Đoàn 271 đánh vào phi trường Tân Sơn Nhất
3. Một
tiểu đoàn/Tr đoàn 273/CT 9 tấn công Chi Khu Thủ Đức
4. Tiểu
Đoàn 1 Củ Chi, được tăng cường một tiểu đoàn của Trung Đoàn 101
(thuộc Công Trường 7) và một thành phần của Tiểu Đoàn 2 Cơ Giới đánh
chiếm các căn cứ quân sự Gò Vấp
5. Tiểu Đoàn 2 Gò Môn phối
hợp với đội đặc công J1/F100 tấn công Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa (VNCH) ở cổng số 4
6. Tiểu Đoàn 3 Dĩ An, hay là
“3/165A” tấn công khu vực Hàng Xanh
7. Tiểu Đoàn 4 Thủ Đức,
hay là “4/165A” tấn công khu xa lộ Sài Gòn
8. Tiểu Đoàn 6
Bình Tân, hay “6/165A” tấn công vùng Phú Thọ-Bà Hạt
9. Tiểu
Đoàn 508 Long An tấn công vùng Bình Tây
10. Biệt Động Đội
F100 tấn công vào nhiều mục tiêu khác nhau, gồm đài phát thanh, cổng
số 5 ở Bộ Tổng Tham Mưu, Dinh Độc Lập, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, Tòa Đại
Sứ Hoa Kỳ, và Tòa Đại sứ Phi Luật Tân.
Các đơn vị VC tham chiến quanh Thủ đô Sài Gòn
Diễn Tiến:
6.00 giờ chiều ngày mồng 1
Tết (30/1/1968) Đô thành Sài gòn được lệnh báo động. Tiểu Ðoàn 1
Nhảy Dù được lệnh tăng phái khẩn cấp cho Biệt Khu Thủ Ðô một đại
đội để giữ an ninh. ÐÐ15ND do Ðại úy La Trịnh Tường chỉ huy được
chỉ định thi hành và đặt dưới quyền điều động của cục An Ninh
Quân Ðội.
Ðại Ðội 15ND chia đơn vị ra thành 3 toán, một
Trung Ðội trấn giữ tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ ở đường Hồng Thập Tự, một
Trung Ðội giữ an ninh vòng đai cục An Ninh Quân Ðội ở đường Mạc
Đĩnh Chi và một Trung Ðội trấn giữ trên lầu đài Phát Thanh Sài
Gòn làm thành phần trừ bị cho một đơn vị Ðại Ðội Cảnh Sát Dã
chiến và chỉ đặt một chốt chặn có 4 binh sĩ trên đường Phan Ðình
Phùng phía trái đài phát thanh. Ðến nửa đêm, tình hình vẫn yên
tĩnh.
Trong khi đó TĐ8ND chuẩn bị lên đường ra Đà Nẵng để
hoán chuyển TĐ5ND về hậu cứ dưỡng quân và chỉnh trang đơn vị. Vì
vậy 2 Đại Đội/TĐ8ND đã sẵn sàng với trang bị đầy đủ lúc nửa đêm
có mặt tại bãi bốc Phi Trường Tân Sơn Nhất cạnh Trung Tâm Huấn
Luyện Nhảy Dù chờ lên phi cơ.
Ðến 1.00 giờ sáng, (ngày
31/1/1968) VC khởi đầu tấn công vào cổng gác Nguyễn Du của Dinh
Ðộc Lập bằng B-40 và hàng loạt AK-47. Cổng này nằm trên đường
Nguyễn Du ngay góc đường Thủ Khoa Huân. VC dự tính bắn sập vọng
gác này để vượt rào cản vào bên trong đặt chất nổ, toán Cảnh Sát
Chi Tao Ðàn liền nhào tới bắn trả đẩy chúng vào một cao ốc 5
tầng bỏ trống đang xây cất dở trên đường Thủ Khoa Huân và tiêu
diệt.
Sau đó lệnh báo động được ban hành, cấm tất cả mọi
xe cộ kể cả xe tuần tiểu xuất nhập vào các công thự quốc gia kể
cả đài phát thanh. Ðúng 2.55 giờ, một xe Quân cảnh Mỹ và một xe
Simca dân sự đến dừng lại trước cổng đài phát thanh và bất thần
tấn công toán gác cổng. 3 Binh sĩ Nhảy Dù tử thương ngay tức
khắc. Lực lượng Nhảy Dù phản ứng nhanh chóng, điều động toán ứng
trực trên nóc đài phát thanh và Trung Ðội tại cục ANQÐ phản công
quyết liệt (Toán CSDC canh gác đã lặn mất). Sau 2 giờ quần thảo,
Trung Ðội Nhảy Dù đã tiêu diệt 14 tên VC dự định đột nhập đài
phát thanh để phát đi lời kêu gọi dân chúng hưởng ứng nổi dậy.
Xác cộng quân bị hạ ngay trận đầu tiên tại đầu phi đạo Tân Sơn Nhất
Vào khoảng 3 giờ 45 rạng ngày mồng 2 Tết, Đại Đội 1 của Tiểu
Đoàn 269 Việt cộng xung phong vào Phi đạo Tân Sơn Nhất, tiền đồn
OF 50-51 và OF 49-50. Bị phản công mạnh, Việt cộng bèn cắt hàng
rào mở một đường nhỏ xuyên qua bãi mìn để đánh xuyên hông cố gấp
rút thanh toán hai tiền đồn này. Sau khi nhổ xong hai tiền đồn
này, Việt cộng bắt đầu dàn hàng ngang và di chuyển qua một bãi
trống ở cuối phi đạo. Tại đây Việt cộng nhìn thấy rõ ràng một
bãi đậu phi cơ đủ loại ở cách đó chừng 600m. Lúc đó là 5 giờ 20
sáng.
Giữa lúc đó, hai chiến xa M-8 của lực lượng phòng
thủ xuất hiện bắn cản đường. Hai Đại Đội/TĐ8ND (chờ lên phi cơ
để không vận ra Đà Nẵng) được lệnh tăng phái trợ chiến cho BTL
Không Đoàn 33 bảo vệ phi trường. Loạt súng phản công đầu tiên đã
chận đứng toán Việt cộng khi họ chỉ còn cách phi đạo khoảng
400m. Những cán binh Việt cộng hốt hoảng tìm chỗ ẩn nấp và bố
trí nhưng không kiếm được một điểm tựa nào trong cánh đồng cỏ
hoang này. Hai chiến xa M-8 dần dần tẻ qua hai bên rồi bắn chéo
cạnh xe để nhường chính diện cho đơn vị Nhảy Dù phản công. Quân
Việt cộng đột nhiên bị dồn vào một vị thế bất lợi. Họ tháo lui
và chạy vào cố thủ trong các tiền đồn đã chiếm được.
Khoảng 8.00 giờ sáng, một đoàn thiết vận xa của Hoa Kỳ từ Củ Chi
về Sài Gòn di chuyển ngang qua phía đầu phi đạo, bị Việt cộng
bắn chận làm cháy hai chiếc. Các thiết vận xa đã phản công bắn
đại bác ngay vào đồn OF 50-51 khiến Việt cộng phải rời khỏi khu
vực phòng thủ và rút vào khu vực hãng dệt Vinatexco, sau đó lực
lượng Nhảy Dù đã xung phong và chiếm lại các tiền đồn OF và bao
vây cộng quân trốn vào hãng dệt. Trong trận này có 162 Việt cộng
bỏ thây. Một xe ủi đất đã được đem đến để đào một hố rộng để
chôn họ.
Sáng mồng 2 Tết, các đơn vị Việt cộng mưu toan
đánh úp các cơ quan đầu não của Việt Nam Cộng Hòa đã không thành
công trong đêm trước. Việt cộng không đánh vào bất cứ một cơ
quan nào của Hoa Kỳ. Và với các cánh quân nói trên, họ hy vọng ở
sự tiếp tay nổi dậy của dân chúng, cố gắng lan tràn vào các khu
đông dân cư. Dân chúng thấy Việt cộng đến đâu, đều lũ lượt dắt
díu nhau lánh cư vào trong thành phố. Ngay trong đêm mồng 2, lực
lượng phản công của chính phủ được tung ra. Trong khi đó Tiểu
Đoàn 8 Nhảy Dù chia quân làm hai cánh. Cánh thứ nhất gồm hai đại
đội được phái tới giải tỏa cổng số 4 của Bộ Tổng Tham Mưu. Nhưng
suốt ngày vẫn không giải quyết xong vì Việt cộng núp trong khu
nhà bằng gạch của Trường Sinh Ngữ Quân Đội và bắn ra dữ dội.
Cánh thứ hai với hai đại đội còn lại bảo vệ đầu phi đạo Tân Sơn
Nhất ở Bà Quẹo và ngăn chận cộng quân xâm nhập khu hãng dệt
Vinatexco. Vào buổi trưa, toàn bộ Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù từ Vũng
Tàu được đưa về phi trường Tân Sơn Nhất chờ lệnh. Liên Đoàn 5
Biệt Động Quân (BĐQ) với bốn tiểu đoàn (Tiểu Đoàn 30, 33, 34 và
38) đang trấn đóng vòng quanh khu bán nguyệt từ Thủ Đức, Nhà Bè,
Bình Chánh đến Hốc Môn. Đêm hôm đó, Liên Đoàn 5 nhận được lệnh
gửi ngay hai tiểu đoàn Biệt Động Quân về giải cứu thủ đô. Tiểu
Đoàn 30 và 38 Biệt Động Quân lập tức đã tiến vào thành phố trước
khi trời sáng. Tiểu Đoàn 30 Biệt Động Quân đến khu vực Hàng Xanh
Xa Lộ lúc 4 giờ sáng ngày mồng 2 Tết. Tại đây, các binh sĩ Mũ
Nâu này đã chạm súng dữ dội với Việt cộng. Trong khi đó Tiểu
Đoàn 38 Biệt Động Quân xuất phát từ Nhà Bè vào 4 giờ sáng mồng 2
Tết đến giải tỏa khu Phú Thọ, Trần Quốc Toản. Vào buổi chiều,
đài phát thanh loan tin chiến sự tại khu Hàng Xanh cho biết quân
đội Việt Nam Cộng Hòa đã cầm chân một đơn vị VC. Một tin khác
được loan đi vào hồi 17 giờ 00 yêu cầu dân chúng Bà Quẹo tránh
xa khỏi hãng dệt Vinatexco, nơi Việt cộng đã bị TĐ8ND bao vây và
dồn chúng vào khu vực này, quân đội sẽ oanh tạc vào đúng 18 giờ
00. Loa phóng thanh cũng kêu gọi toàn bộ lực lượng Việt cộng
trong khu vực này ra đầu hàng. Hãng dệt Vinatexco sau đó đã bị
oanh tạc thiêu rụi vào giờ ấn định trên. Quyết định oanh tạc
được ban ra vì sợ Việt cộng lợi dụng đêm tối sắp đến để tăng
cường thêm quân đánh vào phi trường Tân Sơn Nhất.
Sáng
mồng 3 Tết (1/2/1968), tám tiểu đoàn tổng trừ bị đã có mặt tại
đô thành. Các lực lượng này được phối trí để mở các cuộc phản
kích như sau:
- Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù bảo vệ đài phát thanh
và làm lực lượng trừ bị
- Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến
trách nhiệm giải tỏa cổng xe lửa số 2 (Gia Định)
- Tiểu Đoàn
4 Thủy Quân Lục Chiến được điều động giải tỏa trại Cổ Loa và Phù
Đổng
- Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến chận đường rút lui của
Việt cộng tại trại Cổ Loa
- Tiểu Đoàn 30 Biệt Động Quân giải
tỏa khu Hàng Xanh Xa Lộ
- Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân giải
tỏa khu Phú Thọ, Bà Hạt
- Tiểu Đoàn 6 và 8 Nhảy Dù giải tỏa
cổng số 4 trại Trần Hưng Đạo.
Các mũi tấn công của các đơn vị cộng quân quanh Sài Gòn
Cánh quân thứ hai của Việt cộng mãi tới 7 giờ 05 sáng ngày mồng
2 Tết mới bắt đầu đánh vào cổng số 4 Bộ Tổng Tham Mưu. Việt cộng
lọt được vào cổng nhưng chỉ bám vào khu trường Sinh Ngữ Quân Đội
không tiến sâu vào trong được. Đến 09 giờ 00, 2 ĐĐ/TĐ8 Nhảy Dù
đến tăng cường Bộ Tổng Tham Mưu. Lực lượng này với một vài thiết
giáp M-41 mở cuộc phản công ở cổng số 4. Việt cộng nằm trong các
công sự phòng thủ có sẵn, nấp theo các nhà cửa và từ các cao ốc
tại đường Võ Di Nguy nối dài bắn vào khiến các binh sĩ Việt Nam
Cộng Hòa không thể tiến được. Một chiến xa M-41 bị B-40 bắn
cháy, một số chiến sĩ Nhảy Dù bị thương. Cả ngày mồng 2 Việt
cộng bám giữ khu cổng số 4. Trước cuộc phản công, các phi cơ
trực thăng thay nhau xạ kích khu hành chánh của Đại Đội Tổng
Hành Dinh, khu trường Sinh Ngữ Quân Đội, khu trường Tổng Quản
Trị. Kế đó các đơn vị Nhảy Dù theo hướng từ cổng số 3 và cổng số
2 tiến lên. Trước hỏa lực mạnh mẽ của Nhảy Dù từ 2 mặt dàn rộng
ra bắn vào, Việt cộng phải mở đường máu rút ra phía rào trốn vào
đường Võ Di Nguy. Cuộc hành quân này hoàn tất lúc 10 giờ sáng.
Việt cộng bỏ lại chiến địa 10 xác chết. Trong ngày này, lực
lượng Nhảy Dù đã hoàn tất nhiệm vụ giải tỏa cổng số 4 trại Trần
Hưng Đạo ngay trong buổi sáng. Trực thăng võ trang đã phải oanh
kích vào khu vực này gây thiệt hại về doanh trại cho Trường Sinh
Ngữ Quân Đội, Trường Tổng Quản Trị, Trung Tâm Huấn Cụ và Thính
Thị và một vài thiệt hại nhỏ cho các cơ sở khác kế cận. Cũng
trong ngày hôm đó, các tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến chiếm lại
được các trại Cổ Loa và Phù Đổng. Cả hai nơi này đều bị Việt
cộng trấn giữ từ hôm xảy ra các trận đánh.
Trong ngày
mồng 3 Tết, hoạt động của Việt cộng trên toàn quốc có phần suy
giảm tuy họ vẫn bám sát được vào một vài thành phố như Sài Gòn,
Huế, Ban Mê Thuột, Kontum, Mỹ Tho và Vĩnh Long. Còn tại các nơi,
các phần tử Việt cộng thất tán trong các khu dân cư và đang bị
tiêu diệt.
Ngày 5/2/1968 Chiến dịch Trần Hưng Đạo được
khai sinh do Đại tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa) đích thân điều khiển để cấp thời giải tỏa
thủ đô và thanh toán địch. Thiếu tướng Trần Thanh Phong (Tham
Mưu Trưởng Liên Quân) làm tham mưu trưởng chiến dịch. Chuẩn
tướng Cao Hảo Hớn là tham mưu phó. Chiến dịch Trần Hưng Đạo bao
gồm một địa bàn hoạt động gồm thủ đô cùng các vùng ven đô, và
cuộc hành quân đại quy mô này đã được chia làm sáu khu vực trách
nhiệm (đến ngày 9 tháng 2/1968 thêm một khu vực trách nhiệm khác
được giao cho lực lượng Hoa Kỳ phụ trách) và chiến dịch này được
chấm dứt vào ngày 17/2/1968.
1. Khu Vực Trách Nhiệm A do
Thiếu tướng Dư Quốc Đống (Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù) chỉ huy. Cuộc
hành quân tảo thanh Việt cộng tại Khu A do hai chiến đoàn Nhảy
Dù phụ trách. Đó là Chiến Đoàn II (với các Tiểu Đoàn 6 và 8) phụ
trách khu vực Bà Quẹo, Phú Thọ Hòa, Bà Điểm, và Tân Phú. Chiến
Đoàn III Nhảy Dù (với Tiểu Đoàn 1 và 3 Nhảy Dù) phụ trách khu
vực Cổ Loa, Xóm Mới, và Gò Vấp. Trong khi đó tại Bộ Chỉ Huy Khu
A có Tiểu Đoàn Pháo Binh Nhảy Dù và Chi Đoàn 2/10 Thiết vận xa
trấn đóng.
2. Khu Vực Trách Nhiệm B do Đại tá Yên (Tư
Lệnh Thủy Quân Lục Chiến) chỉ huy. Khu B thuộc vùng trách nhiệm
của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến gồm Chiến Đoàn “B”, Tiểu Đoàn
Pháo Binh (cũng trực thuộc Thủy Quân Lục Chiến) và Chi Đoàn 1/5
Chiến Xa phụ trách khu vực Gia Định, xa lộ, và Thủ Đức.
3. Khu Vực Trách Nhiệm C do Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan (Tổng
Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia) chỉ huy. Khu C tương đối yên tĩnh.
Trách nhiệm tảo thanh Việt cộng được trao cho các đơn vị Cảnh
Sát đô thành và Cảnh Sát Dã Chiến phụ trách. Cuộc hành quân tại
khu này bao gồm các quận hành chánh 1, 2, 3, 4 và 5.
4.
Khu Vực Trách Nhiệm D do Đại tá Trần Văn Hai (Chỉ Huy Trưởng
BCH/BĐQ) chỉ huy. Khu D thuộc vùng trách nhiệm của binh chủng
Biệt Động Quân, gồm Liên Đoàn 5 (với 4 tiểu đoàn) được phân chia
như sau: Tiểu Đoàn 33 phụ trách khu vực Bình Thới, Cầu Tre. Tiểu
Đoàn 38 phụ trách khu vực Minh Phụng. Tiểu Đoàn 41 phụ trách khu
vực Phú Định. Tiểu Đoàn 30 phụ trách khu vực Bình Đông. Các đơn
vị Biệt Động Quân này phải hoạt động trên địa bàn của các quận
hành chánh 6, 7 và 8. Ngoài các lực lượng trên, Bộ Chỉ Huy Khu D
còn có Chi Đoàn 5/1 Thiết Quân Vận, một đại đội Giang Thuyền
(hoạt động tại Quận 6) và một đại đội Trinh Sát của Biệt Động
Quân.
5. Khu Vực Trách Nhiệm E do Chuẩn tướng Ngô Dzu chỉ
huy. Khu E thuộc khu vực trách nhiệm của các quân nhân phục vụ
tại Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Các quân nhân
này ngoài nhiệm vụ tham mưu được tổ chức thành đội ngũ để phụ
trách phòng thủ trại Trần Hưng Đạo và bảo vệ các khu vực xung
quanh trại này. Ngoại trừ tiểu đoàn danh dự liên quân, Đại Đội 1
Quân Cảnh và các chi đội chiến xa M-41, thiết vận xa M-113 với
Chi Đội V-100 được tăng cường đều là những thành phần chiến đấu
đã có sẵn, tất cả các Phòng, Sở, Tổng cục ở trong trại Trần Hưng
Đạo đều phải tham gia vào tổ chức chiến đấu này.
6. Khu
Vực Trách Nhiệm F do lực lượng Hoa Kỳ phụ trách. Khu F thuộc
vùng trách nhiệm của lực lượng Hoa Kỳ gồm khu vực Nam kinh đô và
Tây Phú Thọ Hòa được tách ra khỏi Khu D kể từ ngày 9 tháng
2/1968. Trong khuôn khổ chiến dịch Trần Hưng Đạo còn có một lực
lượng Hoa Kỳ đóng quân ở vòng ngoài thủ đô.
Ngày 6/2/1968
tại Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, lực lượng Nhảy Dù cũng chạm súng lẻ
tẻ với Việt cộng. Trận đáng kể nhất đã xảy ra tại Xóm Mới, Gò
Vấp. Vào buổi trưa ngày 6 tháng 2/1968, Chiến Ðoàn 3 Nhảy Dù
chạm súng mạnh với một tiểu đoàn Việt cộng. Địa điểm xảy ra trận
đánh ở Trại Phù Đổng, 1km về phía Đông Bắc trại Cổ Loa. Ở đầu
trận đánh, Chiến Đoàn III Nhảy Dù đưa TĐ3ND và chi đội chiến xa
mới được tăng phái dẫn đầu tiến thẳng vào khu Xóm Mới, đến khu
Lạng Sơn và Xóm Dừa liền bị Việt cộng chận đánh bằng các loại
súng nặng như thượng liên, đại liên và B-40 khiến một thiết vận
xa M-113 bị bắn cháy và một chiến xa M-41 bị hư hại. Lúc này
trực thăng đến dùng rocket bắn yểm trợ, vì vậy quân đội chính
phủ lên tinh thần và ồ ạt tiến quân càng lúc càng bám sát đối
phương. Việt cộng vội vàng kéo cờ trắng đầu hàng, các binh sĩ
Nhảy Dù ngưng nổ súng để đón rước. Việt Cộng lợi dụng lúc quân
đội chính phủ không tiếp tục bắn, họ tháo chạy, nhưng vòng vây
quân đội đã xiết chặt. Kết quả trận đánh gồm 120 Việt cộng chết
với 35 vũ khí bị tịch thu, phía quân đội Việt Nam Cộng Hòa có 12
binh sĩ tử thương cùng 42 bị thương. Vào ngày kế tiếp, Tiểu Ðoàn
3 Nhảy Dù tiếp tục chạm địch mạnh tại vùng Thông Tây Hội phía
Tây Bắc trại Cổ Loa. Tại đây có 60 Việt cộng bị bắn hạ, 30 vũ
khí đủ loại bị tịch thu. Tại khu C, Việt cộng chận bắn Đại Ðội
114 Nhảy Dù tại góc đường Tổng Đốc Phương và Khổng Tử khi đơn vị
này đến tăng cường cho khu D nhưng chúng bị tiêu diệt ngay.
Ngày 10/2/1968, tại mặt trận đô thành Sài Gòn-Chợ Lớn, quân
đội Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục mở rộng các cuộc lục soát trong
nội thành và hành quân tảo thanh vùng ven đô. Các lực lượng cộng
sản Bắc Việt và Việt cộng lần lượt bị đẩy ra xa đô thành.
TĐ7ND tại mặt trận khu nghĩa địa Bảy Hiền
Theo một bản ước tính, lực lượng cộng sản tính từ trước ngày mở
cuộc tổng công kích 29 tháng 1/1968 được xác nhận vào khoảng
323,500 người. Số tổn thất của họ được ước lượng trong thời gian
TCK đến ngày 29/2/1968 là khoảng 45,000 người. Con số tổn thất
này được phân loại như sau:
• 18,600 chết: gồm cán binh
thuộc các đơn vị tác chiến
• 4,000 chết: gồm cán binh thuộc
các cơ quan hậu cần
• 12,400 chết: gồm các thành phần du kích
• 5,000 chết: gồm các thành phần cán bộ chính trị
• 5,000
chết: gồm các thành phần phụ lực khác.
Như thế, chỉ trong
vòng một tháng chiến đấu, có 45,000 quân cộng sản đã bị tiêu
diệt trong các cuộc phản công của các lực lượng Việt Nam Cộng
Hòa và Hoa Kỳ. Trừ số tổn thất từ ngày tổng công kích, quân số
còn lại của VC tính cho đến ngày 29/2/1968 là: 110,600 cán binh
tác chiến, 33,700 cán bộ tham mưu và chỉ huy hậu cần, 62,200
quân du kích (riêng rẽ) 79,000 cán bộ chính trị.
Ngày
11/3/1968 Cuộc hành quân “Quyết Thắng” gồm khoảng 50,000 binh sĩ
thuộc các đơn vị của 6 sư đoàn và 2 chiến đoàn Tổng trừ bị đã
tham dự tại năm tỉnh quanh thủ đô: Gia Định, Long An, Biên Hòa,
Bình Dương và Hậu Nghĩa. Phía Việt Nam Cộng Hòa,có các đơn vị
thuộc Sư Đoàn 5 và Sư Đoàn 25 Bộ Binh, một chiến đoàn Nhảy Dù,
một chiến đoàn Thủy Quân Lục Chiến, một đơn vị Biệt Động Quân và
một số Cảnh Sát. Về phía Hoa Kỳ có các đơn vị thuộc Sư Đoàn 9 và
Sư Đoàn 25. Kết quả của chiến dịch này không thu hoạch như mong
muốn vì chủ lực của Việt cộng đã lẩn trốn để tránh né các cuộc
chạm súng. Các tin tức tình báo thu lượm được trong cuộc hành
quân này cho biết phía CS đang chuẩn bị phát động một cuộc tấn
công mới vào QLVNCH quanh Sài Gòn Gia Định.
Tài liệu tham khảo:
1. Trận chiến Tết Mậu Thân 1968 của Phạm Văn Sơn trên trang
nhà History of the Viet Nam War
2. Chiến tranh Việt Nam toàn
tập của Nguyễn Đức Phương, nhà xuất bản Làng Văn 2001
3.
Khoảng tối nhìn lên, bút ký chiến trường của Đào Đức Bảo. Tác
giả xb 1999
4. Mậu Thân tại Quận Nhì Sài Gòn của Trần Minh
Công trên Người Việt Monday, February 04, 2008
5. Phỏng vấn
trực tiếp các chiến hữu trong SĐND.
Bảng hướng dẫn đến các chương (bấm vào các con số sẽ đi thẳng đến chương đó):
01
|
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 |
21 |
22
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37 |
38 |
39 |
40 |
41 |
42 |
43 |
44
Mục lục
******23******
23. Mặt Trận Quảng Trị (30-1-1968)
Tổng công kích Tết Mậu Thân - 68
Mặt Trận Quảng Trị
(từ 30-1-1968...)
Nhân dịp hưu chiến Tết Mậu Thân,
Chiến Đoàn I ND do Trung tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy được dừng quân
nghỉ ngơi. TĐ2ND và
TĐ7ND
đóng tại An Lỗ và Quảng Điền phía Bắc Huế, TÐ5ND được đưa về Đà Nẵng
và TĐ9ND do Thiếu tá Nguyễn Thế Nhã làm Tiểu Đoàn Trưởng được đưa ra
bố trí xung quanh thị trấn Quảng Trị. ĐĐ92 bảo vệ tuyến Đông Nam
thành phố, ĐĐ94 bảo vệ làng Tri Bưu, ĐĐ93 đóng dọc theo bờ sông
Thạch Hãn và ĐĐ91 đóng chung với BCH Tiểu Đoàn tại Cầu Quảng Trị.
Ngày 30 Tết Chiến Đoàn Trưởng Lê Quang Lưỡng mật lệnh cho các
đơn vị trưởng Nhảy Dù sẵn sàng chiến đấu vì VC sẽ tổng tấn công bất
chấp lệnh hưu chiến. Các đơn vị Nhảy Dù chuẩn bị hầm hố cá nhân, sẵn
sàng chiến đấu, trong khi các đơn vị Bộ Binh, Địa Phương Quân và
Nghĩa Quân trốn về nhà ăn Tết gần hết.
Ngày 30/1/1968 lúc
4.20 giờ sáng rạng mồng 2 Tết, trong lúc mọi ngươi còn đang say ngủ
vì tối qua chè chén dã chiến trong ba ngày xuân nên có phần mệt mỏi,
thì CSBV tung 2 Trung Đoàn 812 và Trung Đoàn 814 đồng loạt khai hỏa
khoảng 200 quả đạn đại pháo tấn công vào thành phố Quảng Trị tại
khắp mọi nơi.
Sau đó Tiểu đoàn K4/812 chia làm 2 mũi tấn công
vào mặt hướng Đông thành phố, tấn chiếm tường thành phía trái và
làng Tri Bưu, Các cán binh VC khi tấn công vào đây đã ngụy trang
bằng áo quần của lính Nhảy Dù nhưng đi dép râu. Từ một tuần trước,
CSBV đã cho một đơn vị đặc công, mặc thường phục trà trộn với giáo
dân để điều nghiên vị trí, địa thế và sinh hoạt trong khu vực xóm
đạo mà mọi người trong giáo xứ không ngờ được. Đến khi Đại Đội 94ND
đến đóng quân tại một khu trong giáo xứ, cộng quân đã chú ý đến các
cấp chỉ huy của ĐĐ94 nên khi tiếng súng nổ đầu tiên thì tất cả các
sĩ quan chỉ huy đều bị bất ngờ tấn công trước nên không kịp phản
ứng.
Đại Đội 94ND đóng quân quanh nhà thờ Tri Bưu đã bị cộng
quân tấn công tràn ngập, Đại úy Thừa ĐĐT, Cố vấn Mỹ Trung sĩ John
Churck, và các Trung úy Lê Phát Lộc, Nguyễn Văn Hổ cùng 36 binh sĩ
bị hy sinh ngay từ những giờ phút giao tranh đầu tiên. Chuẩn úy Trần
Ngọc Chỉ, một Trung Đội Trưởng điều động các binh sĩ chống trả quyết
liệt, nhưng vì địch quân quá đông nên tìm cách hướng dẫn các binh sĩ
còn lại rút lui ra ngoài.
Tiểu Đoàn K8/812 tấn công vào mặt
Tây Bắc nhằm vào các đơn vị Bộ Binh và Địa Phương Quân & Nghĩa Quân
nhằm chiếm lĩnh phần lãnh thổ phía Bắc Quảng Trị. Tiểu đoàn K6/812
tấn công vào mặt phía Đông Nam dọc Quốc lộ 1 và đường rầy xe lửa
nhằm tấn chiếm khu nhà thờ La Vang. Và Tiểu Đoàn K5/812 làm thành
phần trừ bị, ém quân về phía Đông Nam thành phố. Trong khi đó Trung
đoàn 814 VC chuẩn bị tấn công vòng thứ nhì xa luân chiến từ phía Tây
Bắc để đánh chiếm hoàn toàn thành phố và ngăn chận viện binh VNCH
tái chiếm thị trấn. Nhưng vì ảnh hưởng thời tiết ẩm ướt và không
thông thuộc đường sá nên một số đơn vị cộng quân đã không thi hành
cùng giờ để mất yếu tố bất ngờ nên bị các đơn vị phòng thủ phản công
quyết liệt. Nhất là gặp các Đại Đội thuộc TĐ9 Nhảy Dù đã chống trả
dũng mãnh bao dàn ở cả 3 mặt Đông, Nam và phía Bắc. Phía trong Thành
Đinh Công Tráng các đơn vị Bộ Binh, Địa Phương Quân và Cảnh Sát vững
tinh thần chống trả nên địch quân không làm gì được.
Mặt trận Quảng Trị
Khi bình minh ló dạng, lực lượng TĐ9ND tung quân mở rộng vòng
đai lục soát các vị trí giao tranh đêm qua bắt sống 10 tù binh,
chúng toàn là trẻ con khoảng 16, 17 tuổi nói giọng Quảng Bình và
mặt mày đỏ gay vì uống thuốc “Hùng Binh” không sợ chết của Trung
Cộng.
8.00 giờ sáng cộng quân cố gắng mở thêm mặt trận
khác tấn công vào BCH Tiểu Đoàn 9ND gần cầu sông Thạch Hãn và
ĐĐ91ND cạnh Quốc Lộ 1. Lực lượng ND phản công quyết liệt,
BCH/Tiểu Đoàn điều động ĐĐ92ND trở về đánh bọc hậu phía sau đơn
vị VC dọc theo QL-1. Khi ĐĐ92ND từ Ngã Ba Long Hưng hướng về BCH
Tiểu Đoàn qua khỏi nhà thờ La Vang thì chạm địch. Địch quân đông
đảo cấp Tiểu Đoàn đã phục kích trong khu nghĩa địa bên trái QL-1
tấn công vào đội hình di chuyển của ĐĐ92ND. Không chút nao núng,
các chiến sĩ Nhảy Dù dàn đội hình tác chiến, hô xung phong vang
rền tấn công trực diện vào thế trận của địch. Sau nhiều giờ giao
tranh, trận chiến rất ác liệt đôi khi phải đánh “xáp lá cà” cộng
quân bị thiệt hại nặng và rút lui, bỏ lại trận địa nhiều xác
chết và súng đạn.
Đến chiều ngày mồng 2 Tết tình hình quanh
thành phố Quảng Trị hoàn toàn im tiếng súng. Cộng quân bị thiệt
hại nặng nề và đại bại nên đã rút lui với 1,450 tên bỏ xác tại
trận, ta tịch thu 485 vũ khí đủ loại. Nhờ vậy thành phố Quảng
Trị được yên ổn ăn Tết.
Ngày 1/2/1968 sáng ngày mồng Ba
Tết, Thành phố Quảng Trị hoàn toàn yên tĩnh, dân chúng vui mừng
tổ chức tuyên dương TĐ9ND đã bảo vệ làng xóm để dân chúng được
an cư lạc nghiệp. Sau đó, ngày Mồng 5 Tết, TĐ9ND được trực thăng
vận vào giải vây thành phố Huế.
Trung tướng Dư Quốc Đống và
Đại tá Lê Quang Lưỡng
tại chiến trường - Mặt Trận Huế
Tài liệu tham khảo:
1. Trận chiến Tết Mậu Thân 1968 của Phạm Văn Sơn trên trang
nhà History of the Viet Nam War
2. Chiến tranh Việt Nam toàn
tập của Tiến Sĩ Nguyễn Đức Phương, nxb Làng Văn 2001
3. Một
Cánh Hoa Dù của Trương Dưỡng. Tác giả xb 1998
4. Phỏng vấn
trực tiếp các chiến hữu trong SĐND.
Bảng hướng dẫn đến các chương (bấm vào các con số sẽ đi thẳng đến chương đó):
01
|
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 |
21 |
22
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37 |
38 |
39 |
40 |
41 |
42 |
43 |
44
Mục lục
******24******
24. Mặt Trận Huế (30-1-1968)
Tổng công kích Tết Mậu Thân - 68
Mặt Trận Huế
(từ 30-1-1968...)
Tỉnh Thừa Thiên nằm giữa miền
Trung VN, có diện tích 5,054km², với 10 quận từ phía bắc giáp ranh
với tỉnh Quảng Trị là Phong Điền,
Quảng
Điền, Hương Điền, Hương Trà; phía nam thành phố Huế là Hương Thủy,
Phú Vang, Vinh Lộc, Phú Lộc, Phú Thứ; phía tây là Quận lỵ Nam Hòa.
Tổng cộng có 73 Xã. Tỉnh lỵ là thành phố Huế có diện tích 380km² với
dân số khoảng 209,043 người. Huế có 3 quận đó là quận Hữu Ngạn, Tả
Ngạn và quận Thành Nội.
Theo từ nguyên, Huế là do Hóa tên nôm
của Thuận Hóa đọc trại ra nhưng đến nay vẫn chưa tìm được xuất xứ,
Vua Lê Thánh Tông (1460-1497) có lẽ là người đầu tiên nói đến địa
danh Huế trong bài văn nôm “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn”. Trong đó
có câu: “Hương kỳ nam, vảy đồi mồi, búi an tức, bì hồ tiêu, thau
Lào, thóc Huế, thuyền tám tầm chở đã vạy then”. Bộ Việt Nam Sử Lược
của Trần Trọng Kim là bộ sử đầu tiên của Việt Nam viết bằng chữ quốc
ngữ, ngoài nguồn sử liệu truyền thống, tác giả đã sử dụng nguồn sử
liệu của phương Tây, và tên Huế xuất hiện.
Là cố đô của nhà
Nguyễn (1802-1945), Huế mang nhiều sắc thái tiêu biểu cho dân tộc,
nhân chứng của một chặng đường lịch sử, văn hóa, kiến trúc Việt Nam,
nên trong hội nghị lần thứ 17 tại Catagenna, Columbia, tháng
12-1993, tổ chức UNESCO của LHQ, đã công nhận Huế là di sản văn hóa
của nhân loại cần bảo tồn.
Huế, bao gồm những công trình kiến trúc lịch sử cung điện và
lăng tẩm của các tiên vương nhà Nguyễn. Kinh thành Huế do vua
Gia Long cho khởi công xây cất từ năm 1805 mãi tới năm 1838 đời
vua Minh Mạng mới xong. Đây là một tòa thành hình vuông, mỗi
cạnh 2,223m, bề cao 6.60m, chân thành có hào sâu 4m, phía Đông
Nam bên bờ sông Hương nhìn về phía trước là núi Ngự Bình. Ngoại
thành hướng bắc có pháo đài Mang Cá, ngoài ra còn có 10 cửa
chính với những vọng lầu cao ngất, dùng để ra vào. Tòa thành
được kiến trúc độc đáo, từ kiểu cách của Pháp cho tới nghệ thuật
xây cất Á Đông, biểu hiện nét huy hoàng, lộng lẫy nhưng không
kém phần thơ mộng trang đài từ vách thành, vọng lầu, cửa ngọ
môn... cho tới đền đài cung các được chạm trổ, điêu khắc hài hòa
trong cảnh trí thiên nhiên tuyệt diệu.
Từ năm 1366 Huế đã
là thủ phủ của Đàng Trong, tức là hai Châu Ô, Rí do vua Chế Mân
của Chiêm Thành, dâng cho nhà Trần làm sính lễ cưới công chúa
Huyền Trân của Đại Việt, từ đó trở thành đất Thuận Hóa. Sau Tết
Mậu Thân 1968, Huế chỉ còn là đống gạch vụn do VC và bọn Việt
Gian tàn phá.
Ngoài ra Huế còn nhiều nét tiêu biểu khác
như Chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền, chợ Đông Ba, với trường Quốc
Học cổ kính nằm cạnh bờ sông Hương với hàng phượng vỹ nở rộ mỗi
độ hè về, núi Ngự Bình trước tròn sau méo, sông An Cựu nắng đục
mưa trong, hồ Tĩnh Tâm sen nở ngút ngàn và Phú Văn Lâu trơ gan
cùng tuế nguyệt.
Cuối năm 1966 không hiểu vì lý do gì,
trại Lực Lượng Đặc Biệt A-Shau được rút bỏ sau khi bị CS tràn
ngập vào ngày 12/3/66, nên thung lũng A-Shau bị bỏ ngõ. Do đó CS
lợi dụng cơ hội này chuyển vận một số lớn bộ đội và vũ khí để
lập căn cứ và từ đây tấn công Huế năm 1968 với sự dẫn đường chỉ
lối của đám Việt gian nằm vùng. Cũng vì lý do này mà Huế bị VC
chiếm đóng lâu hơn các thành phố khác trong cuộc TCK tết Mậu
Thân.
Ngày 29/1/1968 Chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng, Tư
Lệnh SĐ1BB, cùng toàn thể quân nhân các cấp dự lễ chào cờ đầu
năm tại Phú Văn Lâu. Ngay sau đó ông được tin trong đêm giao
thừa, VC đã tấn công vào Qui Nhơn và Nha Trang. Lệnh cấm trại
được ban hành tức khắc cho các đơn vị trực thuộc.
Ngày
30/1/1968 sáng mùng 2 Tết lúc 2.00 sáng, CS bắt đầu pháo kích
hằng trăm quả đạn vào BTL/SĐ1BB, BCH Tiểu Khu, Trung Tâm Huấn
Luyện Đống Đa và Thiết Đoàn 7 Kỵ Binh ở An Cựu. Sau đó quân CS
bắt đầu xâm nhập và tấn công vào Huế bằng hai cánh quân chính:
- Cánh thứ nhất là Đoàn 6 gồm các tiểu đoàn đặc công K1, K2,
K6 và K12 từ phía bắc bên tả ngạn sông Hương, tấn công BTL SD1BB
tại đồn Mang Cá, phi trường Tây Lộc, Đại Nội.
- Cánh thứ
hai là Đoàn 5 gồm các tiểu đoàn K4A, K4B, K10 và K21 từ phía
Nam, hữu ngạn sông Hương, hợp với Thành đội tấn công các cơ sở
hành chánh phía nam.
Ngoài ra còn có:
- Đoàn 9 gồm hai tiểu đoàn 416, 418 từ Đồng Xuyên, Mỹ Xá,
dọc theo La Vân Thượng chiếm cửa Đông Ba
- Một cánh khác
mang tên Đường 12 từ Phú Thứ, Đập Đá qua cầu Trường Tiền chiếm
cửa Thượng Tứ.
Cũng nên biết Việt cộng đã lợi dụng những
xáo trộn tại Huế trong các năm 1965, 1966, xâm nhập hoạt động
móc nối dụ dỗ một số học sinh, sinh viên, quá nể nang các thầy
giáo của mình mà phản bội lại VNCH. Thật ra mặt trận quan trọng
nhất của VC ở Huế là mặt trận chính trị, vì vậy Hà Nội bất chấp
máu xương của cán binh và thường dân vô tội, ra lệnh cho đám tàn
binh phải cố thủ trong Đại Nội trong thực trạng bi thảm tuyệt
vọng bởi các vòng vây của quân lực VNCH và sau ngày mùng 6 Tết
có thêm sự tham chiến của Hoa Kỳ. (Phụ trách công tác chính trị
tổng khởi nghĩa, để lập chính quyền cách mạng ở Huế là Hoàng Kim
Loan và Hoàng Lanh, đã vào nằm vùng từ lâu trong nhà một giám
thị trường Quốc Học là Nguyễn Đóa. Ngoài ra còn có Nguyễn Trung
Chính, Nguyễn Hữu Vân (giáo sư trường Âm Nhạc Kịch Nghệ), Phan
Nam, Nguyễn Thiết. Trái với dự đoán của cộng sản, dân chúng Huế
không hưởng ứng tổng khởi nghĩa lại còn bỏ trốn sang các khu vực
có QLVNCH như Mang Cá, Trường Kiểu Mẫu, Tiểu Khu Thừa Thiên, Bến
Tàu, Phú Bài...
Ngày 14-2-1968 đài VC phát thanh tại Hà
Nội cho biết đã lập xong chính quyền cách mạng tại Huế do Lê Văn
Hảo làm chủ tịch, Đào Thị Xuân Yến và Hoàng Phương Thảo làm phó.
Ngoài ra còn có cái gọi là Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân
Chủ và Hòa Bình được Hà Nội nặn ra ngày mồng ba Tết (1-2-1968)
cũng do Lê Văn Hảo, tiến sĩ về nhân chủng học tại Đại Học Huế
làm chủ tịch liên minh. Hảo trốn lính, năm 1953 qua Pháp du học
và tiêm nhiễm chủ nghĩa cộng sản của Trần Văn Khê, Nguyễn Khắc
Viện, nên vào các năm 1965, 1966 dù đang sống trong cảnh giàu
sang, chức trọng nhưng vẫn táng tận lương tâm, theo các tên VC
nằm vùng là Hoàng Phủ Ngọc Tường và Tôn Thất Dương Tiềm gia nhập
MTGPMN rồi ra bưng cuối tháng 12/1967).
Lực Lượng
Nhảy Dù tham chiến tại Huế QK 1 trong Tết Mậu Thân:
BCH Chiến Đoàn I ND do Thiếu tá Lê Quang Lưỡng làm Chiến
Đoàn Trưởng với 4 Tiểu Đoàn 2, 7, 9 và 5ND được phối trí như
sau:
1. Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù đóng quân tại Phong Điền do
Thiếu tá Lê Văn Thạch làm Tiểu Đoàn Trưởng, Đại úy Nguyễn Hữu
Nghi TĐP, Cố vấn Trưởng là Đại úy Ty Cobb
2. Tiểu Đoàn 7
Nhảy Dù đóng quân tại An Lỗ do Thiếu tá Lê Văn Ngọc làm Tiểu
Đoàn Trưởng, Đại úy Lê Minh Ngọc làm TĐP, Cố vấn Trưởng là Đại
úy Chuck Jackson
3. Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù bảo vệ thành phố
Quảng Trị do Thiếu tá Nguyễn Thế Nhã làm Tiểu Đoàn Trưởng, Cố
vấn Trưởng Tiểu Đoàn là Đại úy Dick Blair
4. Tiểu Đoàn 5
Nhảy Dù do Thiếu tá Nguyễn Vỹ làm TĐT di chuyển ra trấn ngự tại
Thành phố Đà Nẵng.
Kinh thành Huế và vùng phụ cận
Tính ra, ngay từ lúc khởi đầu, nhờ lợi dụng dịp hưu chiến nhiều
đơn vị VNCH cho các quân nhân về nhà ăn Tết, nên VC đã chiếm
được hầu hết các cơ sở hành chính, khu Đại Nội, chợ Đông Ba, các
cửa Thượng Tứ, An Hòa, Chánh Tây... lực lượng cộng quân đã chiếm
lĩnh hầu hết bên trong thành Nội, từ cổng thành cho đến các điểm
cao kiên cố, chỉ còn một lõm nhỏ Trại Mang Cá (BTL/SĐ1BB/Khu
11CT), đang bị vây kín, nhờ các toán Tiền Trạm của Nhảy Dù trợ
chiến chống giữ. Cơ sở MACV, Tiểu khu Thừa Thiên, đài phát
thanh, Trường Kiểu Mẫu và cầu tàu Hải Quân vẫn do QLVNCH kiểm
soát. Trong lúc đó BCH/LĐIND do Trung tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy
vừa được lệnh thay thế BCH/LĐ2ND của Trung tá Đào Văn Hùng vào
ngày 27 Tết. TĐ2ND đóng tại Phong Điền (Sịa) nằm về hướng Tây
Bắc thành phố Huế. TĐ7ND, sau 3 tháng hành quân trong vùng Phá
Tam Giang trở ra, đáng lẽ được về Sài Gòn dưỡng quân, nhưng trên
đường di chuyển bằng xe ra phi trường Phú Bài, đến ngang cửa
Chánh Tây, đã bị Bộ Tư lệnh SĐ1BB/Khu 11CT, cho Quân Cảnh chận
lại, trao công điện mang tay, cho lệnh trở ngược ra Phong Điền,
tìm chỗ đóng quân quanh thị trấn An Lỗ chờ lệnh (29 tết), TĐ9ND
ra trấn giữ Quảng Trị và TĐ5ND thay vì được về SG nghỉ ngơi lại
phải di chuyển bằng đường bộ ra trấn thủ tại Đà Nẵng.
Sáng sớm ngày mồng 2 Tết (Ngày 30/1/1968), TĐ7ND, TĐ2ND cùng Chi
Đoàn 3/7 Thiết Giáp do Trung úy Trần Văn Minh làm Chi Đoàn
Trưởng được lệnh điều động gấp rút băng đồng gần 20km từ vùng
Phong Điền, phía Bắc sông Cổ Bi, về giải cứu cố đô Huế.
Tiến dọc theo hai bên QL-1 từ Bắc xuống Nam, TĐ2ND di chuyển bộ,
lục soát phía Đông Quốc Lộ 1, TĐ7ND dàn mỏng đội hình di chuyển
phía Tây, giữa QL-1 và thiết lộ Xuyên Việt. Xế trưa mồng 2 Tết,
vừa qua khỏi thôn Hương Trà về hướng Nam, cách đầu cầu An Hòa
khoảng 500m, chiếc Thiết vận xa dẫn đầu đã bị trúng ngay một hỏa
tiễn B-40, các thiết vận xa còn lại bắt đầu nhả đạn. Các binh sĩ
TĐ2ND bắt đầu dàn đội hình tác chiến và chạm địch mạnh, giao
tranh ác liệt. Một Đại Đội Trưởng bị thương nặng, Đại úy Nguyễn
Hữu Nghi (xuất thân Khóa 5 Trường Bộ Binh Thủ Đức) Tiểu Đoàn Phó
bị một viên đạn AK xuyên thủng mũ sắt tử thương ngay tức khắc.
TĐ2ND xung phong tiếp tục tấn công để thanh toán lực lượng cộng
sản chận viện tại đây. Trong khi đó, TĐ7ND được lệnh tiếp tục
tiến nhanh về hướng Thành Nội Huế. Khoảng 2 giờ chiều, cánh quân
đầu gồm 2 Đại Đội 72 Đại úy Tạ Văn Ngọc ĐĐT và Đại Đội 73 Đại úy
Nguyễn Quang Sáng ĐĐT, do Đại úy Lê Minh Ngọc (Tiểu Đoàn Phó)
chỉ huy, bị lọt vào ổ độn thổ phục kích của cộng quân ngay bờ
Bắc thôn An Hòa. Cộng quân đã đào hố ém quân giữa đồng trống vừa
gặt xong, đậy rơm lên, ngụy trang phủ kín, có hỏa lực đại liên
từ bờ thôn An Hòa bắn ra yểm trợ. Đại đội 73 do Đại úy Nguyễn
Quang Sáng chỉ huy, bị tổn thất gần hết Trung Đội đi đầu. Trung
úy Lê Phước Cương tử trận. Đại Đội 73 vẫn bám chặt trận tuyến
trên phần đất giữa quốc lộ và thiết lộ. Đại Đội 72 đi trục phía
Tây, do Đại úy Tạ Văn Ngọc chỉ huy, cũng chạm địch nặng tại khu
nghĩa trang An Hòa. Đại úy Tạ Văn Ngọc bị tử thương tại đâỵ.
Cánh quân đầu của TĐ7ND phải tạm dừng lại tại phía Bắc thôn An
Hòa để tái tổ chức đội ngũ. Các Sĩ quan Cố Vấn cố gắng liên lạc
để xin trực thăng và pháo binh Mỹ yểm trợ hỏa lực nhưng chẳng
liên lạc được với ai.
Thiếu tá Lê Văn Ngọc (Tiểu Đoàn
Trưởng TĐ7ND), từ phía sau gởi lên 2 chiếc thiết vận xa M-113,
tăng cường hỏa lực cho cánh quân của TĐP Lê Minh Ngọc. Đến 5 giờ
chiều, Đại úy Lê Minh Ngọc điều động hai Đại Đội 72 và 73 dàn
hàng ngang xung phong tấn chiếm thôn An Hòa, tiến đến chân thành
nội, kiểm soát khoảng Quốc lộ 1 bên ngoài cửa Chánh Tây. Các đơn
vị được lệnh đóng quân đêm ngoài thành.
Trong trận chiến
vừa qua, phía Nhảy Dù báo cáo có 131 thương vong trong số đó có
40 bị tử thương, 4 chiếc trong tổng số 12 Thiết Vận Xa bị bắn
cháy. Về phía cộng quân có trên 270 bỏ xác tại trận, 5 tù binh
và 96 vũ khí đủ loại bị tích thu.
Khi Bộ Chỉ Huy TĐ7ND
theo sau, vừa tiến vào An Hòa, thì bị cộng quân từ phía cầu Bạch
Hổ pháo kích bằng nhiều loạt đạn súng cối 82ly. Thiếu tá TĐT Lê
văn Ngọc bị trọng thương. Các Trung úy Nguyễn Lô, Nguyễn Trọng
Nhi bị thương. Lệnh từ BTL/SĐ1BB trong Trại Mang Cá truyền ra,
chỉ định Đại úy Lê Minh Ngọc thay thế Thiếu tá Lê Văn Ngọc, chỉ
huy TĐ7ND, tiếp tục nhiệm vụ giải cứu Thành Nội Huế.
Sáng
sớm hôm sau, TĐ7ND gói ghém nhanh chóng thương tử binh, và điều
động ĐĐ73 do Đại úy Nguyễn Quang Sáng vượt lên trước, bám chặt
theo bờ hào sâu, dọc theo chân Thành Nội tiến về hướng trại Mang
Cá (Bộ Tư Lệnh SĐ1 Bộ Binh). Đại Đội 73 cho khinh binh len lỏi
theo các hào sâu phá cửa hậu nhà xác, vào được bên trong thành,
ngay doanh trại Đại Đội 1 Quân Y/SĐ1BB. Thương bệnh binh và nhân
viên Quân Y tại đây bị cộng quân sát hại khá nhiều. TĐ7ND tiếp
tục tiến về hướng Đông, chiếm các cao ốc vây quanh trại Mang Cá.
Cộng quân đang vây chặt Bộ Tư lệnh SĐ1BB, chỉ còn cách một sân
cờ nhỏ, bị lực lượng Nhảy Dù đánh bọc phía sau lưng nên rối loạn
đội hình bỏ chạy tán loạn làm bia cho các chiến sĩ mũ đỏ tác xạ.
Khi tiến chiếm cao ốc sau cùng, Đại úy Nguyễn Quang Sáng
ĐĐT/ĐĐ73 lại bị thương nơi chân phải. Sau khi vượt qua được sân
cờ trước Trung Tâm Hành Quân SĐ1BB, TĐ7ND là đơn vị đầu tiên, từ
bên ngoài tiến vào, bắt tay được với Chuẩn tướng Ngô Quang
Trưởng, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, khuya mồng 2 rạng ngày mồng 3
Tết Mậu Thân.
Ngày 31/1/1968, sau khi thanh toán xong lực
lượng chận viện của cộng quân tại Hương Trà, sáng mồng 3 tết,
TĐ2ND cũng nương theo cửa An Hòa được khai thông nhập thành,
được lệnh tiến về hướng Đông, giải tỏa khu Gia Hội, cửa Đông Ba.
Phần lớn Thành Nội Huế vẫn còn nằm trong tay cộng quân. Giao
tranh khắp nơi khi lực lượng Nhảy Dù tiến vào, hỏa lực của VC
rất mạnh núp trong nhà dân, trong các công sự phòng thủ kiên cố
của tòa cổ thành bắn ra, trong khi đó quân ta chiến đấu không có
hỏa lực yểm trợ.
Ngày này lúc 2.00 giờ sáng, VC cũng pháo kích và tấn công vào
pháo đội C3ND tại An Lỗ nhưng bị đẩy lui; chỉ một binh sĩ bị
thương nhẹ. Giao thương binh, tử binh lại cho đơn vị Dù tiền
trạm, nhận đạn dược và lương khô qua loa, TĐ7ND do Đại úy Lê
Minh Ngọc chỉ huy lại được lệnh xuất thành Mang Cá, chiếm khu hồ
Tịnh Tâm, rồi tiến chiếm khu phi trường Tây Lộc. Pháo binh 105ly
từ Cây số 17 (An Lỗ) đã vừa mút tầm, vả lại không còn đạn nổ để
yểm trợ. TĐ7ND yêu cầu tác xạ đạn khói, làm màn che, để tiến
quân qua phi đạo, diệt khẩu đại bác không giật tại đây, đã làm
tê liệt mọi di động trong trại Mang cá suốt mấy ngày qua. Trời
mưa phùn, gió thật lạnh suốt mấy ngày tết. Phi trường nhỏ này
được TĐ7ND chiếm lại vào lúc xế chiều ngày mồng 3 Tết Mậu Thân.
Một điều đáng chú ý là từ ngày khởi đầu trận chiến, TĐ7ND đụng
nặng ở An Hòa, và TĐ2ND đụng nặng ở Hương Trà, người bạn đồng
minh của chúng ta vẫn ‘bình chân như vại’ án binh bất động không
can thiệp. Năm ngày sau, tức là ngày mồng 6 Tết quân Mỹ mới nhào
vô, TQLC Mỹ mới bắt đầu tham chiến giải tỏa khu An Cựu (và chạm
địch rất nặng tại nơi đây).
Sau khi làm cỏ Trung Đoàn
Sông Lô của cộng quân, tới trưa ngày mồng 3 Tết, 2 TĐ2 & 7ND mới
giải tỏa được từ cửa An Hòa đến cửa Tây và cửa Bắc Thành Nội
Huế. Sau khi bàn giao phi trường Tây Lộc lại cho một đơn vị của
SĐ1BB giữ phi trường. Đại úy Lê Minh Ngọc điều quân trở về Hồ
Tịnh Tâm, giao thương binh, lấy đạn dược, và được lệnh trực chỉ
tái chiếm Trường Nữ Trung Học Thành Nội, làm bàn đạp để xuất
phát tái chiếm khu cao ốc thành Đại Nội (Hoàng Cung cũ). Trong
ngày mồng 4 Tết, TĐ7ND đã tái chiếm xong khu vực Trường Nữ Trung
Học Thành Nội. Trại Mang Cá không có đủ đạn M-16 và M-79, nên
những ngày sau đó, Các đơn vị Nhảy Dù đã xử dụng luôn cả các vũ
khí tịch thu được của địch như tiểu liên AK-47, súng phóng lựu
B-40, và luôn cả lương khô (bánh in Trung cộng) trong túi đeo
lưng trên xác cộng quân... Vì đã có 1 Đại Đội Trưởng tử thương
và 2 Đại đội trưởng khác bị thương, nên đơn vị thiếu cán bộ chỉ
huy, Đại úy Lê Minh Ngọc chỉ định Trung úy Vũ Đình Nguyên, y sĩ
trưởng TĐ7ND kiêm nhiệm Đại Đội Trưởng Đại Đội 70 (Đại đội súng
nặng).
Đêm Mồng 4 Tết, Trung đoàn 9 Cù Chính Lan, một đơn
vị chính quy của CSBV vừa từ Bắc xâm nhập vào Nam, từ hướng cầu
Bạch Hổ tăng cường xâm nhập vào thành nội, lấn chiếm lại khu phi
trường Tây Lộc, vừa được TĐ7ND giải tỏa hôm trước. Buổi trưa, xe
chỉ huy của Thiết Đoàn 7 KB bị trúng B-40 gần Ty Cảnh Sát Huế,
Trung tá Phan Hữu Chí bị tử thương. Tại thành Mang Cá, VC cố
gắng tấn công vào nhiều đợt và chiếm lại những nơi đã được Nhảy
Dù giải tỏa.
Ngày mồng 5 Tết, 2/2/1968, TĐ9ND sau khi làm
chủ tình hình tại Quảng Trị, được trực thăng vận đến Bệnh Viện
Nguyễn Tri Phương trong đồn Mang Cá vào sáng ngày mồng 5 tết.
Vừa vào đến Thành Nội Huế. Chiến Đoàn 1 ND cho lệnh TĐ9ND tiến
ra tái chiếm lại phi trường thành nội lần nữa. Từ thành Mang Cá,
TĐ9ND xuất phát tái chiếm phi trường Tây Lộc. Lực lượng Nhảy Dù
phải phá tường, leo cửa sổ để di chuyển từ nhà này sang nhà
khác. Các ngã tư, cao ốc, các ngõ hẻm đều có thượng liên VC chờ
sẵn. Sau khi tái chiếm phi trường Tây Lộc, TĐ9ND bàn giao phi
trường này lại cho Trung đoàn 3 BB (vừa được trực thăng vận từ
An Lỗ vào). Và TĐ9ND được lệnh tiến về phía Gia Hội, trợ chiến
cho TĐ2ND giải tỏa khu Gia Hội, Đông Ba. Tại đây, cộng quân xích
chân xạ thủ vào chân súng đại liên, kháng cự khá mạnh.
Sáng ngày mồng 5 Tết, với 2 thiết vận xa tăng cường, TĐ7ND bắt
đầu tấn công vào khu Đại Nội. Một chiếc M-113 ủi sập một lỗ
tường để mở trục tiến quân, đã bị hỏa lực bên trong tập trung
bắn cháy ngay tại chỗ. Chiếc còn lại được TĐ7ND xử dụng bắn
triệt hạ các tổ quan sát và bắn tỉa của cộng quân, đặt trên các
ngọn cây cao dọc bờ thành Đại Nộị.
Tấn công liên tiếp từ
nhiều hướng khác nhau, TĐ7ND đã đột nhập được vào khu Đại Nội
(Hoàng Cung cũ) sáng mồng 6 tết, và hoàn toàn làm chủ tình hình
khu vực này vào buổi chiều cùng ngày. Ngày mồng 7 tết, TĐ7ND
được lệnh tiến chiếm khu Phú Vân Lâu (nơi có dàn súng thần công
cũ), và ngày mồng 8 tết, kiểm soát được bờ phía Bắc sông Hương,
khu vực giữa cầu Bạch Hổ và cầu Tràng Tiền.
Ngày 3/2/1968
(mồng 6 Tết) tại cửa Chánh Tây, nhiều VC đội mũ cối, mang AK-47,
B-40 qua lại canh gác trên bờ thành. Nhảy Dù phải chờ tối trời
cho khinh binh lén leo lên tường dùng lưỡi lê đánh cận chiến với
địch chiếm được một góc thành làm đầu cầu rồi cho đơn vị ào ạt
tấn công, khiến địch trở tay không kịp. Sau 2 ngày giao tranh ác
liệt, Nhảy Dù đã chiếm lại được cửa thành phía Tây và giao lại
cho SĐ1BB trấn giữ. Lực lượng Nhảy Dù tiếp tục sang tái chiếm
cửa Đông Ba.
Ngày này, phía hữu ngạn sông Hương, lực
lượng Mỹ mới bắt đầu tham chiến gởi TĐ2/5 TQLC, và một chi đoàn
chiến xa hành quân giải tỏa quanh khu vực MACV và chiếm lại tòa
nhà đại biểu chính phủ.
Ngày 5/2/1968 tại cửa Đông Ba, VC đặt
thượng liên trên cửa thành rất kiên cố, TĐ2 Nhảy Dù thử xung
phong nhiều lần nhưng vô hiệu. Sau đó BCH Chiến đoàn Dù phải
điều động pháo đội C/PBND bắn trực xạ dập tắt khẩu thượng liên
của địch, các binh sĩ ND vừa bắn vừa xung phong thật nhanh,
chiếm lại được cửa thành Đông Ba. Xác tên xạ thủ đại liên của
địch còn nằm trên súng, chân bị xiềng.
Ngày 7/2/1968 11.30
giờ VC tấn công vào TĐ 4/3 BB tại cửa chánh Tây, và cũng trong
ngày này VC giật sập cầu Tràng Tiền. Ngày 8/2/1968 TĐ9ND được
lệnh tiếp tục vượt qua Hồ Tịnh Tâm để tái chiếm cửa Thượng Tứ
(cửa thành hướng Nam đi thẳng vào Đại Nội). Trận chiến ác liệt
kéo dài cả hai tuần lễ, các đơn vị thuộc Chiến Đoàn I Nhảy Dù
sau khi đánh tan tác 2 Trung Đoàn Sông Lô và Cù Chính Lan của
CSBV cũng đã bị thiệt hại nhiều.
Đại tướng Trần Thiện Khiêm
trao gắn cấp bậc Trung tá Đắc Cách tại Mặt Trận
cho TĐT/TĐ7ND
Lê Minh Ngọc tại Phú Vân Lâu Huế, trong ngày Quân Lực 19/6/1971
Ngày 9/2/1968 phía Nam sông Hương, Lực lượng Hoa Kỳ đẩy lui VC ở
các khu vực Khu Đại Học, sân vận động, Phú Cam và Nhà Ga. VC bỏ
chạy về Nam Giao. Tính đến ngày này, giao tranh với lực lượng
Hoa Kỳ, VC có 934 chết tại chỗ, 4 bị bắt, 307 súng các loại bị
tịch thu. Hoa kỳ có 31 tử thương, 201 bị thương nặng, 80 bị
thương nhẹ.
Ngày 10/2/1968 người ta bắt đầu thu lượm xác
VC. Các lực lượng Địa Phương Quân, phối hợp với các Khóa sinh
TTHL Đống Đa tổ chức hành quân tảo thanh các khu vực đã được
giải tỏa.
Ngày 12/2/1968 Chiến Đoàn A TQLC bắt đầu được
không vận đến Huế để thay thế Chiến Đoàn I Dù để triển khai một
cuộc hành quân càn quét các tên VC năm vùng còn sót lại.
18.00 giờ một đơn vị TQLC Hoa Kỳ băng qua sông Hương cập bến Bao
Vinh vào cổng sau Thành Nội.
Ngày 13/2/1968 TQLC Hoa Kỳ
tiếp tục đổ bộ vào Thành Nội tăng cường cho QLVNCH. Trong khi đó
Pháo binh và phi cơ oanh kích dữ dội vùng Lai Chữ, nơi đặt BCH
của VC.
Vào ngày 15/5, có lệnh từ BTL/SD1BB/Khu 11CT cho
toàn bộ Trung Đoàn 3 BB từ An Lỗ di chuyển vào Thành Nội thay
thế vị trí CĐIND, để lực lượng Nhảy Dù được trả về cho Bộ TTM
nhận nhiệm vụ mới. TĐ7ND được lệnh từ Chiến Đoàn I ND vượt qua
bờ Nam sông Hương. (vì Cầu Tràng Tiền đã bị cộng quân giật sập 1
nhịp) lục soát an ninh khu này, để CĐIND chuẩn bị di chuyển bằng
xe đến phi trường Phú Bài, trở về hậu cứ ở Sài Gòn.
Tội ác của CS tại Huế Tết Mậu Thân
Tình hình tại bờ nam Sông Hương từ khu Phú Cam ra Phú Bài chưa
được an ninh hoàn toàn. TĐ7ND đã chứng kiến cảnh chiến trường
tan hoang nơi đây, với chó gặm xác VC, với xe tăng M-41 và M-48
của Mỹ bị cháy, quân trang quân dụng vất bừa bãi, dân chúng hồi
cư “khóc như ri”... cho hay VC trói dân từng chùm 20 người bằng
dây điện thoại, bịt mắt dắt xuống hướng Phú Thứ chôn sống tập
thể. (cộng sản bắt đi những thanh niên từ 15, 16 tuổi đến ông
già 60, 70 đem giam ở chùa Từ Đàm. Đến đêm, họ bị dẫn đi lên
đường núi và qua sông. Sau đó tàn sát hết mọi người trong tư thế
bị trói. Khi tàn sát thì dùng súng máy, trung liên, đại liên, cả
lựu đạn hoặc đập đầu bằng cuốc xẻng, báng súng. Các xác đó đã bị
vùi xuống khe)
Đặc biệt tại khu An Cựu này, TĐ7ND cũng đã
giải cứu được Linh Mục Tuyên úy Nhảy Dù Vũ Ngọc Đáng, đang mặc
thường phục lẩn trốn trong dân chúng!
Sau 3 tuần lễ giao
tranh đẫm máu dưới thời tiết lạnh lẽo rét mướt để giải tỏa cố đô
Huế, CĐIND được các đơn vị bạn thay thế. Ngày 21/2/1968, toàn bộ
các đơn vị Nhảy Dù lần lượt được không vận về Sài Gòn để nhận
nhiệm vụ mới.
Ngày 19/2, Chiến Đoàn A TQLC mở chiến dịch
Sóng Thần 739/68. Ngày 22/2 hai tiểu đoàn 21 và 39 BĐQ được tăng
cường tại Huế và VC cũng bắt đầu tháo chạy.
Ngày 23-2 VC
bị đẩy ra khỏi Huế, lá cờ VNCH lại tung bay trên kỳ đài ở Phú
Văn Lâu. Tính chung cộng sản tàn sát đồng bào Huế nhiều nhất là
tại khu dân cư Gia Hội vì vùng này bị VC chiếm lâu nhất từ ngày
mùng 2 Tết (30/1) đến 22/2/1968 mới được Biệt Động Quân giải
tỏa, bởi vậy giặc cộng và Việt gian mới có cơ hội giết nhiều
đồng bào vô tội một cách man rợ không thể tưởng tượng nổi đối
với người đồng chủng chỉ vì đã không theo họ. (Tại thành phố Huế
và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm tìm được các “mồ tập thể”, có
nơi tới hàng ngàn xác, hoặc vài ba trăm xác và có những xác bị
chôn còn bị xiềng xích. Sau tết Hội Gia Đình Nạn Nhân cộng sản
trong Tết Mậu Thân kê khai số người chết và mất tích lên đến
4,000 gia đình. Người ta ước tính vào khoảng 6,000 người)
Ngày 25/2/1968 chiến cuộc chấm dứt tại Huế với đổ nát, điêu
tàn, nhà cửa, cầu cống, cây cối, đường sá gần như tử địa với xác
người nằm la liệt đã sình thối. Tất cả chỉ còn là sự tàn nhẫn,
thê lương, từ bàn tay đẫm máu của VC và bọn Việt gian mang đủ
loại mặt nạ gây nên.
Tài liệu tham khảo:
1. Trận chiến Tết
Mậu Thân 1968 của Phạm Văn Sơn trên trang nhà History of the
Viet Nam War
2. Lời tường thuật về trận chiến Mậu Thân của
Trung tá Lê Minh Ngọc, LĐT/LĐ4ND
3. Chiến tranh Việt Nam toàn
tập của Tiến Sĩ Nguyễn Đức Phương, nxb Làng Văn 2001
4. Một
Cánh Hoa Dù của Trương Dưỡng. Tác giả xb 1998
5. Mậu Thân tại
Huế của Mũ Đỏ Bùi Đức Lạc trong Đặc San Mũ Đỏ số 53 xuân 2006
6. Tết Mậu Thân - Quân Dù tiến vào Thành Nội của George C. Smith
- Việt dịch Nguyễn Văn Phúc trong ĐS GĐMĐ số 63
7. Phỏng vấn
trực tiếp các chiến hữu trong SĐND.
Bảng hướng dẫn đến các chương (bấm vào các con số sẽ đi thẳng đến chương đó):
01
|
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 |
21 |
22
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37 |
38 |
39 |
40 |
41 |
42 |
43 |
44
Mục lục
******25******
25. Mặt Trận Khe Sanh (1 - 15-4-1968)
Tổng công kích Tết Mậu Thân - 68
Mặt Trận Khe Sanh
(từ 1/4 đến 12/4/1968)
Căn cứ Khe Sanh một tiền đồn đèo heo hút ở vùng cực Bắc của Việt Nam
Cộng Hòa, tọa lạc trên một trảng cao của ngọn núi cao nhất vùng
Đông
Trị trong dãy Trường Sơn, cạnh sông Rào Quan, một chi nhánh của Sông
Quảng Trị, bao quanh bởi núi đồi và cây rừng trùng điệp. Phía Bắc và
Tây Bắc có 4 ngọn đồi án ngữ là 881 Bắc, 861, 558 và 881 Nam. Các
ngọn đồi này được dùng như là các tiền đồn để bảo vệ căn cứ cũng như
quan sát để xác định các vị trí pháo và phòng không của địch. Khe
Sanh chỉ cách biên giới Lào-Việt chừng 6 miles (10km) trên con đường
số 9 chạy theo hướng Đông-Tây nối liền Đông Hà thuộc tỉnh Quảng Trị,
ngang qua Cam Lộ, Cà Lu, xuyên qua biên giới Lào-Việt tới tận
Savannakhet bên Lào. Căn cứ Khe Sanh cách vùng Phi Quân Sự 14 miles
(23km) về phía Nam.
Khi xưa, vì thuộc địa Lào nằm trong đất
liền nên người Pháp xây dựng đường số 9 để thông thương ra vùng bờ
biển Việt Nam. Trong cuộc chiến Việt Nam, đường số 9 là trục lộ
chiến lược quan trọng được cộng quân xử dụng để xâm nhập người và vũ
khí từ bên Lào vào các tỉnh cực bắc Việt Nam Cộng Hòa.
Về
phương diện hành chánh, Khe Sanh thuộc quận Hướng Hóa, tỉnh Quảng
Trị với quận đường đặt gần làng Khe Sanh. Về mặt quân sự, Chi Khu
Hướng Hóa do một Đại úy chỉ huy, gồm chừng một đại đội Địa Phương
Quân (ÐPQ) và Nghĩa Quân (NQ) cùng một số cảnh sát. Thông thường có
thêm một Tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 2, Sư Đoàn 1 Bộ Binh tăng phái
hoạt động trong vùng cùng một Pháo Đội 105ly (-) với 2 khẩu đặt tại
sân bay Khe Sanh và 2 khẩu đặt tại Làng Vei. Sau này, vì tình hình
an ninh không đuợc khả quan nên Quận Hướng Hóa được di chuyển về
vùng Cùa gần căn cứ Mai Lộc.
Về dân cư, vì là vùng đồi núi
hoang dã, khí hậu khắc nghiệt nên chỉ có chừng trên ngàn người Việt
cư ngụ, đa số là thân nhân và gia đình nhân viên, binh sĩ phục vụ
tại chi khu Hướng Hóa. Sắc tộc thiểu số Bru đông hơn, tổng cộng
chừng 50,000 người sống rải rác trên các đồi, núi dọc biên giới Lào,
nhưng qui tụ khá đông đảo tại hai làng Khe Sanh và Làng Vei dọc
đường số 9. Cũng như những sắc dân thiểu số khác như Rha-dê, Hrê,
v.v. tại miền Trung và Bắc Việt Nam, giống Bru thuộc chủng loại Mã
Lai-Polynesia nên đen đúa và khá lực lưỡng.
Tuy đường số 9
chỉ là một trục giao thông nhỏ, coi như bị bỏ hoang từ lâu, nhưng
khu vực này lại là một chiến trường quan trọng, nơi xảy ra nhiều
trận đánh lớn. Lý do vì con đường này dẫn sang Lào, giao tiếp với
đường mòn HCM, lại nằm trong vùng đồi núi hiểm trở nên rất thuận
tiện cho quân Bắc Việt đưa người và vũ khí xâm nhập các tỉnh Quảng
Trị và Thừa Thiên. Để ngăn chận đối phương, người Mỹ đã lập hàng rào
điện tử McNamara theo hình vòng cung dọc theo mặt Bắc đường số 9,
hướng Đông kéo dài từ Cửa Việt tới Khe Sanh gần biên giới Lào. Như
vậy, Khe Sanh là điểm cực Tây của hàng rào Mc Namara nằm trong phần
đất Việt Nam, giữ nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo kỹ thuật và
chiến lược của quân lực Mỹ nhắm vào các hoạt động di chuyển, xâm
nhập của các đại đoàn chính quy CSBV cơ động sát vùng Bắc Vĩ Tuyến
17 và phía Tây biên giới Việt-Lào cũng như trên lãnh thổ Lào. Thủy
quân lục chiến Mỹ có 3 Tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 26 đóng quân trong
căn cứ Khe Sanh. Đó là các Tiểu Đoàn 1, 2, 3 và Tiểu Đoàn 13 Cơ giới
cùng một đơn vị Tình Báo chiến lược.
Bản đồ vùng Khe Sanh của Trần Đỗ Cẩm vẽ
Năm 1968 Khe Sanh trở thành một địa danh
nổi tiếng được nhắc nhở đến nhiều nhất. Đó là thời điểm của Trận
Chiến Tết Mậu Thân khi Việt cộng khởi đầu chiến dịch tổng tấn công
trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Trong chiến dịch này, 20,000
bộ đội Bắc Việt đã được huy động để bao vây 6,000 Thủy Quân Lục
Chiến HK cùng Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân VNCH. Nhưng Khe Sanh đã
chẳng thất thủ. Trận chiến kéo dài 77 ngày và cộng quân hứng chịu
hơn 10,000 tổn thất nhân mạng.
Ngày 19/1/1968 Một đơn vị TQLC
Mỹ tảo thanh vùng đồi 881 Bắc đã đụng độ dữ dội với cộng quân. Chiều
ngày hôm sau một Trung úy CSBV tên Lã Thanh Tòng, Đại đội trưởng
pháo đội 14 phòng không thuộc trung đoàn 95/SĐ325 về đầu thú, và
tiết lộ kế hoạch tấn công căn cứ Khe Sanh. Trung úy Tòng cho biết
đêm nay Bắc quân sẽ mở cuộc tấn công lên các ngọn Đồi 861 và
881-Bắc. Ngoài ra, người tù binh cũng tiết lộ rằng hai sư đoàn 304
và 325C của Bắc Việt đã vạch sẵn kế hoạch đánh chiếm căn cứ Khe
Sanh.
Ngày 20/1/1968 đúng như lời tiết lộ của Trung úy Tòng,
nửa đêm hôm đó sau nửa giờ pháo kích, lực lượng CSBV khoảng 300 cán
binh xung phong lên đồi tấn công vào căn cứ. Nhưng lực lượng trú
phòng Đại Đội K/3/26 đã chuẩn bị sẵn sàng tác chiến phản công. Trận
đánh kéo dài đến 5 giờ 30 sáng, cộng quân rút lui để lại 47 xác.
Phía bên Đại Đội K/3/26 có một binh sĩ TQLC bị tử thương.
Sáng ngày 21/1/1968, căn cứ bị pháo dữ dội hằng ngàn quả đạn, kho
bom dự trữ bị nổ tung, nhiều phi cơ trực thăng bị hư hại, phi đạo ở
Khe Sanh với chiều dài 3,900 feet (1,188m) bị cày xới lung tung, rút
ngắn lại chỉ còn 2,000 feet (609m) đài kiểm lưu bất khiển dụng,
nhiều dụng cụ quan trắc khí tượng bị hư hỏng... Tình hình trở nên vô
cùng nghiêm trọng.
Ngày 22 tháng 1/1968, trước tình hình nguy
ngập. Tiểu Đoàn 1/9 TQLC Hoa Kỳ được trực thăng vận đến tăng viện
cho Khe Sanh. Đây là một đơn vị thuộc Trung Đoàn 9 đã nổi danh trong
trận đánh tại Cồn Thiện (Cồn Tiên) gần vùng phi quân sự vào năm 1967
vừa qua.
Ngày 25/1/1968 Thiếu tướng J. J. Tolson,
Tư lệnh Sư Đoàn 1 KBKV, bắt đầu soạn thảo kế hoạch chuẩn bị một cuộc
hành quân để giải tỏa căn cứ Khe Sanh.
Ngày 27/1/1968 Bộ Tư
Lệnh Quân Đoàn 1 VNCH đã gởi Tiểu Đoàn 37 BĐQ và một Đại Đội thuộc
Tiểu Đoàn 21BĐQ do Đại úy Hoàng Phổ Tiểu Đoàn Trưởng TĐ37BĐQ chỉ
huy, được không vận đến để tăng viện cho lực lượng phòng thủ Khe
Sanh thành 5 Tiểu Đoàn bảo vệ căn cứ. Đại tá Lownds, chỉ huy căn cứ
Khe Sanh lúc đó, cũng là Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 26 TQLC Hoa Kỳ
dành cho tiểu đoàn 37 vị trí đóng quân nằm cuối phi đạo, ngoài hàng
rào phòng thủ 100 thước gần chỗ pháo binh và nơi chứa đạn phế thải.
Đơn vị BĐQ này rất sốt sắng mặc dù các binh sĩ BĐQ phải ở ngoài căn
cứ vì không được sự tin tưởng của người Hoa Kỳ. Về sau TĐ37BĐQ đã
chiến đấu rất anh dũng và được các quân nhân Hoa Kỳ rất thán phục.
Như vậy, ngoài 6,000 TQLC Hoa Kỳ và một Tiểu Đoàn thiện chiến
Biệt Động Quân Việt Nam, Khe Sanh lại được phòng thủ bởi hỏa lực
pháo binh gồm một pháo đội súng cối 106ly, 3 pháo đội đại bác 105ly,
và một pháo đội đại bác 155ly. Về thiết giáp, Khe Sanh có 5 xe tăng
loại M-48 và 2 chi đội chiến xa M-50 Ontos với 6 khẩu đại bác 106ly
trên mỗi chiếc. Về hỏa lực yểm trợ quanh vùng, Khe Sanh nằm trong
tầm tác xạ hỏa yểm của 4 pháo đội đại bác 175ly từ căn cứ Rock Pile
và 3 pháo đội 175ly từ căn cứ Carroll.
Trong khi đó tin tức
tình báo ghi nhận lực lượng cộng sản cũng hùng hậu không kém hiện
diện chung quanh Khe Sanh. Có ít nhất 3 sư đoàn và thêm một số đơn
vị biệt lập hỗ trợ khác. Các đơn vị cộng sản được ghi nhận như sau:
- SĐ325 CSBV đang hiện diện quanh quẩn tại phía Bắc đồi 881 Bắc
- SĐ304 từ Lào cũng đã xâm nhập vào VN và hiện đang có mặt tại phía
Tây-Nam của Khe Sanh.
Bản đồ Căn cứ Khe Sanh
- Một
Trung Đoàn của SĐ324CSBV cũng được phát giác tại khu phi quân sự
cách Khe Sanh chừng 24km về hướng Tây Bắc
- SĐ320CSBV đang ở
phía Bắc căn cứ hỏa lực Rock Pile, cũng có thể tiếp ứng cho mặt trận
Khe Sanh
- Ngoài ra, cộng sản còn huy động thêm một đơn vị
Thiết Giáp với chiến xa T-54 cùng hai Trung đoàn 68 và 164 Pháo
Binh.
Theo ước tính của các cơ quan tình báo liên quân
Việt-Mỹ, quân số tham chiến của cộng quân tại chiến trường Khe Sanh
vào lúc đó đã lên đến khoảng 50 ngàn quân, trong đó 4/5 là lực lượng
chính quy CSBV.
Ngày 30 tháng 1 cộng sản mở chiến dịch “Tổng
Công Kích - Tổng Khởi Nghĩa” trên toàn lãnh thổ Nam Việt Nam. Có tất
cả 25 tỉnh lỵ và thị trấn trong số 44 Tỉnh của VNCH bị tấn công,
trong đó có Huế và Sài Gòn là hai thành phố xảy ra những vụ đụng độ
lớn nhất.
Từ ngày 5/2/1968 (mồng 7 Tết) cộng quân bắt đầu
liên tục pháo kích, tấn công bằng bộ binh và bao vây quanh vòng đai
căn cứ chiến lược Khe Sanh. Địch quân đã phối trí rất nhiều vị trí
phòng không xung quanh căn cứ và các dàn pháo 130ly đặt sâu trong
các sườn núi từ phía biên giới Lào, cách Khe Sanh khoảng 20km, y hệt
như chiến thuật sử dụng tại Điện Biên Phủ năm 1954. Nhưng lực lượng
trú phòng đã phản công chống trả quyết liệt gây nhiều tổn thất cho
địch quân.
Đêm 6 rạng 7 tháng 2/1968, Quân CS Bắc Việt sử
dụng một biệt đội thiết vận xa PT-76 có bộ binh tùng thiết và 1
trung đoàn chủ lực tấn công vào trại Lực lượng Đặc biệt tại Làng
Vei, cách Khe Sanh 6 miles (10km) về hướng Tâỵ. Trại này do Trung tá
Schungel chỉ huy gồm 1 phân đội Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ 24 người
và khoảng 900 Dân sự Chiến đấu (Biệt kích quân biên phòng) phần lớn
là dân thiểu số miền núi tỉnh Quảng Trị. Ngày hôm sau, 7/1/1968,
trại này bị tràn ngập bởi lực lượng cộng quân, một số đông binh sĩ
và cố vấn do Trung tá Schungel chỉ huy phải rút về Khe Sanh.
Bản đồ khu giới tuyến và QL-9 của Trần Đỗ Cẩm
Ngày
9/2/1968 một Tiểu đoàn CSBV thuộc Trung Đoàn 101D của Sư Đoàn 325
tấn công đồi 64 do Đại Đội A/1/9 TQLC trấn giữ. Các vị trí phòng thủ
trên đồi bị Bắc quân tràn ngập. Không chút chậm trễ, các khẩu đại
bác quanh vùng đều nhắm hướng đồi 64 và tác xạ. Một lực lượng TQLC
khác được gởi đến tiếp viện. Trong 3 tiếng đồng hồ máu lửa này có
200 bộ đội Bắc Việt chết và 26 binh sĩ Hoa Kỳ tử thương.
Sau
trận đánh ở Đồi 64 này, quân Bắc Việt tạm ngưng các hoạt động để bổ
sung quân số. Chiến trường lắng dịu trong hai tuần. Ngày 11 tháng 2,
cộng quân gia tăng pháo kích vào phi đạo, việc tiếp tế cho quân trú
phòng đã gặp khó khăn. Các vận tải cơ C-130 đáp xuống phi đạo trở
thành mục tiêu của các họng pháo cộng quân nhắm vào, hai phi cơ vận
tải C-130 đáp xuống Khe Sanh, một chiếc bị nổ tung vì trúng đạn pháo
kích bốc cháy trên phi đạo 6 nhân viên phi hành đoàn bị tử thương.
Chiếc thứ hai cũng bị hư hỏng và được gấp rút sửa chữa rồi bay “khập
khễnh” về phi trường Đà Nẵng.
Ngày 21/2/1968 bỗng nhiên quân cộng
sản gia tăng pháo kích, chúng bắn vào căn cứ 50 đạn đại bác, 70 hỏa
tiễn và 250 viên đạn súng cối. Vào xế trưa, chúng dùng một tiểu đoàn
tấn công vào tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân tại khu
vực hướng Đông căn cứ Khe Sanh. Nhưng các binh sĩ Mũ Nâu vẫn giữ
vững phòng tuyến, giết 25 cộng quân trong khi tổn thất về phía ta
được coi là nhẹ.
Hai ngày sau 23/2/1968, quân CSBV tập trung
pháo binh để phục hận. Một nghìn ba trăm (1,300) quả đạn đủ loại đã
được bắn vào Khe Sanh. Trận địa pháo 8 tiếng đồng hồ này đã làm nổ
tung một kho tồn trữ đạn trong căn cứ, gây thiệt mạng cho 10 quân
nhân Hoa Kỳ và 51 người khác bị thương.
Khoảng 9.30 giờ đêm
29/2/1968, một Tiểu đoàn cộng quân (thuộc Sư Đoàn 304 CSBV) đánh
thẳng vào mặt Đông của Khe Sanh. Đây là khu vực trách nhiệm của TĐ37
Biệt Động Quân VNCH. Sau một màn pháo kích dọn đường, và ba lần biển
người xung phong, CSBV cũng không phá được phòng tuyến thép. Đêm hôm
đó, các binh sĩ Biệt Động Quân bình tĩnh chiến đấu. Họ đợi đối
phương xung phong đến thật gần rồi mới khai hỏa. Tiểu Đoàn 37 Biệt
Động Quân đã chống trả mãnh liệt. Kinh nghiệm chiến đấu và sự gan dạ
của họ chính là một trong các yếu tố quan trọng giúp đẩy lui cả 3
lần xung phong của Bắc quân. Ngày hôm sau, kiểm điểm tình hình chiến
trận họ đếm được 78 xác chết địch quân trên trận địa cùng tịch thu
được 12 súng và một số bộc phá để phá hàng rào kẽm gai.
Sau
nhiều ngày thảo luận tình hình chiến sự, sau cùng Tướng Westmoreland
chấp thuận kế hoạch hành quân giải vây Khe Sanh. Hành quân mang tên
Pegasus về phía Mỹ và về phía VNCH nằm trong kế hoạch Hành Quân Lam
Sơn 207A. Cả hai cuộc hành quân đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu
tướng J. J. Tolson. Lực lượng tham dự hành quân gồm có:
1. Lữ
Đoàn I KBKV với Lữ Đoàn Trưởng là Đại tá J. F. Stannard
2. Lữ
Đoàn II KBKV với Lữ Đoàn Trưởng là Đại tá J. C. Mc Donough
3. Lữ
Đoàn III KBKV với Lữ Đoàn Trưởng là Đại tá H. S. Campbell
4.
Trung Đoàn 26 TQLC với Trung Đoàn Trưởng là Đại tá D. E. Lownds
5. Trung đoàn 1 TQLC
6. Chiến Đoàn III Nhảy Dù–VNCH trách
nhiệm khu vực phía Bắc quốc lộ 9 và phía Tây căn cứ Khe Sanh gồm 3
Tiểu Đoàn dưới quyền chỉ huy của Trung tá Nguyễn Khoa Nam.
-
Tiểu Đoàn 3ND – Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu tá Trần Quốc Lịch
-
Tiểu Đoàn 6ND – Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu tá Trương Vĩnh Phước
-
Tiểu Đoàn 8ND – Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu tá Nguyễn Văn Thọ.
Bộ Tư Lệnh hành quân đóng tại căn cứ Stud gần Cà Lu. Quân số tham
chiến lên đến khoảng 20,000 người với sự yểm trợ bởi 300 trực thăng,
148 khẩu pháo binh.
Ngày 25/3/1968 Thiết Đoàn 1/9 KBKV (the
1st Squadron, 9th Cavalry of the 1st Cavalry Division) dưới quyền
chỉ huy của Trung tá R. W. Diller sử dụng trực thăng trinh sát dọc
theo QL-9 hướng về Khe Sanh để thu thập tin tức về địch quân, xác
định các vị trí bãi đáp trực thăng đồng thời tiêu diệt các ổ phòng
không của địch.
Sáng ngày 30/3/1968, SĐ3TQLC Mỹ phối họp với
SĐ1BB QLVNCH hành quân nghi binh tại vùng Côn Thiện và Gio Linh. Lực
lượng của Mỹ hợp thành lực lượng đặc nhiệm Kilo trong khi cánh quân
SĐ1BB QLVNCH nằm trong kế hoạch Lam Sơn 203. Cuộc hành quân chấm dứt
lúc trưa ngày 1/5/1968. chỉ có những cuộc chạm súng lẻ tẻ không đáng
kể.
Ngày 1/4/1968 cuộc hành quân chính thức khai diễn. Hai
Tiểu Đoàn 2/1 và 1/3 TQLC Mỹ từ Cà Lu tiến dọc hai bên đường QL-9
hướng về Khe Sanh để bảo vệ cho TĐ11 Công Binh tu sửa lại con đường
này. Trong khi đó 3 Tiểu Đoàn thuộc Lữ Đoàn III KBKV được trực thăng
vận đổ xuống các bãi đáp phía trước cách Khe Sanh khoảng 5 dặm.
Ngày 2/4/1968 liên tiếp 2 ngày, hai Lữ đoàn I và II KBKV được
thả xuống phía Nam căn cứ Khe Sanh và đường số 9 tảo thanh quanh khu
vực đồn điền của người Pháp khi xưa.
Sau khi được thả xuống
bãi đáp, TĐ1/5KBKV hướng về mục tiêu đồn Pháp cũ, đã đụng độ với một
Tiểu Đoàn cộng quân đang cố thủ tại đây,TĐ1/5KBKV bị thiệt hại nặng,
Trung tá Runkle Tiểu Đoàn Trưởng bị tử thương. TĐ2/5KBKV được lệnh
vào thay thế nhưng cộng quân đã rút lui.
Trong khi đó, các
đơn vị phòng thủ bên trong căn cứ Khe Sanh, TĐ1/9TQLC cũng bắt đầu
tấn công ra về phía Nam để chiếm lại ngọn đồi 471 theo chiến thuật
gọng kềm, ép đơn vị Tiểu Đoàn 7 Trung Đoàn 66 địch quân vào giữa.
Cộng quân cố thoát ra khỏi vòng vây nhưng với hỏa lực hùng hậu của
các đơn vị tham chiến, cộng quân phải rút chạy và bỏ lại chiến
trường 148 xác.
Ngày 4/4/1968 Các Tiểu Đoàn 3, 6 và 8 Nhảy Dù
thuộc CĐIIIND QLVNCH được thả xuống khu vực LZ Snake phía Tây và Tây
Nam căn cứ Khe Sanh. (bên ngoài và phía sau vị trí của địch quân
đang bao vây căn cứ.) để chận đường lui binh của địch.
Tiểu
Đoàn 3 Dù của Thiếu tá Trần Quốc Lịch được trực thăng vận xuống phía
Tây Nam của đồi 471, Tiểu Đoàn 6 Dù của Thiếu tá Trương Vĩnh Phước
được thả về phía Bắc của TĐ3ND. Tiểu Đoàn 8 Dù của Thiếu tá Nguyễn
Văn Thọ cùng với Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn và một pháo đội 105ly được
thả về khu vực phía Bắc Làng Khe Sanh cách TĐ6ND khoảng 2 đến 3km.
Vừa được thả vào buổi chiều, thiết lập xong các công sự phòng
thủ thì TĐ8ND cùng với Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn bị địch quân tấn công
phủ đầu vào buổi tối vì chúng nghĩ rằng đây là một đơn vị của Hoa
Kỳ. Bị chống trả mãnh liệt, địch phải tháo lui. Trong trận này, Tham
Mưu Trưởng Chiến Đoàn là Thiếu tá Bùi Văn Thạch, cùng khóa 3 Thủ Đức
với Trung tá Nam, tử trận.
Ngày 6/4/1968 các đơn vị KBKV đã
bắt tay được với TQLC bên trong căn cứ tại đồi 471. Sau đó TĐ 1/9
TQLC bắt đầu càn quét khu vực chung quanh căn cứ khởi đi từ ngọn đồi
552 rồi đến đồi 681, không gặp một kháng cự nào của địch. Cùng lúc
đó về mặt Bắc, TĐ2/26TQLC cũng tiến ra ngọn đồi 558. Mũi tiến quân
này gặp sự chống trả mạnh mẽ của cộng quân; trận chiến phải mất hết
2 ngày mới bứng hết các ổ kháng cự.
Ngày 7/4/1968 trong khi
tiến về Khe Sanh dọc theo QL-9, TĐ2/7KBKV đã chạm địch mạnh tại địa
điểm chỉ cách Khe Sanh chừng 2 dặm. Để 3 Đại Đội cầm chân địch quân
ở mặt trận chính, Đại Đội thứ tư lòn ra sau bọc hậu, mới đánh bật
được cộng quân ra khỏi các công sự phòng thủ. Cũng trong ngày này
các Tiểu Đoàn Nhảy Dù Việt Nam đã chạm địch, Sau khi TĐ3ND và TĐ6ND
đáp xuống vị trí ổn định, Trung tá Nam Chiến Đoàn Trưởng cho lệnh
các đơn vị mở rộng đội hình tác chiến, dàn hàng ngang tiến vào phía
căn cứ.
Khi biết có đơn vị Nhảy Dù VN tăng cường, binh sĩ TQLC bên trong
căn cứ lên tinh thần nên khi lực lượng Nhảy Dù chạm địch, bên
trong căn cứ cũng bắn ra dữ dội. Do đó địch quân bị kẹt giữa hai
lằn đạn, vì quá gần trong khoảng cách không quá 200m, biết không
thể tiến cũng không thể thoát được, địch quân gọi pháo tác xạ
vào ngay lên đội hình của chúng nên bị chết rất nhiều, một số bị
bắt sống, bên ta cũng bị tổn thương khá cao. Đại Đội 33 Nhảy Dù
bị tổn thất nặng nhất: Đại úy Nguyễn Đức Cần, ĐĐT cùng 2 Chuẩn
úy Trung Đội Trưởng bị tử thương. Một Thiếu úy Trung Đội Trưởng
bị thương, chỉ còn một Trung Đội Trưởng là Thiếu úy Trương Văn
Dũng không bị thương tích. Bị dồn ép và không chịu nổi bị tấn
công từ nhiều phía, địch quân bắt buộc phải bỏ chạy.
Sau
đó Lực lượng Nhảy Dù trở lại hành quân giải tỏa Làng Vei lúc này
vẫn do một tiểu đoàn CSBV chiếm đóng, còn dân chúng thì đã di
tản ra khỏi vùng. Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, tương đối còn nguyên vẹn,
được lệnh chuyển hướng về phía Nam để án ngữ sườn phía Bắc của
Làng Vei trong khi đó một lực lượng của Sư Đoàn 101 Hoa Kỳ tiến
từ hướng Đông. Ngay hôm đó, Truyền Tin TĐ3ND dò tần số địch biết
được địch đang tăng viện thêm hai tiểu đoàn, một tiểu đoàn chận
đánh TĐ6ND còn tiểu đoàn kia hỗ trợ cho Làng Vei, liền báo cáo
về Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn. Tiểu Đoàn 6 Dù được lệnh dừng quân
chuyển qua đội hình phòng thủ. Chưa kịp đào công sự chiến đấu
thì TĐ6ND đã bị địch xung phong. Tiểu đoàn 3 Dù bắn yểm trợ
khoảng 100 đạn súng cối trên hướng tiến quân của địch. TĐ6ND nhờ
chuẩn bị trước nên phản công quyết liệt, địch phải rút lui trước
sự chống trả của các chiến sĩ Dù. Bác Sĩ Nghiêm Sĩ Tuấn, Y Sĩ
Trưởng của Tiểu Đoàn 6 Dù tử thương. Các lực lượng Hoa Kỳ sau đó
đã sử dụng tối đa ưu thế của không quân chiến thuật oanh kích
các tiểu đoàn địch khiến họ phải rút về biên giới Lào.
Sau cuộc hành quân Pegasus này, các đơn vị của cộng sản Bắc Việt
đang được điều động đến khu vực Khe Sanh phải bỏ dở ý định tấn
công vì không muốn làm mồi cho hỏa lực Không Quân và Hải Quân
Hoa Kỳ do đó áp lực địch vào căn cứ Khe Sanh giảm đi và thế là
giấc mơ tạo dựng một chiến thắng quân sự như kiểu Điện Biên Phủ
của Võ Nguyên Giáp để eo sèo đòi hỏi Mỹ và VNCH nhượng bộ kể như
không thành. Các binh đoàn dưới quyền chỉ huy của ông bị mất từ
10 đến 13,000 bộ đội. Nhiều đơn vị bị xóa tên dưới hỏa lực hùng
hậu của pháo binh và không yểm.
Ngày 8/4/1968 Căn cứ Khe
Sanh hoàn toàn được giải tỏa sau 77 ngày bị cộng quân vây hãm,
các đơn vị tham chiến tung quân càn quét các khu vực xung quanh,
chỉ một vài cuộc đụng độ lẻ tẻ quanh ngọn đồi 881 Bắc.
Thiếu tướng Dư Quốc Đống và Trung tá Nguyễn Khoa Nam duyệt quân
Tổng kết về cuộc hành quân Pegasus thiệt hại về phía đồng minh
41 Bộ Binh Mỹ, 51 TQLC Mỹ và 33 quân nhân VNCH bị tử trận và 667
Mỹ, 187 Việt bị thương, đổi lại 1,304 quân CSBV bỏ xác tại trận
và 23 tù binh (chưa kể số thiệt hại vì pháo đài B-52 và Pháo
binh tác xạ)
Cuộc hành quân Lam Sơn 207A chính thức kết
thúc vào ngày 15/4/1968 Lữ Đoàn IIIND được đưa về Huế để tham dự
một cuộc hành quân mới ‘Lam Sơn 216’ chiếm lại thung lũng
A-Shau.
Sau này, có người nhận xét cho rằng tướng Giáp
muốn dụ Hoa Kỳ dồn quân vào Khe Sanh để quân cộng sản có thể
rảnh tay tấn công các vùng khác. Người khác lại cho rằng ông
Giáp bao vây Khe Sanh với lý do muốn tạo dựng một chiến thắng
như Điện Biên để buộc Hoa Kỳ phải nhượng bộ. Trong khi đó, một
số tài liệu chiến sử Hoa Kỳ lại nghĩ rằng tướng Westmoreland đã
“tương kế tựu kế.” Ông mong cộng quân sẽ tập trung nhiều binh
đoàn gần Khe Sanh để ông có thể dùng hỏa lực pháo binh và phi cơ
tiêu diệt. Nhưng lịch sử đã đổi chiều không phải của Điện Biên
Phủ 14 năm về trước. Năm 1968, Hoa Kỳ có đầy đủ phương tiện để
phòng thủ, yểm trợ, và tiếp tế Khe Sanh trong 77 ngày, hoặc lâu
dài hơn nếu cần thiết. Phía bên kia, cộng quân đã không chiếm
nổi Khe Sanh, mà lại còn bị thiệt mất từ 10 đến 13,000 bộ đội.
Đó là chưa kể thiệt hại trên các phương diện khác như quân cụ,
chiến thuật, cùng hàng ngàn thương binh.
Tài liệu tham khảo:
1. Trận chiến Tết Mậu Thân 1968 của Phạm Văn Sơn trên trang
nhà History of the Viet Nam War
2. Chiến tranh Việt Nam toàn
tập của Nguyễn Đức Phương, Làng Văn 2001
3. Một Cánh Hoa Dù
của Trương Dưỡng. Tác giả xb 1998
4. The War in The Northern
Provinces 1966-1968 by Lieutenant General Willard Pearson Dept
of The Army Washington, D.C., 1975
5. Bản đồ khu giới tuyến
của Trần Đỗ Cẩm
6. Khe Sanh 77 ngày trong năm 1968 của Phạm
Cường Lễ.
Bảng hướng dẫn đến các chương (bấm vào các con số sẽ đi thẳng đến chương đó):
01
|
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 |
21 |
22
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37 |
38 |
39 |
40 |
41 |
42 |
43 |
44
Mục lục
******26******
26. Mặt Trận Ashau (19/4 – 17-5-1968)
Tổng công kích Tết Mậu Thân - 68
Mặt Trận Ashau - Hành Quân Lam Sơn 216 (Delaware)
(19/4/1968 – 17/5/1968)
Thung lũng A-Shau: Thung lũng
A-Shau (còn gọi là An Hậu) cách biên giới Việt-Lào khoảng 3km, cách
thành phố Huế hơn 40km về phía
Tây-Nam.
Đây là một vị trí chiến lược quan trọng vì nằm cạnh con đường mòn
HCM và là một tiền đồn phòng thủ về phía Tây của kinh thành Huế. Từ
những năm 1961 & 1962, để chận đứng cuộc xâm nhập người và vũ khí từ
Bắc vào Nam, Quân Đoàn I đã chỉ thị Sư Đoàn 1 Bộ Binh của Đại tá
Nguyễn Văn Thiệu cùng với 10 Đại Đội Bảo An của Tiểu Khu Thừa Thiên,
tảo thanh vùng thung lũng A-Shau để thiết lập 3 trại Lực Lượng Đặc
Biệt A-Shau, A-Lưới và Tà Bạt trấn ngự các địa điểm then chốt. Địa
thế tại vùng này rất hiểm trở, mây mù bao phủ quanh năm, hạn chế tầm
quan sát của phi cơ khi muốn thám sát các trục lộ chuyển quân và vũ
khí của cộng quân. Năm 1963 Trại LLĐB A-Shau được BTL quân sự Hoa Kỳ
tăng cường Toán A-102 Hoa Kỳ gồm 10 quân nhân mũ xanh và khoảng 210
Dân Sự Chiến Đấu Việt Nam. Cuối năm 1965 dưới áp lực nặng cùa quân
CS hai trại Tà Bạt và A-Lưới được rút bỏ. Trại A-Shau từ đó trở
thành căn cứ duy nhất để phát hiện sự xâm nhập của CSBV trên đường
mòn HCM.
Năm 1966, cộng sản Bắc Việt tấn chiếm thung lũng này
sau khi tấn công tiền đồn biên phòng của Lực Lượng Đặc Biệt Việt-Mỹ
tại đây. Do không đủ quân số để chiếm lại đồn này, nên Bộ Tư Lệnh
Hoa Kỳ tại Vùng 1 và Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 1 Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)
đã cho các đơn vị trú phòng triệt thoái. Sau đó, cộng quân đã khởi
sự xây dựng căn cứ địa để tập trung các đơn vị cộng sản từ Bắc xâm
nhập vào khu vực phía Tây tỉnh Thừa Thiên.
Ngày 11 tháng 4
năm 1968, Bộ Tư Lệnh Liên quân Việt-Mỹ tại Vùng 1 Chiến Thuật khởi
động một cuộc hành quân hỗn hợp mang tên Delaware (phía Hoa Kỳ) và
Lam Sơn 216 (phía VNCH) vào ngày 19/4/1966 chỉ 4 ngày sau khi chấm
dứt cuộc Hành quân Lam Sơn 207A giải tỏa căn cứ Khe Sanh, nhằm tảo
thanh các đơn vị cộng sản Bắc Việt (CSBV) tại thung lũng này và để
tái chiếm tiền đồn A-Shau. Nơi mà cộng quân dùng làm căn cứ tiếp vận
quan trọng phát xuất các cuộc tấn công vào Huế.
Thung lũng và Căn Cứ A-Shau (cạnh phi đạo)
Lực lượng bạn:
Lực lượng tham chiến gồm
Lữ Đoàn III Nhảy Dù QLVNCH với 3 Tiểu Đoàn 3, 6 & 8ND và hai lữ
đoàn thuộc Quân Ðoàn 24 Hoa Kỳ. Lực lượng này triển khai đội
hình trên một khu vực 60km². Giao tranh diễn ra quyết liệt giữa
các đơn vị Việt-Mỹ và các trung đoàn cộng sản thuộc Sư Ðoàn 324B
và SĐ325 CS Bắc Việt.
1. Lữ Đoàn III/SĐ1KBKV Hoa Kỳ với
Lữ Đoàn Trưởng là Đại tá Hubert S. Campbell với 3 Tiểu đoàn 1/7,
2/7 và 5/7 KBKV
2. Trung Đoàn 3/SĐ1BB
3. Trung Đoàn 327 Bộ
Binh Hoa Kỳ với 2 Tiểu đoàn 1 & 2/327
4. Lữ Đoàn I/101 Nhảy
Dù Hoa Kỳ.
5. Chiến Đoàn III Nhảy Dù VNCH do Trung tá Nguyễn
Khoa Nam làm Chiến Đoàn Trưởng với hai Tiểu Đoàn 3 & 6ND.
Lực lượng địch:
1. SĐ324B CSBV.
2. SĐ325 CSBV
Diễn Tiến:
Ngay
trong giai đoạn cuối của cuộc hành quân Pegasus giải vây Khe
Sanh đang tiếp diễn, một đơn vị Trinh Sát của Trung đoàn 1/9
Thiết Kỵ (1St Squadron /9 Cavalry) của Sư Đoàn 1 KBKV Hoa Kỳ đã
không thám khu vực thung lũng A-Shau để thu thập những tin tức
về các hoạt động của địch quân tại đây. Bắt đầu từ ngày 14 đến
19/4/1968 các pháo đài B-52 liên tục oanh tạc vào các vị trí
phòng không của địch quân để chuẩn bị cho các bãi đổ quân trong
cuộc hành quân Delaware.
Ngày 16/4/1968 Chiến Đoàn III
Nhảy Dù Việt Nam được không vận từ Khe Sanh đến Huế, nghỉ ngơi 3
ngày chỉnh trang đơn vị và sau đó phối hợp với Lữ Đoàn I/SĐ101
Nhảy Dù Hoa Kỳ chuẩn bị tùng thiết để tấn công bằng đường bộ.
Bản đồ Hành quân Delaware Thung lũng A-Shau
Ngày 19/4/1968, sáng sớm, các pháo đài B-52 trải thảm trên các
vị trí của cộng quân và sau đó pháo binh tác xạ liên tục vào các
vị trí phòng không của địch. Tiếp theo đó hàng đoàn trực thăng
chuyển quân của hai phi đoàn 227 và 229 AHB khoảng 200 chiếc thả
lực lượng hỗn hợp Lữ Đoàn III/SĐ1KBKV và Trung Đoàn 3/SĐ1BB-VN
dọc theo con đường 548 và Trung Đoàn 327 Bộ Binh Hoa Kỳ vào
thung lũng A-Shau gần giao điểm của con đường 547 & 547A. Tuy
nhiên, phòng không của địch vẫn còn dầy đặc bắn vào các trực
thăng chuyển quân.
Từ hướng Đông, Lữ Đoàn I/SĐ101Nhảy Dù
Hoa Kỳ bắt đầu tiến dọc theo Tỉnh lộ 547 tiến về hướng Tây thung
lũng A-Shau tới ngã ba đường 547A giao tiếp với cánh quân của
Tiểu đoàn 1/327.
Trong khi đó Tiểu Đoàn 1&2/327BB từ bãi
đáp triển khai đội hình càn quét dọc theo con đường 547A và làm
an ninh bãi đáp cho Chiến Đoàn III Nhảy Dù-VN.
Ngày
20/4/1968 LĐIIIKBKV được tiếp tục thả xuống vùng hành quân: Tiểu
đoàn 5/7 càn quét về phía Bắc của thung lũng để chận đường lui
quân của địch sang Lào trong khi Tiểu đoàn 1/7 tấn công dọc theo
con đường 548 về phía Nam.
10.00 giờ sáng, hai TĐ
3&6/LĐIIIND-VN được thả xuống bãi đáp do TĐ1/327 giữ an ninh và
sau khi đáp xuống đất, Chiến Đoàn Nhảy Dù khai triển đội hình
tác chiến tiến về phía Bắc của thung lũng. Khi các cánh quân vừa
di chuyển ra khỏi bãi đổ quân thì bắt đầu chạm địch. Các chiến
sĩ Nhảy Dù Việt Nam đồng loạt xung phong tấn công mãnh liệt làm
địch quân hoảng hốt, giao tranh ác liệt cho đến chiều tối địch
quân đã rút lui bỏ lại tại trận hằng trăm xác đồng bọn.
Ngày 21/4/1968 cuộc hành quân bước sang ngày thứ ba, các đơn vị
tiếp tục tiến sâu hơn vào thung lũng A-Shau, các cuộc giao tranh
vẫn tiếp tục nhưng đã giảm cường độ do các đơn vị chủ lực SĐ325
của địch quân đã bỏ chạy vì sợ phi pháo. Đến buổi trưa một đại
đội của TĐ1/7 KBKV đã khám phá một khu bảo trì các cơ giới của
địch quân gồm cả xe ủi đất do Liên Xô chế tạo còn đang hoạt
động.
Buổi chiều Tiểu đoàn 2/502 Bộ Binh Hoa Kỳ được gởi
đến tăng viện cho khu vực giao tranh của CĐIIIND-VN và Tiểu Đoàn
1/327.
Ngày 22/4/1968 thời tiết ngày này tốt đẹp, các phi
cơ tham chiến yểm trơ cho quân bạn. Các cánh quân bắt đầu tấn
chiếm khu phi đạo của A-Lưới và khu trung tâm của thung lũng.
Ngày 24/4/1968 Tiểu đoàn 2/8 KBKV tiến chiếm bãi đáp phía
đầu phi đạo khoảng 2km và các đơn vị LĐIKBKV lục soát mở rộng
vòng đai xung quanh. Ở phía Nam của phi đạo, lực lượng hành quân
đã bắt gặp những hệ thống truyền tin và đài phát thanh gồm những
trang thiết bị tân tiến đồng thời khám phá ra nhiều kho quân
dụng, súng phòng không 37mm, xe molotova... Cuộc hành quân này
cày nát kho tiếp liệu CS trong thung lũng A-Shau.
Những
ngày sau cùng của tháng 4, LĐIIIND-VN giúp khai triển an ninh
khu vực thung lũng sông Rao Nho, dọc con đường 547 và 547A để
đơn vi bạn xây dựng lại những căn cứ như A-Lưới, A-Shau và Tà
Bạt. Trong thời gian này, các đơn vị chủ lực địch đã rút chạy
qua Lào gần hết chỉ còn các đơn vị nhỏ ở lại chiếm giữ các ngọn
đồi, khuấy phá các đơn vị hành quân bằng hỏa tiễn 122ly và súng
cối nên chỉ chạm địch lẻ tẻ. Cuộc hành quân Delaware chấm dứt
ngày 17/5/1968.
Trong suốt 21 ngày của cuộc hành quân,
pháo đài B-52 dội xuống thung lũng A-Shau hơn 1,000 tấn bom.
Tổng kết sau 3 tuần giao tranh, phía Bắc Việt có 850 cán binh tử
thương, 2 bị bắt, 598 vũ khí cá nhân, 37 súng cộng đồng và 5 xe
molotova còn tốt bị tịch thu, 2 chiếc thiết giáp xa PT-76 bị phá
hủy cùng nhiều tấn quân dụng, thực phẩm, thuốc men.
Phía
liên quân Việt-Mỹ có 82 tử thương, 442 bị thương, 20 trực thăng
bị bắn rớt hoặc trúng đạn hư hại. Sau đó LĐIIIND được không vận
về Sài Gòn để tham dự hành quân giải tỏa Thủ Đô trong cuộc TCK
đợt hai.
Tài
liệu tham khảo:
- Trận chiến Tết Mậu Thân 1968
của Phạm Văn Sơn trên trang nhà History of the Viet Nam War
-
The War in The Northern Provinces 1966-1968 by Lieutenant
General Willard Pearson Dept of The Army Washington, D.C., 1975
- A-Shau valley của Thomas Pilsch trên trang Web:
cc.gatech.edu/fac/Thomas.Pilsch/airops/A-Shau.html
- The
Battle of A-Shau Valley trên trang Web:
army.mil/cmh-pg/books/Vietnam/
northern/nprovinces-ch6.htm#A-Shau.
Bảng hướng dẫn đến các chương (bấm vào các con số sẽ đi thẳng đến chương đó):
01
|
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 |
21 |
22
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37 |
38 |
39 |
40 |
41 |
42 |
43 |
44
Mục lục
******27******
27. Trận Mậu Thân đợt hai (từ ngày 5-5-1968)
Tổng công kích Tết Mậu Thân - 68
Trận Mậu Thân đợt hai
(từ ngày 5/5/1968)
Sau khi thất bại qua đợt tấn công
đầu vào dịp Tết, Việt cộng vẫn không từ bỏ kế hoạch “tổng công kích,
tổng nổi dậy” của chúng. VC nghĩ
rằng
một đợt tấn công thứ hai sẽ có thể lôi kéo dân chúng Miền Nam nổi
dậy. Họ đã đánh giá sai dân tình miền Nam. Họ vẫn không hiểu được
rằng dân miền Nam được sống trong một xã hội tuy chưa hoàn hảo nhưng
tương đối tự do và chưa bao giờ thực sự tin theo VC.
Ðợt tấn
công Mậu Thân 2, khởi đầu từ ngày 5 Tháng Năm, 1968. Trong đợt này
VC tập trung nỗ lực vào những khu đông dân cư, lựa chọn những địa
thế khó xoay trở cho ta, chúng đồng loạt xâm nhập và bắn phá tại đô
thị, những khu nghèo đông dân cư, nhà cửa chen chúc và đường hẻm
chằng chịt khiến cho việc lưu thông hằng ngày và công tác cứu hỏa
rất giới hạn và khó khăn.
Song song với các tin tức tình báo
QLVNCH thu nhặt được qua cuộc hành quân Quyết Thắng, ngày 10/4/1968
Thượng tá Việt cộng tên Tám Hà về hồi chánh tiết lộ tin tức Việt
cộng đang chuẩn bị tấn công thủ đô Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định gồm
khoảng chừng trên 10,000 cán binh Việt cộng vào ngày 22 tháng
4/1968. Nhưng có thể vì lý do nào đó đã chậm lại. Lực lượng tấn công
của Việt cộng gồm 2 trung đoàn thuộc Công Trường (CT) 9, hai trung
đoàn thuộc Công Trường 5 và được tăng cường thêm chừng hai trung
đoàn địa phương gồm các Trung Đoàn 165 và Trung Đoàn Đồng Tháp.
Ngày 3/5/1968 Hoa Kỳ và Hà Nội đồng ý chọn Paris làm địa điểm
hội nghị hòa bình và ngày khởi sự sẽ bắt đầu vào ngày 10/5/1968. Do
đó Chỉ 24 giờ sau khi tin Hoa Kỳ và Bắc Việt thảo luận họp nhau ở
Paris được tung ra là Việt cộng đã mở cuộc tấn công vào Sài Gòn.
Ngày 4/5/1968 một tiếng nổ rất to do Việt cộng gây ra ở gần đài vô
tuyến truyền hình tại Sài Gòn. Khoảng 60kg chất nổ TNT được dấu trên
xe taxi. Lúc 13 giờ trưa, chiếc taxi bùng nổ gây cho 3 người chết và
khoảng 30 người khác bị thương. Một căn nhà ở gần đài truyền hình
cũng bị sập đổ. Người ta cho rằng tiếng nổ này là một hiệu lệnh của
Việt cộng phát động cho cán binh của họ mở cuôc tấn công vào thủ đô
Sài Gòn và vùng phụ cận để yểm trợ cho mục tiêu chính trị mà chúng
đã lựa chọn.
Cuộc tấn công này phát xuất lúc 03 giờ 10 ngày 5
tháng 5/1968. Lúc đầu, Việt cộng bắn những loạt trọng pháo loạn xạ
bừa bãi vào thành phố. Sau đó các đơn vị võ trang của họ xuất hiện
tại nhiều nơi. Tuy cuộc tấn công được khai diễn trên toàn quốc bằng
hỏa lực pháo kích, nhưng mục đích thật sự là cộng quân muốn chỉa mũi
dùi bộ chiến vào thủ đô Sài Gòn. Khoảng 2 giờ sáng ngày 5/5 một Tiểu
đội Ðặc công VC đã xâm nhập gần các đường Cô Giang-Cô Bắc. Chúng
xuất hiện rải truyền đơn và tuyên truyền sách động đồng bào tại các
khu chợ Cầu Muối, Cầu Kho, khu Ðề Thám-Bùi Viện.
Tiếng súng
VC cũng đồng loạt tấn công ở một vài nơi khác. Quận Tư vùng Khánh
Hội, Quận 5 khu Trần Nhân Tôn, Quận 3 khu Chùa Bà Lớn gần đường
Nguyễn Thiện Thuật, Quận Nhất khu Phan Ðình Phùng-Nguyễn Bỉnh Khiêm
gần Ðài phát thanh, Gò Vấp Kho Quân Cụ, khu Phú Thọ Hòa vùng Gia
Ðịnh đồng loạt bị VC tấn công. Vài nơi tại vùng Khánh Hội và Chợ lớn
đã bắt đầu bốc cháy. Các lực lượng võ trang Việt cộng cũng lọt được
vào một vài vùng ven đô. Sau đó lần lượt chúng bị tiêu diệt và đẩy
lui ra khỏi thành phố. (ngày 12/5/1968)
Kết quả từ 4 giờ sáng
ngày 5 tháng 5/1968 đến 18 giờ chiều, trong 8 quận đô thành lực
lượng chính phủ đã hạ được 32 Việt cộng, bắt sống 25 và tịch thu 70
vũ khí đủ loại. Về phía Cảnh Sát Dã Chiến có 6 người tử thương.
Ngày 6/ 5/1968 Việt cộng lại mở thêm mặt trận ngã tư Bảy Hiền.
Một đơn vị Việt cộng xâm nhập từ hương lộ 14 qua đường Hồ Tấn Đức,
Lê Văn Duyệt ngã tư Bảy Hiền vào nghĩa trang quân đội Pháp. Vào lúc
8 giờ 30 sáng, các khu trục cơ A-1 Skyraider được gởi đến thi nhau
dội bom vào khu nghĩa địa.
Thời gian này, TĐ7ND đang bổ sung
quân số, và huấn luyện tại chỗ trong hậu cứ, gần núi Bửu Sơn Biên
Hòa. Vào khoảng gần trưa, Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù được điều động bằng
xe, từ Biên Hòa về tiếp cứu Biệt Khu Thủ Đô.
Hướng xâm nhập thủ đô VNCH của VC trong đợt 2
Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù khởi sự xuất phát từ Ngã Tư Bảy Hiền, chia
làm 2 cánh, từ cuối đường Lê văn Duyệt tấn công vào khu nghĩa
địa. Cánh trái do Trung tá Lê Văn Ngọc TĐT, chỉ huy 3 Đại Đội,
tiến chiếm khu trường trung học Đắc Lộ, và khu “nhà thợ dệt”
phía sau trường học. Cánh phải do Thiếu tá Lê Minh Ngọc TĐP,
điều động 2 Đại Đội 71 và 73, tiến theo đường Nguyễn Văn Thoại,
về hướng Lăng Cha Cả. Nửa đường, Đại Đội 73 do Trung úy Nguyễn
Viết Thanh chỉ huy bắt đầu chạm địch. Cộng quân từ các công sự
kiên cố bằng bê tông cốt sắt trong khu nghĩa trang cũ của Pháp,
khai hỏa dữ dội vào đoàn quân Mũ Đỏ...
Các chiến sĩ ĐĐ73
Nhảy Dù hiên ngang dàn đội hình tác chiến, dùng lựu đạn khói màu
làm màn che, rồi xung phong đánh cận chiến chớp nhoáng với tiểu
liên và lựu đạn, nhanh chóng chế ngự chiến trường, chiếm lại khu
nghĩa trang, dưới sự chứng kiến và khâm khâm phục của dân chúng
và các ký giả VN và ngoại quốc...
Trận xung phong này kết
thúc với 60 Việt cộng bị hạ, 11 bị bắt sống, khoảng 100 nhà cửa
của dân chúng ở ngã tư Bảy Hiền phía bên mặt đường Lê Văn Duyệt
bị thiêu hủy. Cây xăng Shell cũng bị cháy và lực lượng Nhảy Dù
tịch thu được 30 võ khí đủ loại trong đó có một súng phòng không
và một khẩu đại bác không giật 75ly, rất may Việt cộng chưa dùng
tới. Một điều may khác là Việt cộng tới sát trường Quốc Gia
Nghĩa Tử mà chưa đột nhập được vào bên trong nơi có nhiều học
sinh lưu trú. Nếu Việt cộng chiếm được nơi này làm nơi cố thủ sẽ
gây nhiều khó khăn cho quân đội chính phủ.
Theo cung từ của tù binh Việt cộng, đơn vị tấn công tại ngã tư
Bảy Hiền thuộc một thành phần của Trung Ðoàn 272 thuộc Công
Trường 9 từ Tây Ninh kéo qua ngã vườn cao su vào khu hãng dệt
Vinatexco (bị thiêu hủy kỳ tấn công Tết Mậu Thân) và khu nghĩa
địa quân đội Pháp với mục đích tấn công căn cứ Tân Sơn Nhất và
Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù tại trại Hoàng Hoa Thám. Nhưng Việt
cộng tới trễ vào lúc trời sáng nên bị các đơn vị chính phủ chận
đánh. Toán Việt cộng xâm nhập vào nghĩa địa Pháp coi như hoàn
toàn bị tiêu diệt. Còn những phần tử khác tẩu thoát về ngã Phú
Thọ Hòa. Cánh quân của TĐ7ND tiếp tục lục soát giải tỏa cho đến
cổng Phi Long của BTL Không Quân... mãi sáng ngày 7 tháng 5/1968
các đơn vị VNCH mới thanh toán hết những cán binh Việt cộng chạy
tán loạn và ẩn núp trong trại chăn nuôi của Bộ Canh Nông. Vì vậy
mà lần đầu tiên dân chúng trong khu Ông Tạ (đa số là dân di cư
Công giáo Bắc Việt) phải chạy loạn. Con đường Nguyễn Văn Thoại
tới ngày 8 tháng 5/1968 mới mở lại sự lưu thông đều hòa.
Sau đó, TĐ7ND được lệnh đổi hướng, di chuyển ngược lại trên
đường Nguyễn văn Thoại, hướng về Chợ Lớn giải tỏa khu “nhà thờ
hầm”, xong tiếp tục tiến chiếm vùng nghĩa trang Nhị Tỳ Quảng
Đông. Nơi đây, quân Nhảy Dù đã gặp sự kháng cự rất mạnh. Cộng
quân từ bên trong khu nghĩa trang, ẩn núp trong những công trình
xây cất kiên cố, kẽm gai chằng chịt, bắn ra xối xả. Đến tối,
TĐ7ND tung khinh binh nương theo bóng đêm, len lỏi xâm nhập được
vào bên trong nghĩa trang, rồi triển khai đội hình, thanh toán
từng chốt địch, đến khuya mới làm chủ được tình hình nơi đây,
rồi sáng hôm sau, bàn giao lại cho Cảnh Sát Dã chiến.
Ngày 8 tháng 5, TĐ7ND được lệnh di chuyển bằng xe, trở ngược lại
Ngã Tư Bảy Hiền, trực chỉ lên hướng Quang Trung, đến hãng Bột
Ngọt Vị Hương Tố, để tiếp tay với TĐ1ND giải tỏa khu 18 Thôn
Vườn Trầu, ra đến xã Nhị Bình ngày 9 tháng 5/1968. Một Đại Đội
đặc công cộng quân bị bao vây tại đây, vì chúng không thể vượt
sông Sài Gòn được. TĐ7ND và TĐ1ND đã phối hợp mở cuộc hành quân
lục soát, trong hai ngày tiêu diệt đại đội này, bắt được nhiều
tù binh và vũ khí cùng tài liệu giao về cho BKTĐ. TĐ1ND cũng đã
chạm địch mạnh tại vùng Nhị Bình. Đại úy Mai Ngọc Liên,
TĐP/TĐ1ND bị tử thương tại đây.
Cũng trong ngày 8/5/1968,
một mặt trận mới nữa được mở ra tại mật khu An Phú Đông của VC.
Ngay khi cộng quân vừa phát động tấn công đợt 2, TĐ3ND đã đến
trấn đóng và lục soát mật khu này như khu chợ Cầu, vùng Tân Thới
Hiệp Hốc Môn...
TĐ3ND từ Gò Vấp xâm nhập vào mật khu An
Phú Đông. Lợi dụng khu ruộng mía rậm rạp, địch quân đã tổ chức
những hệ thống hầm hố tác chiến rất vững vàng. TĐ3ND tấn công
trực diện vào phòng tuyến địch, VC chống trả và giao tranh ác
liệt, nhưng lực lượng Việt cộng không thể cầm chân được quân
Nhảy Dù. Hầu hết các mục tiêu “ruộng mía” đều bị quét sạch. Một
số lớn bị hạ sát, một số đã ra đầu hàng. Chiến sĩ Dù đã tịch thu
một số lớn vũ khí, đạn dược và tài liệu của quân chính quy CSBV.
Mặt trận này đến ngày 11 tháng 5 mới chấm dứt hẳn. TĐ3ND rút về
án ngữ tại hãng bột ngọt ở Tân Thới Hiệp Hốc Môn.
Ngày
25/5/1968 Việt cộng lại tấn công thủ đô Sài Gòn. Lần này họ xâm
nhập qua Đồng Ông Cộ vào khu vực Ngã Năm Bình Hòa và những khu
kế cận. Họ chiếm và cố thủ trong các nhà của thường dân vô tội
để chống lại cuộc phản công của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Tại
Chợ Lớn, Việt cộng cũng xâm nhập được vào nhiều khu phố thuộc
Quận 6. Họ tổ chức chiến đấu ngay trong các khu vực đông dân cư,
chiếm mấy nhà kiên cố làm pháo đài. Các trận chiến xảy ra tại
những khu vực này vô cùng khốc liệt.
Trung Đoàn Đồng Nai
lặng lẽ xâm nhập qua các kẽ hở của vòng đai phòng thủ vào từ
ngày 23 tháng 5/1968, nhưng thực sự tới ngày 25 tháng 5 họ mới
phát động trận đánh. Đúng ra, Việt cộng chưa muốn đánh sớm nhưng
vì sự xâm nhập của họ đã bị bại lộ. Khởi sự, Việt cộng đã từ
vùng An Phú Đông xâm nhập vào thành phố Gia Định để đưa bộ chỉ
huy nhẹ của Trung Đoàn Đồng Nai với Tiểu Đoàn K3 Phú Lợi vào
trước. Toán quân này đã len lỏi vào tới khu chùa Tập Thành thuộc
Ấp 7. Họ đợi có nhiều cán binh Việt cộng khác xâm nhập thêm để
rồi từ vùng này băng qua cầu tiến tới vùng Bà Chiểu, vượt đường
Bùi Hữu Nghĩa qua Ấp 4 xã Bình Hòa, vào đường Trần Nhật Duật để
làm đà vọt vào Quận 1 ở Sài Gòn.
Nhưng khi họ đến chùa
Tập Thành thì bị quân đội Việt Nam Cộng Hòa phát giác. Liền ngay
đó, các lực lượng chính phủ được điều động đến ngăn chận và mở
cuộc hành quân tảo thanh cho nên chiến sự đã chỉ hạn chế trong
khu Ấp 7, khu cầu Sơn, cầu Băng Ky, Cây Quéo và Cây Thị.
31/5/1968 Trung Đoàn Quyết Thắng với tiểu đoàn 1 và 2 của Gò Môn
(Gò Vấp và Hóc Môn) mãi tới đêm mới từ khu Rạch Ông vượt qua
đường rầy xe lửa vào vùng Cây Thị để tăng viện cho các hoạt động
trong nội thành. Lực lượng Việt cộng khi vào thì chạm trán với
Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) và xảy ra các cuộc đụng độ ở vùng cầu
Băng Ky. Mặt trận cầu Băng Ky vì vậy lại sôi động nhưng chỉ
trong 2 ngày lực lượng Thủy Quân Lục Chiến đã dẹp tan hết các
toán Việt cộng ở đây vì Việt Cộng không có bao nhiêu. Đó cũng là
vì lực lượng chính của Việt cộng đã dồn sâu vào bên trong thành
phố, còn tại nơi đây họ chỉ có một số ít quân để bảo vệ đường
xâm nhập cho các lực lượng chi viện của họ vào.
Trong khi
đó, lực lượng Nhảy Dù đã gặp một sức chống trả mãnh liệt của
Việt cộng ở khu chùa Tập Thành. Việt cộng đã tổ chức hầm hố
quyết tử thủ khu vực này. Mãi sau 13 ngày giao tranh ác liệt,
tức là vào ngày 5 tháng 6/1968 thì quân đội chính phủ mới kiểm
soát được khu vực chùa Tập Thành.
Sáng ngày 2/6 có 3 phi
tuần dội bom xuống khu vực quanh chùa Tập Thành. Bom hạng nặng
làm rung chuyển cả khu vực. Bom vừa trút xong thì Nhảy Dù lại mở
đợt xung phong. Nhưng vẫn bị hỏa lực rất mạnh của Việt cộng cầm
chân. Đại Ðội 51 Dù do Đại úy Quân điều động xung phong 3 lần
đều bị hỏa lực dữ dội của Việt cộng ngăn chặn.
Trong kỳ Mậu Thân 1968, một
trong những vùng bị tàn phá nhiều nhất là Chợ Lớn,
một khu
vực sinh sống rất đông đảo của Hoa Kiều tại Việt Nam. Trong cuộc
tổng tấn
công này, các toán quân Việt cộng đã xâm nhập khu
Chợ Lớn để giết dân, phóng hỏa,
và tạo nên một sự náo loạn
kinh khiếp trong đô thành. Hình chụp tại một góc phố với
nhiều cán binh Việt cộng nằm chết la liệt bên lề đường. Ở đằng
sau, một toán lính
Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa đang tập trung,
tái phối trí, rồi sau đó chuẩn bị mở một
cuộc hành quân truy
kích khác để đánh đuổi địch quân ra khỏi đô thành.
(Tài liệu: NAM, The Vietnam
Experience)
Ngày 3/6/1968 Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù ở vùng chùa Tập Thành vẫn còn
ngun ngút khói lửa. Mở đầu trận này khi hai cánh quân của Tiểu
Ðoàn 5 Nhảy Dù tiến vào trận địa, các binh sĩ Nhảy Dù đã không
dùng chiến thuật đi mà là nhảy và chui, vì di chuyển trên đường
sẽ bị Việt cộng bắn, nên những người lính Nhảy Dù phải leo từ
nhà nọ sang nhà kia. Lặng lẽ đi khi tới khu vực quanh chùa thì
họ mới chạm Việt cộng. Ở vùng này có nhiều nhà xây và nhiều cây
nên VC rất có lợi thế. Lính Nhảy Dù đã cố tránh thiệt hại cho
dân chúng nên không xin pháo binh và phi cơ yểm trợ. Vào ban
đêm, Việt cộng tăng viện thêm quân và phân tán thành nhiều toán
nhỏ. Họ định lợi dụng đêm tối mở lối qua cầu Mới để vào Sài Gòn
nhưng gần chục cán binh Việt cộng đã bị hạ khi định lọt qua.
Trước quân số VC tăng thêm và địa thế ấy, sáng ngày 4 tháng
6/1968, Nhảy Dù phải dùng pháo binh và phi cơ yểm trợ. Lúc 11
giờ 00, khi máy bay Skyraider tới oanh tạc, Việt cộng đã bắn trả
dữ dội. Sau đó, hai đại đội Nhảy Dù mở cuộc tấn công xuyên vào
phòng tuyến Việt cộng, nhưng họ chỉ tiến thêm được chừng 50m.
Cũng như đêm trước, Việt cộng vẫn tìm cách rút đi nhưng không
thoát được, có 3 Việt cộng bị bắn hạ. Đại úy Trần Văn Sơn, sĩ
quan tham mưu TĐ5ND cho biết, là Việt cộng vẫn tìm lối lẩn về
phía Nam, tức là mưu toan thọc sâu vào Gia Định. Một tù binh
Việt cộng khai rằng cấp chỉ huy cho biết là Sài Gòn đã rơi vào
tay Việt cộng. Họ có nhiệm vụ vào tiếp quản. Giải thích về sự
việc bị Nhảy Dù chắn đường thì cấp chỉ huy của họ cho biết đây
chỉ là một số quân ngụy còn ngoan cố. Chính tù binh này cho biết
đơn vị tham chiến là Tiểu Ðoàn K3 thuộc Trung Ðoàn Đồng Nai và
hiện có hai tiểu đoàn Việt cộng hoạt động trong khu này.
Suốt trong 8 ngày qua, Việt cộng tử thủ tại nơi này, dựa trên
một địa thế thật hiểm trở, nào là những hàng tre kín mít, chằng
chịt, nào là cây cối rậm rạp, nào là nhà cửa san sát. VC biết
rằng vì sợ sinh mạng và tài sản của dân chúng bị hư hại nên
QLVNCH sẽ không mạnh tay tấn công vào những nơi chúng đang trú
ẩn, vì vậy chúng ta không thể nhanh chóng thanh toán bọn CS,
trong khi chúng chỉ có trên dưới một tiểu đội. Trong nhiều
trường hợp, VC còn bắt giữ dân chúng làm con tin hoặc bia đỡ đạn
cho chúng. Việt cộng lại đào hầm hố kiên cố ẩn nấp. Nên các lực
lượng hai bên rình nhau như mèo với chuột, bên nào hở cơ để lộ
mục tiêu thì bên kia bắn.
Không tiến được, quân đội lại
phải dùng phi cơ và pháo binh oanh kích vào phòng tuyến tử thủ
của Việt cộng. Đạn đại bác chỉ nổ cách phòng tuyến Nhảy Dù độ
50m. Từ 18 giờ trôi qua người ta ghi nhận có đến 16 phi tuần đã
oanh tạc xuống khu vực trên. Sau hơn 10 ngày, cuộc giao tranh ở
đây vẫn tiếp diễn khốc liệt. Mỗi ngày các cánh quân Việt Nam
Cộng Hòa chỉ tiến được mấy trăm thước, càng tiến vào càng thấy
khó khăn vì đường ngang ngõ ngách như mạng nhện. Thêm vào đó nơi
đây trước kia là nghĩa trang mà nay dân chúng làm nhà trên đó,
mồ mả ở ngay cả trước nhà. Quân đội và Việt cộng vẫn rình mà bắn
nhau. Không Quân vẫn yểm trợ. Nhảy Dù phải tiến chiếm từng căn
nhà một cách chậm chạp.
Lực lượng Thủy Quân Lục Chiến
được tung vào để tiếp tay với Nhảy Dù ở mặt trận Cây Quéo. Mặt
trận ngày hôm nay có vẻ quyết liệt. Bom lửa được xử dụng. Hướng
tiến quân cũng được bất thần đổi chiều để đánh xuyên hông Việt
cộng. Mọi ngày hướng tiến quân từ Nam lên Bắc, nhưng tới hôm nay
thì đổi khác. Lực lượng của Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù song
song nhau đánh từ Tây qua Đông. Lẫn trong tiếng bom nổ thỉnh
thoảng lại có tiếng súng nhỏ và tiếng lựu đạn điểm thêm. Đại úy
Sơn thuộc Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù cho biết là để tránh bom khi máy
bay tới, Việt cộng thường mò vào sát tuyến của ta. Một cuộc tiến
quân hết sức gay go từ sáng đến chiều, mặt trận quanh vùng chùa
Tập Thành mới được giải quyết. Thủy Quân Lục Chiến chiếm chùa
lúc 17 giờ 30 sau 13 ngày giao tranh. Trong lúc đó Nhảy Dù tiếp
tục mở những cuộc lục soát truy kích quân địch quanh vùng chùa
Tập Thành. Trong cuộc hành quân này, Nhảy Dù hạ được 8 Việt
cộng, bắt sống 5, tịch thu 10 súng đủ loại. Về phía Thủy Quân
Lục Chiến, họ hạ được 24 Việt cộng, bắt sống 16, tịch thu 13 AK
và 3 khẩu B-40, B-41.
Trong những ngày kế tiếp, Nhảy Dù
và Thủy Quân Lục Chiến phối hợp cùng nhau hành quân lục soát
vùng này và được coi như quét sạch hẳn. Nhảy Dù khám phá được
một hầm chôn xác địch tập thể gồm 56 xác. Tiểu đoàn Nhảy Dù phải
làm nhiệm vụ thu dọn chiến trường, nhặt chôn các xác chết mùi
thối bốc lên nồng nặc để dân chúng khỏi kinh sợ khi trở về.
Tổng kết trận này, riêng Nhảy Dù hạ được khoảng trên 100
Việt cộng, bắt sống 10, tịch thu gần 30 súng. Còn tại xóm Thơm,
quân đội hạ 5 Việt cộng, bắt sống 8, tịch thu 5 súng AK, 1 khẩu
B-40, 1 B-41, 1 M-79 và 1 súng lục Trung Cộng. Bên quân đội có
một Hạ sĩ quan tử thương.
Ngày 5/6/1968 Chấm dứt mặt trận
khu Tập Thành. Chiến trận lại chuyển sang vùng Cây Quéo. Việt
cộng đã bị quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) bao vây dồn trong
khu tứ giác Ngô Tùng Châu, Hoàng Hoa Thám, Lê Quang Định và một
con đường không tên. Trong khi dó, Việt cộng định lòn qua xóm
Thơm để đánh vào các khu vực gần Bộ Tổng Tham Mưu. Các cấp chỉ
huy CSBV muốn mở mặt trận lan rộng ra đã bị các lực lượng Việt
Nam Cộng Hòa kềm chế nên chấm dứt ngày 11 tháng 6/1968 do Việt
cộng tự động rút đi sau khi bị thiệt hại quá nặng. Vào lúc 2 giờ
20 sáng ngày 4 tháng 6/1968, một đơn vị của Liên Ðoàn Trần Hưng
Đạo chạm súng với Việt cộng tại vùng Xóm Thơm gần Bộ Tổng Tham
Mưu. Lúc đó Việt cộng vẫn cố gắng xâm nhập sâu vào thành phố.
Việt cộng định khai thác những kẽ hở để đột nhập vào.
Ngay tại mặt trận này, lực lượng chính phủ đã phục sẵn để chận
lối xâm nhập của Việt cộng vào khu vực phòng thủ Bộ Tổng Tham
Mưu. Bất chợt khi Việt cộng len lỏi đến, một Trung sĩ canh gác
trông thấy nên ngăn lại. Việt cộng nổ súng hạ ngay Hạ sĩ quan
này và định tràn vào bộ chỉ huy của một đại đội phòng ngự. Nhưng
quân phòng thủ đã phản ứng kịp thời bắn hạ toán tiền phong của
Việt cộng gồm 5 người. Vào buổi sáng Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù được
tăng cường đến để lục soát diệt địch.
Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù của Thiếu tá Nhã chia quân làm nhiều cánh
tiến sâu vào đường rầy xe lửa. Khi băng qua nghĩa địa nhiều súng
AK bắn ra khiến 3 chiến sĩ Nhảy Dù bị thương nhẹ. Thành ra Việt
cộng đã lợi dụng các mồ mả làm công sự chiến đấu. Chiến trận ở
đây cũng gay go và không giải quyết ngay được. Tiểu Ðoàn 9 Nhảy
Dù phải lục soát khu tứ giác Ngô Tùng Châu, Hoàng Hoa Thám, Lê
Quang Định. Các lực lượng khác như lực lượng của trại Trần Hưng
Đạo án ngữ xung quanh.
Tiểu Ðoàn 9 Dù đã hoạt động hết
sức khó khăn lùng diệt từng ổ địch. Việt cộng cứ vài ba tên hợp
thành một tổ chiếm các nhà dân hoặc chùa chiền mà cầm cự bắn sẻ.
Nhà cửa khu này san sát như bát úp, có nhiều cao ốc rất tiện lợi
cho Việt Cộng lợi dụng làm pháo đài cố thủ. Lực lượng Nhảy Dù
không được xử dụng tới mức tối đa để tránh thiệt hại cho dân
chúng. Suốt cả buổi sáng 5 tháng 6/1968 lùng đuổi Việt cộng, các
binh sĩ Nhảy Dù mới hạ được 2 Việt cộng, bắt sống 1 và tịch thu
2 súng AK, 1 khẩu B-40. Tiểu Ðoàn 9 càn quét từ Nam lên Bắc
khiến Việt cộng rút từ 1 số cao ốc về tăng cường cho nhóm phòng
thủ tại chùa Trúc Lâm. Buổi sáng, tiểu đoàn này chia khu vực
hành quân làm 4 khu A, B, C và D. Hai khu A và B cách đường Ngô
Tùng Châu độ 120m và đã đuổi sạch địch. Ngày 6/6/1968 từ sáng
sớm, lực lượng Nhảy Dù vẫn tiếp tục quét sạch Việt cộng ở mục
tiêu C, trong đó có ngôi chùa Trúc Lâm. Vào 3 giờ chiều mặt trận
ngã ba Cây Quéo đột nhiên trở nên dữ dội. Việt cộng từ trong
nhiều công sự phòng thủ quanh các ngôi chùa Linh Sơn và Trúc Lâm
thi nhau dùng súng SKZ 57ly và B-40 thổi ra. Từ các bụi tre rậm
rạp, hỏa lưc Việt cộng nổ dòn không kém. Nhiều chiến sĩ Nhảy Dù
đã ngã gục mà mục tiêu vẫn chưa thanh toán được.
Ba lần,
Đại Ðội 93 do Trung úy Tân chỉ huy xung phong vào đều bị 2 khẩu
thượng liên địch đẩy lui. Lần đầu tiên trong trận này, vào hồi 4
giờ chiều, các binh sĩ Nhảy Dù phải xử dụng đại bác 90ly và bích
kích pháo cỡ 81ly. Trọng pháo hoạt động liên tục rót vào phòng
tuyến Việt cộng. Mảnh đạn làm tung cả những cây tre văng lên
trời rớt trùm xuống đầu toán khinh binh Nhảy Dù. Sau khoảng hàng
trăm quả trọng pháo, 6 giờ chiều quân ta mới làm chủ được trận
địa tại khu chùa Trúc Lâm.
Sáng sớm ngày 7/6/1968, lính
Nhảy Dù mới băng qua khúc đường Hoàng Hoa Thám nối dài, nơi đã
bị Việt cộng phong tỏa 3 ngày liền, để chiếm lại ngôi chùa Linh
Sơn. Tại khu vực này, cây cối đều cháy xám, bụi tre bứng gốc nát
bấy, những ngôi mả tan hoang nhiều máu me loang lỗ và mùi hôi
xông lên nồng nặc. Có khoảng 30 hầm hố có cửa ra vào vuông vắn,
bên trên nóc xếp gỗ lớn, đồ đạc áo quần với một lớp đất phủ lên.
Nhiều trái đạn rớt trúng những công sự không hề hấn gì. Phần lớn
các hầm này được Việt cộng đào theo hình chữ U có 2 cửa song
song và bằng nhau, từ đó họ có thể bắn bên này rồi thò súng qua
bên kia bắn tiếp. Tại đây, quân đội tìm thấy 5 súng AK và một
nơi chôn xác, thịt đã rữa.
Nhập trận buổi sáng ngày 8
tháng 6/1968, Tiểu đoàn Biệt Cách Nhảy Dù xuất phát từ Trung Tâm
Tịnh Xá mở hành quân thăm dò địch đóng tại khu vực trường Đức
Tin. Đại Ðội 1 đi tiên phong. Cuộc đụng độ xảy ra lẻ tẻ từng
lúc. Biệt Cách Nhảy Dù phải mang vào trận địa cả súng không giật
106ly để yểm trợ cho cuộc tiến quân. Đến 14 giờ, sau khi biết rõ
vị trí Việt cộng, lực lượng Biệt Cách Nhảy Dù liền ngưng các
cuộc thám kích mà chỉ bao vây để ngăn địch xuất hoặc nhập khu
vực. Đến 19 giờ, Biệt Cách Nhảy Dù bắt đầu mở cuộc công kích
bằng hỏa lực đủ loại súng vào hướng Việt cộng. Liền trong 2 giờ
như vậy, bất thần mọi loại súng đều im lặng. Việt cộng cũng im
theo. Trong sự im lặng ấy, 15 toán Biệt Cách Nhảy Dù và Delta
lặng lẽ xung trận. Mọi người ngoài vũ khí riêng mang theo 10 quả
lựu đạn lặng lẽ trườn mình vào mục tiêu. Họ cứ 3 người thành một
tổ, khi còn cách tuyến độ 10m, những người lính này đánh bằng
lựu đạn. Việt cộng cuống cuồng phản ứng lại bằng B-40. Phòng
tuyến đầu của Việt cộng bị tan vỡ. Các nhóm Biệt Cách Nhảy Dù và
Delta liền xung phong đánh xáp lá cà. Một số Việt cộng chết và
bị thương, và một số khác liền tách làm hai mũi mở đường máu
chạy thoát thân. Đến sáng, quân đội hoàn toàn làm chủ tình hình.
Việt cộng để lại 21 xác và một người bị bắt. Phía quân đội
có 9 tử thương. Tù binh Việt cộng bị bắt khai thuộc Tiểu Ðoàn 1
của Trung Ðoàn Đồng Nai mới xâm nhập vào đây được 3 hôm.
9/6/1968 Đại Ðội 52 lực lượng Nhảy Dù nằm án ngữ trong khu tứ
giác Lê Quang Định, Trần Bình Trọng, Ngô Tùng Châu và đường ranh
xóm Thơm với 4 chiến xa M-41 hỗ trợ. Vào chiều ngày 9 tháng
6/1968 bị các đơn vị thuộc Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù ép từ phía Tây
Nam qua, Việt cộng bị lọt vào trong gọng kìm nên đã dồn hết hỏa
lực vào Đại Ðội 52/5ND bằng đủ loại súng lớn nhỏ để toan mở
đường chạy về phía cầu Băng Ky. Lúc 20 giờ 20, Việt cộng nhận
thấy không chọc thủng nổi phòng tuyến của Nhảy Dù nên họ phải di
chuyển về hướng xóm Thơm. Kể từ 10 giờ đêm trở đi tiếng súng của
Việt cộng thưa dần.
10/6/1968 Việt cộng dường như vẫn
tiếp tục xâm nhập thêm quân. Đột nhiên 2 đại đội Biệt Cách Nhảy
Dù đóng tại Trung Tâm Tịnh Xá bị Việt cộng từ hướng Đông Bắc kéo
đến phản công và bao vây. Thoạt tiên vào lúc 13 giờ trưa, Việt
cộng từ hai cao ốc và một khu vườn rậm rạp ở ngay xế cổng và bên
hông chùa nổ súng uy hiếp. Trung úy Bình, đại đội trưởng, liền
chia quân làm 2 cánh. Một cánh từ cao ốc đối diện khai hỏa vào
địch, cánh quân thứ hai từ góc chùa đánh thẳng vào cao ốc xế
trước mặt. Toán Việt cộng ở cao ốc thứ hai bên hông chùa hợp với
toán chiếm ở vườn cây, liền khai hỏa vào cánh quân Biệt Cách
Nhảy Dù đang tiến tới. Trung úy Bình cho một toán quân thứ ba từ
hông chùa phía Bắc đánh thẳng vào toán Việt cộng ở vườn cây.
Trong khi đó, toán quân xuất phát đầu tiên nhất loạt tràn sang
chiếm cao ốc trước cổng chùa. Việt cộng bỏ lại 6 xác chết. Số
còn lại bỏ chạy về cao ốc phía hông chùa.
Mũi dùi đánh
vào khu vườn không tiến được vì có 2 khẩu B-40 của Việt cộng đặt
ở dưới một gốc cây. Các binh sĩ Biệt Cách Nhảy Dù phải xử dụng
rốc-kết 35ly. Kết quả, 3 xạ thủ Việt cộng chết tại chỗ. Khi lên
lấy 2 khẩu B-40 mới thấy 3 người này đều bị xích tay vào nhau.
Còn cao ốc ở ngang hông chùa, Biệt Cách Nhảy Dù phải dùng đại
bác 90ly phá thủng tường nhà làm lối cho cánh quân vừa chiếm lầu
trước khi xung phong vào. Việt cộng bỏ chạy qua bên kia đường
Trần Bình Trọng để lại trận địa cả thảy 25 xác chết. Một nhóm
lính Biệt Cách Nhảy Dù liền vượt lên gần đường Trần Bình Trọng.
Việt cộng liền vác thượng liên đặt lên một chiếc xe be đậu ở
trên đường nã đạn như mưa bấc. Toán khinh binh không tiến nổi.
Nhưng ít phút sau đó, Một toán quân Biệt Cách Nhảy Dù dùng súng
M-72 thổi vào chiếc xe be này 1 quả. Cây thượng liên của Việt
cộng bị bắn tung lên cao văng lộn vào trận địa địch. Xạ thủ và
phụ xạ thủ Việt cộng đều tử thương. Một toán quân Biệt Cách Nhảy
Dù tiến lên dùng lựu đạn thanh toán những Việt cộng núp trong hố
sát tường. Nhưng Biệt Cách Nhảy Dù không vượt đường Trần Bình
Trọng vì bên đó là phần đất trách nhiệm của TQLC.
Chiều
ngày 10 tháng 6/1968 Việt cộng đốt một vài căn nhà ở phía sau
chùa Dược Sư có lẽ để cản đường quân đội, hầu mong tìm lối tháo
lui. Họ bắn mấy phát rồi lợi dụng cây cối um tùm mà bỏ chạy.
Việt cộng rút đi quá vội vàng, bỏ ngõ một khu trận địa mà họ đã
sửa soạn từ trước để làm nơi cố thủ. Khu này diện tích khoảng
10,000m². Bên trong chuối mọc như rừng, cỏ hoang rậm rạp, Việt
cộng đã đào trong khu vực này 50 hầm chiến đấu. Mỗi hầm có hai
cửa, một hầm phía trong 1 hầm phía ngoài cũng 1 kiểu như đã thấy
tại quanh chùa Linh Sơn, nơi đã xảy ra trận đánh nhau sáng ngày
7 tháng 6 giữa Việt cộng và Đại Ðội 94 Nhảy Dù.
Với địa
hình địa vật và sự sửa soạn như vậy, tại sao Việt cộng lại rút
đi quá vội vàng, có thể vì họ đã tổn thất quá nhiều không còn đủ
sức cầm cự mặt trận Cây Quéo nằm trong khu tứ giác Lê Quang
Định, Trần Bình Trọng, Ngô Tùng Châu và ranh xóm Thơm kể từ ngày
11/6/1968 được coi như chấm dứt.
12/6/1968 Vừa dứt mặt
trận Cây Quéo, mặt trận Cây Thị lại mở ra trong ngày 12 tháng
6/1968 rất sôi động. Sau đúng một tuần lễ giao tranh, các đám
tàn quân Việt cộng kiệt quệ định rút lui mà không có lối thoát
để rồi cuối cùng tất cả những kẻ sống sót còn lại của Trung Đoàn
Quyết Thắng đã phải đầu hàng tập thể ngày 18 tháng 6/1968.
Tóm lại, Trung Đoàn Quyết Thắng Việt cộng coi như hoàn toàn tan
rã sau khi 152 cán binh thuộc hai tiểu đoàn 1 và 2 ra đầu hàng.
Theo lời của hàng binh Thượng úy Phan Văn Xưởng thì Trung Đoàn
Quyết Thắng khi xâm nhập vào có 400 cán binh trang bị đầy đủ.
Đến chiều ngày 17 tháng 6 trung đoàn này chỉ còn 229 người,
trong đó có 120 bị thương nặng nhẹ. Trung Đoàn Trưởng Ba Vinh
chết ngay lúc đầu. Chính ủy Hai Phái lên thay. Với số hàng tập
thể và bị chết trong các vụ chạm súng ngày cuối ở vùng cầu Băng
Ky, Trung Đoàn Quyết Thắng chỉ còn lối 20 người lọt lưới chạy
thất tán.
Trung Đoàn Đồng Nai cũng bị tổn thất nặng trong
các vụ chạm súng những ngày đầu tiên ở vùng Cây Quéo. Mặt khác,
một lực lượng của Trung Đoàn này định tăng viện cho mặt trận Gia
Định thì đã bị lực lượng Nhảy Dù gây tổn thất nặng ở vùng An Phú
Đông. Quân số còn lại của trung đoàn này lối 250 người đã phải
rút về vùng Bình Mỹ, 9km phía Tây Bắc Tân Uyên.
Tại mặt
trận Chợ Lớn, Phân Khu 2 của Việt cộng điều động Tiểu Đoàn 6
Bình Tân và Tiểu Đoàn 308 phân tán xâm nhập từ Phú Định vào các
khu vực dân cư phía Nam Chợ Lớn. Hai Tiểu Đoàn này rút ra chỉ
còn khoảng 100 người chạy về mật khu Bà Vụ để bồi dưỡng.
Suốt trong thời kỳ tấn công vào thủ đô, không đêm nào là Việt
cộng không bắn hỏa tiễn 122ly vào thành phố. Cứ mỗi lần có pháo
kích là có cháy nhà, người chết, người bị thương. Nhịp độ pháo
kích vào đô thành sau ngày 18 tháng 6/1968 giảm thiểu và sau vụ
pháo kích chót vào phi trường Tân Sơn Nhất đêm 21 tháng 6/1968,
Việt cộng mới chấm dứt hẳn. Thiêt hại của họ khoảng trên 50%
quân số.
Thay lời kết:
Mặc dù
trong cả 2 đợt tấn công, CSBV hoàn toàn thất bại trên khắp các
mặt trận, nhưng chúng đã khai triển được yếu tố bất ngờ và tạo
được dư luận quốc tế có lợi cho mặt tuyên truyền của chúng.
Chúng ta bị bất ngờ nhưng cũng phải nói thêm là vì chúng ta
khinh địch. Dân chúng và cả các lực lượng hành chánh lẫn quân sự
ít ai tin rằng VC dám ngang nhiên vi phạm lệnh hưu chiến trong 3
ngày Tết mà chúng đã công khai cam kết. Rất nhiều đơn vị quân sự
đã cho phép số lớn quân nhân về ăn Tết với gia đình. Việc phòng
thủ do đó bị lơ là ít nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
tấn công của VC.
Hơn nữa, cuộc “TCK Mậu Thân” là một âm
mưu sâu hiểm của Tư Bản “muốn tháo chạy trong danh dự” (WAR đồng
nghĩa với Withdraw And Run) mà Kissinger là tay phù thủy nham
hiểm điều hợp viên chủ động cấu kết với kẻ thù CSBV nhằm làm suy
yếu khả năng của QLVNCH, trong khi CSBV muốn triệt hạ lực lượng
quân sự của Việt cộng tại miền Nam để thay thế nhân sự bằng lực
lượng xâm nhập từ miền Bắc. Năm 1967 Hoa Kỳ đã thua trận ngay
tại Mỹ trên đường phố, trong nhà thờ, trong các đại học, trong
Quốc Hội và ở cả diễn đàn quốc tế. Vì thế, để chuẩn bị cho việc
tháo chạy trong danh dự, Kissinger đã xếp đặt để cho Việt cộng
được hợp pháp hóa trở thành một thực thể (mà thành phần chủ chốt
xâm nhập từ miền Bắc) có thế giá tương xứng.
Từ đầu tháng
12/1967, Tổng thống Johnson đã được báo cáo đầy đủ về các chuyển
động quân sự của Hà Nội, ngày 21/12/1967 Hoa Kỳ đã biết rõ giờ
giấc cuộc tấn công của Việt cộng nhưng phía chính phủ Mỹ vẫn im
lặng.
Ngày 23/12/1967, khi đến Úc dự tang lễ Thủ tướng Úc
là ông Holt, Tổng thống Mỹ đã thông báo cho chính phủ Úc trong
một cuộc họp mật rằng “CSVN sẽ tổng tấn công quyết tử trong vài
tuần lễ tới.” Và một kết quả đúng như dự liệu và sách lược của
chính phủ Hoa Kỳ là sau trận chiến, mặc dù thảm bại nặng nề về
nhân lực cũng như trang bị, cái gọi là “Chính phủ lâm thời Cộng
hòa miền Nam” được ra đời.
Sau trận TCK Mậu Thân, tình
hình an ninh tại miền Nam trở nên tốt đẹp hơn bao giờ hết, hạ
tầng cơ sở của Việt cộng cơ hồ như tan rã, Hoa Kỳ chuẩn bị ‘Việt
Nam Hóa chiến tranh’ để ‘tháo chạy trong danh dự’. CS đã thảm
bại trên chiến trường với những tổn hại lớn lao nhưng lại là một
thành công của họ về mặt ngoại giao trên chính trường quốc tế.
Ngày nay tất cả mọi người đều biết rõ ràng đến biến cố Năm Mậu
Thân và Tổng thống Hoa Kỳ là Richard Nixon và tay phù thủy Henry
Kissinger phải trực tiếp chịu trách nhiệm vì đã cố tình tạo nên
một lỗi lầm nghiêm trọng về đạo đức, gây tử vong cho hằng trăm
ngàn người dân Việt Nam vô tội có thể tránh khỏi nếu được báo
trước sự thật.
Tài liệu tham khảo:
1. Trận chiến Tết
Mậu Thân 1968 của Phạm Văn Sơn trên trang nhà History of the
Viet Nam War
2. Lời tường thuật về trận Mậu Thân của Trung tá
Lê Minh Ngọc, LĐT/LĐIVND
3. Chiến tranh Việt Nam toàn tập của
Nguyễn Đức Phương, Làng Văn 2001
4. Một Cánh Hoa Dù của
Trương Dưỡng. Tác giả xb 1998
5. Khoảng tối nhìn lên, bút ký
chiến trường của Đào Đức Bảo. Tác giả xb 1999
6. Mậu Thân tại
Huế của Bùi Đức Lạc trong Đặc San Mũ Đỏ số 53 xuân 2006
7.
Mậu Thân tại Quận Nhì Sài Gòn của Trần Minh Công trên nhật báo
Nguoi Viet Monday, February 04, 2008
8. Phỏng vấn trực tiếp
các chiến hữu trong SĐND.
Bảng hướng dẫn đến các chương (bấm vào các con số sẽ đi thẳng đến chương đó):
01
|
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 |
21 |
22
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37 |
38 |
39 |
40 |
41 |
42 |
43 |
44
Mục lục
Trích và cập nhật từ quyển “20 Năm
Chiến Sự” - Binh chủng Nhảy Dù
Tác giả:
Đại úy Võ Trung Tín Tiểu đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202
Đại úy Nguyễn Hữu Viên Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù – 714-897-1435
1246 S. Huron Dr. Santa Ana CA 92704
Email:
20namchiensu@gmail.com
Tổng Phát Hành: Mr. Hải Võ
1246 S. Huron Dr. Santa Ana CA
92704
Tel: 714-856-9202. Email: 20namchiensu@gmail.com
Giá
quyển sách:
$40.00USD
(Ngoài Hoa Kỳ:
$50.00USD)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by Võ Trung Tín chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, July 29, 2016
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang