|
Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang Quân sử VNCH
Chủ đề:
quân sử sư đoàn nhảy dù qlvnch
Tác giả:
MĐ Nguyễn Hữu Viên & MĐ Tín Võ
****** ||| ******
MỤC LỤC *
A. PHẦN A: TỔ CHỨC
B. Chiến Sự
1. Trận Điện Biên Phủ (13/3/1954 – 7/5/1954)
2. Tình Hình Việt Nam Sau Hiệp Định Geneve
3. Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng (23/5/1955 – 6/12/1955)
4. Chiến Dịch Hoàng Diệu (từ 21/9 – 24/10/1955)
5. Chiến Dịch Nguyễn Huệ (từ 1/1 – 17/2/1956)
6. Binh Biến ngày 11/11/1960
7. Trận Phước Thành (18–19/9/1961)
8. Trận Ấp Bắc (2–3/1/1963)
9. Trận Tân Châu Hồng Ngự (2–4/3/1964)
10. Trận Bình Giã (3/12/1964 – 3/1/1965)
11. Trận Hắc Dịch (9–10/2/1965)
12. Trận Ba Gia (28/5/1965 – 2/6/1965)
13. Trận Đồng Xoài (9–20/6/1965)
14. Trận Đức Cơ (4–15/8/1965)
15. Chiến dịch Ia Drang – Thần Phong 7 (14–18/11/1965)
16. Hành Quân Thần Phong 11 (28/1 – 6/3/1966)
17. Đại Bàng 800 (12/11/1966)
18. Hành Quân Liên Kết 81 (16–22/2/1967)
19. Lam Sơn 54–Khu Phi Quân Sự (18–27/5/1967)
20. Trận Dakto (Đồi 1416) (3–22/11/1967)
21. Tổng Công Kích Năm Mậu Thân (từ ngày 29/1/1968)
22. Mặt Trận Sài Gòn (30/1/1968)
23. Mặt Trận Quảng Trị (30/1/1968)
24. Mặt Trận Huế (30/1/1968)
25. Mặt Trận Khe Sanh (1–15/4/1968)
26. Mặt Trận A–shau (19/4 – 17/5/1968)
27. Trận Mậu Thân đợt hai (từ ngày 5/5/1968)
28. Trận Gò Nổi (Tây Ninh) (19/5/1969)
29. Chiến Dịch Bình Tây (Từ ngày 27/3/1970)
30. Hành Quân Toàn Thắng 42 (29/4 – 22/7/1970)
31. Hành Quân Toàn Thắng 43 (1/5 – 30/6/1970)
32. Hành Quân Toàn Thắng 45 (6/5 – 30/6/1970)
33. Hành Quân Lam Sơn 719 (8/2 – 6/4/1971)
34. Trận đánh Căn Cứ Hỏa Lực 6 (4–17/4/1971)
35. Trận đánh Căn Cứ Hỏa Lực 5 (24/5 – 19/6/1971)
36. Mùa Hè Đỏ Lửa
37. Mặt Trận Tây Nguyên (17/3 – 28/5/1972)
38. Mặt Trận Bình Long (2/4 – 8/6/1972)
39. Mặt Trận Quảng Trị (30/3 – 15/9/1972)
40. Trận Thường Đức (18/8 – 8/11/1974)
41. Trận Ban Mê Thuột (10–16/3/1975)
42. Trận Khánh Dương (19/3 – 1/4/1975)
43. Trận Phan Rang (1–17/4/1975)
44. Trận Long Khánh (9–21/4/1975)
C. PHẦN C: CÁC VỊ TƯ LỆNH SĐND
******01******
1. Trận Điện Biên Phủ (13/3/1954
– 7/5/1954)
Trận
Điện Biên Phủ
(13/3/1954 – 7/5/1954)
Điện
Biên Phủ còn có tên là Mường Thanh nằm về phía Tây của Lai
Châu, cách biên giới Việt–Lào khoảng 8km. Đây là vựa lúa và
thuốc
phiện của miền Trung Du Bắc Việt. Nó cũng là giao điểm của
hệ thống đường mòn từ Hoa Nam xuống Việt–Trung, từ Thượng Lào
qua Lai Châu.
Thung lũng Mường Thanh có chiều dài khoảng
20 cây số, chiều ngang khoảng 6–8km vây quanh bởi rừng núi
trùng điệp, vì vậy đôi khi người ta còn gọi là “Lòng chảo
Điện Biên Phủ”. Con sông Nậm Rốm (Nam Yun) chia đôi thung lũng chảy
theo chiều Nam–Bắc. Dọc theo sông Nậm Rốm là con đường Liên tỉnh
lộ số 41. Hai sắc dân Thái và Mèo sống với nghề trồng lúa và
thuốc phiện.
Đến cuối năm 1953, chiến tranh Đông Dương đã
kéo dài 8 năm, Pháp đã mệt mỏi và muốn tìm 1 giải pháp có thể
chấp nhận được để chấm dứt cuộc chiến nhưng mặt khác họ vẫn muốn
duy trì quyền lợi tại Đông Dương. Pháp bổ nhiệm tổng chỉ huy
Henri Navarre sang Đông Dương tìm kiếm 1 chiến thắng quân sự
quyết định để làm cơ sở cho 1 cuộc thảo luận hòa bình trên thế
mạnh.
Kế hoạch của Bộ Chỉ Huy Pháp tại Đông Dương là tập
trung các lực lượng cơ động tinh nhuệ lại thành các binh đoàn
mạnh đánh tiêu diệt các đơn vị chính quy của Việt Minh để làm
thế mạnh đàm phán. Vì vậy Cứ điểm Điện Biên Phủ được ra đời để
án ngữ miền Tây–Bắc Bắc Việt, kiểm soát con đường huyết mạch tới
Thượng Lào để làm bẫy nhử, thách thức quân chủ lực Việt Minh tấn
công và theo kế hoạch của Pháp, quân Việt Minh sẽ bị nghiền nát
tại đó.
Về phía Việt Minh, kể từ sau năm 1950 được sự
viện trợ quân sự to lớn của Trung cộng và Liên xô, đã lớn mạnh
rất nhiều, với các Sư Đoàn (Đại Đoàn) bộ binh và các Trung Đoàn
Pháo Binh, Công Binh đã có kinh nghiệm đánh trận cấp Tiểu Đoàn,
Trung Đoàn với quân Pháp.
Tướng Giáp nhìn trận Điện Biên
Phủ như cơ hội đánh lớn, tạo chiến thắng vang dội, và đã chấp
nhận thách thức của quân Pháp để tấn công Tập Đoàn Cứ điểm Điện
Biên Phủ. Do đó Điện Biên Phủ trở thành 1 điểm quyết đấu giữa
Tân Tổng tư lệnh Pháp Henri Eugene Navarre cùng Tướng Việt Minh
Võ Nguyên Giáp, và các cố vấn Trung cộng.
Lực lượng CSBV:
Gồm có 12 Trung Đoàn bộ binh thuộc các Đại Đoàn bộ binh
(304, 308, 312, 316), 1 Trung Đoàn Công Binh, 1 Trung Đoàn Pháo
Binh 105ly (24 khẩu), 1 Trung Đoàn Pháo Binh 75ly (24 khẩu), và
súng cối 120ly (16 khẩu), 1 Trung Đoàn cao xạ 24 khẩu 37ly (sau
được tăng thêm 1 Tiểu Đoàn 12 khẩu) vốn là phối thuộc của Đại
Đoàn Công–Pháo 351 (Công Binh – Pháo Binh).
1. Sư Đoàn
304 do Hoàng Minh Thảo chỉ huy (Lê Chưởng làm Chính ủy) gồm
Trung Đoàn 57, Trung Đoàn 9, và Trung Đoàn 345.
2. Sư
Đoàn 308 hay Sư Đoàn Tiền Phong do Vương Thừa Vũ làm Tư lệnh,
Chính ủy là Song Hào, gồm 3 Trung Đoàn 36, 102 (Thủ Đô), 88.
3. Sư Đoàn 312 do Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, Trần Độ làm
Chính ủy, gồm 3 Trung Đoàn 141, 209 (Hoàng Cầm), và 165 cùng
Tiểu Đoàn 154 Pháo Binh.
4. Sư Đoàn 316 do Lê Quang Ba
làm Tư lệnh, Chu Huy Mân làm Chính ủy gồm Trung Đoàn 174 (Nguyễn
Hữu An), Trung Đoàn 98 (Vũ Lăng), và Trung Đoàn 176.
5,
Sư Đoàn 351 Công Binh và Súng Nặng.
6. Trung Đoàn 237 Súng
Cối 120ly.
7. Trung Đoàn 45 Pháo Binh 105ly nòng ngắn.
8. Trung Đoàn 367 Phòng Không.
9. Tiểu Đoàn Hỏa Tiễn
dã chiến Katyusha. (mới được Trung cộng trang bị ngày 28/4/1954).
10. 120,000 dân công.
Lực Lượng Trú phòng:
Tổng số khoảng 16,100 quân tính đến ngày 31/3/1954 gồm 12
Tiểu Đoàn, và 7 Đại Đội Biệt Lập, (về sau được tăng viện 4 Tiểu
Đoàn và 2 Đại Đội lính Nhảy Dù), 2 Tiểu Đoàn Pháo Binh 105ly (24 khẩu
– sau đợt 1 được tăng thêm 4 khẩu nguyên vẹn, và cho đến ngày
cuối cùng được thả xuống rất nhiều bộ phận thay thế khác), 1 Đại
Đội pháo 155ly (4 khẩu), 2 Đại Đội súng cối 120ly (20 khẩu), 1
Tiểu Đoàn Công Binh, 1 Đại Đội xe tăng 18 tấn (10 chiếc M24 của
Mỹ), 1 Đại Đội xe vận tải 200 chiếc, 1 Phi Đội máy bay gồm 14
chiếc (7 máy bay khu trục, 6 máy bay liên lạc trinh sát, 1 trực
thăng). Các đơn vị đóng chung quanh 49 Cứ điểm và chia ra thành 3
Phân Khu phòng thủ riêng biệt Bắc, Trung Tâm, và Nam.
Mỗi Phân Khu có nhiều Trung Tâm phòng thủ, hệ thống giao
thông hào, và hàng rào phòng thủ kiên cố. Tổng cộng gồm 8 Cứ
điểm
phòng thủ chính là:
1. Phân Khu Bắc.
a.
Beatrice
(Him Lam): do 3 Tiểu Đoàn Lê Dương trấn giữ, là 1 Cứ điểm mạnh
nhất của ĐBP cách Mường Thanh gần 3km, nằm án ngữ phía Bắc trên
con đường Tỉnh lộ 41 từ Tuần Giáo tới Điện Biên.
b.
Gabrielle (Độc Lập): nằm trên 1 ngọn đồi dài 700 thước, rộng
150 thước cách Mường Thanh 4km do Tiểu Đoàn 5/7 RTA (Bắc Phi)
trấn giữ, có 4 Khẩu Đội súng cối 120ly ngăn chận hướng từ Lai
Châu đến Điện Biên.
c. Anne Marie (Bản Kéo): nằm trên
ngọn đồi phía Tây–Bắc Sân Bay cách khu Trung Tâm 2km do TĐ3 Thái
(Tày) trấn giữ.
2. Phân Khu Trung Tâm.
d.
Eliane:
nằm về phía Đông–Nam Căn cứ, do TĐ1/4 Maroc trấn thủ.
e.
Dominique: nằm về phía Đông Căn cứ ĐBP do
Tiểu Đoàn 3/3 RTA trấn thủ, có 1 Pháo Đội 105ly và 1 ĐĐ Thái tăng cường.
f.
Huguette: nằm phía Tây Căn cứ do Tiểu
Đoàn 2 người Thái, 1 Pháo Đội 105ly, 1 Khẩu Đội 155ly trấn đóng.
3.
Phân Khu
Nam.
g. Claudine: nằm về phía Nam của
Căn cứ.
h.
Isabelle: nằm về phía cực Nam của Căn
cứ ĐBP.
Diễn tiến:
Để chống lại các Cứ điểm phòng thủ kiên cố của quân Pháp,
Việt Minh đã áp dụng chiến thuật “vây lấn” bằng hệ thống chiến
hào. Họ đào các giao thông hào dần dần bao quanh Căn cứ và lấn
dần vào các vị trí phòng thủ của quân Pháp. Các chiến hào này
tránh cho bộ đội Việt Minh khỏi bị thương vong vì Pháo Binh cùng
Không Quân oanh kích, và dần dần áp sát vào Cứ điểm, rồi làm vị
trí bàn đạp tấn công.
Ngày 13/3/1954 là ngày Thứ Bảy,
16:00g, sau 3 tháng vây lấn ĐBP và chuẩn bị, CS bắt đầu pháo
khủng khiếp khoảng 9,000 quả đạn Pháo Binh vào các Cứ điểm phía
Bắc: Gabriel, Beatrice, Anne Marie, và phi trường. Cuộc Pháo kích
này làm cho 2 phi trường trong Căn cứ trở thành bất khiển dụng.
Đến 17:00g Trung Đoàn 141 và 209 vuợt sông tấn công vào
Beatrice, 18:30g toàn bộ Ban chỉ huy Cứ điểm bị tử trận. Đến
khoảng 20:30g 2 Tiểu Đoàn 10 & 11 phòng thủ Cứ điểm bị mất
liên lạc. BCH Chiến Đoàn lưu động GM9 chỉ huy Căn cứ Trung Tâm
bị trúng pháo, 4 sĩ quan tử trận trong những giây phút đầu tiên
của trận pháo kể cả Trung tá Gaucher Chỉ huy trưởng Cứ điểm
Beatrice, vì 2 quả đạn phá sập hầm chỉ huy của họ.
Khoảng
23:30g, Căn cứ Beatrice bị tràn ngập, chỉ còn lại khoảng 50
quân nhân chạy qua Dominique.
Ngày 14/3/1954 khoảng 2:00g sáng
SĐ 308 CSBV pháo liên tục vào Cứ điểm Gabrielle, trấn
giữ bởi Tiểu Đoàn 5/7 AR (Algerian Rifles)...
TĐ5ND–VN
Tiểu đoàn trưởng người Pháp là Thiếu tá Botella được thả dù
xuống Căn cứ ĐBP để tiếp viện. Lúc 17:00g 2 Trung Đoàn
88/SĐ 308 và Trung Đoàn 165/312 do Vương Thừa Vũ chỉ huy bao vây
Cứ điểm Gabrielle. Đến 23:30g, trận tấn công mở màn nhưng
quân trú phòng phản công mãnh liệt và đã đẩy lui quân CS trong
đợt tấn công đầu. Sang ngày 15/3/1954 lúc trời tờ mờ khoảng
04:00g quân CS mở cuộc tấn công đợt 2 từ hướng Đông với trận
địa pháo kinh hồn. Tất cả BCH Tiểu Đoàn phòng thủ Cứ điểm
Gabriel đều bị tử thương vì pháo dập và Cứ điểm bị tràn ngập.
Đến 8:00g, TĐ5ND–VN được điều động để phản công và đụng
nặng với Trung Đoàn 88 CS khi cách Cứ điểm Gabrielle 800 thước.
Phía CS tổn thất khoảng 1,500 bỏ xác tại trận. Lúc 08:30g
TĐ5ND giải thoát cho tàn quân trong Cứ điểm Gabrielle còn lại 14
SQ và 150 binh sĩ trở về Căn cứ.
Ngày 16/3/1954
2/3 quân số phòng ngự người Tầy tại Cứ điểm Anne Marrie phía
Tây–Bắc ĐBP bỏ trốn đào ngũ (BT3), số quân còn lại bỏ Cứ điểm rút về
Huguette.
Trong ngày này, Căn cứ ĐBP được tăng viện TĐ6ND
do Thiếu tá Begeard làm Tiểu đoàn trưởng và 2 khẩu 105ly. Hoàn
tất không vận vào lúc 18:00g. Cũng trong ngày này Đại tá
Piroth, Chỉ huy trưởng Pháo Binh của Căn cứ đã tự sát. Ông là
người đã tiên liệu không chính xác rằng nếu quân cộng sản tấn
công vào ĐBP, Pháo Binh của ông sẽ tiêu diệt hết.
Ngày
18/3/1954 1 Đại Đội của TĐ5ND được tăng cường cho Huguette. De
Castrie cải tổ hệ thống phòng thủ, lập thêm 2 đồn nhỏ giữa
Huguette và Dominique.
Ngày 19/3/1954 Pháp tiếp tục thả
dù thêm binh sĩ đơn vị TĐ5ND đồng thời tản thương được 1 số
thương binh.
Tổng kết sơ khởi đến ngày này Pháp có 6 SQ,
15 HSQ, và 93 BS chết; 9 SQ, 30 HSQ, 255 BS bị thương; 11 SQ, 31
HSQ, 517 BS mất tích. Chưa kể TĐ5/7 RTA và TĐ3 Thái rã ngũ.
Phần thiệt hại về phía cộng sản rất cao nhưng phe họ thường
che đậy.
Từ ngày này, chiến sự tạm lắng xuống, phía CSBV
và cố vấn Trung cộng đẩy mạnh việc đào giao thông hào lấn vào
Căn cứ, bổ sung quân số, và tiếp liệu.
Ngày 20/3/1954,
Tướng Ely, Tổng tham mưu trưởng Pháp bay qua Washington cầu viện
(từ ngày 20/3 đến 25/3/1955). Đô Đốc Radford có đề cập đến kế
hoạch Vulture, sử dụng 98 oanh tạc cơ B29 và 450 chiến đấu cơ
của Mỹ tại Căn cứ Clark (Philippines) để hủy hoại tiềm năng của
cộng sản.
Ngày 24/3/1954, VC bắt đầu gia tăng trận địa
pháo và súng Phòng Không để phá nát phi đạo nên phi cơ không thể
lên xuống phi trường được. Đến ngày 27/3/1954 phi trường hoàn
toàn không hoạt động được vì pháo Việt Minh khống chế.
Ngày 28/3/1954 Chiến Đoàn Dù GAP2 (Groupement Aéroportée
Parachutiste No.2) chạm súng mạnh với quân CS khi đơn vị này từ
Isabelle di chuyển lên khu Trung Tâm, theo tài liệu của Pháp:
Pháp chết 20 (SQ), bị thương 76 (SQ); CSBV chết 350, khoảng 1,000
bị thương. Pháp bắt 40 tù binh, 135 súng đủ loại.
Ngày
30/3/1954 vào khoảng 17:00g, Việt Minh pháo kích dữ dội vào
các Căn cứ Huguette, Eliane, Dominique, và Cứ điểm Isabelle. Đến
18:30g các SĐ 312 và 316 đồng loạt tấn công vào các Cứ điểm
phía Đông. SĐ 308 tấn công vào Huguette và phía Tây Tây–Bắc của
phi trường. Trung Đoàn 174/316 của Nguyễn Hữu An tấn công vào
Eliane 2, lính Maroc và Lê Dương Dù dưới quyền chỉ huy của
Nicolas phản công quyết liệt, An mất liên lạc với SĐ 316. An tung
thêm TĐ 255 vào trận nhưng bị pháo của Căn cứ bắn dữ dội nên đến
nửa đêm, bị thiệt hại quá nặng mà vẫn không tiến lên được.
Trong khi đó Trung Đoàn 98/316 của Vũ Lăng tấn chiếm Eliane
1 trong vòng 45 phút đánh tan ĐĐ1/4 Maroc rồi tiến đến Eliane 4
thì bị chận lại. SĐ 312 tấn công vào Dominique do TĐ3/3RTA, 1
Pháo Đội 105ly và 1 ĐĐ Thái trấn giữ. Trận đánh bắt đầu lúc 1
Đại Đội của TĐ5ND hoán chuyển với 1 ĐĐ của TĐ3 Algerie.
Lúc 19:45g Dominique 2 thất thủ, Đại uý Tiểu đoàn trưởng
Algerie (Garandeau) tử trận (bị pháo). 20:00g Hoàng Cầm báo
cáo chiếm được mục tiêu (Dominique 2).
Thừa thắng, Lê Trọng Tấn cho Tiểu
Đoàn trừ bị 130/209 đánh xuống
Dominique 3, trong lúc đó Vương Thừa Vũ điều động Trung Đoàn
102/302 tăng viện mặt trận phía Đông, Trung Đoàn 36 và 88/308
tấn công Cứ điểm 106 và 311; Trung Đoàn 165/312 đánh Cứ điểm
Dominique 6 phía Bắc phi đạo.
Tại Huguette 7 lúc 20:00g, VM tấn công vào
Tiểu Đoàn Thái 2 tan hàng. Pháo Đội 105 bị
tiêu hủy, Khẩu Đội 155ly cũng bị hư hại năng. Một ĐĐ của
TĐ5ND–VN vẫn tiếp tục tử thủ.
Ngày 31/3/1954, lúc 04:00g, De Castrie điều động
1 Tiểu Đoàn của GAP2, phối hợp với
Thiết Giáp từ Isabelle lên tăng viện cho mặt trận Trung Tâm
nhưng bị Trung Đoàn 57/304 chận đánh và bị thiệt hại nặng. Pháp
ước lượng khoảng 1,000 xác VM bỏ tại trận.
13:30g, BCH
tung TĐ8ND lên phản công và giải tỏa Dominique 2 đến 16:00g,
SĐ 308 CSBV tung thêm quân, đánh xáp lá cà dữ dội, TĐ8ND phải rút
lui. Tại Dominique 5, 1 TĐ Thái trấn đóng cũng phải rút bỏ.
Tại Eliane 1, Begeard điều động TĐ6ND và 1
bộ phận của
TĐ5ND VN tái chiếm lại Elaine 1, nhưng các đơn vị của Trung Đoàn
102/308 và Trung Đoàn 98/312 chống giữ mãnh liệt. Lúc 18:00g
Begeard phải rút lui. để lại trận địa gần 100 xác.
Tại
Eliane 2: lúc 8:00g Pháp đưa 1 đơn vị Thiết Giáp đến chiếm
lại. Đến trưa lại Trung Đoàn 102/308 của Hùng Sinh bàn giao với
Trung Đoàn 174/316. Tuy nhiên chỉ có 4 ĐĐ của 2 TĐ 54 và 18 tới
kịp mặt trận. Lúc 18:30g các đơn vị của Hùng Sinh bắt đầu tấn
công vào Eliane 2 nhưng không thành công vì quân trú phòng chống
trả mãnh liệt từ những công sự phòng thủ kiên cố của Eliane 2.
Trên 300 xác VM bỏ lại trận địa. Vào lúc 22:45g, Trung Đoàn
102/308 của Hùng Sinh lại tấn công Eliane 2 lần nữa.
Tại
Huguette 7, lúc 22:00g Trung Đoàn 36/308 tấn chiếm 1 phần
của Cứ điểm do 1 lực lượng hỗn hợp những binh sĩ Việt, Lê
Dương, và Thái trấn giữ.
Ngày 1/4/1954 BCH
Căn cứ đưa lực
lượng tăng viện tùng thiết lên giải vây cho Eliane 2. Giao tranh
ác liệt. Một ĐĐ/TĐ6 Dù (BPC) và các binh sĩ tàn dư của TĐ1 Dù Lê
Dương (BEP) do Luccianie chỉ huy chiếm lại 1 vị trí súng cối
120ly, tu chỉnh lại hệ thống phòng thủ. Đơn vị này được tăng
viện thêm 1 đội súng phun lửa. Phía VM chỉ còn lại khoảng 50
người sống sót.
Một ĐĐ của Lê Dương Dù lên thay thế
ĐĐ1/TĐ5ND tại Dominique 7. Lúc 1:00g sáng, SĐ 320 CSBV tấn
công vào Huguette 6 và 7.
Lúc 4:00g Thiếu tá Clemence
tập họp được khoảng 100 binh sĩ ĐĐ1/TĐ5ND và Lê Dương kéo lên
tăng viện cho Huguette 7. Nhờ Chiến Xa hộ tống, lực lượng này
vào được Cứ điểm trong khi lực lượng phòng thủ chỉ còn 14 người
và Trung uý Spozio thì bị thương nặng.
Lúc 14:00g, VM
gửi thêm viện binh và đặt pháo ở Eliane 1, Dominique 1, 2, 6.
Pháp cho tăng cường 1 đơn vị của TĐ6 Dù và 1 ĐĐ/TĐ5ND–VN phụ
lực với 2 ĐĐ của TĐ1BEP và 1 ĐĐ/TĐ6BPC để phòng thủ Eliane 2.
120,000 dân công trong trận
Điện Biên Phủ
Tại Cứ điểm Francoise (311) phía Tây của Huguette 1km có 2 ĐĐ lính
Thái do Chuẩn uý Cante chỉ huy trấn giữ. Lúc 14:00g 2 ĐĐ Thái
này đột ngột rã ngũ; 2 Đại Đội của TĐ1/2REI kịp thời kéo đến
thu hồi lại các súng cộng đồng và kéo về Huguette. Một số lính
Thái này kéo ra đầu hàng Trung Đoàn 88/308, 1 số khác gia nhập
vào đạo binh rã ngũ (gồm các đào binh Pháp, Việt, Phi Châu,
VM...) khoảng từ 3,000 đến 5,000 người gọi là “bầy chuột sông Nậm
Rốm” sống lẩn khuất trong các địa đạo và Căn cứ bỏ hoang, mưu
sinh bằng cách trộm cắp các chuyến thả dù và buôn lậu.
Trong ngày này TĐ2 Dù RPC được thả vào Căn cứ nhưng chỉ có 1
ĐĐ đáp được xuống đất. Phần còn lại phải bay về Hà Nội.
Ngày 2/4/1954 sáng sớm khoảng 1:00g Vương Thừa Vũ chỉ huy
SĐ 308 tấn công và chiếm lĩnh Eliane 2. Tới 4:00g sáng
ĐĐ2/TĐ5ND do Trung uý Phú chỉ huy với sự yểm trợ của Chiến Xa và
1 ĐĐ/TĐ2RPC phản công chiếm lại Eliane 2 nhưng vì áp lực CS quá
mạnh nên Trung uý Phú phải rút lui. Phi cơ C119 tham chiến rải
thảm bom napalm gây thiệt hại nặng cho Bộ Binh và Căn cứ Pháo
của VM tại Dominique 1 và Eliane 1.
Lúc 8:05g,
Langlais quyết định rút khỏi Cứ điểm Huguette 7 và Huguette 6
phải gánh chịu mũi tấn kích. Buổi chiều lại, Trung Đoàn 165/312
bắt đầu tấn chiếm Huguette 6 do 100 lính Lê Dương Dù trấn thủ
nhưng không chiếm được. Trận chiến kéo dài suốt đêm, Langlais
điều động 1 Đại Đội Lê Dương Dù và 3 Thiết Giáp kéo lên tăng
viện. Sáng ngày 3 tháng 4 Việt Minh phải rút lui với thiệt hại
nặng vì hỏa lực Chiến Xa.
Trong đêm, Hà Nội thả xuống
Điện Biên được khoảng 100 binh sĩ TĐ1 Dù thuộc địa (RCP) tăng
viện, đơn vị này thành lập Cứ điểm mới là Eliane 3.
Ngày
3/4/1954 Tình hình trong Căn cứ rất tồi tệ, mỗi Tiểu
Đoàn chỉ
còn khoảng 300 người, tăng viện nhỏ giọt không đủ bù đắp cho số
thương vong và đào ngũ. Tinh thần binh sĩ Thái xuống rất thấp.
12 binh sĩ Lê Dương tại Huguette 6 đào ngũ.
Lúc 19:00g,
Trung Đoàn 165/312 lại tấn công Huguette 6. Pháp phản công
bằng Chiến Xa. Hồi 22:30g lại tấn công đợt nữa nhưng cũng
không thành công.
Ngày này Mao Trạch Đông thư cho Bành
Đức Hoài phó chủ tịch quân ủy Trung ương nói VM cần thêm 4 Trung
Đoàn Pháo Binh và 2 Trung Đoàn Công Binh, và phải hoàn tất huấn
luyện trong vòng 6 tháng. VM cần gọi nhập ngũ thêm khoảng 8 ngàn
lính chuẩn bị tấn chiếm Hà Nội năm 1955.
Ngày 4/4/1954
trong đêm, Căn cứ được tăng viện 305 quân của TĐ1 Dù Thuộc địa
(RCP) của Thiếu tá Brechignac, số quân này thành lập 2 Cứ điểm
Eliane 10 và D3. Một số chuyên viên tình nguyện cũng được thả
vào thung lũng. 3 đợt thả dù (192 người) không thành công vì sự
quấy rối của VM tại 2 Cứ điểm Huguette 6 và Claudine 4.
Lúc 9:00g, Pháp khám phá ra vị trí súng không giật của VM tại
núi Trọc. Pháo Binh Pháp tiêu diệt vị trí này và tìm thấy trên
200 xác chết tại phía trước Huguette 6.
Hình chụp ngày 20/11/1953.
Lực Lượng Nhảy Dù tấn công Điện Biên Phủ
22:00g, chạm súng ở Huguette 6 và Claudine 5. Thời tiết
xấu không thả dù TĐ1 được.
Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower
tuyên bố không can thiệp vào Đông Dương.
Ngày 5/4/1954 lúc
0:30g, Huguette 1, 2, & 5 bị quấy rối. SĐ 312 tấn công vào
Huguette 6. Trận đánh kéo dài tới 2:40g sáng. Tăng viện Pháp bắt
tay được với đơn vị phòng thủ. Tìm thấy khoảng 1,000 xác CS, phía
Pháp cũng bị thiệt hại nặng vì pháo.
Đến ngày này Pháp
còn các Cứ điểm Epervier (khu chỉ huy), Eliane ở phía Đông,
Huguette (6 đồn) ở Tây–Bắc, H6 đầu sân bay, H1 ở giữa, H2 và H9
ở phía Nam. H5 và H4 ở Tây–Nam; gần sát Bộ Tư Lệnh là đồn Claudine 5, và Junon có 3
Cứ điểm.
Ngày 6/4/1954 Tướng Giáp họp
hội nghị sơ kết, quyết định siết chặt vòng vây và chuẩn bị đợt
tấn công mới. Đào thêm giao thông hào, phân chia các trọng điểm
chiến lược.
Ngày 7/4/1954 Tiểu Đoàn 2 Lê Dương Dù (2e
BEP) nhảy xuống tăng viện.
Ngày 8/4/1954 Tướng Giáp phổ
biến lệnh tác chiến mới, xin tăng viện 25 ngàn tân binh và xin
Trung cộng viện trợ thêm 1 Trung Đoàn Phòng Không với 67 đại
bác 37ly.
Lúc 16:45g, Trung Đoàn 174/316 di chuyển đến
triền phía Đông của Eliane 2. VM đào giao thông hào cạnh phi
trường và Cứ điểm Isabelle.
ĐĐ12/3 Thái đào ngũ tại
Huguette 2. Việc rã ngũ này tạo nên sự nghi kỵ giữa các sĩ quan
chỉ huy Pháp và các quân nhân Việt nhất là TĐ5ND–VN. Hai ĐĐ
trong TĐ5ND VN bị giải giới và sử dụng như lao công chiến
trường. 60 lính VM thuộc Trung Đoàn 57 bị giết tại phía Tây
Isabelle.
Ngày 9/4/1954 Pháp đề nghị trao đổi tù binh bị
thương, hôm sau VM đồng ý nhưng đề nghị 2 địa điểm trao đổi.
Pháp đồng ý tại 1 vị trí.
Quân ủy Trung ương Trung cộng
hứa cung cấp đầy đủ đạn dược và chuyên viên kỹ thuật về địa đạo
cho VM.
2 ĐĐ của TĐ2 Lê Dương được thả xuống Điện Biên
Phủ và đưa đến Cứ điểm D3, 1 ĐĐ/TĐ5ND–VN được di chuyển lên
Huguette 6. Một đơn vị Maroc thiết lập thêm các Cứ điểm Liliane.
Ngày 10/4/1954 Pháp cố gắng tái chiếm Eliane 1, giao tranh
ác liệt. TĐ1/2 Dù (RCP) lên thay TĐ6 Dù. Trong đêm này Trung
Đoàn 98/316 tấn công E1. Bigeard tập trung quân các binh sĩ TĐ1
Dù, Bắc Phi, Thái, và TĐ5ND–VN phản công lên A1. VM phải rút lui
bỏ lại 400 xác.
Ngày 11/4/1954 Chủ Nhật, VM phản công
Eliane 1. Bigeard điều động ĐĐ7/2 Lê Dương Dù lên tăng viện E1.
Trong ngày 11/4 này, Pháp thả xuống Căn cứ tăng viện thêm được
222 quân nhân.
Ngày 12/4/1954 Trung Đoàn 98/316 của Vũ
Lăng lại mở đợt tấn công khác vào E1 nhưng không thành công. E1
vẫn tồn tại cho đến ngày cuối cùng.
Navarre nghiên cứu kế
hoạch Condor để triệt thoái Điện Biên bằng đường bộ.
Ngày
14/4/1954 phi đạo bị cắt đứt làm 3 vì địa đạo, 2 Cứ
điểm
Huguette 1 & 6 hoàn toàn bị cô lập với Trung Tâm.
Ngày
15/4/1954 số thương binh Pháp không được di tản trở nên tệ hại:
405 ngồi, 286 nằm. Navarre phong De Castrie lên cấp thiếu tướng.
Ngày 18/4/1954 Langlais quyết định rút bỏ
Căn cứ Huguette 6.
Ely chấp thuận cho Navarre tiếp xúc mật với VM không cần thông
báo cho Maurice Dejean.
Ngày 19/4/1954 Navarre báo cho
Ely biết sẽ có tin tức của VM trong vòng 1 tuần.
Ngày
22/4/1954 Huguette 1 do Lê Dương phòng thủ bị tấn công.
Công
điện kêu cứu cuối cùng vào lúc 2:30g ngày Thứ Sáu 23/4/1954.
Ngày 23/4/1954 Huguette hoàn toàn thất thủ lúc 2:30g
sáng.
Ngày 24/4/1954 Pháp hối hả cầu viện Mỹ lần nữa
nhưng Ngoại trưởng Dulles trả lời Quốc hội không chấp thuận. Số
phận Điện Biên coi như chấm dứt.
Ngày 26/4/1954 Hội Nghị
Genève bắt đầu khai mạc gồm 9 phe tham dự kể cả VM và QGVN.
Ngày 28/4/1954, Mao Trạch Đông biên thư cho Bành Đức Hoài nêu
lên mối nguy hiểm Pháp có thể thả dù chận đường tiếp vận và
chuẩn bị bảo vệ trục tiếp vận.
Điện Biên Phủ sau
ngày 15/4/1954
Bắc Kinh hứa tăng viện thêm đạn dược, thực
phẩm, và 18 giàn phóng Hỏa Tiễn 75ly 6 nòng, loại vũ khí tối tân
xuất hiện đầu tiên trên chiến trường Đông Dương.
Trong
khi đó VM được tăng cường 25,000 tân binh để bổ sung sự thiệt hại
trong 1 tháng vây hãm ĐBP.
Ngày 30/4/1954 Ngày lễ kỷ niệm
thành lập Lê Dương (Camerone). VM pháo kích dữ dội vào Isabelle
suốt 1 giờ.
Hàng Không Mẫu Hạm Belleau Wood thay Hàng
Không Mẫu Hạm Arromanches. Mang theo phi cơ F14 (Corsair).
Tính đến ngày này Pháp chỉ còn lại 2,900 binh sĩ khỏe mạnh.
Tại phía Đông–Bắc còn các Cứ điểm Dominique 3 do TĐ2 Thái, TĐ1
Algerien, và 1 ĐĐ/TĐ6ND giữ. Eliane 1 do 1 ĐĐ/TĐ5ND–VN của
Trung uý Phạm Văn Phú (1933–1975) mới được đặc cách lên đại uý
và TĐ2/1 Dù. Tại E4 đặt Bộ Chỉ Huy của Thiếu tá Bréchignac.
Phía bên ngoài, tại Tuyến Đông–Bắc, Sư Đoàn 316 được tăng cường
bởi Trung Đoàn 9/304 vây chặt A1, C1, & C2. Tuyến Đông, Sư
Đoàn
312 bao vây các Cứ điểm 505, 505A, 506, 507, 508 ở sát sông Nậm
Rốm, gần khu vực chỉ huy của De Castrie. Trên tuyến phía Tây, Sư
Đoàn 308 đánh vào Lilie, Claudine. Tại phía Nam, Sư Đoàn 304
ngăn chận quanh Isabelle không cho rút qua Lào.
(Trái sang phải) René Cogny (tay cầm cane),
Christian de
Castries (không đội mũ), and Henri Navarre
Ngày 1/5/1954
– Ngày N đã điểm: lúc 20:00g, sau trận địa pháo mở màn, các
đơn vị 312 và 316 đồng loạt tấn công vào các Cứ điểm Eliane 1 và
Eliane 2. Tại Eliane 1, TĐ2/1 Nhảy Dù của Trung uý Leguere đánh
xáp lá cà với VM, 20:15g Brechignac cho lệnh ĐĐ1 của Trung uý
Periou tăng viện. 2:05g E1 và D3 bị tràn ngập.
Trung Đoàn 98/316 đánh vào C1 vào lúc 19:30g. Pháp phản công sử dụng cả súng phun lửa, nhưng
Cứ điểm vẫn bị thất thủ trong đêm.
Lúc 20:00g, SĐ 316 bắt đầu tấn công vào Dominique và chiếm
được Cứ điểm này lúc 2:07g ngày 2/5. và sau đó chiếm luôn
Eliane 1. Tại Eliane 2, Trung Đoàn 174/316 của Nguyễn Hữu An tấn
công ào ạt vào lúc 20:00g nhưng bị đẩy lui, đến 2:50g lại
tiếp tục tấn công lần nữa nhưng vẫn không thành công. Lúc 6:45g ngày 2/5/1954
Cứ điểm Eliane 2 vẫn đứng vững.
Tại mặt
trận phía Đông, SĐ 312 trách nhiệm tấn công vào Cứ điểm 505 và
Dominique 3 (505A). Hai Tiểu Đoàn 165 và 166 của Trung Đoàn
209/312 của Hoàng Cầm tấn công vào 2 Cứ điểm này. TĐ6ND của
Thiếu tá Thomas cùng binh sĩ Thái và Algeriens của Chenel hết
sức cầm cự. Quân Pháp đưa quân từ Cứ điểm 507 tùng thiết lên
tiếp ứng. Hoàng cầm phải cho quân tăng viện vào mặt trận. Lúc
4:20g Cứ điểm D3 bị tràn ngập. Tại đây Hoàng cầm cho quân đào
giao thông hào hướng về 2 Cứ điểm 506 và 507.
Tại mặt
trận phía Tây hồi 20:00g ngày 1/5 sau trận địa pháo dữ dội,
Trung Đoàn 88/308 tấn công vị trí Huguette 5 và 4 ở phía Tây–Bắc
phi đạo. Huguette 5 do Lê Dương trấn thủ, bị tấn công liên tục
cả tuần lễ. Đến 20:05g Cứ điểm này bị thất thủ. Lúc 2:00g Trung
Đoàn 36/308 đánh vào Huguette 4, Cứ điểm này nằm sát ngay
phía Tây phi đạo. Lúc 3:05g CS lại tấn công đợt 2 vào H4.
Viện binh từ H3 và Lilie 2 giúp giải tỏa 1 số địa đạo tại phía
Nam nên Cứ điểm này vẫn đứng vững.
Tại tuyến Nam, Sư Đoàn
304 ngăn chận quanh Isabelle không cho Pháp rút quân qua Lào.
Nhờ thời tiết tốt, B29 Mỹ tham chiến oanh tạc dữ dội các vị trí
VM nên các mặt trận có vẻ lắng dịu.
Ngày 3/5/1954 lúc
2:50g Pháp được tăng cường 1 ĐĐ2/1 Dù của Trung uý Marcel
Edme với 107 quân nhân. Và được đưa lên tăng viện cho Eliane 2.
Ngày 4/5/1954 thêm 1 ĐĐ 3/1 BCP của Đại uý Jean Pouget và
BCH/TĐ1BCP nhảy xuống Điện Biên Phủ.
De Castrie được
thông báo về kế hoạch Albatros (Chim Biển). Dự trù sẽ bắt đầu
lúc 20:00g ngày 7/5. VM đã biết 1 phần kế hoạch này.
Trung Đoàn 36/308 và 3 TĐ của Trung Đoàn 88 & 102/308, và 1
TĐ/312 tấn chiếm Lilie rồi tràn xuống H4. Thiếu tá Giraud từ
Huguette cho quân tăng viện H4.
Ngày 5/5/1954 lúc 3:35g,
Cứ điểm H4 thất thủ. Quân VM chỉ còn cách De Castrie 300m. Trung
cộng gởi tăng viện cho VM 18 giàn phóng Hỏa Tiễn Katiusha
6 nòng.
Ngày 6/5/1954 VM dùng trận địa pháo khuấy rối
Eliane 4, 10, & 12. Lúc 20:00g ra lệnh bắt đầu tấn công. Hiệu
lệnh là tiếng nổ của 1,000 ký–lô chất nổ chôn ngầm dưới Căn cứ
Eliane 2. Căn cứ này mới được hoán đổi quân. Trung Đoàn 174/316
sử dụng 2 Tiểu Đoàn tấn công chận đường rút về Trung Tâm.
Đúng 20:30g, Lê Quảng Ba cho lệnh châm ngòi nổ. Nhưng 1
tấn thuốc nổ đã không nổ như mọi người trông đợi. Nguyễn Hữu An
vẫn cho nổ súng. Sau 15 phút dùng pháo dọn đường, bộ binh bắt
đầu xung phong. Giao tranh ác liệt tại 2 Căn cứ Eliane 2 và 3.
Command staff at Dien Bien Phu From left:
Maj.
Maurice Guirad (1st Bataillon Etranger de Parachutistes/BEP),
Capt. André Botella (5th Bataillon de Parachutistes Vietnamiens/BPVN),
Maj. Marcel Bigeard (6th Bataillon de Parachutistes
Coloniaux/BPC),
Capt. Pierre Tourret (8th Assault),
Lt. Col. Pierre C. Langlais, Commander at Dien Bien Phu
(Groupement Aéroporté 2),
Maj. Hubert de Séguin–Pazzis (Chief
of Staff)
Ngày 7/5/1954 lúc 3:00g sáng,
Trung Đoàn 174
chiếm được hầm chỉ huy, bắt sống Pouget và hơn 100 tù binh. 4:30g mặt trận mới im tiếng súng.
Tại
Cứ điểm C2, Pháp đã
tăng cường thêm 6 ĐĐ thuộc TĐ2 Lê Dương Dù và TĐ5ND–VN. Trung
Đoàn 98 của Vũ Lăng gặp sự phản kháng mãnh liệt trong từng
lô–cốt và địa đạo. Lăng phải điều động thêm viện binh.
6:00g sáng De Castrie xin triệt thoái khỏi Căn cứ và được
chấp nhận.
7:30g Sư Đoàn 316 mở đợt tấn công cuối cùng
chia quân làm 3 mũi tiến vào C2. Mãi tới 9:30g mới giải quyết
xong các mục tiêu. Hơn 600 binh sĩ Pháp bị bắt hoặc tử thương.
Phía Đông Căn cứ hoàn toàn bị thất thủ.
9:00g: tin
viện binh từ Na Sản bị đẩy lui. Tướng Giáp ra lệnh cho các đơn
vị dứt điểm.
Tại Eliane 10, Không Quân Pháp thả bom
Napalm nhưng không làm cho Trung Đoàn 165 bị thiệt hại nhiều.
Tại 507 Hoàng Cầm bị cầm chân. Bộc phá không phá nổi hàng rào.
Mãi tới 15:00g mới chiếm được 507.
Lúc 15:00g,
SĐ 312 bắt đầu vượt qua cầu Mường Thanh đánh sang khu Trung Tâm.
17:20g Trung Đoàn 209/312 với sự trợ lực của Trung Đoàn
141/312 tiến được vào hầm chỉ huy và bắt sống Tướng De Castrie.
Tại phía Tây, Trung Đoàn Thủ Đô 102/308 cũng diệt được
Claudine 5 chỉ cách hầm De Castrie 50m. Nửa đêm 7/5/1954, Chính
ủy Lê Chưởng báo cáo đã bắt sống được Đại tá Lalande và toàn bộ
binh sĩ.
Ngày 8/5/1954 tin
Điện Biên Phủ thất thủ sau 56 ngày
bị vây đánh được đón nhận như 1 quốc tang tại Paris. Lúc 16:45g tại Hội nghị
Genève về Đông Dương, Ngoại trưởng Pháp đề nghị
ngưng bắn để tìm 1 giải pháp hòa bình.
Sự tổn thất:
(Theo tài liệu của BCH Pháp)
Phía Quân Bộ Binh Pháp: Kể
từ khởi đầu chiến dịch 20/11/1953 đến 7/5/1954 đến khi ĐBP thất
thủ tổng cộng số người được tăng cường đến ĐBP là 15,709 người,
sau ngày 7/5/1954 còn lại bị bắt làm tù binh 11,721 người trong
đó hết 4,436 người bị thương. Phía VMCS cho phép Hồng Thập Tự di
tản 858 người bị thương nặng. 4 tháng sau, VMCS chỉ hoàn trả lại
cho Pháp 3,290 người, hết 70% đã chết trong trại tù CS. (10,998
prisoners; 7,708 dead or missing; 3,290 survivors.)
*
Về
Không Quân Pháp bị tổn thất:
– 48 phi cơ bị phá hủy (28
chiếc đang bay, 20 trên phi đạo).
– 167 phi cơ bị hư hại, 2
trực thăng bị phá hủy.
– 15 chết, 33 bị bắt, 6 mất tích.
* Về Hải Quân Pháp tổn thất:
– 8 phi cơ bị phá hủy,
19 chiếc bị hư hại.
– 6 phi công tác chiến chết, 2 phi công bị
bắt.
* Về phía Mỹ:
– 1 phi cơ C119 bị bắn rơi.
–
2 phi công chết và 1 bị thương nặng.
* Về phía
VMCS, ước lượng khoảng 8,000 chết; từ 15,000 đến 20,000
mất tích; có thể chết vì thương tật không được chăm sóc. (theo
ước lượng của Pháp).
* Tù binh
Theo Jane Hamilton–Merritt thì vào
ngày 8 tháng 3, sau khi Việt Minh kiểm tra số tù binh thì có
11,721 binh lính Quân Đội Liên Hiệp Pháp đã bị bắt (bằng 1/3 số
tù binh bị bắt trong cả cuộc chiến), trong đó 4,436 người đã bị
thương. Trong số người bị bắt làm tù binh có 3,290 người (phần
lớn mang quốc tịch Pháp) được trả tự do. Có những người Hmông bị
những người cộng sản Việt Nam bắt giữ từ năm 1954 cho tới tận 25
năm sau, năm 1979 khi Trung cộng có chiến tranh với Việt Nam mới
được trả tự do, chẳng hạn như Yang Mi Cha bị Việt Minh bắt giữ
khi ông ta đang phòng thủ Sở Chỉ Huy Điện Biên Phủ.
Tháng 1/1954, Phó Tổng thống Mỹ Nixon đến
Điện Biên Phủ quan sát trận địa.
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù diễn hành tại Nha Trang năm 1955
sau ngày chiến thắng quân Bình Xuyên tại Sài Gòn
Tài liệu tham khảo:
– Dien Bien Phu trên website: dienbienphu.org/english/index.htm.
– Từ Điện Biên Phủ tới Geneva (Cuộc Thánh Chiến chống cộng) của Chính Đạo, Văn Hóa xuất bản tại Houston Texas năm 2004.
– Battle of Dien Bien Phu from Wikipedia, the free encyclopedia.
– Và phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù.
******02******
02. Tình Hình Việt Nam Sau
Hiệp Định Geneve
Tình Hình Việt Nam Sau Hiệp Định Geneve
Điện Biên Phủ thất thủ
(7/5/1954) buộc Pháp phải ký thỏa ước Genève chia cắt Việt Nam thành
2 phần lấy vĩ tuyến 17 tức sông Bến
Hải làm ranh giới. Theo thỏa
ước này Pháp phải rút Quân Đội khỏi miền Bắc vĩ tuyến 17 và tập kết
ra Bắc các lực lượng cộng sản tại miền Nam dưới sự kiểm soát của Ủy
Hội Quốc Tế (bù nhìn) để chờ ngày tổng tuyển cử 2 năm sau đó.
Ngày 16 tháng 6 năm 1954, chính phủ do hoàng thân Bửu Lộc làm
thủ tướng từ chức. Quốc trưởng Bảo Đại mời ông Ngô Đình Diệm thành
lập chính phủ mới.
Cho tới thời gian gần đây năm 2010, hầu
như đối với mọi người đều tin rằng ông Ngô Đình Diệm đã được người
Mỹ đưa lên cầm quyền trong chủ trương hất chân người Pháp ra khỏi
Đông Dương. Người ta còn thêm rằng ông Diệm đã được phe Công giáo
Mỹ, tiêu biểu là hồng y Spellman, đỡ đầu nên đã giành được sự ủng hộ
của Mỹ.
Thật sự, ông Ngô Đình Diệm lúc bôn ba hải ngoại, có
sang Mỹ 2 lần: lần đầu năm 1950 đã cùng anh là Giám mục Ngô Đình
Thục qua Mỹ xin viện trợ và lưu lại vài tháng nhưng không được chính
khách Mỹ nào tiếp cả. Sau chuyến hành hương tại Vatican, ông Ngô
Đình Diệm trở lại Paris. Qua trung gian Nguyễn Trung Vinh và Bửu
Kỉnh, ông gửi thư riêng cho vua Bảo Đại xin làm thủ tướng.
Sau đó ông trở lại Mỹ lần thứ hai vào năm 1951 để nghiên cứu thể
chế chính quyền Mỹ và tu học về tôn giáo. Lần này ông cư ngụ trong
các tu viện dưới quyền Hồng Y Francis Spellman (là bạn thân của Giám
mục Ngô Đình Thục từ lúc 2 người cùng học tại La–mã), được đi diễn
thuyết từ Chicago tới đại học Cornell (Ithaca, New York), gặp gỡ vài
viên chức ngoại giao, cùng các nhân vật quyền thế Mỹ như Thẩm phán
Tối cao pháp viện William O. Douglass, TNS Mike Mansfield, TNS John
F. Kennedy, Dân biểu Walter H. Judd, v.v. để rao giảng về 1 cuộc
chiến chống Cộng ở VN, dựa trên khối giáo dân Ki–tô giáo, nhưng cũng
không đạt được kết quả nào vì ông không có tài diễn thuyết và kém về
tiếng Anh.
Năm 1953, ông Ngô Đình Diệm qua Bỉ, trú ngụ tại
chủng viện Benedictine ở Saint André les Bruges, 1 Trung Tâm
truyền giáo về vùng Viễn Đông. Tại đây, ông kết thân với Linh mục
Raymond J. de Jaegher, người sẽ là Giám đốc Hội Thái Bình Dương Tự
Do (Free Pacific Association) tại Sài Gòn. Ưu thế của ông Ngô Đình
Diệm là khối giám mục Ki–tô giáo, lực lượng này đã thống trị nền
chính trị bản xứ từ năm 1862.
Vào khoảng tháng 3/1954, khi
trận Điện Biên Phủ đã chứng tỏ sự nguy ngập của Pháp, ông Ngô Đình
Nhu, bào đệ của Ông Ngô Đình Diệm, người chủ chốt của chế độ sau
này, nghĩ đã đến lúc để thuyết phục chính phủ Pháp (Thủ tướng Pháp
là Joseph Laniel), đưa ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền.
Ông
Nhu đã cử ông Trần Chánh Thành sang Paris và nhờ ông Jacques Bénet
giúp đỡ để tiếp xúc và thuyết phục chính quyền Pháp về đề nghị này
(Jacques Bénet là bạn thân của ông Nhu khi 2 người cùng học trường
Ecole des Chartes tại Paris). Ông Bénet đã nhờ 1 người bạn tên là
Antoine Ahond quen thân nhiều nhân vật quan trọng trong chính quyền
Pháp, đặc biệt là các ông Germain Vidal, chánh văn phòng thủ tướng,
ông Bourgenot, bộ trưởng tại Phủ Thủ Tướng, và Ngoại trưởng Bidault.
Mặt khác, chính ông Trần Chánh Thành cũng tỏ ra xuất sắc. Nhờ thế mà
ông Diệm đã được chính quyền Pháp chấp nhận và áp lực Vua Bảo Đại
phải đồng ý.
Do vì tình hình chiến sự của Pháp ngày càng suy
thoái. Pháp chỉ có khả năng kéo dài ngày chiến bại hơn là hy vọng
chiến thắng. Tại các khu vực Pháp kiểm soát, 5 chính phủ Quốc Gia
thay nhau bộc lộ sự bất lực. Sự sinh tồn của các chính phủ này hoàn
toàn tùy thuộc vào quân lực viễn chinh Pháp và viện trợ Mỹ, qua tay
người Pháp. Bởi vậy, Mỹ áp lực Pháp trả độc lập hoàn toàn cho VN,
hầu tạo 1 chính phủ thực sự Quốc Gia. Vua Bảo Đại sẽ được giữ làm
vì, nhưng chức thủ tướng phải trao cho một người Quốc Gia chưa từng
xuất hiện trên chính trường.
Do những dàn xếp hậu trường, Ông
Ngô Đình Diệm được Pháp chọn lựa, Vua Bảo Đại đã quá lệ thuộc Pháp
nên khó có thể cưỡng lại. Ngày 14/5/1954, Bảo Đại mời ông Ngô Đình
Diệm qua Paris bàn việc. Ba ngày sau, Bảo Đại bí mật gặp Thứ trưởng
Ngoại giao Walter Bedell Smith, yêu cầu Mỹ can thiệp, và cử Ngô Đình
Luyện (1914–1990), em út nhà họ Ngô, làm đại diện liên lạc với Mỹ.
Ngày 18/5, Ngô Đình Luyện xin gặp Smith, dò ý về việc ông Ngô Đình
Diệm sẽ làm thủ tướng thay cho Hoàng Thân Bửu Lộc.
Do Pháp
tiến cử, ngày 24/5/1954, phái đoàn Mỹ tham dự Hội nghị Geneva gặp
ông Ngô Đình Diệm tại Tòa Đại Sứ Mỹ ở Paris. Dù không tin ông Ngô
Đình Diệm sẽ thành công, các viên chức Mỹ vẫn phải chấp nhận vì
những người thủ tướng tiền nhiệm đều không thành công.
Để
chuẩn bị cho ông Ngô Đình Diệm hồi hương, ngày 4/6/1954, chính phủ
Laniel ký Hiệp ước trả độc lập cho VN. Hiệp ước này gồm 2 văn kiện
chính: độc lập và hợp tác. Hai ngày sau, 6/6/1954, Laniel đồng ý để
ông Ngô Đình Diệm thay ông Bửu Lộc trong chức vụ thủ tướng.
Ông Ngô
Đình Diệm chính thức tiếp nhận chức vụ thủ tướng ngày 19/6/1954 và
lên đường về nước ngày 24/6/1954.
Tại Sài Gòn, ngày 12/6,
Hoàng thân Bửu Lộc tuyên bố sẽ từ chức để ông Ngô Đình Diệm lên
thay. Hôm sau 13/6, Maurice Dejean, Phụ tá dân sự của Cao ủy Paul
Ely xác nhận tin này.
Ngày 26/6/1954, ông Ngô Đình Diệm đặt
chân xuống Sài Gòn giữa tình thế cực kỳ hỗn loạn. Tướng Raoul Salan
đã cho lệnh triệt thoái 4 tỉnh miền Nam–Bắc Việt. Ông Ngô Đình
Diệm nhiều lần can thiệp đừng bỏ rơi Bắc Việt, nhưng Salan chỉ đồng
ý để Quân Đội QGVN thay Pháp giữ các tỉnh này. Ngày 29/6, Ông Ngô
Đình Diệm còn yêu cầu di tản 1 số dân châu thổ sông Hồng, đặc biệt
là giáo dân Ki–tô giáo, trong trường hợp chia đôi đất nước.
Trong khi đó chính phủ Mỹ muốn ngăn chận sự bành trướng của Trung
cộng tại Á Châu nên trực tiếp viện trợ cho Nam Việt Nam để ngăn cản
sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản. Vì thế sau ngày 7/7/1954, khi
chính phủ Ngô Đình Diệm được thành lập, 2 vị Tướng của Mỹ là E.G.
Lansdale và J.Lawton Collins đã được phái sang Sài Gòn để cố vấn cho
chính phủ VNCH và áp lực người Pháp rút khỏi Việt Nam.
Ngày
20/7/1954 Pháp và Việt Minh (VM) ký thỏa hiệp đình chiến gồm có 6
chương và 47 điều khoản tại Genève qui định 300 ngày cho 2 bên
thờì giờ tập hợp rút quân về, trước hạn ngày 18 tháng 5 năm 1955. Cuộc Tổng Tuyển cử toàn quốc dự trù sẽ được tổ chức sau 2 năm, vào
tháng Bảy 1956. Một Ủy Ban Đình Chiến gồm Ấn Độ, Gia Nã Đại, và Ba
Lan được thành lập để giám sát việc thi hành Hiệp Định. Dân chúng
được lựa chọn khu vực cư trú.
Hiệp định đình chỉ chiến sự ở
Việt Nam chỉ là 1 hiệp định có tính cách thuần tuý quân sự không
phải là 1 hòa ước, và không đưa ra 1 giải pháp chính trị nào cho
tương lai Việt Nam. Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, Trưởng Phái Đoàn Quốc
Gia Việt Nam (QGVN) ra tuyên ngôn phản đối hiệp định có nhiều điều
khoản nguy hại cho tương lai chính trị của dân tộc VN với các điểm
chính như sau:
1. Pháp đã tự ý nhượng cho Việt Minh những
vùng mà Quân Đội Quốc Gia VN còn đóng quân.
2. Tước mất của
QGVN quyền bất khả xâm phạm để tổ chức phòng thủ.
3. Pháp tự
tiện ấn định ngày tổng tuyển cử mà không có sự thỏa thuận của phía
Quốc Gia Việt Nam (QGVN).
Vì những lý do đó phái đoàn Quốc
Gia Việt Nam yêu cầu hội nghị ghi nhận: "Việt Nam long trọng phản
đối việc ký kết hiệp định Genève – chính phủ Quốc Gia Việt Nam hoàn
toàn tự do hành động để bảo vệ quyền lợi thiêng liêng của dân tộc
Việt Nam trong cuộc thực hiện thống nhất, độc lập, và tự do cho xứ
sở".
Để trấn tĩnh nhân tâm, ngày 8/7/1954, Thủ
tướng Ngô Đình Diệm đã thành lập Ủy ban bảo vệ Bắc Việt với 1
thành phần gồm ông Hoàng Cơ Bình, tân đại biểu chính phủ tại Bắc
Việt, giữ chức chủ tịch, 2 ủy viên là ông Trần Trung Dung, ủy viên
dân sự; ủy viên quân sự là Thiếu tướng Nguyễn Văn Vận, Tư lệnh Đệ
tam quân khu. Ủy ban này được điều chỉnh bằng Dụ số 11 ngày
9/7/1954, trong đó, Ủy ban được ủy quyền thay các Tổng trưởng Quốc
phòng, Nội vụ để giải quyết các vấn đề về hành chính, chính trị, và
quân sự tại miền Bắc. Ủy ban bảo vệ Bắc Việt duy trì tới ngày
6/8/1954 thì giải tán.
Ngày 22/7/1954 lúc 7:00g sáng tại
VN, lệnh ngưng bắn được ban hành bắt đầu có giá trị và được ấn định
từng vùng như sau:
Ngày 27/7/1954 ngừng bắn tại Bắc Việt, lực
lượng QGVN và Pháp tập trung tại Hà Nội, Hải Dương, và Hải Phòng vào
ngày 11/8/1954, lực lượng Việt Minh tạm thời rút lui khỏi các khu
vực mà Lực Lượng Quốc Gia – Pháp tập trung tại Bắc Việt.
Đến
ngày 6/8/1954, Bộ trưởng Lê Quang Luật (bộ trưởng trực thuộc
Phủ Thủ Tướng phụ trách Thông Tin) được cử làm Đại biểu chính
phủ tại Bắc
Việt, phụ trách chương trình di cư dân tỵ nạn, điều hành công việc ở
1 số khu vực tại miền Bắc trong thời gian Lực Lượng Quân Đội Quốc
Gia và Liên Hiệp Pháp tiến hành cuộc triệt thoái khỏi Bắc Việt.
* Kế hoạch triệt thoái Quân Đội Quốc Gia VN khỏi Bắc Việt và các
cuộc di dân từ miền Bắc vào Nam đã diễn ra hết sức đông đảo.
Trước ngày ngưng bắn, tại khu vực Nam của châu thổ Bắc Việt, Liên
Quân VN–Pháp đã mở cuộc hành quân mệnh danh là Auverge khai diễn vào
cuối tháng 6/1954 để triệt thoái các đơn vị ra khỏi miền này. Đã xảy
ra nhiều trận giao tranh dữ dội. Nhưng cuộc triệt thoái đã thành
công, các đơn vị được đưa về cố thủ trên những phòng tuyến xung
quanh Hà Nội và Hải Phòng, và dọc theo Quốc lộ 5. Tại những nơi đây,
người lính Quốc Gia bị giao động bởi vì sau cuộc triệt thoái, họ cảm
thấy mất mát những làng xóm, gia đình và người thân.
Passage to Freedom: 4 lính
Hải Quân Mỹ căng biểu ngữ đón chào
người di cư
lên chiến hạm USS Bayfield (APA33) từ bến Hải Phòng
để đi Sài Gòn vào
ngày 3/9/1954 (Ảnh của Hải Quân Hoa Kỳ)
Tháng 8/1954 các đơn vị Quốc Gia Việt Nam–Pháp tại Bắc Việt khởi
sự di chuyển vào Nam. Kế hoạch chuyển quân được tiến hành theo quan
niệm của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia Việt Nam là 1 số đơn
vị lớn từ Bắc Việt vào sẽ đồn trú tại Đà Nẵng và Nha Trang để biến
2 nơi này thành những đầu cầu cho chiến dịch tiếp thu các tỉnh
Quảng Ngãi, Bình Định.
Theo kế hoạch chuyển quân này, 1 số
đơn vị có đông binh sĩ là sắc tộc thiểu số thì được chuyển đến Cam
Ranh để có thể khai phá đồng ruộng sinh sống và làm lực lượng trừ bị
tại đây. Còn 1 số lớn đơn vị được đưa vào Nam với phần lớn xuống
miền Tây đóng tại những vùng có Quân Đội Hòa Hảo.
Cũng theo
kế hoạch của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia VN, 1 số đơn vị từ
Bắc Việt vào sẽ đóng quanh vùng Tây Ninh. Những đơn vị còn lại được
đưa lên Đà Lạt bổ sung cho Lực Lượng Ngự Lâm Quân đang có ý định
phát triển thành 1 đại đơn vị. Sự phối trí các lực lượng từ miền Bắc
vào còn nằm trong ý định thành lập những Sư Đoàn tương lai tại miền
Nam.
Trong khi đó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù di chuyển từ Hải Phòng
được chỉ định trấn đóng tại Đà Nẵng: cùng với 2 Tiểu Đoàn 3, Tiểu
Đoàn 7 Nhảy Dù di chuyển từ Hà Nội vào.
Theo phân tích
của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (Tổng tham mưu
trưởng lúc
bấy giờ là Trung tướng Nguyễn Văn Hinh) thì việc triệt thoái sau
ngưng chiến và việc di cư vào miền Nam đã làm cho quân số của Quân
Đội Quốc Gia tại Bắc Việt giảm sút, đang từ 80,076 tính đến
31/5/1954, tới khi vào đến trong Nam chỉ còn 32,000 người. Sở dĩ thế
là do bởi tinh thần binh sĩ giao động. Theo báo cáo của Phòng 1 Bộ
Tổng Tham Mưu kiểm tra trong thời gian từ 21/7/1954 đến 20/8/1954,
thời gian giao động nhiều nhất. Số đào ngũ của các đơn vị đóng tại
Bắc Việt trước khi ngưng bắn, lên tới 21,421 người, trong đó có 112
sĩ quan, 1,031 hạ sĩ quan, và 20,278 binh sĩ. Sự đào ngũ này vẫn gia
tăng vào những tháng chót khi các đơn vị rời Bắc Việt. Số quân nhân
đào ngũ thực ra không ở lại miền Bắc hết, 1 phần đào ngũ đi tìm
gia đình sau đó di cư theo ngã dân sự, và 1 phần khác phải xuất ngũ
vì tất cả các đơn vị phụ lục quân tại miền Bắc đều bị giải tán.
Tình hình tại Trung Việt trước giờ ngưng bắn
Ngày
16/8/1954 lúc 7:00g, lệnh ngưng bắn có hiệu lực tại Trung
Việt:
Trước khi Hiệp định đình chiến có hiệu lực, tại miền Trung, Lực
Lượng Quân Đội Quốc Gia và Pháp đã phối trí các đơn vị bộ chiến bảo
vệ các phòng tuyến tại nhiều khu vực đồng bằng thuộc các tỉnh Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, 1 phần của tỉnh Quảng Nam (các phủ,
huyện phía Bắc), tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.
Tại
các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Liên Quân Việt–Pháp
liên tục mở các cuộc hành quân cấp Liên Đoàn để tảo thanh các đơn vị địa
phương của Việt Minh. Tại khu vực bao gồm phía Nam tỉnh Quảng Nam,
tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên là vùng bị Việt Minh kiểm soát
từ 1946 (VM gọi là Liên Khu 5).
Từ tháng 1/1954 đến tháng
7/1954, Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Liên Hiệp Pháp tại Trung Việt đã tổ
chức chiến dịch Atlante nhằm bình định các tỉnh thuộc khu vực này.
Vùng hành quân này là 1 Căn cứ chiến lược của Việt Minh được xây
dựng từ năm 1946. Dân số vào đầu năm 1954 ước khoảng 2.5 triệu
người. Đây là khu giao liên trọng yếu của Việt Minh nối liền miền
Bắc và miền Nam. Khi mở cuộc hành quân, Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Liên
Hiệp Pháp tại VN muốn đánh bật Việt Minh ra khỏi khu này để giao lại
cho chính quyền Quốc Gia Việt Nam. Do đó, cuộc hành quân này có tính
cách bình định với sự tham gia của nhiều Tiểu Đoàn Khinh quân và các
Liên Đoàn chiến thuật của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Sau khi chiếm
được khu vực này, Pháp giao cho Lực Lượng Quốc Gia Việt Nam bình
định. Mặt trận tại duyên hải miền trung lắng dịu vì Việt Minh chuyển
quân mở cuộc tấn công vùng Cao nguyên Trung phần. Giữa tháng 6/1954,
VM gia tăng áp lực tại Trung nguyên Trung Việt và chuẩn bị tấn công
Pleiku để kiểm soát Cao nguyên. Nhận thấy áp lực của VM, Bộ Tư Lệnh
Liên Hiệp Pháp ra lệnh cho Liên Đoàn 100 rời An Khê về cố thủ Pleiku
cho đến ngày ngưng bắn. Trong tháng 7/1954, tại khu vực đồng bằng
của các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, lực lượng Việt Minh
đã mở nhiều cuộc tấn công vào các đồn, vị trí đóng quân của các đơn
vị Quân Đội Quốc Gia, nhưng phần lớn các cuộc tấn công này đã bị
thất bại, lực lượng đồn trú đã bảo vệ vững phòng tuyến.
Ngày
1/8/1954 ngừng bắn tại Trung Việt, Lực lượng QGVN và Pháp triệt
thoái khỏi Bắc vĩ tuyến 17 và tạm thời rút khỏi Qui Nhơn vào ngày
16/8/1954 để VM làm nơi tập kết.
Tại khu vực từ Vĩnh Linh
(tỉnh Quảng Trị) đến tỉnh Quảng Bình, Lực Lượng Quân Đội Quốc Gia và
Liên Hiệp Pháp di chuyển về phía Nam Bến Hải theo Quốc lộ 1 bằng các
đoàn quân xa có Thiết Giáp hộ tống và phi cơ quan sát dẫn lộ từ trên
không. Các đơn vị thuộc Quân Đội Quốc Gia di chuyển vào đồn trú tại
Quảng Trị, Thừa Thiên. Các đơn vị thuộc Quân Đội Liên Hiệp Pháp từ
Quảng Bình vào, tập trung đóng quân tạm thời tại Đông Hà và Đà Nẵng.
Ngày 11/8/1954 ngừng bắn tại Nam Việt, lực lượng VM tại miền Nam
tập kết về Bắc tại Đồng Tháp, Xuyên Mộc, Hàm Tân, và mũi Cà Mau vào
ngày 26/8/1954.
Kế hoạch quân số sau khi ngưng chiến
Từ khi ngưng chiến, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia Việt Nam chỉ
muốn duy trì quân lực ở trên mức 200 ngàn người. Đến tháng 7/1954,
giai đoạn phát triển xem như kết thúc để chuyển sang giai đoạn
chuyển tiếp, là giai đoạn chuyển quyền chỉ huy và lãnh thổ mà Lực
Lượng Quân Đội Pháp đảm trách cho Quân Đội Quốc Gia Việt Nam.
Sau khi ngưng bắn, ngoài việc lo tiếp nhận thẩm quyền chỉ huy và
lãnh thổ thuộc đủ mọi cấp do Pháp giao lại, mối bận tâm lớn nhất của
Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia Việt Nam là cải tổ quân lực đáp
ứng với tình hình thời bình và sự tự chủ Quân Đội.
Việc cải
tổ quân lực vào thời kỳ đó nhằm đặt trách nhiệm 1 phần vào việc
bảo vệ lãnh thổ và 1 phần khác là xây dựng các binh đoàn chủ lực.
Với những mục đích như trên, chương trình cải tổ nhắm những mục tiêu
sau đây:
– Tổ chức các Bộ Chỉ Huy Lãnh Thổ tại mọi cấp để thay
thế Pháp, hình thành các cơ sở tiếp vận tương ứng để yểm trợ các đơn
vị trong lãnh thổ trách nhiệm.
– Cải tổ những đơn vị từ miền
Bắc vào bằng cách giải tán 1 số đơn vị để bổ sung quân số đầy đủ
cho 1 số đơn vị khác.
– Thành lập các Trung Đoàn Bộ binh để
tiến đến thành lập các Sư Đoàn Bộ binh, đồng thời tăng hiệu năng cho
các quân binh chủng, binh sở.
– Tiếp tục đào tạo Cán bộ chỉ
huy và chuyên môn các cấp cho toàn quân.
Ngày 11/8/1954,
Thủ tướng Ngô Đình Diệm ban hành lệnh sáp nhập các Lực Lượng
Giáo Phái vào Quân Đội QGVN, Lực Lượng Bình Xuyên của Bảy Viễn
phản đối và 1 số đơn vị Giáo Phái Hòa Hảo cũng không đồng ý.
(Lực Lượng Bình Xuyên gồm có khoảng 2,000 quân chia thành 5 Tiểu
Đoàn, 1,500 Công An xung phong, 10,000 đảng viên mặt trận Bình
Dân, lực lượng này chiếm đóng quanh Sài Gòn, Chợ Lớn, vùng Rừng
Sác ra đến Bà Rịa... Tổng chỉ huy là Thiếu tướng Lê Văn Viễn,
cánh tay mặt của Bảy Viễn, và là Cố vấn quân sự lẫn chính trị
Lại Văn Sang, Tổng giám đốc Nha Công An và
Cảnh Sát.
Dinh Độc Lập ngày xưa
Bảy Viễn, Tổng chỉ
huy Bình Xuyên
Lực Lượng Bình Xuyên được nói đến từ mùa Hè
1945, khi Liên Quân Anh–Ấn tới Sài Gòn tiếp nhận quân Nhật đầu hàng
ngày 23 tháng 9 năm 1945, chấm dứt thế chiến thứ hai tại Á châu.
Nhiều lực lượng võ trang chống Pháp tại Nam Kỳ tự phát được thành
lập. Người đứng ra thành lập lực lượng võ trang thường lấy tên của
mình đặt cho lực lượng trong vùng, như nhóm quân sự tại Tân Quy do
Dương Văn Dương đứng ra chiêu nạp 1 số tay "anh chị", gồm những
người xuất thân từ giới chuyên sống ngoài vòng pháp luật, có cuộc
sống chịu ảnh hưởng của Tàu như Thủy Hử với nhóm Lương Sơn Bạt nên
gọi là bộ đội Ba Dương. Bộ đội Nhà Bè mang tên bộ đội Hai Nhị, Hai
Soái... Khi Dương Văn Dương kêu gọi thống nhất được các nhóm giang
hồ Nam Kỳ chống Pháp ở Tân Quy, Tân Thuận, Nhà Bè, Thủ Thiêm, ông đã
chọn cái tên "Bình Xuyên" để đặt cho lực lượng võ trang thống nhất
này. Đây là tên của vùng địa dư trên bản đồ Sài Gòn – Chợ Lớn để chỉ
xóm Hố Bần, còn gọi là Xóm Cỏ, địa bàn hoạt động của lực lượng này.
Cái tên "Bình Xuyên" còn hàm chỉ: "Bình" gợi chiến công đánh chiếm
và bình định, còn chữ "Xuyên" để chỉ vùng sông rạch.
Trong
các năm 1945–1946, Bình Xuyên hoạt động công khai tại Sài Gòn và các
vùng phụ cận. Những người này sống bằng cách bắt ép các nhà giàu nộp
tiền đóng thuế. Họ sẵn sàng áp dụng các hình phạt nặng nề đối với
những người không chịu tuân theo lệnh của họ. Tới khi quân Pháp theo
chân quân Anh–Ấn vào Nam Kỳ, thì Bình Xuyên đã tấn công vào các toán
quân Pháp.
Tháng 2/1946, các cuộc giao tranh giữa Bình Xuyên
và Quân Đội Pháp ngày một gia tăng, thủ lãnh Bình Xuyên là Ba Dương
bị giết trong 1 cuộc đụng độ khi chỉ huy 1 bộ phận quân Bình
Xuyên vượt sông Soài Rạp từ Rừng Sác về cứu nguy cho mặt trận An Hóa
tại Bến Tre. Từ đó việc chỉ huy qua tay em của Ba Dương là Dương Văn
Hà, nhưng mọi thực quyền lại do Lê Văn Viễn, tức Bảy Viễn nắm giữ.
Không bao lâu, Bảy Viễn trở nên thủ lãnh của Bình Xuyên chống Pháp.
Khi quân Pháp làm chủ tình hình Sài Gòn, Bình Xuyên trở thành lực
lượng cộng tác với mặt trận Việt Minh.
Bảy Viễn:
Bảy Viễn tên thật là Lê Văn Viễn, sinh năm Giáp Thìn (1904) tại
Phong Đước, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (nay là Quận 8, Sài Gòn). Cha là Lê Văn Dậu, người Hoa gốc Triều Châu.
Năm 1921, Bảy
Viễn vào tù lần đầu với bản án 20 ngày tù giam khi mới 17 tuổi do
phạm tội trộm xe đạp. Năm 1927, Bảy Viễn phạm tội hành hung người
khác và bị phạt giam 2 tháng tù.
Năm 1936, Bảy Viễn bị chính
quyền thuộc địa Nam Kỳ tuyên án 12 năm khổ sai đày đi Côn Đảo do tội
cướp có vũ trang (súng). Tuy nhiên, đến năm 1940, Bảy Viễn vượt ngục
thành công về đất liền sau 4 lần thất bại.
Năm 1942, Bảy Viễn
bị bắt trong vụ tổ chức cướp xưởng mộc Bình Triệu. Tòa án tuyên phạt
12 năm khổ sai cộng thêm 8 năm còn thiếu trước đây là 20 năm.
Năm 1945 Bảy Viễn lại vượt ngục và tham gia vào lực lượng của Ba
Dương kháng chiến chống Pháp và trở thành Chi đội trưởng Chi Đội 9
thuộc Liên Khu Bình Xuyên, do Ba Dương (tức Dương Văn Dương) làm
Tổng chỉ huy.
Đây là thời kỳ Việt Minh gởỉ Nguyễn Bình vào
Nam Việt, tổ chức công cuộc chống Pháp cho có hệ thống. Nguyễn Bình
tìm cách thống nhất các lực lượng kháng chiến dưới quyền chỉ huy của
mình. Vì thế, sau khi gây được cơ sở, Nguyễn Bình bắt đầu sáp nhập
các lực lượng liên kết vào mặt trận Việt Minh. Những ai không chịu
sáp nhập thì Nguyễn Bình tìm cách tiêu diệt. Đối với Bình Xuyên,
Nguyễn Bình cô lập Bảy Viễn với các thuộc hạ, để nắm lấy toàn thể
lực lượng này. Ngày 12 tháng 4 năm 1946 Nguyễn Bình, Tư lệnh các lực
lượng vũ trang Nam Bộ của Việt Minh ký quyết định phong cho Năm Hà
(tức Dương Văn Hà em cùng cha khác mẹ với Dương Văn Dương) làm Tư
lệnh Lực Lượng Bình Xuyên thay cho Ba Dương.
Tháng 5/1946
Nguyễn Bình ký quyết định phong cho Bảy Viễn làm Khu bộ phó Chiến
Khu 7 với ý định tách Bảy Viễn ra khỏi vị trí trực tiếp chỉ huy
Lực Lượng Bình Xuyên, và để Bảy Viễn không bất mãn bỏ kháng chiến về với
Pháp.
Bảy Viễn biết rõ ý đồ này, nhân cuộc viếng thăm của
Nguyễn Bình tại Rừng Sác, Bảy Viễn công kích Nguyễn Bình và cả 2
đã cãi nhau kịch liệt khiến Lê Duẩn phải can ra, và đồng thời để lấy
lòng bằng cách cất nhắc Bảy Viễn lên làm Khu trưởng khu 7. Nguyễn
Bình vẫn tìm cách diệt trừ Bảy Viễn.
Tháng 12 năm 1947, Trung
tá Savani (Phòng Nhì Pháp) cho người bí mật tiếp xúc với Bảy Viễn để
chuẩn bị lập Chiến Khu Quốc Gia Rừng Sác.
Đầu năm 1948, trong
1 cuộc họp tổ chức tại Đồng Tháp, Bảy Viễn nhờ có 1 số thuộc hạ
thân tín tháp tùng, đã tránh thoát 1 cuộc mưu hại do Nguyễn Bình tổ
chức. Bảy Viễn mang theo 2 Đại Đội võ trang mạnh, thân tín
nhất, có cả trung liên và đại liên, từ Rừng Sác, vượt sông Soài Rạp,
băng qua Quốc lộ 4, đến Căn cứ địa của Nam Bộ, tại làng Nhơn Hòa Lập
để họp và nhận chức Khu bộ trưởng Chiến Khu 7.
Tại cuộc họp,
Nguyễn Bình quyết định giải tán tổ chức Bình Xuyên và cải danh thành
các Trung Đoàn Vệ Quốc Đoàn. Bảy Viễn phản đối quyết liệt.
Sau khi thoát hiểm, rạng sáng ngày 27 tháng 5 năm 1948, Bảy Viễn đã
âm thầm rút quân Bình Xuyên rời Chiến Khu Đồng Tháp kéo quân về hợp
tác với Pháp, Bảy Viễn được Tướng De la Tour gắn cấp bậc đại tá.
Và từ đó, Lực Lượng Bình Xuyên hoạt động rất đắc lực
trong việc phá vỡ các cơ sở nằm vùng kinh tài của Việt cộng trong
vùng Sài Gòn–Chợ Lớn. Vì thế, Pháp rất tin tưởng nên đã giao cho
Bình Xuyên trọn quyền kiểm soát vùng Sài Gòn–Chợ Lớn và cả khu vực
Rừng Sác, Căn cứ cũ của Bình Xuyên, để chống lại Việt cộng, đồng
thời giao cho cả việc bảo vệ thủy lộ từ biển Vũng Tàu vào thương
cảng Sài Gòn.
Năm 1952, vua Bảo Đại tấn phong cho Bảy Viễn
cấp bậc thiếu tướng 2 sao (Général de Brigade) và nhận Bảy Viễn làm
nghĩa đệ. (vì Bảy Viễn chi tiền quá đẹp: 240 ngàn/tháng + 500 ngàn
đô–la cho người tình tại Hong Kong).
Tình Hình Việt Nam sau
khi triệt thoái khỏi Bắc Việt:
Thủ tướng Ngô Đình Diệm nhận
nhiệm vụ trước Quốc Trưởng Bảo Đại với toàn quyền về hành chính,
quân sự, và chính trị, nhưng trên thực tế ông không nắm được quyền
hành như qui định. Quân Đội mới thành lập phần lớn hãy còn do Người
Pháp chỉ huy. Vị Tham mưu trưởng là Trung tướng Nguyễn Văn Hinh, 1
sĩ quan trong Quân Đội Pháp được chuyển qua chỉ huy Quân Đội Việt
Nam. Tướng Hinh là con của cựu Đốc phủ sứ Nguyễn Văn Tâm, biệt danh
hùm xám Cai Lậy, 1 người thân Pháp đã lập nhiều công trạng cho
thực dân Pháp.
Miền Nam lúc đó có nhiều phe nhóm, giáo phái
hành động như những sứ quân mà người Pháp đã võ trang để giúp họ duy
trì an ninh trật tự. Thực tế đó là hình thức chia để trị, dùng dân
bản xứ để khống chế lẫn nhau, 1 sách lược thâm độc mà thực dân
Pháp đã áp dụng từ lâu tại các xứ thuộc địa.
Thủ tướng Ngô
Đình Diệm phải đương đầu với muôn vàn khó khăn: các đảng phái chia
rẽ, các giáo phái võ trang kình chống nhau, chống chính phủ, đằng
sau lưng họ là đoàn quân Viễn Chinh Pháp không thật lòng muốn trao
trả độc lập cho Việt Nam, Quân Đội chia làm 2 phe, phe theo Tướng
Tỵ ủng hộ Thủ tướng Diệm, phe theo Tướng Hinh, Tướng Vỹ ủng hộ Bảo
Đại, họ chưa hoàn toàn ủng hộ tân thủ tướng. Thủ tướng Diệm lại còn
phải tức thời lo cho gần l triệu người lánh nạn cộng sản từ miền Bắc
chạy vô Nam.
Cảnh Sát, Công An xung phong nằm trong tay Bình
Xuyên, hành động như 1 đảng cướp, chuyên tổ chức, kiểm soát có hệ
thống cờ bạc, đĩ điếm tại nhiều nơi mà khu chính là
Kim Chung Đại
Thế Giới, buôn bán thuốc phiện lậu, lại toa rập bao che cho những
người Tầu làm ăn bất chính.
Tất cả đều lo ngại một tân thủ
tướng có danh đạo đức, thanh liêm sẽ triệt hạ mất quyền lợi mà họ
đang hưởng thụ.
Ngày 01/9/1954 chính phủ Ngô Đình Diệm đặt ưu
tiên hàng đầu trong việc thương thuyết yêu cầu Pháp trao trả tức
khắc cho VN về chủ quyền quân sự cũng như hành chánh.
Ngày
11/10/1954 lúc 7:00g sáng, Lực lượng QGVN–Pháp triệt thoái toàn bộ
khỏi vùng Hà Nội. Việt Minh hoàn tất triệt thoái đợt 1 tại Trung
Việt và hoàn tất triệt thoái khỏi Hàm Tân, Xuyên Mộc.
Ngày
31/10/1954 lúc 7:00g sáng, Lực lượng QGVN–Pháp hoàn tất triệt thoái
khỏi Hải Dương. VM hoàn tất triệt thoái khỏi miền Trung đợt 2, tại
Nam Việt hoàn tất triệt thoái tại Đồng Tháp.
Ngày 8/2/1955
lúc 7:00g sáng lực lượng Việt Minh hoàn tất triệt thoái khỏi mũi Cà
Mau.
Ngày 12/2/1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm họp báo tuyên bố
Hoa Kỳ sẽ huấn luyện Quân Đội Quốc Gia Việt Nam độc lập từ ngày
1/7/1955.
Ngày 13/2/1955 Tướng Trình Minh
Thế dẫn 2,500 quân
dưới trướng về chính thức sáp nhập vào Quân Đội Quốc Gia Việt Nam
(do Lansdale móc nối).
Ngày 15 tháng 2 năm 1955, mở chiến
dịch bài trừ tứ đổ tường, đặc biệt là nha phiến, mãi dâm, du đãng, và
cờ bạc, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh giải tán sòng bạc Kim
Chung và Đại Thế Giới, đồng ý bồi thường 1 số tiền để Bình Xuyên
có thể tổ chức cơ sở kinh doanh lương thiện làm ăn. Đồng thời ra
lệnh cắt bớt những khoản tài trợ cho các Lực Lượng Giáo Phái để sáp
nhập các lực lượng này vào Quân Đội Quốc Gia.
(Địa bàn hoạt
động của Bình Xuyên ở xung quanh Sài Gòn. Dưới sự đồng thuận của
Pháp, Bình Xuyên kiểm soát nhiều sòng bài, nhà thổ, cùng những
thương cuộc lớn nhỏ khắp vùng Sài Gòn–Chợ Lớn trong đó phải kể
Casino Grande Monde (Đại Thế giới),
Casino Cloche d'Or (Kim
Chung), Bách hóa
Nouveautés Catinat.
Đại Thế Giới là một sòng bài rất lớn,
nằm ngay đầu đường Đồng Khánh. Qua cổng chính bước vào trong,
bên trái là khu ăn nhậu, đi tiếp là một dãy nhà ngang gồm nhiều
phòng giải trí cho khách muốn mua hoa, dân làng chơi phải mua
vé, được dẫn vào trong để chọn 1 cô mình ưng ý trước khi về
phòng. Các cô gái bán dâm đều phải khám bệnh hằng tuần để tránh
bệnh truyền nhiễm; chính giữa là khu sòng bài, đủ loại như bài
cào, "black jack", "roulette", hầu như không thiếu món nào của
các sòng bài Casino ở Macao. Bên trong lác đác qua lại vài bộ
mặt lỳ lợm bảo vệ sòng bài. Họ củng cố giữ vẻ kín đáo nhưng vẫn
không giấu được hết nét dao búa của dân anh chị. Nếu là con bài
thường xuyên và xộp hay quen thuộc với dân quyền thế hay anh
chị, họ được hướng dẫn và phục dịch chu đáo, đủ 4 món ăn chơi
thâu đêm suốt sáng, không phải chỉ ở khu
Đại Thế Giới
mà còn ở nhiều khu kín đáo khác. Sẹc Xanh, Sẹc Đỏ sau này cũng
không thể hơn được).
Bình Xuyên phản đối quyết định của
Thủ tướng Diệm, liên kết cùng với các Giáo Phái thành lập Mặt Trận
Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia đòi Thủ tướng Diệm phải cải tổ chính
phủ.
Ngày 28/2 1955 Pháp ngưng trả lương cho các
Lực Lượng Giáo Phái, Lê Quang Vinh (Ba Cụt) phản đối kéo lực lượng ra bưng.
Các Lực Lượng Bình Xuyên kéo về bao quanh thành phố Sài Gòn.
Ngày 1/3/1955 Tổng thống Mỹ Eisenhower viết thư cho Vua Bảo Đại xác
nhận sự ủng hộ Thủ tướng Ngô Đình Diệm và yêu cầu Bảo Đại trao quyền
chỉ huy lực lượng cảnh sát đang ở trong tay các giáo phái cho ông
Diệm, Vua Bảo Đại chống đối kế hoạch này và cho rằng Ông Ngô Đình
Diệm phải đặt quyền lợi Quốc Gia lên trên chứ không thể củng cố
quyền lực cá nhân dựa trên một thiểu số phe nhóm Ki–tô giáo.
Nhận được sự ủng hộ về hình thức của Quốc Trưởng Bảo Đại, 3 nhóm
đảng phái lớn với Lực Lượng Quân sự công khai liên kết chống đối
chính phủ là Bình Xuyên hoạt động ở Sài Gòn, Cao Đài ở miền Đông–Nam
phần, và Hòa Hảo ở miền Tây, về sau có thêm đảng Đại Việt ở Miền Trung
cũng xin gia nhập.
Ngày 4 tháng 3 năm 1955, các nhóm này ra
tuyên cáo thành lập "Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia", gây áp
lực đòi Thủ tướng Ngô Đình Diệm phải cải tổ nội các.
Ngày
21/3/1955 1 bản kiến nghị được xem như là tối hậu thư của
Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia yêu cầu Thủ tướng NĐD trong kỳ hạn 5
ngày phải cải tổ toàn diện Nội Các và giải quyết vấn đề theo ý kiến
của mặt trận. Bản kiến nghị được ký tên bởi Đại diện Cao Đài là Phạm
Công Tắc; đại diện Hòa Hảo là Lê Quang Vinh, Lâm Thành Nguyên, Trần
Văn Soái; và đại diện Bình Xuyên là Lê Văn Viễn.
Phản ứng lại về bản kiến nghị,
chính phủ điều động 2 Đại Đội từ Phan
Thiết có 5 Chiến Xa và 2 Thám Thính Xa hỗ trợ để bảo vệ Dinh Độc Lập. Đơn vị của Tướng Thế cũng được điều động bảo vệ quanh Thủ Đô.
Nhận được sự hỗ trợ từ chính quyền Mỹ, ngày 24/3/1955 ngày áp chót
của thời hạn trong tối hậu thư của Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc
Gia, Thủ tướng Ngô Đình Diệm lên Đài Phát Thanh đọc một bản tuyên bố
kêu gọi quốc dân và ngỏ lời với các giáo phái: "Trong thời kỳ người
Pháp còn điều khiển cuộc chiến ở Việt Nam, vì những quan niệm và
hoàn cảnh hồi đó, nên bên cạnh đạo quân viễn chinh Pháp, Quốc Gia,
còn có những lực lượng bổ túc. Nhưng nay nước nhà đã độc lập, dù ai
lãnh đạo chính quyền, cũng phải thống nhất các lực lượng võ trang
hiện nằm trên lãnh thổ để tạo thành 1 Quân Đội Quốc Gia duy nhất,
dưới 1 quyền chỉ huy duy nhất, những đoàn thể võ trang, sau
khi tuyên bố hợp tác với chính phủ, nếu vẫn kiểm soát những khu
vực riêng biệt trên lãnh thổ, là trái với nguyên tắc thống nhất
Quân Đội và quyền lợi của Quốc Gia"
Thủ tướng Ngô Đình Diệm nhấn mạnh:
"Hãy giải quyết dứt khoát vấn đề thống nhất
Quân Đội, rồi sau đó, sẽ
giải quyết các vấn đề chính trị." Phần cuối của bản tuyên bố, Ông
mời các lãnh tụ giáo phái và các đoàn thể đến Dinh Độc Lập thảo
luận.
Ngày 25/3/1955 toàn bộ Liên Đoàn Nhảy Dù do Thiếu tá Đỗ
Cao Trí chỉ huy gồm 4 Tiểu Đoàn 1, 3, 5, và 6 được điều động từ Ðồng
Ðế–Nha Trang về Sài Gòn. Bộ Chỉ Huy đóng tại Trại Quân Cụ gần Chợ
Trần Quốc Toản. TĐ1ND bản doanh tại Nha Hỏa Xa Hòa Hưng, do Đại uý
Trần Văn Đô chỉ huy. TĐ3ND bản doanh tại Thành Ông Năm Hốc Môn do
Đại uý Phan Trọng Chinh chỉ huy, TĐ5ND đóng tại Thủ Đức do Trung uý
Nguyễn Văn Viên chỉ huy, và TĐ6ND đóng tại Ngã Tư Bảy Hiền do Đại uý
Thạch Con làm Tiểu đoàn trưởng.
Ngày này cũng là ngày cuối
cùng của tối hậu thư, Mặt Trận TNTLQG họp nghiên cứu tuyên ngôn của
Thủ tướng và chia thành 3 nhóm: nhóm chủ trương thương thuyết Lâm
Thành Nguyên, Trình Minh Thế. Nhóm dè dặt Nguyễn Thành Phương, Nhóm
cương quyết chống đối bằng vũ lực là Lê Quang Vinh và Lê Văn Viễn.
Buổi chiều, tại Dinh Độc Lập, Tướng Lâm Thành Nguyên, Chủ Tịch
đoàn mặt trận hướng dẫn phái đoàn thương thuyết với chính phủ. Mặt
trận vẫn đòi cải tổ toàn diện nội các và lập chính phủ mới với các
thành phần được Mặt trận chấp thuận. Thủ tướng Ngô Đình Diệm nhắc
lại lập trường đã tuyên bố: "Thực hiện sự thống nhất
Quân Đội xong
sẽ bàn tới chính trị."
Ngày 26/3/1955 Bình Xuyên rút 350 công
an xung phong từ Đà Lạt về tăng cường cho lực lượng quanh Sài Gòn.
Từ cuối tháng 3/1955, để sửa soạn chiến đấu cùng gây hoang mang và
tạo sự căng thẳng tại Đô thành, lực lượng công an xung phong Bình
Xuyên ra lệnh cho dân chúng sống xung quanh Bộ Tổng Tham Mưu Quân
Đội Quốc Gia, đường Nancy, Cống Quỳnh, Xóm Củi phải tản cư để tránh
các cuộc pháo kích. Bình Xuyên còn kiểm soát xóm Chợ Là, khoảng giữa
Đại lộ Trần Hưng Đạo và các đường Lê Quang Liêm, Nguyễn Văn Của. Để
phòng xa, Thiếu tướng Bình Xuyên Lê Văn Viễn (Bảy Viễn) cho di
chuyển Bộ Chỉ Huy Bình Xuyên về Bến Đổ, cách cầu chữ Y 3km. Riêng
phòng tình báo của Lực Lượng Bình Xuyên vẫn đóng tại Tổng Hành Dinh
cách cầu chữ Y 200 mét. Trong khu vực Chánh Hưng, Bình Xuyên ra sức
đào các công sự chiến đấu, Pháp đưa 1 Đại Đội Nhảy Dù (Pháp) tới
đóng ở xóm Chùa Phật trong khu vực Bình Xuyên cố ý yểm trợ tinh thần
cho phe này.
Ngày 28/3/1955: 4 Tổng trưởng đại diện
Giáo Phái Cao Đài và Hòa Hảo đồng loạt từ chức. Trong thư từ chức tập
thể, đề rằng "Chúng tôi từ chức để Thủ tướng dễ dàng trong việc lập
tân Nội Các gồm những phần tử ái quốc chân chính". Thủ tướng Ngô
Đình Diệm nhắc lại lập trường đã tuyên bố: "Thực hiện sự thống nhất
Quân Đội xong sẽ bàn tới chính trị."
Bình Xuyên nổ súng, gây
hấn:
Vụ khiêu khích đầu tiên của Bình Xuyên là vụ nổ súng vào
đêm 29 rạng ngày 30/3/1955 tại Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia
Việt Nam trên đường Trần Hưng Đạo (lúc bấy giờ Bộ Tổng Tham Mưu đặt
trụ sở tại tòa nhà lớn số 606 Trần Hưng Đạo, mãi đến năm 1956 mới
chuyển về trại Chanson tức là Trại Trần Hưng Đạo gần phi cảng Tân
Sơn Nhất.)
Vào đêm đó, quân của Bình Xuyên và Công an xung
phong với 16 Tiểu Đoàn bố trí quanh Sài Gòn và ở đường Trần Hưng
Đạo, từ ngã tư gần nhà thờ Chợ Quán đến ngã tư đường Kerganradec đã
đồng loạt tấn công vào Quân Đội Quốc Gia. Tiếng nổ đầu tiên phát ra
vào lúc 12:00g đêm từ một trái lựu đạn do một công an xung phong
thuộc đơn vị đóng tại trường huấn luyện Cảnh Sát ở kế bên ném vào
sân trụ sở Nha Cảnh Sát Trung ương do 1 Đại Đội thuộc Tiểu Đoàn 1
Nhảy Dù và 1 Chi Đội Thiết Giáp xa trấn giữ.
Sau tiếng nổ,
công an xung phong bắt đầu tràn vào bót Cảnh Sát Trung ương và Bộ
Tổng Tham Mưu dưới sự yểm trợ của 1 Phân Đội vũ khí nặng gồm 1 đại
liên 12.7ly, 4 trung liên, và 1 khẩu đại bác 57 SKZ đặt trên các
lầu từ những nhà kế cận. Cuộc tấn công của công an Bình Xuyên đã bị
lực lượng trú phòng chận đứng. Tại Bộ Tổng Tham Mưu bị 1 Đại Đội
của TĐ1ND đẩy lui, (BX có 5 chết 21 bị thương), tại Nha Cảnh Sát
Trung ương cũng do 1 Đại Đội Nhảy Dù bảo Vệ (bị đẩy lui, 10 chết
và 50 bị thương). Tiếp đó khoảng nửa giờ sau, Lực Lượng Nhảy Dù được
tăng viện đã phản công quyết liệt. Sau 1 giờ giao tranh, Lực Lượng
Quân Đội Quốc Gia không những giải tỏa áp lực của Bình Xuyên mà còn
chiếm luôn Trung Tâm huấn luyện Cảnh sát (do công an Bình Xuyên
chiếm đóng) vào lúc 1:30g sáng.
Đồng thời trong 1 loạt
gây hấn, quân Bình Xuyên cũng pháo kích bằng súng cối 81ly vào Dinh
Độc Lập, các vị trí đóng quân của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù bảo vệ dinh và
Nha Quân Y (ít nhất 5 quả đạn đã lọt vào trong dinh làm 5 binh sĩ bị
thương).
Lệnh ngưng bắn được ban hành vào hồi 2:30g. Tuy
nhiên, nhiều cuộc chạm súng lẻ tẻ vẫn diễn ra trong Đô thành Sài Gòn
đến 5:00g sáng đã làm cho Quân Đội Quốc Gia 5 tử thương, 31 bị
thương; về phía Bình Xuyên cũng 5 chết, 7 súng trường 1 số đạn, và
lựu đạn bỏ lại tại chiến trường.
Thông báo của chính
phủ
Quốc Gia Việt Nam:
Sáng ngày 30/3/1955,
chính phủ
Quốc Gia Việt
Nam thông báo cho quốc dân biết "công an xung phong Bình xuyên đã
tấn công các cơ sở Quốc Gia và bị Quân Đội anh dũng đẩy lui". Thủ
tướng Ngô Đình Diệm hứa "sẽ trừng trị nghiêm khắc những kẻ chủ
trương gây rối". Bên mặt trận của giáo phái ra thông cáo đổ cho
chính phủ dùng võ lực khiêu khích mặt trận. Từ ngày đó trở đi,
Đài Phát Thanh Bình Xuyên liên tiếp phổ biến các bài có nội dung công
kích nặng nề Thủ tướng Ngô Đình Diệm.
Khi thấy Quân Đội QG
phản công mãnh liệt, Pháp đưa 20,000 quân vào Đô thành, viện cớ bảo
vệ kiều dân Pháp, nhưng dụng ý là yểm trợ cho Bình Xuyên. Hàng trăm
xe tăng Pháp chặn các ngã đường không cho Quân Đội di chuyển tới
vùng chiếm đóng của quân Bình Xuyên.
Để tạo cho tình thế thêm
căng thẳng, sau đêm tấn công, các bót công an Bình Xuyên trong vùng
Sài Gòn rút bớt quân số về khu Căn cứ địa Bình Xuyên bên Chánh Hưng
để chuẩn bị chống chính phủ 1 cách quy mô.
Ngày 31/3/1955
dưới áp lực của Tòa Đại Sứ Mỹ, Đại sứ L. Collins và Tướng P. Elly
của Pháp, cuộc hưu chiến 48 giờ được triển hạn thêm 7 ngày, rồi 15
ngày... để 2 phe đối nghịch tìm giải pháp chính trị và bảo vệ kiều
dân của họ.
Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower và
Ngoại trưởng John Foster Dulles (left)
tiếp đón Tổng thống Ngô Đình
Diệm tại Washington National Airport. 08/05/1957
Trong ngày
này, 5,000 tay súng của Trung tướng Nguyễn Thành Phương, Tổng chỉ huy
Lực Lượng Quân Đội Cao Đài, được sáp nhập vào QĐQG trong 1 buổi lễ
tổ chức long trọng tại Dinh Độc Lập. Ngoài việc vận động riêng với
Cao Đài, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã chiêu phục được 1 thành phần
Hòa Hảo của Trung tá Huê và Thiếu tá Tư Đây chỉ huy do sự khuyến
khích của Sứ quán Mỹ và như thế là tách rời liên hệ giữa Cao Đài với
Bình Xuyên và Hòa Hảo.
Trong thời gian này hoạt động của các
phe phái rất nhộn nhịp: Sứ quán Pháp, Mỹ, phe giáo phái, phe Quốc
Gia, phe Bảo Đại, phe Ngô Đình Diệm...
Ngày 2/4/1955 Thủ
tướng Ngô Đình Diệm lên Đài Phát Thanh Sài Gòn hiệu triệu đồng bào, lên
án hành động của Bình Xuyên; nhưng không đả động tới các Giáo Phái
Cao Đài, Hòa Hảo, và Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia, cốt ý để
sau này dễ dàng tiêu diệt Bình Xuyên mà không va chạm đến giáo phái.
Ngày 3/4/1955 Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc
Gia đang yếu
thế, lại được Tướng Nguyễn Văn Thành vừa rời bỏ Quân Đội Quốc
Gia sang gia nhập. Tướng Nguyễn Văn Thành trước là trung tướng,
Tổng tư lệnh Quân Đội Cao Đài, vì bất hòa nên chuyển sang Quân
Đội Quốc Gia,
nhưng chưa được giao phó nhiệm vụ gì cả.
Ngày 5/4/1955 Ông
Trần Văn Hương từ chức Đô trưởng Sài Gòn để phản đối chính sách của
Thủ tướng Ngô Đình Diệm. (Ông Trần Văn Hương là 1 nhà mô phạm đã
đào tạo nhiều học trò nổi tiếng, 1 nhà ái quốc chân chính, đã từng
tham gia kháng chiến chống Pháp. Nhận thấy phong trào kháng chiến đã
bị cộng sản thao túng, ông bỏ về quê tiếp tục dạy học. Sau Hiệp định
Genève, ông được Thủ tướng Diệm mời ra giữ chức Đô trưởng).
Ngày 6/4/1955 nhiều điện văn phía Mặt Trận Toàn Lực
Quốc Gia gởi
sang Pháp yêu cầu Vua Bảo Đại can thiệp. Trong khi đó điện văn của
Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia (do Anh em ông Diệm mới lập) yêu cầu
Quốc Trưởng chấm dứt tình trạng Thập Nhị Sứ Quân.
Ngày
12/4/1955 Mặt trận Toàn Lực Quốc Gia cho thành lập "Ủy Ban Chỉ Đạo
Quốc Gia Cách Mạng" với 3 nhân vật Trịnh Khánh Vàng, Hồ Hữu Tường, và
Tướng Nguyễn Văn Thành. Tại Chánh Hưng, Bình Xuyên làm lễ thượng cờ
Mặt trận này như một hành động chứng tỏ quyết tâm ly khai và chống
lại chính phủ.
Bình Xuyên tấn công đợt 2 vào Quân Đội
Quốc Gia.
Ngày 19/4/1955 vào lúc 15:30g,
Bình Xuyên cho 1 chiếc xe Jeep mang số IC của Pháp bắn vào Bộ
TTM Quân Đội Quốc Gia VN ở Chợ Quán và 3 trái phóng lựu vào Văn
phòng Tổng Thanh Tra Quân Lực cạnh Bộ TTM (Tổng tham mưu trưởng là Thiếu tướng Lê Văn Tỵ. Tổng
thanh tra Quân Đội Quốc Gia Việt Nam vào thời gian này là Thiếu
tướng Nguyễn Văn Vỹ).
Ngày 20/4/1955 Quân Bình Xuyên chạy xe
Jeep và bắn vào 1 toán quân của Liên Đoàn Nhảy Dù trước trường học
Tôn Thọ Tường trên đường Trần Hưng Đạo, buổi chiều quân BX lại bắn
vào xe chở quân của QĐQG nhưng không gây thiệt hại.
Cuộc hưu
chiến giữa Bình Xuyên và Quân Đội Quốc Gia kéo dài gần 1 tháng, quân
của BX ngày càng gia tăng các vụ gây hấn và khủng bố nhắm vào Quân
Đội QGVN. Số binh sĩ bị mất tích lên đến 30 người trong đó có 5 sĩ
quan. Các cấp chỉ huy Bình Xuyên tin là Quân Đội phải tuân lệnh của
Quốc Trưởng Bảo Đại hơn là tân thủ tướng.
Cùng trong ngày
20/4, 1 toán quân Bình Xuyên lại tấn công vào tư thất của Đại tá
Mai Hữu Xuân (Giám đốc nha An Ninh Quân Đội) tại phố Marcel Richard.
Ngày 24/4/1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm đọc diễn văn trên
Đài Phát Thanh tuyên bố sẽ trưng cầu dân ý và tổ chức bầu cử Quốc hội
trong vòng 3 hay 4 tháng.
Ngày 26/4/1955 trong lúc cuộc tranh
chấp mỗi ngày thêm quyết liệt giữa chính phủ và Mặt Trận Thống Nhất
Toàn Lực Quốc Gia, Thủ tướng Diệm ra lệnh cất chức Tổng giám đốc
Cảnh Sát và Công An Quốc Gia của Lai Hữu Sang (1 nhân vật trọng
yếu của Bình Xuyên) bằng sắc luật 239–NV và bổ nhiệm Đại tá Nguyễn
Ngọc Lễ thay thế. Mặt khác, Bộ trưởng Nội vụ ký nghị định bổ nhiệm
Thiếu tá Nguyễn Vĩnh Đắt làm Giám đốc Nha Công An Nam Việt thay
Nguyễn Văn Tôn, và dời trụ sở Tổng Nha Cảnh Sát Công An từ
đường Catinat về 274 đường Trần Hưng Đạo. Các nhân viên trình diện
nhiệm sở mới sau 14:30g ngày 28/4/1955 sẽ bị sa thải, và có thể
bị truy tố.
Nguyên Tổng giám đốc Cảnh sát Công An Lai Văn
Sang phản đối, viện lý do là Quốc Trưởng Bảo Đại đã bổ nhiệm ông ta
ở chức vụ này, thì chỉ có Quốc trưởng mới đủ thẩm quyền thay đổi. Do
đó, Lai Văn Sang dùng lực lượng công an xung phong chiếm giữ trụ sở
Tổng Nha Cảnh Sát Công an ở Catinat.
Ngày 27/4/1955 Thủ tướng
Diệm ra lệnh giải tán Lực Lượng Bình Xuyên và phải rút ra khỏi Sài
Gòn–Chợ Lớn. Thiếu tá Đỗ Cao Trí Chỉ huy trưởng Liên Đoàn Nhảy Dù
được thăng cấp trung tá.
Ngày 28/4/55 lúc 11:45g cuộc
chiến bùng nổ, Lực Lượng Bình Xuyên do Bảy Môn chỉ huy với sự tiếp
trợ của các giáo phái tấn công dữ dội vào các đồn công an quanh Sài
Gòn ở gần trường Petrus Ký, khu Đại Thế Giới ở Chợ Lớn, và pháo kích
vào Dinh Độc Lập. Quân Bình Xuyên đã nổ súng vô cớ vào 1 toán binh
sĩ của Quân Đội Quốc Gia đang di chuyển trên đường Nancy ngay trước
vọng gác của họ. Một binh sĩ bị bắn chết. Trung tá Chỉ huy trưởng
Liên Đoàn Nhảy Dù Đỗ Cao Trí đã tình cờ chứng kiến vụ việc trên khi
ông đi ngang qua đó. Ông liền gọi về trại ra lệnh cho các Tiểu
Đoàn Nhảy Dù ứng chiến tập họp để cấp thời ứng phó với mọi biến cố xảy
ra.
Đến xế trưa cùng ngày hôm đó, các đơn vị Nhảy Dù bắt đầu
mở các cuộc tổng tấn công vào vị trí đóng quân của Bình Xuyên tại
Sài Gòn, Chợ Lớn. Lúc 13:00g, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đã tấn công
ngay vào trường Pétrus Ký để cho Bình Xuyên biết là hành động bạo
lực của họ vừa rồi phải bị trừng phạt đích đáng ngay lập tức, để họ
không thể lộng hành và coi thường Quân Đội Quốc Gia và sinh mạng của
người lính. Từ công trường Khải Định làm tuyến xuất phát, Lực Lượng
Nhảy Dù tấn công vào trường Pétrus Ký do 1 Đại Đội Công an xung
phong chiếm đóng. Quân Bình Xuyên ẩn núp trong các khu nhà gạch của
trường Pétrus Ký và trường Cán sự Công chánh chống trả quyết liệt.
Nhảy Dù liên tục mở các đợt xung phong vào các vị trí cố thủ của
Bình Xuyên trong suốt cả buổi chiều. Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù đã tiến sát
tới căn nhà chính do nhiều công an Bình Xuyên chiếm giữ. Bên Lực
Lượng Nhảy Dù, có các Chiến Xa loại nhẹ yểm trợ, 1 chiếc bị bazooka
của Bình Xuyên bắn cháy.
Đến 17:00g, Trung tá Đỗ Cao Trí
đã điều động thêm TĐ6ND tăng cường. Lực Lượng Bình Xuyên chịu không
nổi đã lợi dụng bóng đêm để tháo chạy theo ngã sau đường Trần Bình
Trọng về bên kia cầu chữ Y.
Sáng ngày 29/4/1955,
Lực Lượng Nhảy Dù làm chủ tình hình khắp các mặt trận khu Chợ Lớn, chiếm các
mục tiêu dài trên kinh Tàu–Hũ, rồi chiếm luôn cả các Căn cứ của Bình
Xuyên nằm trên đường Trần Hưng Đạo (Gallieni), và dàn quân đối diện
với Bình Xuyên ở Kinh Đôi. Trong trận này 1 sĩ quan TĐ6 Nhảy Dù,
Thiếu uý Vương Xuân Sĩ bị tử thương.
Lúc 5:00g chiều 29/4
Quân Bình Xuyên phải phá sập cầu chữ Y để ngăn chận bước tiến quân
của Nhảy Dù và rút về tử thủ đại bản doanh Chánh Hưng của Bảy Viễn
(các đơn vị báo cáo có 6 trực thăng Pháp tản thương cho quân Bình
Xuyên.)
Sau đó, các đơn vị Nhảy Dù được tăng cường bởi các
đơn vị khoá sinh của Trung Tâm Huấn luyện Quang Trung, và các Tiểu
Đoàn của Phân Khu Sài Gòn–Chợ Lớn, và Phân Khu Mỹ Tho, mở các cuộc
lục soát vào những vị trí đóng quân của Lực Lượng Bình Xuyên ở vùng
Nam Kinh Đôi.
Ngày này, vua Bảo Đại ký công điện bổ nhiệm
Tướng Nguyễn Văn Vỹ, Tổng thanh tra Quân Đội kiêm Tham mưu
trưởng Võ phòng Quốc trưởng ở Đà Lạt, giữ chức Tổng tư lệnh Quân
Đội Quốc Gia
(quyền cao hơn ông Diệm), có quyền sử dụng mọi phương tiện để giải
quyết tranh chấp giữa các giáo phái với ông Diệm, và đưa Tướng Nguyễn
Văn Hinh (thân Pháp, chống ông Diệm) trở về nước. Đồng thời yêu cầu
ông Diệm cùng Tướng Lê Văn Tỵ qua Pháp trình bày tình hình và dự hội
nghị tại Cannes (tức là "điệu hổ ly sơn" để dễ cất chức ông Diệm).
Giữa lúc tiếng súng vẫn còn nổ vang ở khu Trường Pétrus Ký, khu
đường Trần Hưng Đạo, khu Bàn Cờ, Cầu Ông Lãnh, v.v. Dư luận
chính giới tỏ ý xôn xao. Thủ tướng Ngô Đình Diệm triệu tập phiên
họp bất thường và quyết định: Giữa tình thế này, Thủ tướng và
Tổng tham mưu trưởng không thể rời khỏi nước nhà được. Việc bổ
nhậm Tướng Nguyễn Văn Vỹ giữ chức Tổng tư lệnh Quân Đội chỉ làm
tình thế rối ren, các Tướng Nguyễn Thành Phương (Cao Đài),
Nguyễn Giác Ngộ (Hòa Hảo), và Trịnh Minh Thế (Cao Đài Liên Minh)
cùng ký tên trên 1 bản tuyên cáo chung, phản đối việc Quốc
trưởng Bảo Đại bổ nhiệm chức vụ Tổng tư lệnh Quân Đội Quốc Gia.
* Việc Trung tướng Nguyễn Văn Hinh bí
mật trở về Việt Nam: Theo lời kể của Tướng Trần
Văn Đôn, khi Quốc trưởng Bảo Đại cử ông Nguyễn Văn Hinh, nguyên
là Trung tướng Tổng tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia VN, kín
đáo về Việt Nam hoạt động để nắm Quân Đội. Tướng Hinh qua Pháp
ngày 20/11/1954 theo lệnh của Quốc trưởng, ông bị giải nhiệm
chức vụ Tổng tham mưu trưởng vào ngày
29/11/1954. Từ Pháp, ông Hinh bay qua Nam Vang rồi về miền Tây Nam
phần VN, móc nối với 1 số sĩ quan và liên lạc với tướng Lê Quang
Vinh (tức Ba Cụt). Tướng Nguyễn Văn Hinh cũng móc nối với Đại tá
Dương Văn Đức, thời gian đó là Chỉ huy trưởng Khu chiến miền Tây
(gồm 3 Phân Khu: Vĩnh Long, Cần Thơ, và Sóc Trăng, lãnh thổ mỗi Phân
Khu có từ 3 đến 4 tỉnh) nhưng ông Đức không theo và về trình lại với
Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Thất bại khi trở lại VN, ông Nguyễn Văn
Hinh bay về Pháp và tiếp tục phục vụ trong Quân Đội Pháp.)
Tối 29/4/1955, Tướng Nguyễn Văn Vỹ cùng với Đại tá Nguyễn Tuyên,
Chỉ huy trưởng Lực Lượng Ngự Lâm Quân trực thuộc Võ phòng Quốc trưởng,
đã đưa 2 Tiểu Đoàn Ngự Lâm Quân từ Đà Lạt xuống Sài Gòn chiếm Bộ
Tổng Tham Mưu, Nha Bưu Điện, Ngân Hàng Quốc Gia, Đài Phát Thanh
Quân Đội, và bao vây quanh Dinh Thủ Tướng. Sáng hôm sau, Tướng Vỹ bắt
Tướng Lê Văn Tỵ, Đại tá Trần Văn Đôn, Đại tá Nguyễn Văn Minh, và 1
số sĩ quan cao cấp khác, buộc họ vào Dinh Độc Lập để bàn giao chức
vụ do Quốc Trưởng Bảo Đại bổ nhiệm và yêu cầu ông Diệm từ chức.
Thiếu tướng Nguyễn Văn Vỹ
Khi đó, ông Nhị Lang đến
Dinh, thấy có mặt Tướng Vỹ, ông đã hội ý với Tướng Trình Minh Thế,
Tướng Nguyễn Giác Ngộ, và Tướng Nguyễn Thành Phương, rồi lặng lẽ tiến
ra hành lang phía sau tới phòng Tướng Vỹ đang ngồi, dùng súng uy
hiếp Tướng Vỹ giữa lúc 2 Tiểu Đoàn Ngự Lâm Quân đang bao vây quanh
Dinh. Bị áp lực, Tướng Vỹ phải ký giấy quy phục ông Ngô Đình Diệm. Sau đó bỏ lên Đà Lạt rồi qua Pháp.
Ngày 30/4/1955 Thủ tướng
Diệm triệu tập 1 phiên họp khoáng đại gồm 200 đại biểu của 18 đoàn
thể như Mặt Trận Quốc Gia Kháng Chiến Việt Nam (Nhị Lang), Việt Nam
Dân Xã Đảng (Nguyễn Bảo Toàn), Việt Nam Phục Quốc Hội (Hồ Hán
Sơn)... và thành lập Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng Quốc Gia (HĐNDCMQG)
với một Ban Chấp Hành gồm 33 nhân vật đòi hỏi:
1. Truất phế
tức khắc Bảo Đại.
2. Giải tán chính phủ Ngô Đình Diệm.
3. Ủy nhiệm chí sĩ Ngô Đình Diệm thành lập 1 chính phủ mới
nhằm tảo trừ phiến loạn Bình Xuyên, thu hồi độc lập hoàn toàn. Yêu
cầu quân viễn chinh Pháp triệt thoái khỏi VN. Và tổ chức bầu cử Quốc
hội.
Trong khi đó, Bộ TTM cũng điều động khoảng 1,300 quân của
Trung Đoàn 60 thuộc lực lượng của Thiếu tướng Trịnh Minh Thế (sáp
nhập vào Quân Đội Quốc Gia VN vào ngày 13/2/1955), từ Tây Ninh về
đóng tại Khánh Hội, dọc theo con lộ liên thông từ Khánh Hội tới Nhà
Bè, và đến các địa điểm trên yêu cầu 2 Tiểu Đoàn Ngự Lâm Quân triệt
thoái. Đến 12:00g, Lực Lượng Ngự Lâm Quân rút lui.
Trong ngày
30 tháng 4 Lực Lượng Nhảy Dù và Bình Xuyên đã dàn trận đối diện dọc
kinh Đôi. Bên kia cầu chữ Y, mặc dù đã được người Pháp ngấm ngầm
hỗ trợ nhưng Bình Xuyên không thể nào là địch thủ của những Tiểu
Đoàn Nhảy Dù thiện chiến.
Liên Đoàn Nhảy Dù gồm 4 Tiểu
Đoàn chia thành 2 ngả vượt sông Bến Nghé tấn chiếm Tổng Hành
Dinh của Bảy Viễn ở Chánh Hưng: Cánh thứ nhất (TĐ1ND do Đại uý
Vũ Quang Tài chỉ huy) dùng hỏa lực yểm trợ để vượt thẳng qua cầu
chữ Y tấn công trực diện vào bản doanh của Bình Xuyên dưới chân
cầu. Cánh thứ hai (TĐ5ND do Trung uý Nguyễn Văn Viên chỉ huy)
xuất phát từ phía Tây–Nam Đô thành
băng qua cánh đồng trống phối hợp với cánh quân kia tấn công cả 2
mặt vào Tổng Hành Dinh của Bảy Viễn.
Tới ngày 2/5/1955,
Lực Lượng Quân Đội Quốc Gia bắt đầu bắn đại bác vào mục tiêu, các đơn vị
Nhảy Dù tiếp sau đó đã tiến chiếm mục tiêu 1 cách dễ dàng. Quân
của Bình Xuyên chống cự yếu ớt rồi bỏ chạy về Tân Thuận.
Tướng Trình Minh Thế tử thương:
Tin tình báo ghi nhận rằng
Lực Lượng Bình Xuyên mất tinh thần. Các cấp chỉ huy đều tìm đường
lánh nạn. Binh sĩ chỉ còn chờ cuộc tổng tấn công để rút lui hoặc đầu
hàng. Tất cả đều sống trong cảnh phập phồng lo sợ, không biết sống
chết lúc nào.
Ngày 3/5/1955, tại mặt trận Tân Thuận, lúc
14:00g Lực Lượng Bình Xuyên đã giao tranh dữ dội với lực lượng
của Tướng Trình Minh Thế. Lúc 19:00g, nhiều đợt xung phong của
quân Bình Xuyên qua cầu đều bị chặn lại. Nguy hiểm nhất là các giang
đĩnh đã xả súng đại liên lên cầu, rồi súng cối của Bảy Môn nhắm vào
đội hình của Tướng Thế mà nã đạn bừa bãi. Tướng Trình Minh Thế đang
chỉ huy và theo dõi các đơn vị của mình (Quân Đội Cao Đài) phối hợp
với Quân Đội chính phủ phản công lại Lực Lượng Bình Xuyên ở khu cầu
Tân Thuận, Tướng Thế đứng trên một xe jeep tại dốc cầu, phía bên Sài
Gòn. Giữa tiếng nổ của nhiều loại súng cách xa nơi ông đứng khoảng
hơn 100m, có một viên đạn không rõ ai bắn, đã trúng ngay đầu ông,
viên đạn xuyên từ phía tai mặt qua mắt trái làm ông ngã gục chết tại
chỗ.
Tướng Trình Minh Thế
Trình
Minh Thế
sinh năm 1922 tại làng Trà Cau, quận Gò Dầu tỉnh Tây Ninh trong 1
gia đình theo đạo Cao Đài, cha ông là Trình Thành
Quới,
1 chức sắc
Cao Đài, đồng thời là 1 thương gia phát đạt. Gia đình họ Trịnh
chuyển từ Bình Định vào miền Nam từ đầu thế kỷ 19 và đổi họ từ Trịnh
sang Trình, theo gia đình ông là để tránh sự tầm thù của nhà Nguyễn
vì tổ phụ 4 đời họ Trịnh có dính líu ít nhiều đến cuộc khởi nghĩa
của quân Tây Sơn.
Ông tốt nghiệp tiểu học (Certificate of
Primary Education), nhưng sau bị đuổi học vì tội ngang ngạnh, bướng
bỉnh. Khi Thế chiến thứ 2 bùng nổ, Nhật tiến vào Đông Dương. Phản
ứng trước tình hình phong trào chống Pháp càng ngày càng gia tăng,
toàn quyền Đông Dương là Đô đốc Decoux cho đóng cửa 1 số nơi thờ
tự của Cao Đài, rồi tới ngày 26 tháng 8 năm 1940 cho đóng cửa Tòa
thánh Tây Ninh. Tới ngày 27 tháng 7 năm 1941, nhiều lãnh đạo của Cao
Đài, kể cả Hộ Pháp Phạm Công Tắc bị bắt giữ.
Để giành được sự
ủng hộ của các tổ chức Việt Nam theo chủ nghĩa Quốc Gia, Nhật tiến
hành bắt liên lạc và hỗ trợ cho họ, trong đó có Cao Đài. Tới tháng 2
năm 1943, Nhật giúp vị Phối Sư Cao Đài là Trần Quang Vinh mở lại
thánh thất Cao Đài tại Sài Gòn. Để đáp lại, Cao Đài hợp tác tích cực
với Nhật, Phối Sư Trần Quang Vinh kêu gọi 10,000 giáo dân Cao Đài
xung phong làm việc cho Nhật, nhất là tại xưởng đóng tàu Nitinan. Số
người này sau giờ làm việc được huấn luyện quân sự. Nhờ vậy mà Trình
Minh Thế được huấn luyện quân sự trong 1 trường sĩ quan của Hiến
binh Nhật (Kempetai), khi Nhật bắt đầu sử dụng lực lượng vũ trang
Cao Đài. Tới năm 1945, ông trở thành 1 sĩ quan của Lực Lượng Quân Sự
Cao Đài.
Được sự bảo trợ của Nhật, Phối Sư Trần Quang Vinh
tổ chức lực lượng vũ trang gồm 3,000 người. Ngày 9 tháng 3 năm 1945,
Thủ lãnh quân sự của Cao Đài là Trần Văn Thành tuyên bố Hoàng thân
Cường Để chỉ thị thành lập lực lượng vũ trang Cao Đài, mặc đồng phục
trắng, đội mũ bê–rê, liên minh với Nhật Bản để chống Pháp. Trong
thời kỳ này Trình Minh Thế đã gia nhập lực lượng vũ trang Cao Đài và
tích cực hợp tác với Nhật.
Tổng thống Ngô Đình Diệm gắn cấp thiếu tướng
cho Trình Minh Thế ngày 13/2/1955
Tháng 1 năm 1948,
Trình Minh Thế ly khai lần thứ nhất, nhưng rồi quay lại chỉ sau 48
giờ. Ông bắt đầu thành lập đội quân xung kích Hắc Y, mặc quần áo
bà ba đen, sau trở thành đồng phục cho tất cả dân quân Liên
Minh. Bộ quần áo bà ba đen mà sau này khi quân Liên Minh tan rã,
lực lượng Việt cộng đã thuổng. Đầu năm 1949, Trình Minh Thế đưa
lực lượng của mình từ các tỉnh miền Đông về Tây Ninh để ủng hộ
Phạm Công Tắc, rồi sau đó được phong cấp thiếu tá.
Tháng
6 năm 1951, Trình Minh Thế chính thức rời khỏi hàng ngũ giáo
phẩm Cao Đài với chừng 2,000 người của mình và thành lập lực
lượng riêng lấy tên là Liên Minh, chủ trương chống cả Việt Minh
và Pháp. Cha và Anh của ông cũng thành lập lực lượng vũ trang
trong Liên Minh, về sau 2 người này bị giết khi đụng độ với
lực lượng Việt Minh. Tuy nhiên, cũng có tin cho rằng ông Trình
Thành Quới chết vì trúng mìn do chính Lực Lượng Liên Minh đặt
phòng vệ quanh doanh trại. Lực lượng của Trình Minh Thế đã thực
hiện các vụ đánh bom tại Sài Gòn từ năm 1951 tới năm 1953, và có
lẽ cũng phải chịu trách nhiệm cho vụ ám sát Tướng Chanson tại Sa
Đéc năm 1951.
Tháng 8 năm 1953, quân Pháp mở cuộc tấn
công vào Căn cứ của Trình Minh Thế, sử dụng 1 Tiểu Đoàn sơn
cước tinh nhuệ. Quân Liên Minh phải tránh vào các hang động ở
núi Bà Đen. Về sau Trình Minh Thế phải dời Sở Chỉ Huy về núi
Heo. Tới năm 1954, Liên Minh đã mở rộng địa bàn hoạt động về
phía Tây–Nam, tới tận sông Cửu Long. Lực lượng của họ được chia
làm nhiều Tiểu Đoàn, quân số vào khoảng 2,500 người.
Đầu
năm 1954, khi nội bộ Cao Đài còn đang ngấm ngầm tranh giành ảnh
hưởng, thế lực với nhau, thì Pháp thua trận Điện Biên Phủ. Chính
phủ Mỹ không muốn Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo của Hồ
Chí Minh, nên quyết định can thiệp, hỗ trợ lực lượng thứ 3. Cố
vấn quân sự Mỹ là Edward Lansdale, người chịu trách nhiệm liên
lạc với chính phủ Ngô Đình Diệm, đã đàm phán với Trình Minh Thế
về việc sử dụng lực lượng vũ trang của ông ta để hỗ trợ cho Thủ
tướng Diệm và Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.
Ông Ngô Đình
Nhu đã liên lạc và nhờ ông Huỳnh Hữu Nghĩa, 1 tín đồ Cao Đài,
là cố vấn chính trị của Tướng Trình Minh Thế. Ông Nghĩa đã giúp
ông Nhu chinh phục được Tướng Thế (chứ không phải như có người
Mỹ cho rằng ông Nhu có được ông Thế là nhờ Đại tá Edward
Lansdale. Ông Lansdale có can thiệp để quân của Tướng Thế được
hợp thức hóa và trả lương như Quân Đội Quốc Gia thì đúng. Người
nào bảo Lansdale dùng tiền mua Tướng Thế là cố tình xuyên tạc để
hạ uy tín của một vị tướng kiên cường anh dũng, thanh liêm mà
anh em ông Diệm rất quý trọng. Khi nghe tin Tướng Thế tử trận
Tổng thống Diệm đã ngất xỉu – Điều này Tướng Lansdale có ghi
trong hồi ký). Chính phủ Ngô Đình Diệm dành ra 5 triệu đồng
(piastre) cho Liên Minh, để thu xếp định cư cho 10,000 người tỵ
nạn ở khu vực Tây Ninh, nhưng thực tế 1 phần số tiền này được
sử dụng để chi tiêu cho Liên Minh.
Thông qua Lansdale, Mỹ
tiếp tục tài trợ cho Trình Minh Thế và các nhóm Cao Đài khác.
Tuy nhiên, do chính phủ Nam Việt Nam còn yếu ớt, nên nhiều chỉ
huy các phe nhóm vũ trang tuyên bố chống lại chính phủ của Ngô
Đình Diệm và tổ chức đảo chính. Một số người cho rằng Thế có thể
là 1 lựa chọn khả dĩ của người Mỹ để thay thế Diệm. Tuy nhiên,
khi Lực Lượng Liên Minh tiến vào Sài Gòn, thì có lẽ đó là do lời
kêu gọi vào phút cuối cùng của Lansdale ủng hộ Tổng thống Diệm.
Tháng 9 năm 1954, Lansdale phát hiện ra Tướng Nguyễn Văn
Hinh, Tổng tham mưu trưởng Quân Đội Sài Gòn, đang tiến hành âm
mưu lật đổ Diệm. Cùng lúc, quân Pháp phong tỏa các Lực Lượng Cao
Đài định tiến vào Sài Gòn giải nguy cho Ngô Đình Diệm. Cuộc đảo
chính bị thất bại khi Lansdale mua chuộc được các sĩ quan cấp
dưới của Tướng Hinh đi nghỉ mát, thiếu những thuộc hạ cốt cán
này, cuộc đảo chính không thể tiến hành được.
Ngày
13/2/1955, quân lính của Trình Minh Thế chính thức được sáp nhập
vào Quân Đội Quốc Gia, còn Trình Minh Thế nhận cấp bậc thiếu
tướng, dẫn quân Liên Minh diễn hành vào Sài Gòn. Trình Minh Thế
điều động 15,000 quân Cao Đài về Tòa Thánh Tây Ninh như lực
lượng dự bị, còn mình dẫn phần lớn lực lượng gồm 2,500 người về
gia nhập Quân Đội Quốc Gia như thỏa thuận với Ngô Đình Diệm.
Cái chết chẳng ai ngờ của Tướng Trình Minh Thế vừa làm đau
lòng, lẫn đau đầu cho người sống. Kẻ nổ phát súng ấy là ai? Và
tại sao? Từ năm 1955 cho đến nay 2010, đã có nhiều bài viết (kể
cả sách) đưa ra các câu trả lời khác nhau về "thủ phạm" bắn
Tướng Trình Minh Thế, nhưng hầu hết đều dựa trên sự suy luận mà
không đưa ra được 1 chứng tích nào về văn bản, chứng từ, hoặc
chứng nhân, v.v. Có tin cho rằng chế độ Ngô Đình Diệm muốn củng
cố quyền lực nên ông Ngô Đình Nhu ra lệnh cho Thiếu tá Cao Đài
là Tạ Thành Long ám sát Tướng Trình Minh Thế để khỏi trở thành
một thế lực đối lập về sau...
Mới đây, có một người
tự nhận mình là kẻ tổ chức ám sát Tướng Trình Minh Thế. Ông ta đã
từng lập 1 lời thề, sẽ giết Tướng TMT để trả thù cho 1 vị
chỉ huy mà ông ta kính trọng đã bị Tướng TMT tổ chức giết chết.
Ông này cũng chẳng trưng ra được chứng tích nào, nhưng lời ông
kể nghe cũng có lý hơn các câu trả lời khác.
..."Năm
1951, Thiếu tá Antoine Savani là Trưởng Phòng Nhì,
Trưởng lưới
an ninh mật thám của Phủ Toàn Quyền Pháp tại Đông Dương
(Việt–Miên–Lào). Ông này rất kính trọng Thiếu tướng Charles
Chanson (1902–1951) nguyên Tư lệnh Quân Đội Pháp tại Nam Việt.
Ngày 13/7/1951, Thủ Hiến Nam Việt là ông Thái Lập Thành
(1896–1951) cùng với Thiếu tướng Charles Chanson đến thị xã Sa
Đéc dự lễ diễn binh mừng các chiến thắng vùng Tiền Giang. Hai
ông xuống xe đứng chào cờ trước khán đài chính. Bỗng 1 bóng
người mặc quân phục vạch đám đông dự lễ chạy thật nhanh đến chỗ
chào cờ, vừa chạy vừa đưa tay vào túi áo (rút chốt quả lựu đạn).
Lúc đến trước mặt 2 vị quan khách chính, người này đứng nghiêm
và đưa tay lên chào cũng là lúc quả lựu đạn phát nổ. Sự việc xảy
ra quá nhanh, không ai kịp có 1 phản ứng nào cả. Người mang
lựu đạn bị xé làm 2, nằm bên cạnh 2 xác người đang thoi thóp
là các ông Thái lập Thành và Tướng Charles Chanson. Gần đó 2
sĩ quan Pháp cũng bị thương nặng. Những người bị thương được đưa
vào 1 quân y viện gần đó, nhưng vài giờ sau 2 ông Thái lập
Thành và Tướng Charles Chanson đã tắt thở.
Thiếu tá
Antoine Savani gần như nổi điên vì cuộc ám sát vừa kể. Qua điều
tra, được biết kẻ ám sát là 1 thanh niên tên Phạm văn Út
(1925–1951), là con nuôi của Đại tá Văn Thành Cao, Tư lệnh Quân
Đội Cao Đài vùng Đồng Tháp Mười. Ngoài ra, còn có tin báo cho
phòng nhì Pháp biết: Đại tá Trình Minh Thế ở Chiến Khu Lò Gò
(dưới chân núi Bà Đen, Tây Ninh) cho tổ chức trọng thể lễ truy
điệu và tôn vinh anh Phạm văn Út như 1 anh hùng kháng chiến
của Quân Đội Cao Đài. Qua các nguồn tin thu nhận được, Thiếu tá
Antoine Savani cho rằng thủ phạm là ông Trình Minh Thế và thề sẽ
giết ông này bằng mọi giá.
Khoảng năm 1994, gần 40 năm
sau ngày Tướng Trình Minh Thế bị ám sát (1955), ông Antoine
Savani đã về hưu từ lâu với cấp đại tá và cũng đã già. Lúc gần
chết vì bệnh tim, ông ta trăng trối những lời sau cùng về cái
chết của Tướng Trình Minh Thế. Những lời kể của ông Antoine
Savani được ghi lại trong cuốn "Le Mal Jaune" của ông Jean
Lartéguy, bản tiếng Anh là "Yellow Fever".
Chính tôi đã giết
Trình Minh Thế. Dù không tự tay cầm súng nhưng tôi là người tổ
chức tất cả. Thế bị giết bởi một viên đạn do người thân tín của
tôi nấp từ phía sau bắn tới, không phải từ dưới tàu bắn lên.
Người bắn chẳng có tên tuổi gì, nói đúng ra chỉ biết là cấp
trung uý. Sở dĩ tôi phải giết Thế là để báo thù cho Tướng
Chanson mà tôi đã từng thề. Trong tất cả các thủ lãnh quân sự ở
trong Nam thì Thế là người nguy hiểm nhất, có nhiều tham vọng
nhất, và cũng là người khôn ngoan nhất. Lansdale quả có mắt tinh
đời khi chọn Thế..."
Bình Xuyên rút về Rừng Sác:
Sau 5 ngày giao tranh, Lực Lượng Bình Xuyên yếu thế, gom góp
tàn quân khoảng 1,500 người rút về cố thủ ở khu rừng Sác. Tại đây
họ có tích trữ quân lương 1 phần nhờ tàu Pháp tiếp tế thêm cho
họ, tất cả khí giới tối tân của Bình Xuyên quanh vòng đai Sài
Gòn được Trung tá Bình Xuyên Tư Đen tháo gỡ đem xuống Rừng Sác,
rồi thay vào đó 1 số súng cũ, nhằm mục đích kéo dài sự kháng
chiến. Lực Lượng Bình Xuyên đã rút theo đường thủy bằng 3 tàu
LCVP, 4 tàu hạng trung, 15 tàu nhỏ dòng theo 30 ghe chài, đi từ
rừng Phước Long dài theo Mương Chuối, ra sông Soài Rạp, đến cù
lao An Thái, rồi từ đó đến Rừng Sác.
Rút quân vào rừng
Sác là 1 sai lầm chiến thuật nghiêm trọng của Bình Xuyên. Vì
địa thế ẩm thấp, nước uống khó khăn cho mấy ngàn binh sĩ. Súng
cối của quân chính phủ nã vào, không có công sự phòng thủ nên bị
thiệt hại nhiều.
Tổng kết cuộc hành quân tiểu trừ quân
Bình Xuyên tại Đô thành tính đến ngày 10/5/1955 phía BX có
khoảng 100 người chết, 650 người quy hàng với đầy đủ vũ khí. Một
phần lớn bỏ trốn. Phía thường dân được chính phủ công bố sự
thiệt hại như sau: 7,826 căn nhà bị cháy hay bị hư hại nhiều
nhất ở vùng Nancy Chợ Quán, 88 người chết, 592 bị thương.
Sau khi đánh đuổi quân phiến loạn Bình Xuyên khỏi Sài
Gòn–Chợ Lớn, các sĩ quan sau đây thuộc Liên Đoàn Nhảy Dù đã được
thăng cấp: Thiếu tá Ðỗ Cao Trí lên trung tá, các Ðại uý Nguyễn
Chánh Thi, Vũ Quang Tài lên thiếu tá. Trung uý Nguyễn Văn Viên,
Trung uý Ðỗ Kế Giai lên đại uý thực thụ, và Ðại uý nhiệm chức
Phan Trọng Chinh cũng được điều chỉnh đại uý thực thụ cùng ngày.
Sau đó Ðại uý Nguyễn Văn Viên trao quyền chỉ huy TÐ5ND cho Thiếu
tá Nguyễn Chánh Thi. Ðại uý Nguyễn Văn Viên về chỉ huy TÐ6ND
thay Đại uý Thạch Con đã bỏ ngũ sang Kampuchea.
Ngày
4/5/1955 Thủ tướng Diệm ban hành Dụ số 30 tịch thu toàn
bộ tài sản của quân phiến loạn và đặt quân Bình Xuyên ra ngoài
vòng Pháp luật. Sau đó, các cuộc biểu tình liên tục xảy ra trong
2 tháng 5 và 6/1955 do Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng Quốc Gia tổ
chức đòi hỏi hạ bệ ngay tức thời vua Bảo Đại làm cho Tòa Đại Sứ
Mỹ nghi ngờ có sự nhúng tay của ông Ngô Đình Nhu ngoài sau, nên
đã can thiệp đòi ngưng viện trợ và không công nhận chính phủ Ngô
Đình Diệm.
Ngày 12/5/1955 Ông Ngô Đình Diệm ký nghị định
giải nhiệm Tướng Nguyễn Văn Vỹ khỏi chức vụ Tổng Thanh Tra Quân
Đội Quốc Gia Việt Nam, và ngày 21/5, Thiếu tướng Nguyễn Văn Vỹ,
Đại tá Nguyễn Tuyên (Chỉ huy trưởng Ngự Lâm Quân) bị truy tố
trước Tòa án quân sự về tội phá hoại an ninh và phản bội Quốc
Gia. Trước khi bị truy tố, Tướng Vỹ và Đại tá Tuyên đã sang Pháp
vào thượng tuần tháng 5/1955.
Ngày 13/5/1955 Bộ Tổng Tham
Mưu tổ chức lễ sáp nhập Lực Lượng Ngự Lâm Quân vào Quân Đội Quốc
Gia – Việt Nam.
Ngày 19/5/1955 Lực lượng QGVN–Pháp tại
Bắc Việt hoàn tất triệt thoái khỏi Hải Phòng. VM hoàn tất cuộc
triệt thoái tại miền Trung đợt 3.
Sau khi ngưng chiến,
Quân Đội Quốc Gia Việt Nam bắt đầu giai đoạn chuyển tiếp quyền
chỉ huy và lãnh thổ từ lực lượng của người Pháp, kế tiếp là giai
đoạn củng cố và xây dựng các binh đoàn chủ lực để phòng thủ và
bảo vệ lãnh thổ Quốc Gia Việt Nam.
Quốc và Quân Kỳ SĐND
TĐ5ND diễn hành ngày June 12 1954 tại Hà Nội
Người lính Việt Nam Cộng Hòa
luôn giữ gìn và bảo vệ
an nguy cho đồng bào và Tổ Quốc Việt
Nam như giữ gìn
ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc.
Tài liệu tham khảo:
1. Chiến Sử Việt Nam, Hiệp Định Genève, 50 Năm Nhìn Lại của
Vương Hồng Anh đăng tải trên Việt Báo.
2. Hồi ký Đôi Dòng
Ghi Nhớ của Phạm Bá Hoa, nxb Ngày Nay năm 2007.
3. Hồi ký
Quân Sử Nghĩa Quân Cách mạng của Trần Thị Hoa tự Phấn Giáo Hội
PGHH Hải ngoại xuất bản 2002.
4. Bảy Viễn–Thủ lĩnh Bình
Xuyên của Nguyên Hùng nxb Văn Học 1985.
5. Cuộc Thánh
Chiến Chống Cộng của Chính Đạo nxb Văn Hóa 2004.
6. Những
Sự thật chiến tranh Việt Nam 1954 – 1975 của Trung tướng Nguyễn
Văn Toàn, Đại tá Lê Bá Khiếu, và Tiến sĩ Nguyễn Văn, Tác giả xuất
bản.
7. Những cái chết bí ẩn của Tướng lãnh VNCH của BĐQ
Đỗ Như Quyên trong Đặc San Biệt Động Quân số 29.
8. Ông
Ngô Đình Diệm lên cầm quyền như thế nào? của Nguyễn Gia Kiểng.
9. Anh hùng kiệt hiệt – Đại uý Nguyễn văn Viên và Tiểu Đoàn
5 Nhảy Dù của Mũ Đỏ Phạm Huy Sảnh.
10. Và các cuộc phỏng
vấn các chiến hữu Nhảy Dù.
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by mđ nguyễn minh hoàng chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, April 23, 2015
Cập nhật ngày Thứ Tư, April 23/2025 – đổi sang hệ thống
bootstrap framework 5.x
Cập nhật ngày Thứ Hai, September 7, 2020
tkd. Khoá
10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH