Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Lịch sử
Lời giới thiệu:
Nhân dịp Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH tổ chức Hội ngộ Binh chủng thường
niên vào tháng 7/2015 tại Thủ đô Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, Ban Kỹ
Thuật xin được hân hạnh giới thiệu với
Quý Độc giả và Quý ACE cựu quân nhân SĐND về trang điện tử mới được
thành lập “Trang
Nhảy Dù Washington, D.C. [GĐMĐVN Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận]”
Cũng nhân dịp
này, BKT xin được hân hạnh giới thiệu bộ sách “Binh chủng Nhảy Dù –
20 năm chiến sự” do các tác giả Đại úy Võ Trung Tín và Đại úy Nguyễn
Hữu Viên thực hiện. Đây là bộ sách nói về Chiến sử của Sư Đoàn Nhảy
Dù Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ ngày thành lập. Bộ sách gồm 3 phần,
kính mời Quý vị theo dõi phần Mục lục bên dưới. Trân trọng. --BKT.
****** ||| ******
MỤC LỤC
B. PHẦN B - CHIẾN SỰ
1.
Trận Điện Biên Phủ (13-3-1954 đến
7-5-1954)
2.
Tình Hình Việt Nam Sau Hiệp Định Geneve
3. Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng (23-5-1955 đến 6-12-1955)
4.
Chiến
Dịch Hoàng Diệu (từ 21/9 đến 24-10-1955)
5.
Chiến Dịch Nguyễn Huệ
(từ 1-1- đến 17-2-1956)
6.
Binh Biến ngày 11-11-1960
7.
Trận
Phước Thành (18 - 19-9-1961)
8.
Trận Ấp Bắc (2 - 3-1-1963)
9.
Trận Tân Châu Hồng Ngự (2 đến 4-3-1964)
10.
Trận Bình Giả
(3-12-1964 - 3-1-1965)
11.
Trận Hắc Dịch (9/2 đến 10-2-1965)
12. Trận Ba Gia (28-5-1965 đến 2-6-1965)
13.
Trận Đồng Xoài (9
đến 20-6-1965)
14.
Trận Đức Cơ (4-8-1965 - 15-8-1965)
15.
Chiến dịch Ia Drang - Thần Phong 7 (14 - 18-11- 1965)
16.
Hành
Quân Thần Phong 11 (28/1 – 6-3-1966)
17.
Đại Bàng 800
(12-11-1966)
18.
Hành Quân Liên Kết 81 (16/2 đến 22-2-1967)
19. Lam Sơn 54–Khu Phi Quân Sự (18-27-5-1967)
20.
Trận Dak To
(đồi 1416) (3 – 22-11-1967)
21.
Tổng Công Kích Năm Mậu Thân (từ
ngày 29-1-1968)
22.
Mặt Trận Sài Gòn (30-1-1968)
23.
Mặt Trận
Quảng Trị (30-1-1968)
24.
Mặt Trận Huế (30-1-1968)
25. Mặt Trận Khe Sanh (1 - 15-4-1968)
26.
Mặt Trận Ashau (19/4 –
17-5-1968)
27.
Trận Mậu Thân đợt hai (từ ngày 5-5-1968)
28.
Trận Gò Nổi (Tây Ninh) (19-5-1969)
29.
Chiến Dịch Bình Tây (Từ
ngày 27-3-1970)
30.
Hành Quân Toàn Thắng 42 (29/4 – 22-7-1970)
31. Hành Quân Toàn Thắng 43 (1/5– 30-6-1970)
32.
Hành Quân Toàn
Thắng 45 (6/5 – 30-6-1970)
33. Hành Quân Lam Sơn 719 (8/2 đến 6-4-1971)
34.
Trận đánh Căn Cứ
Hỏa Lực 6 (4/4 đến 17-4-1971)
35.
Trận đánh Căn Cứ Hỏa Lực 5
(24/5 - 19-6-1971)
36.
Mùa Hè Đỏ Lửa
37.
Mặt Trận Tây Nguyên
(17/3 - 28-5-1972)
38.
Mặt Trận Bình Long (2/4 - 8-6-1972)
39.
Mặt Trận Quảng Trị (30/3 - 15-9-1972)
40.
Trận Thường Đức (18/8 -
8-11-1974)
41.
Trận Ban Mê Thuột (10/3 - 16-3-1975)
42.
Trận
Khánh Dương (19/3 - 1-4-1975)
43.
Trận Phan Rang (1/4 -
17-4-1975)
44.
Trận Long Khánh (9/4 – 21 -4-1975)
C. PHẦN C: CÁC VỊ TƯ LỆNH SĐND
TIỂU SỬ CÁC TÁC GIẢ
(Võ Trung Tín & Nguyễn
Hữu Viên)
******38******
38. Mặt Trận Bình Long (2/4 - 8-6-1972)
Mặt Trận Bình Long
(Từ 2/4/1972 đến 8/6/1972)
Đầu năm 1972, như hằng năm, Bộ TTM/QLVNCH tiên đoán rằng cộng quân sẽ tổng công kích vào dịp Tết. Tuy nhiên qua Tết vẫn không thấy một dấu hiệu nào của một sự điều động binh đội cấp lớn của CS. Đến trung tuần tháng 2/1972 căn cứ vào các tin tức do các tù binh cung cấp (một SQ tiền sát pháo binh cộng sản, cấp bậc Trung úy của SĐ69 Pháo TWC/MN) và các tài liệu học tập của các đại đơn vị CSBV thu được trên xác các cán binh tịch thu được tại vùng biên giới, BTL Quân Đoàn III đã phát hiện được ý đồ tấn công vào Tỉnh Bình Long của cộng quân. Thêm vào đó những hình ảnh không thám cũng đã phát giác nhiều dấu vết chuyển quân cấp đơn vị lớn của địch trên vùng rừng núi phía Tây của Tỉnh Bình Long và trên phía Bắc hành lang Sông Bé. Do đó BTL/QĐ3 ước tính là cộng quân sẽ mở một cuộc tấn công lớn vào Tỉnh Bình Long.
Trong khi đó, tin tức tình báo cũng ghi
nhận cộng quân đã tập trung một vài đại đơn vị ở gần biên giới Tỉnh
Tây Ninh. Một câu hỏi được đặt ra là cộng quân sẽ lấy nơi nào giữa
Bình Long và Tây Ninh làm điểm và diện. Cả hai Tỉnh đều là chiến
trường thuận tiện cho địch vì gần rừng rậm và các mật khu.
Căn cứ trên các yếu tố địa lý nhân văn, BTL/QĐIII & V3CT ước tính
Bình Long là “điểm” của trận chiến sẽ diễn ra và là mục tiêu chính
mà CSVN muốn chiếm để cho ra mắt CPLT/MNVN. Như vậy Tây Ninh sẽ chỉ
là “diện”, và dựa trên ước tính này Trung tướng Nguyễn văn Minh, Tư
lệnh QĐIII & V3CT, phối trí lại lực lượng, chú trọng vào việc tăng
cường lực lượng cho SĐ5BB của Tướng Lê văn Hưng. Lữ Đoàn I Nhảy Dù
được tăng phái phối trí ở Quận Chơn Thành và mở cuộc hành quân vào
mật khu Bến Than. Chiến đoàn 52 của SĐ18BB tăng cường và phối trí ở
căn cứ Hùng Tâm, Tây Bắc cầu Cần Lê ở phía Bắc An Lộc.
Để
chuẩn bị phá vỡ kế hoạch đánh lớn của địch, BTL Quân Đoàn III đã cho
thành lập Chiến đoàn 52 Đặc Nhiệm đóng tại căn cứ hỏa lực Hùng Tâm
trên Tỉnh lộ 17 cách QL-13 khoảng 2km về hướng Tây và phía Bắc thị
trấn An Lộc khoảng 15km về hướng Bắc. Chiến đoàn này được tăng phái
đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ Tư Lệnh SĐ5BB. Chiến đoàn gồm Tiểu
đoàn 2 Trung đoàn 52/SĐ18BB và Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 48/SĐ18BB,
Trung tá Nguyễn Bá Thịnh là Chiến đoàn Trưởng. Trong CCHL có các đơn
vị Pháo Binh 155ly và 105ly.
Mùa Hè đỏ lửa 1972: Mặt trận An Lộc
Tỉnh Bình Long là tỉnh mới được thành lập dưới thời Đệ
Nhất Cộng Hòa. An Lộc, tỉnh lỵ của tỉnh Bình Long trước đây là một
thị trấn nhỏ có tên gọi là Hớn Quản thuộc tỉnh Thủ Dầu Một được
thành lập dưới thời Pháp thuộc từ năm 1905. Đến thời cố Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, vì nhu cầu chiến lược, tỉnh Bình Long được thành lập
bởi sắc lệnh 143/NV ngày 22/10/1956 gồm 3 quận: Lộc Ninh ở phía Bắc,
An Lộc ở giữa và Chơn Thành ở phía Nam. Từ ngày đó, quận Hớn Quản
đổi tên thành quận An Lộc.
Bình Long nằm sát biên giới Cam
Bốt với một diện tích 2,334km², 80% lãnh thổ là rừng rậm gồm trên
84,000 dân (thống kê 1972) đa số là người Thiểu Số. Riêng quận An
Lộc gồm cả thành phố tỉnh lỵ rộng 740km² với khoảng 44,000 dân, đa
số tập trung vào quanh các đồn điền, hay tỉnh lỵ. Toàn tỉnh Bình
Long, chung quanh tỉnh lỵ và quận lỵ là những đồn điền cao su ngút
ngàn, vài ngọn đồi thoai thoải. Đồi Gió, đồi 169, đồi Đồng Long đều
cách trung tâm Thị xã khoảng 3km là những cứ điểm quân sự quan trọng
bảo vệ thị trấn An Lộc.
Quốc Lộ 13 từ Sài Gòn đi ngược lên
cắt đôi tỉnh Bình Long và xuyên ngang tỉnh lỵ An Lộc dẫn dài tới
biên giới Cam Bốt, tận thị trấn Snoul. Phải vượt qua Lai Khê, Chơn
Thành, Tàu-Ô, Tân Khai, Xa Cát, Xa Trạch, Xa Cam rồi mới tới thành
phố An Lộc. Quãng đường này đã trở thành chông gai trắc trở trong
thời gian diễn tiến cuộc chiến An Lộc.
Sư đoàn 5 Bộ Binh do
Chuẩn tướng Lê Văn Hưng làm Tư Lệnh, BTL đóng tại Lai Khê, trách
nhiệm an ninh lãnh thổ cho 3 tỉnh Phước Long, Bình Long và Bình
Dương. Các đơn vị thống thuộc SĐ5BB trong thời gian này được bố trí
như sau:
1. Trung đoàn 7, Trung đoàn trưởng là Trung tá Lý
Đức Quân. BCH Trung đoàn trú đóng tại Hớn Quản trách nhiệm ngăn chận
cộng quân xâm nhập khu vực hành lang Sông Bé
2. Trung đoàn 8,
Trung đoàn trưởng là Đại tá Mạch văn Trường. BCH trú đóng tại Dầu
Tiếng trách nhiệm ngăn chận cộng quân xâm nhập hành lang Sông Sài
Gòn
3. Trung đoàn 9, Trung đoàn trưởng là Trung tá Nguyễn
công Vĩnh phối hợp với Thiết đoàn I Kỵ Binh và TĐ74BĐQ Biên phòng tổ
chức thành Chiến đoàn 9 cơ động, trấn giữ tại Quận Lộc Ninh trách
nhiệm tuần tra ngăn chận cộng quân xâm nhập vùng biên giới dọc
QL-13.
Ngoài ra còn có các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa
Quân thuộc Tiểu Khu Bình Long dưới quyền của Tỉnh Trưởng là Đại tá
Trần Văn Nhựt. Bộ Tư lệnh Tiền Phương SĐ5BB đóng tại An Lộc.
Theo kế hoạch của CSBV do Trần Văn Trà soạn thảo, 2 Trung đoàn 24 và
271 (thuộc SĐC30B tân lập) tấn công vào Tỉnh Tây Ninh làm nghi binh
đánh lạc hướng tình báo VNCH, để 2 Sư Ðoàn Công trường 7 và 9 di
chuyển từ mật khu 708 trên đất Kampuchia vào tỉnh Bình Long. Công
trường 9 sẽ tấn công vào An Lộc, Công trường 7 sẽ ngăn chận viện
quân trên QL-13 từ Lai Khê đến An Lộc và Công trường 5 sẽ dứt điểm
Lộc Ninh. Chiến trận dự trù kéo dài khoảng 10 ngày để sau đó MTGPMN
sẽ làm lễ ra mắt cái gọi là chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa
Miền Nam vào ngày 20/4/1972 tại An Lộc. Những trận tấn công trong
chiến dịch này được chỉ huy bởi Trần Văn Trà, tướng lãnh Bộ đội
chính qui Bắc Việt, được yểm trợ bởi lực lượng xe tăng đông đảo, hệ
thống phòng không rất mạnh với các loại vũ khí tối tân lần đầu tiên
sử dụng trên chiến trường vùng 3 chiến thuật. Đặc biệt là xe tăng
T-54 và hỏa tiễn tầm nhiệt SA7, AT3 cùng với nhiều đại bác 130 có
khả năng bắn ở tầm xa 27km trong khi quân đội Việt Nam Cộng Hòa dùng
đại bác 105ly có tầm phản pháo tối đa 12km, 155ly có tầm bắn 17km
nhưng nhịp bắn chậm hơn. Đại bác 175ly có tầm xa khá hơn nhưng cả
miền Nam chỉ có vài khẩu do quân Mỹ để lại hầu hết ở ngoài vùng 1 và
vùng 2 chiến thuật. Loại này có nhịp bắn rất chậm. Khi tấn công,
quân Bắc Việt lợi dụng lợi thế tầm xa của đại bác 130ly, họ đặt súng
ngoài tầm phản pháo của pháo binh VNCH để bắn vào các mục tiêu tấn
công và yểm trợ quân của họ mà Pháo Binh VNCH có ít cơ hội để tấn
công trả đũa.
Lực Lượng CSBV: quân số khoảng từ 35,000 đến
50,000
- SĐ C30B tân lập (về sau đổi tên lại là Sư đoàn Bình
Long) gồm 4 Trung đoàn 24 (mới vừa xâm nhập từ Tây Nguyên) Trung
đoàn 271 (khác với Trung đoàn 271 cơ hữu của CT9), Trung đoàn 205 &
Trung đoàn 207 CSBV vừa mới xâm nhập từ Quảng Bình, Kampuchia và Tây
Nguyên với 2 chiến xa chiếm được của VNCH và một T-54, nghi binh
- Công trường 5: gồm 3 Trung đoàn E 6, 174 và 275 = 9230 người
- Công trường 7: gồm 3 Trung đoàn 141, 165, 209 = 8600 người
- Công trường 9: gồm 3 Trung đoàn 271, 272 và 95 C = 10,680
- SÐ Bình Long gồm các đơn vị của MTGPMN đa số là Khmer đỏ với 3
Trung đoàn Thép, Đồng Nai và Phước Long
- SÐ Pháo Binh 69 gồm
Trung đoàn 208 hỏa tiễn, Trung đoàn 42 Pháo Binh, Trung đoàn 271
phòng không = 3830 người
- Các Trung đoàn Chiến Xa 202d và
203d = 800 người
- Trung đoàn 101 biệt lập = 760 người
- Trung đoàn 205 CSBV = 1250 người
- Tiểu đoàn 429 Công
Binh 320 người.
Lực Lượng Bạn:
1. SÐ5BB gồm 3 Trung
đoàn Bộ binh 7, 8 và 9, Thiết đoàn 1 Kỵ binh, 4 Tiểu đoàn Pháo binh
gồm Tiểu đoàn 50 đại bác 155ly, các Tiểu đoàn 51, 52, và 53 đại bác
105ly. Ngoài ra còn các Tiểu đoàn chuyên biệt khác như Công binh,
Truyền tin, Tiếp vận và Quân y. Tổng cộng quân số trên 11,000 người.
Bộ Tư lệnh SĐ5BB đóng tại đồn điền cao su Lai Khê, quận Bến Cát,
tỉnh Bình Dương
Khu vực lãnh thổ trách nhiệm hành quân chiến
thuật của SĐ5BB gồm ba tỉnh Bình Dương, Tỉnh Trưởng là Đại tá Nguyễn
văn Của; Bình Long, Tỉnh Trưởng Đại tá Trần văn Nhựt; Phước Long,
Tỉnh trưởng Đại tá Lưu Yểm
- Trung đoàn 7 Bộ binh do Trung tá
Lý Đức Quân chỉ huy gồm 3 Tiểu đoàn: Tiểu đoàn 1/7 hoạt động hướng
Đông Bắc bảo vệ căn cứ căn cứ Quản Lợi, cách thị xã An Lộc chừng
7km. Hai Tiểu đoàn 2/7 và 3/7 với Đại đội Trinh sát 7 hoạt động xung
quanh thị xã và khu vực Tây Bắc. Căn cứ chính của Trung đoàn 7 vẫn
còn ở Quận Phú Giáo, Tỉnh Bình Dương
- Trung đoàn 8 Bộ binh
do Trung tá Mạch văn Trường chỉ huy với Bộ Chỉ huy Trung đoàn , một
Tiểu đoàn và Đại đội Trinh sát bảo vệ Căn cứ Lai Khê. Một Tiểu đoàn
đang thụ huấn tại Trung tâm Huấn luyện của Sư đoàn ở Bình Dương và
một Tiểu đoàn thứ ba đang hành quân ở Quận Dầu Tiếng
- Trung
đoàn 9 Bộ binh do Đại tá Nguyễn Công Vĩnh chỉ huy gồm 3 Tiểu đoàn
1/9, 2/9 và 3/9. Trung đoàn 9 được tổ chức thành Chiến đoàn 9 do Đại
tá Nguyễn Công Vĩnh chỉ huy, gồm Trung đoàn 9 Bộ binh với Tiểu đoàn
53 Pháo binh gồm 14 khẩu đại bác 105ly được tăng cường 4 khẩu 155ly
(của Tiểu đoàn 50 Pháo binh), và Thiết đoàn 1 Kỵ binh dưới quyền chỉ
huy của Trung tá Nguyễn Đức Dương. Bộ Chỉ huy Thiết đoàn đóng ở Ngã
ba Lộc Tấn, giao điểm của hai trục lộ 13 và 14, được tăng cường 4
khẩu đại bác 105ly, với Chi đoàn 3/1 Thiết kỵ và Chi đoàn 1/1 Chiến
xa; trong đó có 14 M-41, 26 Thiết quân vận đủ loại, và các xe kéo
pháo, GMC & Jeep. Hai chi đoàn này hoạt động trên các trục lộ 13 và
14 bắc Lộc Ninh
- Bộ Chỉ huy Chiến đoàn 9 đóng tại căn cứ
chính của Tiểu đoàn 74 Biệt động quân Biên phòng (TĐ74/BĐQ/BP) nằm
cuối sân bay Quận Lộc Ninh
2. SÐ25BB gồm 3 Trung đoàn 46, 49
& 50BB trách nhiệm Tây Ninh Hậu Nghĩa và Long An
3. SÐ18BB
gồm 3 Trung đoàn 43, 48 & 52BB trách nhiệm Biên Hòa, Long Khánh và
Phước Tuy
Ngày 28 tháng 3, 1972, SÐ18BB tăng phái Chiến đoàn
52 đóng ở căn cứ Hùng Tâm. Chiến đoàn này gồm Tiểu đoàn 2 của Trung
đoàn 52, Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 48 thuộc SĐ18BB, Đại đội Trinh
sát của Sư đoàn với bốn khẩu pháo 105ly, hai khẩu 155ly, và một Đại
đội Công binh
4. SÐ21BB gồm 3 Trung đoàn 31, 32 & 33BB trách
nhiệm giải tỏa QL-13 từ Chơn Thành đến An Lộc
5. Trung đoàn
15/SÐ9BB với 3 Tiểu đoàn 1/15, 2/15, 3/15 tăng cường giải tỏa QL-13
6. LÐIND Lữ Đoàn Trưởng là Đại tá Lê Quang Lưỡng với 3 Tiểu Ðoàn
5, 6, 8ND và TĐ3PBND
• Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù, Tiểu đoàn trưởng
là Trung tá Nguyễn Chí Hiếu
• Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù, Tiểu đoàn
trưởng là Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh
• Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù, Tiểu
đoàn trưởng là Trung tá Văn Bá Ninh
• Tiểu đoàn 3 Pháo Binh Nhảy
Dù, TĐT là Thiếu tá Nguyễn Văn Nghi
7. LÐIIIND Lữ Đoàn Trưởng
là Trung tá Trương Vĩnh Phước với 3 Tiểu Ðoàn 1, 2, 3ND và TĐ1PBND
• Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù, Tiểu đoàn trưởng là Trung tá La Trịnh
Tường
• Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù, Tiểu đoàn trưởng là Trung tá Lê Văn
Mạnh
• Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù, Tiểu đoàn trưởng là Thiếu tá Trần Văn
Sơn
• Tiểu đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù.
8. Liên đoàn 81 Biệt
Cách Nhảy Dù do Trung tá Phan Văn Huấn làm Chỉ huy Trưởng, với 550
chiến binh gồm 4 Đại đội được trang bị đầy đủ
9. LÐ3BÐQ với
các Tiểu đoàn 31, 36 & 52 BĐQ. 1500 người do Trung tá Nguyễn Văn
Biếc chỉ huy
10. Lữ đoàn 3 Kỵ Binh với các Thiết đoàn 7, 8,
11... Các Thiết đoàn Thiết Vận Xa 15 của Trung đoàn 15 Sư đoàn 9 Bộ
Binh, và Thiết đoàn M-113 của Sư đoàn 21 Bộ Binh
16. Sư đoàn
3 Không Quân bản doanh tại Biên Hòa gồm:
• Không đoàn 43
Chiến Thuật với 4 Phi đoàn Trực thăng UH-1: 221 (Lôi Vũ), 223 (Lôi
điểu), 231 (Lôi vân), 245 (Lôi bằng); 1 phi đoàn Chinook CH-47A: 237
(Lôi thanh) và 1 phi đội Trực thăng tản thương UH-1: 259E
•
Không đoàn 23 Chiến thuật với các Phi đoàn Quan sát 112 và 124; các
Phi đoàn khu trục A-1: 514 và 518, Phi đoàn F-5: 522
17. Sư
đoàn 5KQ tại Tân Sơn Nhất gồm:
• Không đoàn 53 CT với các Phi
đoàn 413 (C-119G), các Phi đoàn C-123 (PĐ421, 423 và 425)
•
Không đoàn 33 CT với Biệt đội Trinh sát điện tử 716 (EC-47)
18. Đại đội KK/Hoa Kỳ tăng cường từ QK4 và QK5
Diễn tiến:
Từ 2 giờ sáng ngày 31 tháng 3, một đơn vị tân lập của TWC/Miền
Nam mang danh hiệu Sư đoàn C30B (về sau đổi tên lại là Sư đoàn Bình
Long kết hợp bởi các Trung đoàn mới vừa xâm nhập, Trung đoàn 24 từ
Tây Nguyên, Trung đoàn 271 không phải cơ hữu của CT9, từ Quảng Bình;
2 Trung đoàn 205 và 207 CSBV từ Battambang và Kompong Thom) dùng 2
chiến xa M41 và M113 chiếm được của VNCH trong trận Snoul, cùng một
chiến xa T-54 được sự yểm trợ mạnh mẽ của Pháo Binh; lực lượng CSBV
pháo kích và tấn công dữ dội tất cả các căn cứ đóng quân của Chiến
đoàn 49/SĐ18BB, suốt trục lộ 22 từ tiền đồn Xa Mát ở biên giới Việt
Miên dẫn vào đến Thiện Ngôn phía bắc tỉnh lỵ Tây Ninh và nhất là tấn
công vào căn cứ hỏa lực Lạc Long 35km về hướng Tây Bắc của Tây Ninh
để đánh lạc hướng QLVNCH, Căn cứ này do một Tiểu Ðoàn của Trung đoàn
49/SÐ25BB trấn đóng. Sau nửa ngày giao tranh ác liệt gây thiệt hại
nặng nề cho cả hai phía, sau cùng căn cứ này thất thủ. Tiếp theo đó
các căn cứ dọc theo biên giới Tây Ninh đã được lệnh rút bỏ ngoại trừ
Tống Lê Chân. Căn cứ hỏa lực Thiện Ngôn khi rút lui đã lọt ổ phục
kích của Trung đoàn 271 bị thiệt hại nặng về cơ giới và Pháo Binh.
Ngay trong ngày hôm sau, Tướng Minh ra lệnh cho Trực thăng bốc
toàn bộ Lữ đoàn I Nhảy Dù lúc đó tăng phái cho SĐ5BB, đang còn tiếp
tục hành quân ở Bến Than, phía tây Quận Chơn Thành vào buổi trưa,
đưa vào hành quân giải tỏa trục lộ 22. Một Chiến đoàn khác của
SĐ18BB và một Chiến đoàn Biệt Động Quân cũng được đưa vào vùng này
ngay trong buổi sáng đó.
Nhưng tình hình đã diễn ra khá ly
kỳ, sau khi tấn công các căn cứ của Chiến đoàn 49, toàn bộ các đơn
vị CSBV cấp tốc rút ra khỏi vùng này không thu chiến lợi phẩm và
cũng không kịp mang xác chết của đồng bọn đi. Các đơn vị của Tướng
Minh đưa vào vùng hành quân, không chạm súng và cũng không tìm thấy
dấu vết của chúng, mà chỉ thu dọn chiến trường nhầy nhụa ở đó. Đến
ngày 2 tháng 4, coi như trục lộ 22 ở Tây Ninh hoàn toàn được giải
tỏa. Từ ngày đó cho đến hết ngày 3/4/1972, trong toàn thể lãnh thổ
QĐIII & V3CT không có một tiếng súng nổ. Tình trạng im ắng rờn rợn
này như báo hiệu một cơn bão lớn sắp kéo đến.
Khai thác từ
những tin tức dồn dập về các cuộc điều quân của CS, ngày 3/4/1972
Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh SĐ5BB bay đến Lộc Ninh để thị sát việc
phòng thủ mặt trận này. Đại tá Nguyễn Công Vĩnh, Trung đoàn trưởng
Trung đoàn 9, trực tiếp chỉ huy mặt trận đã thuyết trình về tình
hình trong vùng và Ông đã nhấn mạnh đến việc Tiểu đoàn 3/9 hoạt động
tại phía Tây Lộc Ninh đã phát giác hệ thống dây điện thoại dã chiến
của CS, chắc chắn là chúng đang chuẩn bị một chiến trường lớn tại
nơi đây. Lực lượng phòng thủ của Lộc Ninh gồm Chiến đoàn 9 (-) với 2
Tiểu đoàn trực thuộc do Trung tá Nguyễn Công Vĩnh chỉ huy, 1 Thiết
đoàn Kỵ Binh gồm 14 chiến xa M41 và 26 Thiết quân vận đủ loại hỗn
hợp do Trung tá Nguyễn Đức Dương chỉ huy, Tiểu đoàn 74 Biệt Động
Quân Biên Phòng, 1 Tiểu đoàn Địa Phương Quân 169 và 1 Tiểu đoàn Pháo
hỗn hợp gồm 16 khẩu 105ly và 4 khẩu 155ly. Tổng cộng quân số khoảng
3000 người (trong số đó có 7 cố vấn Mỹ).
Ngày 4/4/1972 vào
lúc 17.45giờ Đại đội Trinh Sát của Trung đoàn 9BB hoạt động trong
vùng ranh giới tỉnh Bình Long & Tây Ninh, cách căn cứ Alpha khoảng
9km về phía Tây, đã đụng độ ác liệt với Trung đoàn E6/CT5 CSBV,
trước khi bị đánh tan, đơn vị này đã báo cáo một lực lượng hùng hậu
cộng quân có chiến xa yểm trợ đang tiến về Lộc Ninh. Buổi chiều Tiểu
đoàn 3/9 Bộ Binh do Thiếu tá Đặng Văn Sơn làm TĐT đã phục kích một
đơn vị tiền sát của Trung đoàn 272 tại đường Kiểm, đơn vị này có
nhiệm vụ cắt đứt QL-13 ngăn chận đường lui binh của Trung đoàn
9/5BB, TĐ3/9 đã bắt sống được một số tù binh và số tù binh này tiết
lộ kế hoạch tấn công An Lộc của CSBV.
Ngày 5/4/1972 vừa lúc
bình minh, Bộ Chỉ Huy chiến dịch của cộng sản Bắc Việt ban lệnh:
“Phải chiếm An Lộc trước ngày 20 tháng 4/1972. Đoàn quân xâm lăng,
được chuẩn bị từ lâu, gồm các Công trường 5, 7, 9, và Công trường
Bình Long cùng Trung đoàn 203 chiến xa từ vùng Lưỡi Câu của Cam Bốt
tràn qua, xuyên qua các rừng cao su dày đặc. Quân cộng sản Bắc Việt
được pháo binh 130ly tầm xa và các loại phòng không cực kỳ tối tân
do Nga sô chế tạo yểm trợ.”
Dân chúng vượt thoát khỏi vùng
CSBV chiếm,
chạy về Chơn Thành trên QL-13
Tấn Chiếm Lộc Ninh:
Vào lúc 3.00 giờ sáng ngày 5/4/1972, căn cứ của Bộ Chỉ huy Trung
đoàn 9, Tiểu đoàn 53 Pháo binh và Bộ Chỉ huy Chi Khu Lộc Ninh cặp
theo sân bay Lộc Ninh bị pháo kích dữ dội. Tiểu đoàn 3/9 (-) đang
hành quân ở Tây Nam thị trấn Lộc Ninh, được lệnh rút về căn cứ của
Chiến đoàn, bị địch bám sát tấn công liên tục, khi được lệnh rời
vùng hành quân, Tiểu đoàn 3/9 (-) báo cáo nghe tiếng chiến xa di
chuyển rầm rộ ở hướng tây trên trục lộ 137, là con đường xuyên rừng
nối liền QL-13 và Liên quốc lộ 7, từ biên giới dẫn vào Lộc Ninh. Đơn
vị Thiết kỵ 1 của Trung tá Nguyễn Đức Dương và Tiểu đoàn 74 BĐQ/BP ở
Ngã ba Lộc Tấn và Căn cứ Alpha cũng đang bị pháo kích khủng khiếp.
Sau trận pháo kích dữ dội vào Lộc Ninh, Công trường 5 gồm 3 Trung
đoàn 174, 275 và E6; Trung đoàn 95 C của Công trường 9, cùng với 1
Trung đoàn của SĐ69 Pháo Binh; áp dụng chiến thuật cổ điển của cộng
sản tiền pháo rồi dùng biển người xung phong quyết nuốt trọn Lộc
Ninh, một quận nằm về phía Bắc của An Lộc nơi đồn trú của Chiến đoàn
9 thuộc Sư đoàn 5BB. Lực lượng địch quân tung vào trận chiến ước
lượng khoảng 15,000 quân.
Phóng đồ phòng thủ Lộc Ninh
Cộng quân đã gặp sự kháng cự mãnh liệt của các chiến sĩ Trung
đoàn 9 Bộ Binh, Thiết đoàn 5 chiến xa, Tiểu đoàn 74 Biệt Ðộng Quân
Biên Phòng. Các Đại đội Địa Phương Quân & Nghĩa Quân ở Lộc Ninh cũng
phản ứng không kém phần ác liệt. Mặc dù quân số cộng sản đông gấp
năm lần, quân trú phòng vẫn cố gắng chống trả. Nhiều trận đánh xáp
lá cà diễn ra ngay bên trong quận lỵ. Trước chiến thuật thí quân của
cộng sản, quân trú phòng phải hạ nòng đại bác 105ly bắn trực xạ vào
các đợt xung phong biển người của địch. Sáng sớm, các phi tuần phản
lực từ Biên Hòa được gởi đến oanh kích mục tiêu Xóm Bưng, ngọn đồi
178 nằm về phía Đông Bắc Lộc Ninh khoảng 2km, các phi công đã thả
những quả bom bi CBU khiến địch quân tổn thất nặng nề. Cũng trong
thời gian này, một lực lượng cộng quân khác xuất phát từ ngọn đồi
150 phía Tây Lộc Ninh có chiến xa yểm trợ tràn vào khu phố chợ, khu
nhà thờ Lộc Ninh. Đơn vị Pháo binh kế cận đã nổ súng trực xạ thiêu
hủy chiến xa này.
9.00 giờ sáng, Chuẩn tướng Hưng đã bay trên
bầu trời Lộc Ninh để đốc chiến, Ông ra lệnh tất cả các đơn vị đang
hoạt động ở phía Bắc dọc theo Biên giới rút về cố thủ Lộc Ninh. Lúc
12.00 giờ, các đơn vị này gồm Thiết đoàn I Kỵ Binh và TĐ74 BĐQ Biên
Phòng dưới quyền chỉ huy của Trung tá Nguyễn Đức Dương từ ngã ba Lộc
Tấn chia thành 2 mũi dùi mở đường về hướng Tây (không sử dụng QL-13
vì đã bị cộng quân phục kích), chiếm mục tiêu số 1, ngọn đồi 177 rồi
lần xuống tiến chiếm ngọn đồi 150 (mục tiêu số 2) và đánh bọc hậu
vào đơn vị địch quân vừa tràn vào khu phố chợ và nhà thờ để giải tỏa
áp lực địch quân.
Nhưng đến 8.00 giờ sáng hôm sau, khi đoàn
quân tiến đến ngọn đồi 177 thì bị lọt vào ổ phục kích của toàn Công
trường 5 cộng thêm Trung đoàn 95C của CT9 tăng phái, với đại pháo và
phòng không yểm trợ. Một trận đánh kinh hồn đã diễn ra với kết quả
là đoàn viện binh này bị tan rã, hầu hết các cấp Sĩ quan chỉ huy đều
bị hy sinh, tất cả các chiến xa đều bị tiêu diệt chỉ còn một chiếc
duy nhất chạy về đến An Lộc. Trung tá Dương bị thương và bị bắt.
Đánh suốt ngày không chiếm được mục tiêu vì sự phản công quyết
liệt của các đơn vị trú phòng, cộng sản Bắc Việt lui binh trở ra, để
rồi pháo kích liên miên bất tận vào các ổ kháng cự của quân trú
phòng. (còn khoảng 1,000 binh sĩ)
Ngày 6 tháng 4,
vào lúc 5 giờ 30 sáng, quân Bắc Việt lại tiếp tục tấn công từ ba
huớng với xe tăng T-54 và chiến xa lội nước PT-76 trợ chiến lù lù
tiến vào cổng của Căn Cứ Chiến đoàn 9. Lực luợng trú phòng bên trong
công sự phòng thủ chiến đấu kiên cường chống lại quân cộng sản Bắc
Việt. Họ hướng dẫn phi cơ yểm trợ gồm cả máy bay C-130 Hỏa Long
trang bị đặc biệt, các phi tuần khu trục thả loại bom bi CBU để tiêu
diệt lực lượng đông đảo cộng quân bao vây quanh thành phố. Sự yểm
trợ hữu hiệu của máy bay giúp cho lực lượng dưới đất cầm cự được tới
ngày thứ hai.
Buổi sáng ngày 7/4, trước khi lên Trực thăng
bay lên Lộc Ninh, Tướng Hưng đã ra lệnh cho Trung tá Nguyễn Bá
Thịnh, Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 52 đóng ở căn cứ Hùng Tâm phía
bắc cầu Cần Lê điều động hai Tiểu đoàn ra Ngã ba QL-13 để lập thêm
một tuyến phòng thủ phía trước của tuyến cầu Cần Lê nhằm ngăn chận
hướng tiến của chiến xa địch trên trục lộ chính vào An Lộc chừng 8
dặm (8 miles) ở về hướng bắc. Ở căn cứ cầu Cầ̀n Lê có hai Đại đội
của SĐ5BB, một của TĐ 2/9, một của TĐ 1/7 và hai Đại đội ĐPQ của
Tiểu khu Bình Long với 6 khẩu pháo do Trung tá Nguyễn văn Hòa chỉ
huy, trấn đóng.
Nhưng diễn tiến trên trận địa không được như
mong muốn vì khi Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 52 vừa xuất quân ra chưa
đến QL-13 thì đã chạm địch rất nặng với Sư đoàn Công trường 5 CS và
Trung đoàn 95B tăng phái là hai đơn vị đã phục kích và đánh tan
Thiết đoàn 1 Thiết Kỵ trong ngày hôm trước. Tiểu đoàn này bị Bắc
quân phục kích tại khu vực giao lộ giữa Quốc Lộ 13 và Liên tình lộ
17. Pháo binh và phi cơ bạn không thể yếm trợ được vì sợ đánh nhầm
vào quân bạn đang giao tranh cận chiến với địch quân.
Sau đó,
cộng quân bắt đầu pháo vào căn cứ hỏa lực Hùng Tâm bằng các loại đạn
82, 105ly, hỏa tiễn 122ly từ đồi 82 ở hưóng Tây Bắc, trong khi tăng
cường tấn công ác liệt các lực lượng phòng thủ Lộc Ninh nên cứ điểm
này không thể cầm cự lâu hơn. Tướng Hưng ra lệnh cho Chiến đoàn 52
cố gắng rút về An Lộc, không cần tiến ra QL-13 phía bắc cầu Cần Lê
nữa.
Trong ngày 7 tháng 4, cộng sản dùng chiến thuật biển
người xung phong nhiều đợt tấn công vào quân trú phòng Lộc Ninh với
súng không giật 75ly, hỏa tiễn 107, 122ly và đại pháo, xe tăng
BTR-50 và T-54, đã chiếm được khu vực phòng thủ phía Nam vào lúc 8
giờ sáng. Những vị trí còn lại phía Bắc thất thủ khoảng 16 giờ 30
chiều. Sau 3 ngày bị pháo, bị đánh, không được tiếp viện, quân trú
phòng còn lại khoảng 100 người vượt thoát về phía An Lộc. Toàn bộ 40
chiến xa của Việt Nam Cộng Hòa, một số bị phá hủy, một số đành bỏ
lại, Trung tá Nguyễn Công Vĩnh, Chiến đoàn Trưởng bị bắt làm tù binh
cùng với 2400 binh sĩ. Số còn lại khoảng 600 quân nhân bị tử trận.
Vào khoảng chiều tối, các khu trục cơ VNCH đã trở lại Lộc Ninh oanh
tạc hủy diệt các khu quân sự và chi khu Lộc Ninh. Khi Trực thăng chỉ
huy của Tướng Hưng vòng lên vùng phía bắc cầu Cần Lê trên trục Sông
Bé chảy song song với QL-13, trước khi rời vùng, Ông quan sát thấy
tại một vị trí trên bờ sông có mấy cần antennes truyền tin vô tuyến
mà cấp bộ chỉ huy cấp Sư đoàn CSBV mới có, khi hành quân cấp tốc,
Tướng Hưng gọi khu trục của KQVN đánh vào tọa độ đó. Phi vụ rất
chính xác. Khi trở lại vùng trời cầu Cần Lê thì được báo cáo là phần
lớn các đơn vị của Chiến đoàn 52 đã vượt qua phía Nam cầu Cần Lê, dù
thiệt hại nặng.
Căn Cứ Hỏa Lực Hùng Tâm lui binh:
Sau khi chiếm được Thị trấn Lộc Ninh ngày 7/4, Sư đoàn CT5 CS và
các lực lượng tăng phái tiếp tục điều quân xuống phía Nam để tiếp
sức cho Sư đoàn Công trường 9. Trước áp lực của địch quân mỗi ngày
một mạnh từ mặt Bắc, Bộ Tư Lệnh QĐIII đã quyết định triệt thoái các
căn cứ biên phòng để tập trung lực lượng đủ khả năng đối phó với
tình thế. Chiến đoàn 52 tại CCHL Hùng Tâm cách An Lộc 12km. Chiến
đoàn gồm có Tiểu đoàn 1/48 và TĐ2/52, với 6 khẩu 105ly của TĐ182PB
và 2 khẩu 155ly của TĐ50PB cùng ĐĐ52 Trinh Sát. Căn cứ Hỏa Lực Hùng
Tâm bị uy hiếp từ khi chưa mất Lộc Ninh bởi những trận pháo kích
nặng nề và bao vây của Trung đoàn 209/CT9 CSBV. Chiến đoàn 52 cũng
được lệnh phá hủy các khẩu đại bác và rút lui về An Lộc. Trên đường
lui binh Chiến đoàn này đã bị địch quân bám sát và xé ra từng mảnh
khi lọt vào ổ phục kích của 2 Trung đoàn cộng sản Bắc Việt (1 Trung
đoàn của CT9 và 1 Trung đoàn của CT Bình Long) trên một tuyến dài
3km vào ngày 7 tháng 4/1972. Nhờ sự không yểm của các phi cơ Hoa Kỳ,
Tiểu Ðoàn 1/48 do Tiểu đoàn trưởng là Thiếu tá Nguyễn Yêm đã đánh
phản phục kích và chiến đấu quyết liệt, đánh tan một cánh quân CS
trên Tỉnh lộ 17 và phá tan một cánh quân khác trên QL-13, mở đường
máu chạy về An Lộc. Buổi trưa ngày 8/4 Chiến đoàn 52 về tới An Lộc
chỉ còn khoảng trên 300 người được giao nhiệm vụ phòng thủ mặt phía
Ðông của Thị xã. Đoạn đường Quốc Lộ 13 dài 25km từ Chơn Thành đến An
Lộc trong ngày này cũng bị gián đoạn giao thông.
Cộng sản Bao
vây An Lộc:
Ngay trong khi chiến trường Lộc Ninh còn đang bốc
khói, vào ngày 5/4/1972 cộng quân cũng đã tấn công vào mặt phía Đông
An Lộc. Công trường Bình Long, gồm một số lớn quân Khmer Đỏ, tấn
công nhiều đợt vào phi trường Quản Lợi bằng phi đạn có hơi cay và
làm ói mửa. Phi trường Quản lợi được phòng thủ bởi 2 Đại đội của
Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 7/SĐ5BB, một đơn vị Địa Phương Quân và một
Toán Lôi Hổ. Đến nửa đêm, một Đại đội của Tiểu đoàn 1/7 trấn giữ bên
trong căn cứ bị mất liên lạc. Các đơn vị này không thể chống cự lại
quân VC tấn công đông đảo, sáng hôm sau ngày 6/4 họ đuợc lệnh hủy bỏ
dụng cụ và rút về thành phố An Lộc, đơn vị Lôi Hổ được phi cơ đến
bốc đi an toàn.
Chiếm giữ phi trường Quản Lợi địch
quân nhằm mục đích cắt đứt đường tiếp tế cho Lộc Ninh và cầm chân
lực lượng tiếp viện. Khi tấn chiếm phi trường này cộng quân đã lấy
được một số hỏa tiễn 2.75” dành trang bị cho Trực thăng của SÐ1KBKV
của Hoa Kỳ để lại. Các hỏa tiễn này đã gây nhiều tổn thất cho quân
ta tại đồi Gió.
Trước áp lực nặng nề của địch, ngày 6/4/1972
Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh SĐ5BB cùng Đại tá William Miller,
cố vấn Hoa Kỳ bay vào An Lộc để tổ chức việc phòng thủ và bảo vệ An
Lộc. BTL/QĐ3 cũng đã yêu cầu Lữ đoàn I/SÐ1KBKV Hoa Kỳ Trực thăng vận
khẩn cấp Trung đoàn 8/5BB và Liên Đoàn 3 BĐQ do Trung tá Nguyễn Văn
Biết chỉ huy gồm 3 Tiểu đoàn 31, 36 và 52 vào An Lộc và đặt dưới
quyền điều động của BTL/SĐ5BB. Hai Tiểu Ðoàn 1&2 thuộc Trung đoàn
8/SÐ5BB đổ vào tuyến phòng thủ phía Bắc An Lộc dọc theo QL-13. Mặt
phía Tây An Lộc do Trung đoàn 7BB trấn giữ với các TĐ1/7, 2/7, 3/7
và ĐĐ7TS và mặt phía Ðông do LÐ3BÐQ trấn giữ. Các đơn vị được lệnh
tử thủ.
Đồng thời, Trung đoàn 43/SĐ18BB do Trung đoàn trưởng
là Trung tá Trần Bá Thành chỉ huy được lệnh mở cuộc hành quân giải
tỏa QL-13 từ Lai Khê đến Chơn Thành. Trung đoàn 43 được tăng cường
Thiết đoàn 5 Chiến Xa do Đại tá Trương Hữu Đức làm Thiết đoàn
Trưởng.
Đến 15.00 giờ chiều ngày 6/4/1972, 2 Công trường 7 và
9 CSBV cùng xuất phát từ vùng Lưỡi Câu Cam Bốt tấn công vào phía Tây
An Lộc. Công trường 9 đánh thẳng vào An Lộc với trên 25 chiến xa
T-54 và PT-76 yểm trợ, Công trường 7 thì giữ chặt Quốc Lộ 13 ở về
phía Nam An Lộc, tức là con đường bộ duy nhất tiếp tế cho thị trấn
này. Trong khi đó, Hai Trung đoàn địa phương Đồng Nai và Phước Long
của CT Bình Long tiến từ mạn Đông Bắc xuống tấn công vào mặt phía
Ðông với chiến xa, pháo binh, đại bác phòng không yểm trợ. Tất cả
cùng chĩa mũi dùi vào một thị trấn không quá 4km². Lần đầu tiên
chiến xa cộng sản xuất hiện tại vùng này và CSBV định dùng chiến
thuật biển người để bao vây và tấn chiếm An Lộc.
Kể từ ngày
8/4 pháo binh CS cũng đã pháo liên tục vào An Lộc, chế ngự tất cả
những trảng trống trong thị xã như phi trường, sân banh, sân cờ
trước Tiểu Khu... nên không thể thực hiện được các việc di tản
thương binh, thường dân tỵ nạn và tiếp tế. Các đơn vị Công trường 9
và Công trường 5 CSBV cũng đã tấn chiếm các vị trí chung quanh như
An Phú, Phú Lỗ, Phú Miêng, Quản Lợi, Xa Cam, Xa Trạch và Minh Đức để
bao vây Thị xã An Lộc.
Đứng trên các cao ốc tại An Lộc người
ta có thể thấy Việt Cộng công khai di chuyển đông nghẹt trong các
làng mạc xa xa, khi phi cơ tới oanh kích thì chúng ẩn núp. Ngày
9/4/1972, Tiểu đoàn 2/7 chạm súng với VC tại 500m phía Tây Nam Thị
xã bắt được một tù binh là Thiếu úy VC Hoàng Đình Chuyên thuộc Đại
đội Trinh Sát Trung đoàn 271/CT9. Đương sự khai CT9 là nỗ lực chính
tấn công vào An Lộc; Trung đoàn 271 tấn công mặt phía Tây Thị xã;
Trung đoàn 272 phụ trách phía Bắc Thị xã; CT5 án ngữ mặt phía Đông
và Đông Bắc và làm thành phần trừ bị; CT7 thì chận viện ở phía Nam
dọc QL-13. Tính đến ngày 10/4/1972 Quân Đoàn III đã hoàn tất việc
không vận các đơn vị tác chiến vào bảo vệ thành phố An Lộc. Các cuộc
giao tranh quanh thị xã vẫn tiếp diễn ác liệt. Nhưng dần dần, lực
lượng phòng ngự bên trong đã có thể khởi lại thế công nhờ có thêm
lực lượng tăng viện, dù phải hết sức chật vật. Mấy hôm trước đó,
vòng bán kính bao vây thị trấn chỉ chừng 500m. Nhưng đến ngày 11
tháng 4/1972, vòng đai kiểm soát được nới rộng thêm đến hơn 3km
đường bán kính. Tính đến ngày này lực lượng VNCH xung quanh An Lộc
đã tăng lên tổng cộng 9 Tiểu đoàn với quân số khoảng 6300 người.
Sơ đổ phòng thủ An Lộc trong ngày 12/4/1972
Lữ Đoàn I
Nhảy Dù tham chiến giải tỏa QL-13:
Vị trí An Lộc nằm trong
một thung lũng xung quanh có những ngọn đồi có địa thế cao hơn. Ngay
trong những ngày đầu, cộng quân đã chiếm được những vị trí thuận lợi
bao quanh An Lộc và bố trí các khẩu trọng pháo cũng như phòng không
khống chế vùng trời An Lộc, nên mọi việc tiếp tế, tản thương bằng
đường hàng không đều không thể hoạt động được. Trong khi các Sư đoàn
CT9 và CT5 vây ép thị xã, cộng quân sử dụng Công trường 7 cộng thêm
Trung đoàn 101 địa phương, các đơn vị đặc công và các đơn vị pháo
binh, phòng không tổ chức những điểm phục kích trên con đường bộ duy
nhất QL-13 dẫn vào An Lộc để chận viện hoặc triệt thoái của QLVNCH
tại các địa điểm Bàu Bàng (17km phía Nam Chơn Thành), Ngã ba Xóm
Ruộng (7km Bắc Chơn Thành), Đức Vinh (6km Nam An Lộc) và Xa Cam (3km
Nam An Lộc). Cộng quân đào hệ thống công sự hầm hố kiên cố cạnh bên
Quốc Lộ 13 hình chữ W, chữ H, chữ V hay chữ U, có nhiều vị trí để
bắn, nối kết với nhau bằng giao thông hào, tạo thành hình móng ngựa
hay vòng cung có nắp đậy phía trên có thể chịu đựng được sức công
phá của đạn pháo binh 105ly vừa có thể che mắt máy bay quan sát và
quân bộ chiến. Mục đích để tấn công xe cộ hay bộ binh di chuyển trên
đường hoặc đi qua khu vực này. Khi đối phương tiến lên đông đảo, họ
gọi pháo từ xa và súng cối từ các chốt khác bắn tới để trợ chiến.
Hệ thống hầm này gọi là chốt chận. Bên trong những hầm này có
thể trú ẩn đến cả tiểu đội, chứa rất nhiều đạn B40, B41, súng phòng
không, súng cối 61ly. Họ cũng bố trí súng cối 82ly, 122ly, hỏa tiễn
AT3 chống xe tăng, quân xa và SA-7 chống phi cơ bay thấp. Các chốt
kết hơp tạo thành hình tam giác cách nhau khoảng 100-300m để bảo vệ
và yểm trợ lẫn nhau. Kiểu bố trí nhiều chốt bảo vệ nhau theo chiến
thuật gọi là Chốt Kiềng.
Các chốt nối với nhau bằng giao
thông hào bí mật đuợc ngụy trang rất kỹ. Lính giữ chốt bị xiềng
chân, được thay đổi hàng tuần. Giao thông hào đào dài sâu vào rừng
có nhiều cây cối che phủ để họ tiếp tế, thay đổi quân và tải thương
tránh máy bay quan sát. Liên lạc với nhau bằng điện thoại giây ngụy
trang kỹ càng.
Các đơn vị tăng viện của Việt Nam Cộng Hòa cố
tiến từng bước một để đến gần An Lộc, nhưng mỗi bước tiến, không
biết bao chiến binh gục ngã. Tiến lên không nổi, phải quay trở lại,
để rồi tìm cách tiến lên. Công trường 7 của CSBV đã dồn mọi nỗ lực
chính vào tuyến phục kích dài 26km từ Chơn Thành đến An Lộc. Suốt
quãng đường này, nơi nào cũng có thể là mục tiêu của pháo binh cộng
sản. Họ rải quân đóng chốt dài dọc theo quốc lộ để sẵn sàng chỉ điểm
tọa độ cho pháo binh bắn từ xa tới.
Các đơn vị Nhảy Dù di chuyển đến Lai Khê
Ngày 6/4/1972, LÐIND do Đại tá Lê Quang
Lưỡng chỉ huy gồm Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù, TĐT là Trung tá Nguyễn Chí
Hiếu; TĐ6ND, TĐT là Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh; TĐ8ND, TĐT là Trung tá
Văn Bá Ninh cùng TÐ3 Pháo Binh ND, TĐT là Thiếu tá Nguyễn Văn Nghi
được Bộ TTM QLVNVH điều động vận chuyển bằng đường bộ đến Lai Khê
với nhiệm vụ tăng cường giải tỏa QL-13. Lai Khê là bản doanh của
BTL/SÐ5BB.
Ngày 7/4/1972 Lữ Đoàn I Nhảy Dù vừa tăng phái cho
QĐ3 được lệnh mở cuộc hành quân thay thế Trung đoàn 43BB giải tỏa
QL-13 từ Lai Khê đến Chơn Thành. Các đơn vị Nhảy Dù được Thiết đoàn
5 Kỵ Binh và phi pháo yểm trợ, xuất phát từ Lai Khê lấy QL-13 làm
trục tiến quân, ba cánh quân Dù tiến hai bên vệ đường theo thế chân
vạc, đội hình mở rộng mỗi bên khoảng 300m. Khởi đầu Tiểu đoàn 6 do
Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh chỉ huy, vượt tuyến xuất phát bên cánh trái
Quốc Lộ 13 đến ấp Đồng Sổ dừng lại. Kế đó TĐ8ND do Trung tá Văn Bá
Ninh chỉ huy, tiếp tục tiến lên phía Bắc chiếm lại Căn cứ Vân Đồn
cách Lai Khê khoảng 6km. Sau đó TĐ5ND do Trung tá Nguyễn Chí Hiếu
chỉ huy, vượt qua bên cánh phải tiến tới địa điểm cách Lai Khê
khoảng 10km thì chạm địch. TĐ5ND tung 2 Đại đội 53 và 54 do Thiếu tá
Lê Hồng TĐP chỉ huy dàn hàng ngang tràn qua mặt đường như sóng vỡ bờ
để tiêu diệt đám du kích thuộc Trung đoàn 101 địa phương VC thường
xuyên quấy rối tại Bàu Hốt... Sau một giờ giao tranh với TĐ5ND, đám
du kích CS bỏ chạy tán loạn và bỏ lại chiến trường trên 40 xác chết
và vô số vũ khí.
Ngày 8/4 thấy các Tiểu đoàn Dù di chuyển như
thế là quá chậm chạp vì các chốt địch cầm chân, Đại tá Lưỡng bèn cho
Trực thăng vận thả TĐ6ND lên Chơn Thành rồi đánh ngược trở lại, địch
quân bị dồn ép hai đầu chịu không nổi nên phải bỏ chạy, đến 2.00 giờ
chiều TĐ5 và TĐ6ND đã bắt tay được với nhau.
Tính đến ngày
giờ này quân Dù đã chế ngự đoạn đường QL-13 từ Lai Khê đến Chơn
Thành rồi giao lại cho Trung đoàn 43BB trấn đóng. Quãng đường Chơn
Thành đi An Lộc vẫn còn bị tắc nghẽn vì bị quân của CT7 cộng sản
kháng cự mạnh mẽ dọc theo quốc lộ. Ý định của cộng sản là ngăn chận
bất cứ tiếp tế hay tăng cường cho An Lộc bằng đuờng bộ. Mất phi
trường Quản Lợi và Quốc Lộ 13 bị cắt đứt có nghĩa là thành phố này
bị bao vây và mọi tiếp tế thực phẩm đạn dược bằng đường bộ từ bên
ngoài không còn nữa.
Ngày 9/4/1972 Sau khi Lữ Đoàn I Nhảy Dù
giải tỏa đường bộ đến được Chơn Thành, QĐ3 điều động LĐIND tiếp tục
lên tuyến đầu tới suối Tàu-Ô cùng Thiết đoàn 5 Kỵ Binh, điều nghiên
chiến thuật phá chốt kiềng và Trung đoàn 43BB sẽ trách nhiệm bảo vệ
an ninh trục lộ 13 từ Lai Khê đến Chơn Thành.
Trong ngày
10/4, Cánh quân TĐ5ND được Chi đoàn 1/5 KB yểm trợ, chia thành 2 mũi
dùi, dọc theo QL-13 tiến về An Lộc. Sau một cuộc giao tranh với Công
trường 7 CSBV tại vị trí cách phía Bắc Chơn Thành 3Km, TĐ5ND đã làm
chủ trận địa và thiết lập một CCHL tại đây để yểm trợ cho đoàn quân
tiến về phía Bắc. Trong trận này Thiếu tá Lê Hồng TĐP đã bị thương.
Sau đó Lữ đoàn I Nhảy Dù tiếp tục tiến về hướng Bắc, TĐ8ND cũng chia
thành 2 cánh quân vượt qua TĐ5ND tiến đến suối Tàu-Ô thì chạm súng
mạnh với lực lượng cộng quân cấp Trung đoàn . Trung đoàn 141 Công
trường 7 CSBV đã chuẩn bị sẵn sàng phục kích viện quân với những
công sự chiến đấu kiên cố của hệ thống chốt kiềng, bắn trả dữ dội
vào cánh quân Dù. Thiết đoàn 5 Kỵ Binh, lực lượng tăng phái cho cánh
quân TÐ5 và 8ND không thể tiến lên được vì địa thế và hỏa lực của
địch quá mạnh. Ðại tá Trương Hữu Ðức, Thiết đoàn Trưởng Thiết đoàn 5
Kỵ Binh đã bay lên quan sát trận địa tìm cách giải quyết chiến
trường thì bị phòng không địch bắn tử thương.
Những ngày sau đó, lực lượng Nhảy Dù thay đổi chiến thuật, phân tán
mỏng 3 Tiểu đoàn 5, 6 & 8 Nhảy Dù để chia cắt và bao vây vùng chốt
địch. Ban ngày dùng trọng pháo, chiến xa M41 và phi pháo oanh kích
công phá vào các chốt địch đã nhận rõ vị trí. Ban đêm thả các toán
khinh binh dùng lựu đạn, bò sát vào các chốt kiềng tấn công chớp
nhoáng rồi rút nhanh ra khỏi tầm pháo địch. Chiến thuật của Nhảy Dù
đã tiêu diệt và khóa im nhiều dãy chốt kiềng trên trận tuyến QL-13.
Ngày 12/4/1972 cánh quân Nhảy Dù giải tỏa Quốc Lộ 13 tại khu vực
suối Tàu-Ô, đang quần thảo với quân CS thì được lệnh bàn giao trận
địa lại cho Sư đoàn 21BB, rút về Chơn Thành cấp tốc tái bổ sung và
trang bị để nhảy vào tăng viện giải cứu An Lộc. (tính đến ngày này
ít nhất 15 dãy chốt kiềng đã bị tiêu diệt, khoảng 500 cán binh CS bị
chết hay bị chôn vùi dưới các công sự hay địa đạo).
Trong khi
đó, kể từ ngày 9/4/1972 SÐ21BB với 3 Trung đoàn 31, 32, 33BB và
Trung đoàn 15/SĐ9BB được Bộ TTM/QLVNCH điều động di chuyển từ vùng 4
đến Lai Khê tăng phái cho Quân Đoàn III với nhiệm vụ giải tỏa QL-13
thay thế để các đơn vị Nhảy Dù rảnh tay nhảy vào tiếp viện An Lộc.
Cộng sản Tấn công An Lộc lần thứ nhất 13/4/1972:
Bắt đầu
từ tối ngày 12 rạng ngày 13/4/1972, Lực lượng CSBV gồm Sư đoàn CT9
với các đơn vị chiến xa 202 và 203 được SĐ69 pháo binh yểm trợ đã
đồng loạt tấn công vào thị xã An Lộc. Khởi đầu địch quân mở trận địa
pháo khủng khiếp trên 10 giờ liền. Khoảng trên 7,000 trái hỏa tiễn,
đại bác và các loại súng lớn liên tục rót vào thành phố.
Chiến xa CSBV bị bắn hạ tại thị xã An Lộc
Rạng sáng, lực
lượng cộng sản gồm xe tăng dẫn đầu và bộ binh theo sau tấn công khu
vực phía Bắc An lộc bằng 3 mũi dùi: nỗ lực chính gồm Trung đoàn 174
và Trung đoàn E6 thuộc CT5 tấn công vào phía Bắc Thị xã, mũi phụ thứ
hai do Trung đoàn 275/CT5 CSBV tấn công vào Đồi Đồng Long phía Tây
Bắc do Đại đội 8 Trinh Sát và một Đại đội ĐPQ trấn thủ và mũi phụ
thứ 3 do Trung đoàn Thép của CT Bình Long tấn công vào phi trường
L19 Quản Lợi ở về phía Đông Bắc Thị xã khoảng 1km do một Tiểu đoàn
ĐPQ của Tiểu Khu Bình Long trấn giữ. Xe tăng T-54 và PT-76 của 2
Tiểu đoàn 20, 21 xe tăng và Trung đoàn 26 Thiết giáp cộng sản di
chuyển xuống đường Ngô Quyền, con đường chính hướng Bắc-Nam của phố
An Lộc tiến về phía Bộ Chỉ Huy Sư đoàn 5BB trong khu phía Nam của
thành phố. Quân nhân tại đây đa số chưa hề đụng trận với xe tăng của
địch nên hoảng hốt ít phút đầu khi xe tăng địch tấn công. Phòng
tuyến phía Bắc bị chọc thủng, nhiều chiến xa địch từ phía Lộc Ninh
theo con đường Ngô Quyền xông lọt vào thành phố.
Khi đoàn xe
tăng T-54 di chuyển về phía trung tâm thành phố, một Tổ Nhân Dân Tự
Vệ Bình Long đã bắn cháy chiếc xe tăng dẫn đầu bằng khẩu súng diệt
tăng M72. Từ một cao ốc góc đường Nguyễn Trung Trực & Đinh Tiên
Hoàng, Anh Phạm Cường Tuấn 18 tuổi, cùng 2 đồng đội là Trần Văn Bình
và Nguyễn Văn Giang 16 tuổi, đã lấy được một khẩu M72 nhắm vào chiếc
T-54 trước mặt kích hỏa. Sau tiếng nổ, chiếc T-54 bị trúng đạn và
bốc cháy. Chiến công đầu tiên này chứng tỏ rằng quân phòng thủ có
thể chận đứng xe tăng bằng vũ khí M72 của mình khiến lực lượng phòng
thủ lên tinh thần và lấy lại bình tĩnh để chiến đấu với xe tăng. Họ
truyền tai nhau về chiến thắng này nhanh chóng và ra khỏi hố để đánh
trả xe tăng, sau đó 15 chiếc xe tăng bị bắn cháy, có chiếc chỉ cách
BCH Trung đoàn 8BB không đầy 100m.
Trong ngày nhiều cuộc chạm
súng cấp Trung đội và Đại đội xảy ra ở khắp nơi quanh thị xã, các
phi cơ Việt-Mỹ kể cả B-52 đã liên tiếp oanh kích ở mạn Bắc Thành Phố
để ngăn chận bộ binh địch xâm nhập. Hai kho đạn của CS bị trúng bom
phát nổ nhiều giờ liền ở mạn Bắc và Tây Bắc An Lộc. Các phi cơ cũng
ghi nhận từ 7 đến 9 chiến xa bị trúng bom ở phía Tây và Bắc thành
phố.
Vào lúc 11.50 giờ, Tiểu đoàn 3/7 đã tiếp nhận một Hồi
chánh viên, đương sự cho biết hiện có 3 Trung đoàn cộng sản vây đánh
An Lộc.
Trong ngày này (13/4) theo tường trình của BTL/SĐ5BB
tổn thất đôi bên được ghi nhận như sau:
Bạn có 28 tử thương,
53 bị thương, 6 mất tích, mất 3 súng cộng đồng 42 súng cá nhân. Địch
quân có 169 xác bỏ tại trận, 2 bị bắt làm tù binh, từ 14 đến 16
chiến xa bị phá hủy. Một số ít cộng quân lọt được vào thành phố, tại
khu bệnh viện trên 800 bệnh nhân và nhân viên bệnh viện An Lộc đều
bị Việt Cộng tàn sát.
Trong ngày 14/4 cộng quân tiếp tục nã
trọng pháo và hỏa tiễn vào thành phố An Lộc nhất là khu vực Tiểu
Khu. Để trả đũa lại VC, Không quân Việt-Mỹ kể cả pháo đài B-52 đã
liên tiếp oanh tạc dữ dội vào các mục tiêu nghi ngờ có quân CS trú
ẩn quanh thành phố.
Sáng sớm ngày 15/4 từ 4.30 giờ, cộng quân
đã tập trung hỏa lực pháo dữ dội vào An Lộc trên 1 giờ đồng hồ với
trên 500 quả đạn đại bác đã cày nát thành phố. Sau đó khoảng 15
phút, vào lúc 6 giờ SĐ/CT9 CSBV chia thành 2 mũi: Mũi thứ nhất do
Trung đoàn 272 được tăng cường 5 chiến xa và các toán phòng không ào
ạt tấn cống vào vào phía Bắc thị xã An Lộc. Mũi thứ nhì do Trung
đoàn 271 cùng với 5 chiến xa tấn công vào mặt phía Tây Bắc An Lộc.
Mũi dùi thứ nhất chia thành 2 cánh quân tràn vào phía Bắc Thị Xã,
khai hỏa bằng đủ loại hỏa lực đại bác 100ly trên chiến xa, 75ly
không giật, cối 82ly... Các toán phòng không xâm nhập được vào thành
phố liền chiếm cứ các cao ốc để bắn máy bay. Cánh quân phòng ngự mặt
này là 2 Tiểu đoàn 1/8 và 3/8 bị chọc thủng nhưng nhờ hỏa lực phi
pháo của Không Quân yểm trợ nên cản được bước tiến của địch quân.
Mũi dùi thứ hai của địch quân là Trung đoàn 271 trên đường tiến
quân tấn công vào mặt phía Tây cách An Lộc 4km thì bị pháo đài B-52
trải thảm, trọn bộ chỉ huy Trung đoàn 271 và một Tiểu đoàn bộ binh
bị tiêu diệt nên cánh quân này hoàn toàn bị tê liệt. Tuy nhiên tình
hình rất khẩn trương, thành phố An Lộc hằng ngày phải hứng cơn mưa
pháo của Việt Cộng từ Lộc Ninh, Quản Lợi và các cao điểm chung quanh
rót về. Từng đám bụi đỏ cùng tôn ván tung lên không hòa lẫn những
cột khói đen đang bốc cháy. Lực lượng cộng quân ngày càng áp lực trở
nên trầm trọng. Nếu không có quân tăng viện chắc chắn sẽ lọt vào tay
CSBV.
Kế hoạch giải vây An Lộc của Đại tá Lê Quang Lưỡng
LĐT/LĐIND:
Để đối phó với tình hình nghiêm trọng tại An Lộc,
trong một phiên họp tại Trung Tâm Hành Quân căn cứ Lai Khê, Trung
tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh QĐIII/QKIII quyết định rút Lữ Đoàn I
Nhảy Dù ra khỏi lực lượng hành quân giải tỏa QL-13 và Trực thăng vận
thả LÐIND vào để giải vây An Lộc. Quân Nhảy Dù sẽ được thả xuống khu
vực sân bay Đồng Long, rồi chia thành hai mũi giáp công để chiếm lại
phía Bắc Thị Xã An Lộc đã bị địch quân chiếm lĩnh từ hôm trước. Đây
là một quyết định táo bạo và liều lĩnh vì chung quanh vị trí bãi đáp
dầy đặc phòng không của địch quân và là mục tiêu tác xạ tiên liệu
rất tốt của các ổ pháo binh của cộng sản.
Mở đầu cho cuộc
hành quân, sáng sớm ngày 13/4 Đại tá Lê Quang Lưỡng, Lữ Đoàn Trưởng
LĐIND và bộ tham mưu của ông đã bay thám sát địa thế chiến trường tỉ
mỉ. Bãi đáp được ông chọn là một đoạn đường nhựa của TL-245 chạy qua
Sóc Ton Cui. Đây là địa điểm tương đối an toàn nhờ các ngọn đồi cao
ở phía Tây Bắc che khuất giúp cho Trực thăng lên xuống đổ quân tránh
được tầm quan sát của địch. Sau đó Đại tá Lưỡng đã đáp Trực thăng
vào An Lộc và trình bày cho Tướng Hưng về ý niệm điều quân của ông
để giải vây An Lộc. Đại tá Lưỡng quan niệm rằng tăng viện quân LĐIND
vào An Lộc không chỉ là tăng quân để phòng thủ vị trí chiến lược
then chốt này mà để đáp ứng nhu cầu tạo niềm tin trong binh sĩ trú
phòng là An Lộc được tiếp viện chẳng những đủ sức phòng chống mọi
cuộc tấn công của địch quân mà còn có thể phản công khi tình hình
khả dụng.
Cả khu vực vùng Đồi Gió gồm có 3 chỏm núi, cao nhất
là chỏm 169m nằm về phía Nam, chỏm cao 150m gọi là Đồi Gió và một
ngọn đồi thấp hơn nằm về phía Đông Nam là Sóc Ton Cui, nơi định cư
đông đảo người thiểu số, họ đã bỏ đi trước khi chiến trận xảy ra.
Kế hoạch của Đại tá Lưỡng là đổ quân Dù bằng Trực thăng của KQVN
hay HK ở một bãi đáp bí mật (a secret landing zone) phía Đông Nam
thị xã. Toàn bộ quân Dù sẽ an toàn khi đổ quân vì đạt được yếu tố
bất ngờ, pháo binh địch sẽ không đủ thì giờ điều chỉnh tác xạ vào LZ
mật đó. Từ bãi đáp an toàn này, Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù, đơn vị đổ quân
đầu tiên sẽ cấp tốc di chuyển tấn chiếm lại Đồi Gió và Đồi 169 chừng
3 hay 4km phía Đông Nam thị xã bị địch chiếm trong trận đánh ngày
hôm trước, là hai cao điểm chế ngự toàn thành phố. Tiểu đoàn 3 Pháo
binh Dù sẽ đổ quân sau và vào vị trí khi Tiểu đoàn 6 Dù chiếm xong
hai ngọn đồi nói trên. Hai Tiểu đoàn này sẽ do Trung tá Lê văn Ngọc,
Lữ đoàn phó, chỉ huy. Bộ Chỉ huy Lữ đoàn, Đại đội Trinh sát, Tiểu
đoàn 5 và Tiểu đoàn 8 sẽ đổ quân tiếp theo trong ngày kế tiếp.
Tiểu đoàn 5 sẽ yểm trợ cho Tiểu đoàn 8 tiến vào đầu xa lộ (hay
QL-13) từ phía Nam thị xã, chạy về hướng đồn điền cao su Xa Cam cách
thị xã chừng 3, 4km, về hướng Nam. Khúc xa lộ này mặt đường rộng
trên dưới 20m, hai bên đường trước đó các đơn vị Hoa Kỳ đã phát
hoang sâu vào bìa rừng, mỗi bên rộng chừng 800m đến 1,000m nên rất
trống trải có thể mở làm “một sân bay Trực thăng tạm”. Sau đó, Tiểu
đoàn 8 Dù của Trung tá Văn Bá Ninh sẽ trấn đóng ở khu vực này phụ
trách giữ an ninh và điều hành sân bay Trực thăng tạm để các đơn vị
phòng thù có thể tản thương các thương bịnh binh và tiếp nhận quân
bổ sung thay thế.
Tiểu đoàn 5 Dù của Trung tá Nguyễn Chí
Hiếu, sau đó sẽ tiến về khu vực vòng đai Tây Nam tỉnh lỵ và trấn
đóng ở đó làm lực lượng trừ bị cho Lữ Đoàn và cho Tướng Hưng. Bộ Chỉ
huy Lữ Đoàn được Đại đội Trinh sát bảo vệ, sẽ đóng chung với Bộ Chỉ
huy Tiểu khu, nằm gần hai Tiểu đoàn nói trên. Đại tá Lưỡng cho rằng,
“nếu Lữ Đoàn Dù mở được sân bay Trực thăng tạm và bung rộng ra giữ
được an ninh ở khu vực đầu xa lộ nói trên, thì lực lượng phòng thủ
có thể tản thương và thay quân, hay tiếp tế được, các đơn vị sẽ có
quân mới, khỏe. Lực lượng sẽ mạnh dần. Sau khi đánh không quân cắt
đứt đường tiếp vận của quân CSBV vào thành phố và “cô lập” được cánh
quân này của chúng với các đơn vị hậu cần ở bên ngoài thì lực lượng
địch sẽ mòn dần. Lực lượng phòng thủ An Lộc của Tướng Hưng chờ khi
bắt tay được với các cánh quân của SĐ21BB từ Chơn Thành tiến lên sau
khi giải tỏa được các chốt chặn của địch quân ở khu vực suối Tàu-Ô,
lúc đó sẽ mở các cuộc hành quân chiếm lại các khu phố ở phía bắc
thành phố và sân bay Đồng Long. Đó là kế sách an toàn cho An Lộc
chống giữ lâu dài và quân CSBV sẽ mòn mỏi dần khi họ bị tấn công dồn
dập bởi KQVN và HK, nhất là không lực chiến lược với loại bom sát
thương rộng lớn và dữ dội B-52. Đó cũng là ưu sách để chiến thắng.
Vì chúng ta giữ được thành và đánh được địch.”
LĐIND và Liên
Đoàn 81 Biệt Cách Dù nhảy vào An Lộc:
Sau hơn một giờ bàn
luận với Tướng Lê văn Hưng và được vị tư lệnh chiến trường này hết
lòng tán trợ, Đại tá Lưỡng lên Trực thăng về Lai Khê trình bày lại
với Tướng Nguyễn văn Minh. Kế hoạch tức khắc được chấp thuận cho áp
dụng. Để dọn bãi đáp, BTL hành quân đã sử dụng ba phi vụ B-52 và 13
phi tuần khu trục liên tục oanh tạc đã biến nơi này thành một biển
lửa. Buổi trưa trước khi Tiểu đoàn 6 Dù đổ quân vào LZ ở Đông Nam
thị xã và nhằm mục đích làm giảm áp lực tăng viện quân của địch,
cũng để đánh lạc hướng chú tâm của địch trong khi lực lượng Dù đồ
quân, KQ Chiến lược Hoa Kỳ cũng đã đánh hai boxes B-52 vào các ấp
Phú Lỗ và Phú Bình ở Tây thị xã, đã tiêu diệt trọn Bộ chỉ huy Trung
đoàn 271, hai Tiểu đoàn bộ binh của Trung đoàn này và các đơn vị
phòng không tháp tùng, là mũi tấn công chính của Sư đoàn Công trường
9 vào mặt Tây và Tây Bắc An Lộc. Tám boxes khác đánh xa hơn trên
trục chuyển quân của chúng.
Lúc 14.30 giờ ngày 14/4/1972, Đại
đội 62 của Đại úy Ngô Xuân Vinh được Trực thăng thả xuống tại một
trảng trống giữa đồi 169 và TL-245, đây là những chiến binh đầu tiên
từ bên ngoài đã dũng cảm nhảy vào An Lộc kể từ gần nửa tháng qua đã
bị một lực lượng hùng hậu của địch quân bao vây và tấn công, để tăng
cường chiến đấu bảo vệ một cứ điểm chiến lược quan trọng. Sau đó,
BCH Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù với Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh, Tiểu đoàn
trưởng và Đại đội 61 do Trung úy Đỗ Hữu Lộc làm ĐĐT, nhảy xuống
tiếp. Hai Đại đội 63 của Trung úy Phan Đức Tường và ĐĐ64 của Trung
úy Cao Hoàng Tuấn liên tiếp cũng được thả xuống, bung rộng để bảo vệ
an ninh cho bãi đáp. Vừa chạm đất, Trung tá Đỉnh xua quân tấn chiếm
đỉnh đồi 169. Trong vòng 30 phút giao tranh Đại đội 62 đã làm cỏ
toán cộng quân trấn giữ tiền đồn này, 9 tên bị hạ sát tại chỗ còn
một tên bị thương bị bắt sống. Đại đội 61 cũng chiếm đóng ngọn đồi
Gió 150m phía trước mặt. Ngay sau khi chiếm được vị trí hai ngọn đồi
này, các chiến binh Nhảy Dù lập tức bố trí phòng thủ và đào các công
sự chiến đấu (đặc tính của chiến binh Nhảy Dù).
Vị trí đổ quân vào An Lộc của LĐIND & LĐ81BCD
16.30 giờ chiều, cộng
quân phát hiện được kế hoạch đổ quân tiếp viện bằng Trực thăng này
của quân ta nên lập tức, chúng sử dụng pháo binh từ Tân Lợi và vùng
phụ cận nhiều hướng pháo tập dữ dội vào nơi đây. Bất chấp đạn pháo
địch tung tóe, hai Đại đội 61, 62 và BCH/TĐ6ND vẫn gan lì bám trụ
vào điểm đứng này với những công sự phòng thủ dã chiến, vì đây là
điểm tựa tốt nhất cho những cuộc đổ quân kế tiếp. 5 Binh Sĩ bị hy
sinh và 58 bị thương, trong số đó có cả Trung tá Tiểu đoàn trưởng,
Sĩ quan Cố Vấn Thiếu tá Morgan, Thiếu tá Nghiêm sĩ quan ban 3 và một
vài Sĩ quan tham mưu khác. Ngày 15/4/1972 hai TÐ5ND và TÐ8ND được
thả xuống bãi đáp cũ hoàn toàn vô sự. Sau hết BCH/LÐI và các thành
phần yểm trợ được Không đoàn 43 Chiến Thuât gồm 30 chiếc Trực thăng
chuyển quân và 3 phi tuần Trực thăng võ trang bao vùng yểm trợ, do
Thiếu tá Nguyễn Văn Ức chỉ huy tiếp tục thả vào khu đồi Gió. Đúng
16.00 giờ chiều chiếc Trực thăng cuối cùng là chiếc Trực thăng chỉ
huy (CNC) do chính Thiếu tá Nguyễn Văn Ức lái chở Đại tá Lữ Đoàn
Trưởng đã đáp xuống Đồi Gió. Ngay sau đó Đại tá Lưỡng đã vẽ ngay kế
hoạch điều quân để các đơn vị Nhảy Dù thi hành.
Lực lượng
nhảy Dù sẽ tiến vào An Lộc theo thế gọng kềm của hai cánh quân TĐ5
bên phải và TĐ8 bên trái. BCH nhẹ Lữ Đoàn, Trinh Sát, Công Binh Dù,
Pháo Binh Dù cùng TĐ6ND, vẫn trấn ngự tại khu vực bãi đáp Đồi Gió để
pháo yểm cho hai cánh quân di chuyển.
13 April 1972, từng
đoàn Trực thăng của SĐ First Air Cavalry Hoa Kỳ
đầu tiên đáp tại
Lai Khê để đón lực lượng Nhảy Dù Việt Nam và đưa vào An Lộc.
Image by © Bettmann/CORBIS
BCH nhẹ LĐIND do Trung tá Lê Văn
Ngọc, LĐP chỉ huy cùng các đơn vị Đại đội 3 Trinh Sát, Đại đội 3
Công Binh Dù, đóng trên đồi 169. Đồi Gió với cao độ 150m sẽ là một
điểm địa hình dễ dàng “chỉ định mục tiêu” cho pháo binh địch “ngắm.”
Trung tá Đỉnh liền cho phân tán các đơn vị để tránh pháo địch:
BCH/TĐ6ND cùng với Pháo Đội B3 và các Đại đội 60, 61, 62 đóng tại
Đồi Gió (đồi 150); Đại đội 63 đóng tại ngã ba TL-245 phía Bắc Sóc
Ton Cui; Đại đội 64 đóng ngay tại Sóc Tôn Cui cách xa ĐĐ63 khoảng
700m.
Ngày hôm sau 16/4 Quân Dù chia làm hai cánh tiến vào
thành phố: Cánh thứ nhất, gồm có Bộ Chỉ huy Lữ đoàn, các Đại đội
Trinh sát và Công binh cùng với Tiểu đoàn 5 của Trung tá Nguyễn Chí
Hiếu tiến vào vòng đai phòng thủ của Tiểu khu theo ngã ấp Sóc Gòn.
Cánh quân thứ hai, TĐ8ND do Trung tá Văn Bá Ninh làm TĐT tiến theo
cánh bên trái, qua suối Quản Lợi, vượt đường xe lửa, băng qua ngã
phía Nam Ấp Phú Hòa vào trong vòng đai phòng thủ An Lộc vào lúc 4
giờ sáng ngày hôm sau không gặp một trở ngại nào. Trong khi đó cánh
quân bên phải, Đại tá Lữ Đoàn Trưởng đi theo TĐ5ND do Trung tá
Nguyễn Chí Hiếu chỉ huy xuyên qua rừng cao su dầy đặc Sóc Gòn. Lúc
9.30 giờ sáng, Tiểu đoàn 5 chia làm hai mũi tấn công vào ấp Sóc Gòn.
Khi quân Dù vừa đặt chân lên ngọn đồi thấp giữa Sóc Gòn và phía Bắc
Ấp Phú Hòa thì chạm địch mạnh với một Trung đoàn của Công trường 5.
Cộng quân xua quân tấn công biển người nhưng các chiến binh Nhảy Dù
không hề nao núng hiên ngang chống trả bắn gục từng làn sóng xung
phong đông như kiến của địch quân. TĐ5ND đã gọi phi pháo trợ chiến.
Phản lực và Cobra Mỹ luân phiên từng pass một đánh bom và rocket
theo hướng thẳng góc với nhau dọc hai mặt vị trí của đơn vị Nhảy Dù.
Cộng quân bỏ chạy tán loạn xuống một dòng suối cạn gần đó, Cobra lại
truy nã tiếp, xác cộng quân bị đốn ngã như rạ dọc theo bìa rừng. Đến
10.30 giờ thì địch quân rút lui.
Lúc 12.00 giờ,
cộng quân lại xua quân tấn công lần nữa với 4 chiến xa T-54 yểm trợ.
Các chiến xa này liền bị các chiến sĩ Nhảy Dù bắn cháy ngay tức
khắc. Sau đó hai mươi phi tuần khu trục Việt Nam, chiến đấu cơ của
Mỹ cũng phụ lực tham chiến, bom đánh suốt ngày. Đến chiều, Tiểu đoàn
“dứt” được mục tiêu, địch quân rút chạy bỏ lại tại trận 85 xác chết,
7 súng cộng đồng, 20 súng AK-47. Các chiến sĩ Nhảy Dù có 3 binh sĩ
hy sinh và 13 bị thương.
Sau trận đụng độ, TĐ5ND dừng quân
nghỉ ngơi qua đêm bên sườn đồi phía Bắc cách nơi đụng độ chừng 1km
để nhận tiếp tế và tản thương. Đến nửa đêm một tổ trinh sát địch đột
nhập dọ dẫm tình hình, bị hạ sát ngay tại chỗ.
Điểm đặc biệt
được ghi nhận là trong các đêm này lần đầu tiên Không Quân Chiến
Thuật Hoa kỳ đã đưa một loại vũ khí mới diệt chiến xa địch ban đêm
vô cùng hữu hiệu gọi là “Spectre” tức là loại máy bay C-130 cải biến
thành chiến đấu cơ, trang bị hồng ngoại tuyến, với các loại sensors
dò tiếng động của động cơ và tự động điều khiển dàn súng đại bác
105ly không giật, cộng thêm 18 khẩu đại liên 50ly, đặt ở ba vị trí
khác nhau mỗi nơi 6 khẩu, và hai dàn hỏa tiễn gồm 12 ống, tùy theo
loại mục tiêu di động hay gây tiếng nổ trên mặt đất nhiều ít hay
nặng nhẹ, các loại vũ khí đó sẽ tác xạ thẳng tiêu diệt mục tiêu,
chính xác trăm lần như một. Đây là loại vũ khí vô cùng lợi hại, bao
vùng và diệt chiến xa và các loại xe chuyên chở pháo, hay các khẩu
pháo di động của CSBV nhiều nhất trong trận chiến An Lộc. Các chiến
đấu cơ Spectres, thường gọi là Hỏa Long xuất phát từ căn cứ Không
quân Hoa Kỳ Utapao ở Thái Lan.
Cũng trong ngày 16/4 này, sau
khi LĐIND đã nhảy xuống An Lộc lập đầu cầu tại khu vực Đồi Gió xong,
Trung tướng Minh quyết định tăng cường thêm lực lượng Liên Đoàn 81
Biệt Cách Dù cũng để giải vây An Lộc. Vào lúc 10.00 giờ sáng, Liên
đoàn 81 Biệt Cách Dù do Trung tá Phan Văn Huấn làm Chỉ huy Trưởng,
với 550 chiến binh gồm 4 Đại đội trang bị đầy đủ trong thế sẵn sàng
được không vận bằng Chinook đến Lai Khê. Từ 12 giờ trưa, tại phi
trường Lai Khê BCD lại chia thành từng toán 10 người để được phi
đoàn Trực thăng Việt Nam bốc vào An Lộc. Bãi đáp là một thửa ruộng
khô hướng Đông của Đồi Gió và Đồi 169 cạnh suối Rô, gần chỗ đổ quân
Dù ba ngày trước đó. 17.30 giờ chiều công tác chuyển quân hoàn tất
không gặp trở ngại nào đáng kể. Sau đó Trung tá Phan Văn Huấn đã đến
gặp Trung tá Lê Văn Ngọc LĐP/LĐIND và liên lạc được với Chuẩn tướng
Lê Văn Hưng, Tư Lệnh SĐ5BB. Liên Đoàn 81 BCD đã được yêu cầu trên
đường tiến quân tìm cách tiếp cứu một Đại đội BĐQ đang bị cô lập bên
ngoài thị xã đang cạn kiệt lương thực, đạn dược và thuốc men. Kế đó
Liên Đoàn đã bố trí đóng quân đêm tại đồi 169.
Đại tá LĐT/LĐIND & Trung tá TĐT/TĐ6ND bay thám sát địa thế
Sáng ngày
17/4/1972, Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù (BCD) phân tán đội hình thành
từng toán nhỏ để tiến về An Lộc. Đến trưa, một quả bom của Không
Quân đã oanh kích vào địch quân nhưng quá gần vào đội hình di chuyển
của Biệt Cách Dù làm 2 chiến binh bị thương, Thiếu úy Lê Đình Chiếu
Thiện bị một mảnh bom xuyên qua bàn tay trái. Sau đó Liên Đoàn 81
BCD cũng đã gặp được đơn vị BĐQ thuộc Liên Đoàn 3 BĐQ bị cô lập, họ
đã chạm địch khoảng 5 ngày trước đó. Lương thực của họ đã cạn. Một
số thương binh được bác sĩ của BCD chích thuốc và thay băng cho họ.
BCD cũng chia phần lương khô của mình cho đơn vị bạn. Họ đã không
được tiếp tế thuốc men và lương thực trong nhiều ngày qua vì áp lực
của địch quá mạnh. Đại đội trưởng xin lệnh về Liên Đoàn 3 Biệt Động
Quân để cùng tháp tùng với Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù trở vào An
Lộc, các Thương binh được tản thương về Lai Khê cùng với Thiếu úy
Thiện.
Buổi chiều, các toán quân BCD đã lục soát một bản
Thượng cạnh Sóc Gòn, trong bản hoàn toàn vắng lặng chỉ còn lại một
vài người già cả đang về nhà để lùa trâu bò, người dân Thượng hiền
hòa sống xa thành thị cũng đã chạy trốn quân đội tàn ác của Bác &
Đảng, sau đó Liên đoàn đã đóng quân qua đêm tại đây. Sáng ngày hôm
sau BCD tiếp tục tiến vào An Lộc và đến bốn giờ chiều ngày 17/4/72
Liên Đoàn 81 BCD đã bắt tay được với Trung đoàn 8 (thuộc Sư đoàn 5)
của Đại tá Mạch văn Trường và đã chia quân thành từng toán nhỏ thiện
chiến tấn công và chiếm lại một vài khu vực quân CSBV chiếm mấy ngày
trước gần khu Chợ An Lộc. Riêng cánh quân của TĐ5ND, từ lúc 5.30 giờ
sáng sớm ngày 17/4 thêm một lần nữa, cộng quân pháo dập vào vị trí
đóng quân của Tiểu đoàn, rồi từ 3 mặt Bắc, Đông và Nam ồ ạt tấn công
vào. Quân Dù nhờ nghỉ ngơi được qua đêm, vị trí phòng thủ tương đối
chu đáo và tổ chức chặt chẽ nên đã phản công quyết liệt, đẩy lui
nhiều đợt tấn công của địch quân từ chân đồi kéo lên. Sau cùng địch
quân tháo lui bỏ lại trên 30 xác chết, 6 súng cộng đồng, trong đó có
một đại liên phòng không 12.7ly và 5 súng cá nhân. TĐ5ND có 5 binh
sĩ hy sinh và 17 bị thương. Sau đó cánh quân lại tiếp tục lộ trình
đã ấn định. Đến 10.00 giờ sáng, khi cánh quân này vừa tới cạnh đường
rầy xe lửa thì bị cộng quân phục kích chận đánh. Quân CS từ trong
những địa đạo rất sâu nhảy ra đánh rồi nhảy xuống lẩn trốn. TĐ5ND
dàn trận hàng ngang phân tán thành từng toán nhỏ, cho khinh binh
dùng lựu đạn len lỏi đến gần hầm hố, địa đạo của CS ném xuống. Khi
lựu đạn nổ trong hầm sâu trong địa đạo, cộng quân chịu không nổi
chui ra, thì quân ta nhào tới xung phong đánh “xáp lá cà” tiêu diệt
từng tổ, hết tổ này đến tổ khác.
Đơn vị Biệt Cách Dù chờ Trực thăng vận đổ vào An Lộc
Đến trưa, khoảng 13.00 giờ, đại
quân của Lữ Đoàn I Nhảy Dù đã hoàn toàn vào các vị trí đã dự trù
đúng theo kế hoạch, Đại tá Lưỡng đã bắt tay được với Tướng Hưng,
người Anh Cả của lực lượng tử thủ An Lộc. Cứu tinh đã đến, một luồn
sinh khí mới được khơi nguồn tại An Lộc. Bộ Chỉ huy Lữ Đoàn I và Đại
đội Trinh sát đóng chung với Bộ Chỉ huy Tiểu khu, Tiểu đoàn 5 Dù làm
trừ bị đóng gần đó. Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù, do Trung tá Văn Bá Ninh chỉ
huy, chiếm khu vực đầu xa lộ phía Nam thành phố xuống đến gần đồn
điền Xa Cam. Trước khi lực lượng Nhảy Dù vào đến nơi, tình trạng bên
trong An Lộc rất bi đát: phi trường nhỏ bị địch chiếm, khu phố phía
Bắc thị xã cũng bị chiếm. Một vài toán đặc công VC đã xâm nhập được
vào thị xã đang trà trộn trong dân chúng. Áp lực của địch đè nặng,
kể từ ngày 16/4 An Lộc coi như bị cô lập hoàn toàn, mọi việc tiếp tế
thực phẩm thuốc men phải thả dù. Không lực Hoa Kỳ đảm trách việc
này, trước hỏa lực phòng không mãnh liệt của địch quân ở phía Bắc
thành phố. Một vận tải cơ C-130 bị trúng đạn, một nhân viên phi hành
bị tử thương, phi cơ cố gắng lết về tới được phi trường Tân Sơn
Nhất.
Nhờ có viện binh, ngay từ sáng ngày 17/4, lực lượng trú
phòng bắt đầu tung quân để nới rộng vòng đai. Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù mở
cuộc hành quân lục soát tiến về khu phố phía Bắc, khởi từ đường Trần
Hưng Đạo qua cổng Phú Lỗ, vượt qua phía Tây dọc theo cánh rừng cao
su. Khi quân Nhảy Dù vừa vượt qua khỏi vòng đai chừng 700m thì bắt
đầu chạm nặng với một đơn vị của SĐ Công trường 7 của CSBV. Cộng
quân đã dùng đại bác 75ly trực xạ và cối 82ly pháo xối xả vào cánh
quân Nhảy Dù. Sau nhiều giờ giao tranh Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù đã đẩy
lui địch quân và mở rộng vòng đai phòng thủ, địch bỏ lại hơn 40 xác
chết, nhiều súng cộng đồng và cá nhân. Sau đó TĐ8ND và Đại đội Công
binh Dù đã tu bổ dọn trống thêm quãng xa lộ sát liền với phía Nam
BCH Tiểu khu, làm thành bãi đáp tạm cho các loại Trực thăng và
Chinooks. Tiểu đoàn này đã giữ sân bay Trực thăng tạm này an toàn
suốt những trận tấn công sau đó của lực lượng CSBV vào thành phố.
Đúng 9 giờ tối, LÐ81BCD chia thành 2 cánh tiến quân theo lối sở
trường của Biệt Cách Dù bắt đầu di chuyển tiến lên hướng Bắc để tiêu
diệt các tổ đặc công của địch lọt được vào thị xã sau hai lần tấn
công. Đến khoảng 5 giờ sáng LÐ81BCD bắt đầu chạm địch, những loạt
đạn M-60, M16, súng phóng lựu hòa lẫn tiếng AK nổ ran trong khu vực
cộng quân đang ẩn núp quanh những cao ốc. Địch quân đã không ngờ
rằng đêm ấy BCD đã nằm ngay sát nách chúng. Những tiếng hô “Xung
Phong” của các chiến sĩ Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù cùng những tiếng
nổ từ súng cá nhân tuôn vào vị trí địch. Các toán quân bạn tiến quân
như vũ bão.
An Lộc (LZ Sóc Ton Cui) ngày 16/4/1972
Từ trong dãy phố trước mặt Việt Cộng lố nhố chạy thục mạng lên
phía Bắc đang làm bia bắn cho các chiếc Trực thăng Cobra. Trên không
đạn khói, đạn rocket được bắn ra từ chiếc OV-2 đang nhào lượn. Tiếng
đại bác 105mm, 40mm, 20mm minigun từ AC-130 Spectre bắn xối xả vào
phòng tuyến địch. Tại khu đồn Cảnh Sát Dã Chiến với công sự phòng
thủ quân sự rất kiên cố đã bị Bắc quân chiếm đóng từ những ngày đầu.
Những thùng phi 200 lít được đổ đầy cát, xếp hai lớp chồng lên nhau,
nóc hầm được che bởi hàng vỉ sắt quân sự và 3 lớp bao cát xếp dầy
lên trên. Trục tiến quân của Đại đội 2 BCD đã khựng lại vì trước sự
kháng cự mạnh của địch. Những trái đạn M-79, M-72 phóng vào phòng
tuyến Cảnh Sát Dã Chiến không mảy may có kết quả. Sau đó, đại bác
trực xạ từ chiếc AC-130 bắn vào khu cảnh sát dã chiến đang đầy Việt
Cộng trong ấy. Từng chiếc hầm bị đạn 105mm được bắn rất chính xác từ
trên trời xuống, nắp hầm bung lên và không một địch quân nào sống
sót chạy ra, những lỗ châu mai đã im lìm tiếng AK. Sau khoảng hơn 30
phút giao tranh, BCD đã hoàn toàn đẩy lui Việt Cộng trong khu Tây
Bắc thành phố. Chiến trường đã ngưng tiếng súng. Sau đó LÐ81BCD đến
thay thế lực lượng Nhảy Dù để liên thủ cùng cánh quân của Trung đoàn
8BB và toán quân của Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân phòng thủ mặt Bắc và
Tây Bắc thị xã An Lộc.
Tại ngã ba TL-245 trong khu Đồi Gió
lúc 13.00 giờ, cộng quân tập trung quân cỡ một Tiểu đoàn bộ binh Bắc
Việt bắt đầu tấn công vào Đại đội 63 Nhảy Dù. Càng về chiều mức độ
giao tranh càng trở nên dữ dội khi Bắc quân từ phía Bắc con đường ùn
ùn tiếp viện. Trời sắp tối, Trung tá Đỉnh điều động Đại đội 64 của
Cao Hoàng Tuấn trấn đóng tại Sóc Ton Cui đến trợ chiến. Sóc Ton Cui
cách ĐĐ63 chỉ có 700m nhưng Tuấn phải mất đến 5 giờ đồng hồ vượt qua
được trong bóng đêm là một nỗ lực quá lớn. Mười giờ đêm, Tuấn bắt
tay được với 63, hai Đại đội quấn lấy nhau thành một vòng tròn tiếp
tục ứng chiến. Trận đánh kéo dài suốt đêm cho tới sáng ngày 18/4 mới
tạm lắng dịu sau khi một phi tuần Daisy Cutter được TĐ6ND yêu cầu
oanh tạc xuống phía Bắc của vị trí của ĐĐ63ND. cộng quân bị chết nằm
la liệt. Sau đó hai ĐĐ63 và 64 được rút về Đồi Gió và Đại đội 61
được điều động đến thay thế.
Sự hiện diện của hai đơn vị Nhảy
Dù và Biệt Cách Dù thiện chiến vào An Lộc làm cho tinh thần binh sĩ
trú phòng của SĐ5BB, LĐ3BĐQ và quân dân thuộc Tiểu Khu Bình Long lên
tinh thần thấy rõ. Lực lượng phòng thủ đã lên đến hơn bảy nghìn
chiến sĩ. Các đơn vị phòng thủ lo củng cố thêm vị trí của mình, đào
sâu thêm và rộng hơn hố chiến đấu cá nhân để dễ bề xoay trở [trong]
trường hợp bị pháo kích và tấn công. Chính kỹ thuật chiến đấu cá
nhân, sự trông cậy vào loại M-72, vũ khí chống chiến xa rất hữu hiệu
mới được Hoa Kỳ đưa vào chiến trường miền Nam làm cho binh sĩ tin
tưởng cũng như niềm tin tưởng vào sự quyết tâm của các cấp chỉ huy,
nhất là lệnh tử chiến của Tướng Tư Lệnh mặt trận Lê văn Hưng, nên họ
quyết tâm và dũng cảm chiến đấu. Kế hoạch đổ quân tiếp viện Nhảy Dù
ở một bãi đổ quân an toàn và thiết lập một phi trường Trực thăng tạm
ở khu xa lộ phía Nam thành phố An Lộc của Đại tá Lê Quang Lưỡng quả
thật là ưu việt, nó đã làm thay đổi cả bộ mặt chiến trường. Tải được
thương binh về các bệnh viện ở hậu cứ, nhận được thêm quân, dù ít dù
nhiều. Các đơn vị tham chiến cảm thấy tự tin hơn, mạnh hơn, nhẹ
nhàng hơn và cơ động hơn trong chiến đấu.
Sáng ngày 18/4 hai
chiến xa T-54 bỗng xuất hiện tiến gần BTL/SĐ5BB, một chiếc bị bắn hạ
ngay tức khắc, còn chiếc kia bỏ chạy. TĐ8ND sau khi bàn giao khu vực
cho LĐ81BCD được lệnh tuần thám về phía Nam đóng quân án ngữ tại
cổng Xa Cam. Buổi chiều TĐ8ND mở cuộc hành quân lục soát quanh vị
trí đóng quân đã đụng mạnh với một lực lượng cộng quân cấp Tiểu
đoàn. BCH/TĐ8ND bị pháo nặng, Đại úy Rong ĐĐ80 và Thiếu úy Vương
SQTT/TĐ8 cùng 8 binh sĩ ĐĐ82ND bị tử thương. Lực lượng hai bên rất
gần nhau. Phi pháo vẫn tấn công các vị trí tình nghi tập trung quân
cộng sản phía trước các tuyến phòng thủ của quân VNCH. Phía CS bỏ
lại 42 xác chết tại trận, 4 súng cộng đồng và 2 súng cá nhân.
Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù cũng được lệnh hành quân xuống tới khu vực
Xa Cam phía Nam thành phố An Lộc. Đơn vị nhảy Dù này chưa kịp đào
hầm hố thì VC đã dàn chào bằng pháo kích và tấn công. Quân ta, hai
Đại đội 53, 54 bám gốc cao su chống trả, nhưng rất may cối 82 của
địch pháo trật ra ngoài, quân ta lấn ra và tung quân phản xung phong
truy kích. Đại úy Dũng 54, “Dũng Sĩ” hy sinh trong trận này. Trong
vòng nửa tháng tại rừng cao su Xa Cam, Xa Cát. TĐ5ND đã bị tổn thất
nhiều nhưng không thể bổ sung quân số và thay thế trang bị được. Năm
Đại đội trưởng, thì Dũng Sĩ 54 hy sinh, Từ Khánh Sinh 50, “Sỹ biên”
51 và Hồ Tường 52 bị thương, ĐĐT53 Hải Thần cũng cùng số phận.
Quân cộng sản tấn công An Lộc lần 2:
Ngày 18/4/1972, Việt
Cộng mở cuộc tấn công thứ hai vào An Lộc. Chính trong ngày này các
đơn vị CSBV tấn công thành phố bị thiệt hại nhiều nhất. Tại Thị xã,
mở màn trận đánh, CSBV đã dội trọng pháo mỗi ngày hơn một nghìn quả
pháo vào các đơn vị phòng thủ An Lộc và đạn nổ tập trung nhiều nhất
là các khu đóng quân của các đơn vị thuộc TĐ6ND, nhất là hai ngọn
Đồi Gió, Đồi 169 và ấp Sóc Ton Cui. TĐ5ND đóng ở Đông Nam, cách
BCH/Tiểu khu 1km, cũng bị pháo kích và tấn công dữ dội. Nỗ lực của
hai cánh quân Dù và BCD trong ngày 18/4 rất khả quan và đạt được một
bước tiến quan trọng, trong khi tình hình tại Đồi Gió quân ta chưa
nắm được thế chủ động. Buổi sáng khu vực này được yên tĩnh, nhưng
đến 13.30 giờ chiều, có lẽ cộng quân khám phá ra được vị trí đóng
quân trên đồi của TĐ6ND nên chúng đã mở một trận pháo tập kinh hồn
khốc liệt vào đây. Trên một cứ điểm đóng quân có chiều dài 300m
chiều ngang 70m, CS đã pháo dập liên tục suốt đêm liền trên 2000 quả
đạn đại bác và hỏa tiễn. Cứ điểm hứng chịu trận địa pháo như thế mà
không một đơn vị nào dưới đất tiếp trợ được ngoài trừ phi pháo.
Ngày 19/4/1972 trước các thất bại liên tiếp hai ngày qua, quân
CS thay đổi chiến thuật, địch áp dụng chiến thuật cổ điển tiền pháo
hậu xung. Sáng sớm, tiếp theo sau một trận pháo dữ dội, 1600 quả đạn
đủ loại rơi vào thị trấn, ba Trung đoàn 271, 272 và 95 của Sư đoàn 9
CS Bắc Việt và lực lượng xe tăng tấn công vào An Lộc nhưng đã bị lực
lượng trú phòng đẩy lui. Cùng lúc cộng quân tung hai Trung đoàn 141
và Trung đoàn 165/CT7 với một đơn vị thiết giáp T-54 của Trung đoàn
203 chiến xa yểm trợ tấn công vào BCH nhẹ LÐIND và TÐ6ND cùng Pháo
Ðội B3ND tại đồi Gió. Kho đạn 105ly trên đồi cũng bị trúng pháo và
phát nổ, tất cả 6 khẩu pháo đều bị hư hỏng không sử dụng được.
Trước áp lực quá mạnh của địch, mặc dù đã diệt hết 6 chiến xa
địch, BCH/LĐIND đã xin yểm trợ 3 pass B-52 trải qua các vị trí pháo
địch. Nương theo đó, Trung tá Ðỉnh TÐT/TÐ6ND đã điều động 2 ÐÐ60 và
62 rút lui về Sóc Ton Cui nơi đóng quân của ÐÐ61. Cánh quân này bị
VC chận đánh tơi bời. Ngày hôm sau, sau khi được 3 lines B-52 đánh
xuống ở ba hướng Bắc, Đông và Nam, đôi khi bom rơi chỉ cách quân bạn
chỉ có 500m, Trung tá Đỉnh điều động 3 Đại đội 60, 61 và 62 rút theo
hướng Đông Nam, ngày hôm sau đến được bờ sông Bé và được Trực thăng
bốc về Lai Khê (80 người).
Cánh quân còn lại do Thiếu tá TĐP
Phạm Kim Bằng chỉ huy hai Đại đội 63 của Trung úy Phan Đức Tường và
Đại đội 64 của Trung úy Cao Hoàng Tuấn vẫn án ngữ cao điểm 150. Đúng
3 giờ sáng ngày 20/4/1972, sau tiếng kèn thúc quân xoáy trong đêm,
vang dọc theo đường 245, cộng quân bố trí quân cả 3km đường dài,
đồng thời phía Bắc con đường 245 có tiếng chiến xa VC nổ máy chiếu
ánh đèn pha thẳng vào đỉnh đồi, cộng quân quyết định dứt điểm TĐ6ND.
Các Đại đội 63 & 64/TĐ6ND không sờn lòng, hùng tráng như những pho
tượng cổ sừng sững dọc theo các hố chiến đấu quyết liệt phản công.
4.00 giờ sáng, 4 chiếc T-54 từ 2 hướng Đông và Đông Bắc bắt đầu
leo lên đồi, bộ binh tùng thiết của 2 Trung đoàn 141 và 165/CT7 CSBV
lố nhố theo sau. Lính Dù bình tĩnh chờ cho các chiếc xe tăng đến
gần, gần hơn nữa. Ầm! Ầm! Ầm! từng khẩu M72 được dịp lảy cò. Bốn
chiếc T-54 bị lật nhào, cộng quân tháo lui xuống chân đồi để rồi
rưới thêm các trận mưa pháo. Đủ loại Pháo, từ hỏa tiễn 107ly đến đại
bác 130ly, hột lạc dài khoảng 300m mà hứng chịu trên 2000 quả đạn.
Thiếu tá Bằng bị móc hết một mắt, Trung úy Cao Hoàng Tuấn lãnh
nguyên một quả 57ly vào ngay thân thể người Sĩ quan trẻ mới 23 tuổi
đời.
Đến 12.00 giờ trưa ngày 20/4/1972, Thiếu tá Bằng kiệt
sức vì mất máu quá nhiều ra lệnh lui binh cùng với BCH/LÐ rút vào An
Lộc. 6 khẩu Pháo Binh 105ly được lệnh phá hủy trước khi di chuyển.
Trên đường rút quân, BCH LÐIND đã yêu cầu không quân yểm trợ 3 phi
tuần khu trục dội xuống các đơn vị CS dọc theo lộ trình rút quân.
Cánh quân Dù này được hợp chung với quân của Tiểu đoàn 5 và 8 Dù bảo
vệ phía Nam của thành phố. Sự hiện diện của Nhảy Dù và Biệt Kích 81
có tác dụng làm cho quân phòng thủ lên tinh thần và tạo uy tín cho
chính phủ vì lời hứa bảo vệ An Lộc bằng mọi giá của Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu.
Sáng ngày 22/4/1972 cộng quân đã bắt đầu
cuộc tấn công mới đổ ập vào An Lộc, một chiến trường khốc liệt gấp
bội lần Điện Biên Phủ 18 năm trước. Nhưng “Gió đã đổi chiều cho
Giáp.” Quả thật, gió đã đổi chiều tại đây. Quân trú phòng không
vương một mặc cảm chủ bại. Toàn quân cùng một lòng chiến đấu, hy
sinh cuộc sống của riêng mình cho lẽ sống của hơn 25 triệu dân Miền
Nam, đang lo âu từng giờ hướng về họ. Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, Tư
Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, chỉ huy toàn bộ lực lượng trú phòng, đã cam
kết: “Ngày nào tôi còn, An Lộc còn.”
Ở mặt trận phía Nam An
Lộc, Đại tá Lữ Đoàn Trưởng LĐIND đã điều quân cho các đơn vị trực
thuộc mở rộng vòng đai An Lộc. Từ vị trí đóng quân Tiểu đoàn 8ND
(TĐT/TĐ8ND là Trung tá Văn Bá Ninh, TĐP là Thiếu tá Đào Thiện Tuyển,
ĐĐT/81 Đại úy Trương Ngọc Ni, ĐĐT/82 là Trung úy Trần Cao Khoang,
ĐĐT/83 là Trung úy Lê Hoàng Vân, ĐĐT/84 là Đại úy Đồng Văn Minh)
ngày 21 tháng 4, Thiếu tá Tuyển gom 3 Đại đội tấn công về phương Nam
mở vòng đai phòng thủ. Lấy con lộ làm chuẩn Đại đội 83 của Trung úy
Lê Hoàng Vân đi bên trái, Đại đội 81 và 84 đi bên phải. Mục tiêu là
ngã ba Xa Cam một nghìn hai trăm (1200) thước từ An Lộc đến Ngã Ba
Xa Cam, 3 Đại đội đi trên một giây tử thần. Đóng quân, rồi tung quân
lục soát, rồi “đụng”... mỗi lần đụng là một lần thiệt hại, sự nguy
hiểm đang bao trùm. Mỗi cuộc tấn công, địch dùng hai Trung đoàn được
yểm trợ tối đa pháo binh, pháo với 107ly, 122ly, 130ly bắn tối thiểu
cũng từ 6 vị trí trở lên mà chụp xuống. Vừa rời nơi đóng quân 500m
là bắt đầu đụng trận liền, trái, phải, trên, dưới đều kẹt cứng. Hình
như Việt Cộng không dùng súng cá nhân, tối thiểu cũng là trung liên
“nồi” (RBD) đệm vào với B-40, B-41 và cả 75ly bắn thẳng.
-
Bắc Bình lên ngay dùm tôi, bên phải tôi trống quá. Vân gọi máy về
nói với Thiếu tá Tuyển như van xin.
- Tôi biết, bên này cũng
kẹt cứng, bây giờ tôi chỉ bắn che cho anh thôi...
- Vâng, Bắc
bình cứ bắn như thế...
Đó là những lời nói cuối cùng của
Trung úy Vân, thành phần “chọc” của Tiểu Ðoàn 8, Vân bị một trái
75ly chém đứt cánh tay, máu chảy từng đường lớn, sức lực nào để
chống đỡ nổi với cái chết đang ào xuống, máu chảy đến giọt cuối cùng
và Vân đã lịm đi. Đêm 22 rạng 23 tháng 4, cộng quân dùng hai Công
trường 7 và 9 phối hợp với Trung đoàn 203 chiến xa từ xã Thanh Bình
(Xa Cam) kéo ra quốc lộ chia làm hai nhánh để tấn công phe ta: Nhánh
thứ nhất gồm Đại đội 5/Tiểu đoàn 107 và một đoàn 5 chiếc chiến xa
quẹo hướng bên phải theo con lộ về phương Nam tiến đánh Trung đoàn
15BB của Sư đoàn 9. Thành phần thứ hai gồm Trung đoàn 272 thuộc Công
trường 9 có hai xe tăng T-54, 2 chiếc BTR, PK50 dẫn đầu quẹo về
hướng Bắc tấn công vào tuyến phòng thủ TÐ8ND.
Chiến sĩ Lữ Đoàn I Nhảy Dù vào vùng hành quân
Tiểu đoàn 8 đã sẵn sàng,
lính Nhảy Dù hơn ai hết lúc này biết rõ thiết giáp Việt Cộng chỉ là
đồ chơi, lính thiết kỵ của họ chưa có kinh nghiệm và khả năng để
điều khiển chiếc xe. Nói rõ hơn, họ chỉ biết lái đến một vị trí đã
được chỉ định... và bộ binh tùng thiết chạy theo sau thì quá khờ
khạo không biết phối hợp và điều quân theo chiến trường. Những người
lính của Đại đội 81 cùng đứng dậy một loạt khi thấy mấy chiếc xe
tăng của địch ùn ùn đi tới, bóng đen của khối sắt lấp lánh dưới
trăng non. Chờ cho chiến xa địch tới gần, hai súng M-72 biến cải,
hai súng XM202 cùng phun lửa ra một lượt, mỗi quả 202 cháy nóng đến
3,600 độ F. Chiếc T-54 khựng lại nằm im bốc cháy không một bóng
người nhảy ra. Trò chơi máu được các anh lính chiến dành giật mê
mải, lính đánh giặc như đùa, như giỡn. Xe tăng CS bị bắn cháy, trong
nháy mắt Năm “con cua” bị rang muối chỉ trong 11 phút đầu tiên cách
phòng tuyến Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù không qúa 50m. Không những diệt gọn
những chiếc tăng xâm nhập đánh phần đất của mình, Thiếu tá Tuyển còn
liên lạc với máy bay C-130 Spector (phi cơ C-130 có gắn súng đại bác
105ly, bắn và nhận mục tiêu bằng Radar) hạ luôn 5 chiếc chạy về
hướng Nam trước khi tấn công vào Trung đoàn 15. Cộng quân cũng đã
tấn công vào tuyến của TĐ5ND phía Đông Nam thị xã. TĐ5ND sau khi vào
An Lộc di chuyển qua ty cảnh sát và nhiều dãy phố đổ nát còn dính
đầy máu vì pháo kích, vượt qua Bộ Tư Lệnh chiến trường, hướng tới
nhà thương và ty công chánh dàn quân phòng thủ hướng Tây Nam, làm
tấm khiên thép cho Bộ Tư Lệnh của Tướng Lê Văn Hưng. Đại đội 51 của
Trung úy Nguyễn Tiến Việt, “Đại Cồ Việt” (thay Đại úy Trương Đăng Sỹ
bị thương), phòng thủ chính diện hướng Tây và Đại đội 54 của Trung
úy Nguyễn Vũ Dương thủ vị trí trừ bị bên trái ĐĐ51. Các Đại đội của
TĐ5ND chỉ còn khoảng từ 40 đến 60 quân khiển dụng, dựa nhau đội pháo
đạp mìn đánh giặc, giải tỏa và giữ vững phòng tuyến, bẻ gãy nhiều
đợt tấn công của địch. Một đêm 700 trái 105mm và 155mm toàn đạn
delay từ hướng Cần Lê phóng về, ỳ sèo sát mái tôn bệnh viện và rớt
qua nổ tung bên ĐĐ54, Trung úy Dương bị đè vẹo xương sống, không
chịu knock out vẫn lồm cồm bò dậy chỉ huy, giữ vững vị trí và tải
thương anh em ra phía sau. Nhiều đêm, cộng quân mở đợt tấn công đêm
bằng chiến thuật đặc công. Lính Nhảy Dù chỉ trả đũa bằng những quả
lựu đạn, bò ra sát đường ném qua phía địch, thế mà sát hại vô số
địch quân - chỉ tức là không thể bò qua lấy súng được. Có đêm được
lệnh chờ đánh xe tăng địch. Đại đội phân tán mỏng đóng chốt rộng và
sâu, theo binh thư Sư đoàn Dù vừa huấn luyện. Ba toán chống tăng
phục kích chân chim từ ngã tư trở vô. XM-202 bắn được 4 hỏa tiễn
liền nhau, cho lên tháp nước, nằm im chờ nổ liền 4 phát mà không bắn
cháy được nó là phải đu dây phóng xuống. Sáu tổ hỏa lực sẵn sàng bọc
lưng cho khinh binh vác M72 đuổi bắn vào đuôi xe tăng. Nhưng chưa
tới 11 giờ đêm, C-130 lên vùng, dập tóc tóc bùng bùng tưng bừng
trong rừng cao su phía tây, minigun réo như bò rống tới gần sáng.
Các bạn bộ binh nói có thấy lửa bùng như xe tăng cháy trong rừng.
Sáng rõ, SA-7 từ mặt phía bắc phóng lên. Làn khói leo cao leo cao
mãi. Quân ta ngóng cổ nhìn theo hồi hộp sợ máy bay rớt, thấy cục lửa
bám vào hông chiếc C-130. Nó bay vòng lại, xả minigun “bò rống”
xuống điểm phát pháo, rồi mang cả đốm lửa bay về. Hên quá! Hai bên
đối diện cầm cự suốt gần hai tháng qua con đường nhựa rộng chừng 5m.
Địch tuy có trừ bị mạnh, có ưu thế về hỏa lực và địa thế. Bên ta
không có yểm trợ hỏa lực pháo binh. Cả mặt trận An Lộc lúc đó chỉ có
được đúng hai cây súng cối 81ly, đạn dược hạn chế tối đa, nhưng hỏa
lực không yểm rất mạnh, giúp đỡ rất lớn cho việc phòng thủ. Tất cả
các căn cứ hỏa lực pháo binh từ An Lộc sang hướng tây đều lọt vào
tay địch, chúng sử dụng để pháo bên ta suốt ngày đêm. Vậy mà mọi
cuộc tấn công của địch đều bị quân Nhảy Dù bẻ gãy. Trung đoàn địch
đóng bộ chỉ huy trong trại cải huấn, điều động bổ sung quân số cho
tuyến trước mặt TĐ5ND, nhưng mon men đánh vô bao nhiêu là bị anh em
mũ đỏ hốt gọn bấy nhiêu. Nhưng bên ND bung ra cũng không được vì tòa
nhà trại cải huấn kiên cố với tường cao, hỏa lực yểm trợ trực tiếp
cho quân địch bằng súng không giật và B-41 trực xạ từ trên cao xuống
khu vực nhà đổ trống trải của ty công chánh, có lúc quân ta đã nhào
qua chiếm được nhưng không thể giữ được tới một ngày, phải rút về để
tránh tổn thất vô ích. Skyraider đánh bom nhà cải huấn bị trúng
SA-7, phi công VN thiệt giỏi, còn xả bom và ngóc đầu máy bay lên,
nhảy dù ra, rớt qua phía bộ binh ta ở hướng Nam. Kể từ ngày này trở
đi, cộng quân không còn tấn công bằng Bộ Binh vào An Lộc nữa mà chỉ
dùng trận địa pháo, pháo từ xa vào thị xã mỗi ngày từ 1000 đến 2000
quả đạn đại bác đủ loại. Những ngày tiếp theo, Pháo Ðài bay B-52
tham chiến kịp thời và hữu hiệu, 15 phi tuần rải dọc theo vị trí
địch quân và sau đó thêm 8 phi tuần nữa, mũi tấn công này đã bị bẻ
gãy hoàn toàn.
Giải tỏa QL-13 từ Chơn Thành tới Tân Khai:
Nhiệm vụ của Sư đoàn 21 trong trận chiến An Lộc là tăng viện cho
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III giải tỏa áp lực nặng nề của 3 Sư đoàn cộng
sản đang tấn công An Lộc đồng thời phải bảo vệ con đường tiếp tế
huyết mạch từ An Lộc về tới Bến Cát khoảng hơn 60km mà hai bên đường
là rừng rậm và vườn cao su. Ngoài ra SĐ21BB còn giữ thêm nhiệm vụ
trừ bị cho QĐ3 và trách nhiệm an ninh lãnh thổ cho Lai Khê và Tiểu
Khu Binh Dương khi nhu cầu đòi hỏi.
Hỏa Long C-130 Spectre diệt tăng
Sau khi LĐIND rút đi để nhảy vào An Lộc,
SĐ21BB của Thiếu tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được điều độ̣ng từ miền Tây
lên tăng viện với ba Trung đoàn 31, 32, 33 và Thiết đoàn 9 Kỵ binh,
thay thế Lữ Đoàn I Nhảy Dù để tiếp tục giải tỏa chốt chặn của Sư
đoàn 7/CSBV trên trục QL-13, từ phía bắc quận lỵ Chơn Thành lên An
Lộc. Toàn bộ SĐ21BB di chuyển vào lãnh thổ V3CT từ ngày 10/4/1972 và
hoàn tất vào ngày 12/4/1972. Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi đóng Bộ Tư lệnh
Hành quân nhẹ SĐ21BB ở căn cứ Lai Khê chung với Bộ Tư lệnh Hành quân
nhẹ của QĐIII & V3CT. Ông cho điều động Trung đoàn 31 lên vùng Suối
Tre, chừng 6km Tây Bắc Lai Khê và giữ Trung đoàn 33 làm trừ bị tại
Lai Khê. Trước tiên ông đưa Trung đoàn 32 di chuyển bằng đường bộ
dọc theo hai bên QL-13 tiến về phía Chơn Thành ngày 11/4. Quốc Lộ 13
từ Lai Khê lên Quận Chơn Thành từ ngày các đơn vị của Tướng Nghi vào
vùng hành quân lưu thông tốt sau khi Lữ Đoàn I Nhảy Dù bứng các chốt
của hai Trung đoàn 141, 209 của SĐ-7/CSBV. Sau đó Ông nhận được lệnh
kiện toàn hệ thống phòng thủ dọc Quốc lộ từ tỉnh lỵ Bình Dương lên
quận Bến Cát và căn cứ Lai Khê lên đến căn cứ Vân Đồn, ở hướng bắc
Lai Khê chừng 6km, trong vòng mười ngày (từ 14/4 đến 24/4/1972)
nhưng bỏ trống quãng đường dài chừng 20km từ căn cứ Vân Đồn đến phía
Nam quận lỵ Chơn Thành. Tướng Minh cho rằng trong vòng mười ngày
TWC/MN sẽ cho đóng chốt lần nữa trên đoạn đường này.
Ngày
11/4 Trung đoàn 32 xuất phát từ Lai Khê di chuyển đến khu vực làng
Hòa Vinh. Khu vực này là vùng xứ đạo Công giáo đa số dân di cư từ
tỉnh Nghệ An miền Bắc định cư tại đây lâu đời. Dân chúng đã di tản
gần hết, chỉ còn một số thanh niên trong làng là Nghĩa quân và Thanh
Niên Chiến Đấu còn nấn ná lại giữ khu nhà thờ.
Các Tiểu đoàn
Bộ Binh trực thuộc rải quân dài hai bên quốc lộ để mở đường và tiến
rộng sang hai bên đuờng bám sát mé rừng. Pháo binh lập đài tác xạ
cao cho Sĩ quan tác xạ Pháo Binh cầm cờ điều khiển 12 khẩu đại bác
bắn đồng loạt kiểu TOT trên mục tiêu để trả lễ quân Bắc Việt.
Khi đặt ống nhòm quan sát, một Sĩ quan nhìn thấy một đoàn quân
đang tiến cặp theo bờ suối về phía nam, họ đi vội vàng. Sau khi phối
kiểm vị trí các cánh quân bạn phía trước, bộ chỉ huy Trung đoàn 32
cho máy bay lên vùng, đồng thời bắn đạn khói vào cánh quân này để
xem họ là ai cũng vừa để chỉnh tọa độ cho đại bác. Vì không liên lạc
được với họ và sau đó nhìn thấy một số cờ đỏ sao vàng và cờ mặt trận
giải phóng miền nam trong đám quân này nên Ban ba Trung đoàn 32 cho
rằng đây là đơn vị cộng sản.
Khi đạn nổ bay hàng
loạt đến cánh quân này mới thấy có đơn vị VNCH lên tiếng trong hệ
thống máy truyền tin vì họ ít người đang ém quân trong im lặng vì
chạm với đơn vị lớn cộng sản và báo rằng luồng đại bác đã rất chính
xác. Từ quốc lộ 13 có thể nhìn thấy cánh quân cộng sản này chạy ngổn
ngang vào các bụi rậm khi đại bác nổ trên vị trí. Bộ chỉ huy Trung
đoàn 32 nhìn rất rõ toán quân đang di chuyển này nên đã theo dõi kỹ
càng và lập tuyến phòng thủ vững chắc phòng ngừa địch tấn công.
Khoảng 4 tiếng đồng hồ sau đó, quân CS đã len lỏi theo những
vườn khoai mì tiến về phía sau làng Hòa Vinh và bắt đầu pháo súng
cối vào bộ chỉ huy Trung đoàn 32BB. Trận đánh phía sau làng Hòa Vinh
diễn ra nhanh chóng vì trước khi quân cộng sản kéo về gần làng đã
đụng độ với Nghĩa quân Hòa Vinh là những thanh niên gốc Nghệ An này,
tuy cùng quê với già Hồ nhưng họ chống cộng đến cùng. Những thanh
niên này dùng xe đạp vừa bắn vừa rút gần về làng báo động cho quân
Sư đoàn 21 ra nghênh chiến. Đoàn quân cộng sản đang di chuyển này
không thể đối đầu với 16 khẩu đại bác bắn TOT lên đầu họ trên khu
rẫy không có sẵn hầm hố nên trận đánh kết thúc nhanh chóng.
Hôm sau, một đơn vị của Sư đoàn 21 tiến tới Bàu Lòng. Nơi đây có một
khu đất tốt mà hãng thầu RMK lúc trước lấy đất làm lộ tạo thành một
vùng trũng, nước mưa đọng lại thành một hồ nước lớn bên cạnh phía
Tây Quốc Lộ 13. Khi đơn vị của SĐ21 đang di chuyển chậm trên quốc lộ
tiến về quận Chơn Thành, chợt thấy trong cánh rừng phía Tây bên kia
hồ nước có nhiều lính đổ xô ra tràn xuống hồ múc nước, có người nhảy
cả xuống hồ để tắm. Sau khi quan sát và phối kiểm các đơn vị bạn.
Vài phút sau đó, xuất hiện một xe vận tải dài trên đó chở một hỏa
tiễn Sam khá dài nhô lên khỏi đám cây rừng chồi thấp. Theo sau xe
hỏa tiễn là hai xe phòng không có cặp súng 57ly quấn giây leo ngụy
trang nhô hai nòng lên khỏi đám cây chồi có thể nhìn thâý từ Quốc Lộ
13, một Đại đội bộ binh 21 đã nhanh chóng tràn sang phía Tây săn
đuổi ba chiếc xe này. Quân cộng sản vì đang di chuyển nên không có
hầm hố bảo vệ đã chạy tán loạn khi bị quân Sư đoàn 21 khai hỏa. Máy
bay đến can thiệp kịp thời đã hạ chiếc xe có hỏa tiễn Sam này dù cho
xe đã cố mở đường chạy sang phía Đông tẩu thoát. Hai khẩu phòng
không 12.7ly hạ nòng bắn xối xả vào lực lượng tấn công của Sư đoàn
21 mở đường cho xe hỏa tiễn Sam tẩu thoát, nhưng không thoát nổi.
Đơn vị cộng quân bị thiệt hại nặng này là Trung đoàn 209/CT7, CSBV
phải thay thế bằng Trung đoàn 165/CT7.
Đến ngày 24/4 quả thực
quãng đường dài chừng 20km từ căn cứ Vân Đồn đến phía Nam quận lỵ
Chơn Thành bị gián đoạn khi một xe đò bị một đơn vị của SĐ-7/CSBV
bắn cháy bằng B-40 làm cho nhiều người chết và bị thương và Sư đoàn
7 cộng sản đã trở lại rải quân đóng “chốt” dọc đoạn đường QL-13 này
lần thứ hai ở khu vực Bàu Bàng, phía bắc Lai Khê chừng 10km, tức là
cách căn cứ Vân Đồn, nơi đóng quân của một Tiểu đoàn thuộc Trung
đoàn 32, chừng 6km, làm tắt nghẽn vận chuyển tiếp tế cho các đơn vị
khác ở Chơn Thành. Chốt chặn lần này rất mạnh gồm Trung đoàn 101 bộ
binh biệt lập của VC, được tăng cường các đơn vị phòng không, chống
chiến xa, và đặc công... kể cả lực lượng tăng cường gồm hai Tiểu
đoàn của các Trung đoàn 209 và 165 thuộc SĐ-7/CSBV như Tướng Minh đã
tiên liệu... Ông cũng biết rằng dù “bứng” chốt chặn ở khu vực Bàu
Bàng này xong SĐ21BB, với ba Trung đoàn bộ binh cơ hữu và một Thiết
đoàn kỵ binh sẽ khó giải tỏa QL-13 đoạn đường dài nối tiếp 30km từ
phía bắc Chơn Thành lên An Lộc. Ông là vị tướng dùng quân rất thận
trọng, nên đã xin BTTM/QLVNCH tăng cường thêm lực lượng. “Chốt chặn”
gồm nhiều “chốt nhỏ” của các đơn vị trực thuộc đại đơn vị. Mỗi chốt
nhỏ gồm có hệ thống hầm hố liên hoàn yểm trợ nhau –thường được binh
sĩ gọi là “kiềng” như loại kiềng ba chân–Trên lý thuyết một “cứ
điểm” của QLVNCH hay một “chốt chặn” của CSBV – nếu được phòng thủ
với hệ thống kiên cố – lực lượng tấn công chiếm cứ điểm hay bứng
chốt cần một quân số gấp ba lần, là ít nhất, để có thể thành công.
Tướng Minh đã làm điều ngược lại với dụng ý... như một đại kỳ thủ
trong bàn cờ ở trận QL-13 và An Lộc này.
Bộ TTM
tăng cường cho QĐIII & V3CT Lữ Đoàn III Nhảy Dù. Một kế hoạch mới
được thiết lập để bứng các chốt chặn trên vùng bắc Chơn Thành cho
đơn vị Dù mới tăng viện. (Nếu tính về quân số thì lực lượng Dù tung
vào giải chốt vùng bắc Chơn Thành chỉ bằng 1/3 quân số của đơn vị
đóng chốt là SĐ-7/CSBV. Đó là điều “nghịch lý” như phần lý thuyết
trên, nhưng lại nằm trong kế hoạch có dụng ý của Tướng Nguyễn văn
Minh. Sau này, mọi người mới hiểu dụng ý của Tướng Minh trong kế
hoạch này là dùng ít quân thiện chiến để kềm đại quân của địch nằm
tại chỗ tiêu diệt bằng phi pháo, đồng thời đánh nhử để biết rõ thực
lực của địch ở các chốt chặn đó, và kéo thêm những đơn vị lớn của
chúng vào vùng chốt chặn mà nới áp lực ở mặt trận chính An Lộc...)
Kế hoạch hành quân mới gọi là “Toàn Thắng 72-D”, được tiến hành
từ ngày 24/4 với ba Tiểu đoàn 1, 2 và 3 của Lữ Đoàn III Nhảy Dù do
Trung tá Trương Vĩnh Phước chỉ huy có sự phối hợp của Trung đoàn 31
Bộ binh, Đại đội Trinh sát của SĐ21BB và Thiết đoàn 5 Kỵ binh. Đây
là cuộc hành quân giải tỏa lần thứ hai vào Suối Tàu-Ô của lực lượng
Dù, nhưng là lần thứ nhất vào ấp Tân Khai. Thực ra, cả hai lần: lần
trước sử dụng Lữ đoàn I Dù của Đại tá Lê Quang Lưỡng và lần này Lữ
đoàn III Dù của Đại tá Trương Vĩnh Phước đánh vào Suối Tàu-Ô không
phải là để thực sự “bứng” chốt mà chỉ “kềm” địch tại chỗ... Hay nói
rõ ràng hơn chỉ là một cuộc “hành quân cường thám” vào hang hùm, cấp
lữ đoàn mà thôi. Một cuộc hành quân cường thám với lực lượng khá lớn
như vậy nếu bứng được chốt thì bứng, không bứng được thì rút, dù có
tổn thất cũng biết rõ được thực lực của địch trong “hang hùm” của
chúng lên đến mức nào... (Cũng nên biết rằng Tướng Minh xuất thân là
một Sĩ quan Nhảy Dù, từ khi ra trường Đà Lạt cho đến khi mang cấp
bậc Đại úy mới ra khỏi Lữ đoàn Nhảy Dù và làm Trưởng phòng 3 Bộ Tham
mưu Phân Khu Sài Gòn–Chợ Lớn của Đại tá Dương văn Minh. Đối với các
cấp chỉ huy Nhảy Dù như Đại tá Lê Quang Lưỡng và Trương Vĩnh Phước
thì Tướng Minh là bậc huynh trưởng, nên dù cho các ông có xả thân
cho huynh trưởng trong chiến trận cũng không tiếc. Đó là truyền
thống cao quý của các Sĩ quan Nhảy Dù).
Với hai Lữ Đoàn hành
quân trong một mặt trận, Sư đoàn Nhảy Dù phải lập BTL/HQ nhẹ do
Chuẩn tướng Hồ Trung Hậu chỉ huy – đóng chung với Bộ Chỉ huy của
Trung đoàn 32 tại Chơn Thành – để theo dõi và yểm trợ cho hai lữ
đoàn trực thuộc (Lữ đoàn I ở An Lộc và Lữ đoàn III đang hành quân
trên QL-13). Trên nguyên tắc, Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi là Tư lệnh các
lực lượng giải tỏa QL-13. Tuy nhiên trong cuộc hành quân đặc biệt
Toàn Thắng 72-D này, Bộ Tư lệnh nhẹ của Sư đoàn Nhảy Dù trực tiếp
chỉ huy Lữ đoàn III Dù và Thiết đoàn 5 Kỵ binh. Đơn vị trưởng của
đơn vị thiết kỵ này là Đại tá Trương Hữu Đức, hy sinh trong lần giải
tỏa trước khi phối hợp với Lữ đoàn I Nhảy Dù (ngày 13/4, thăng cố
Chuẩn tướng).
Đến đầu tháng 5/1972, Thiếu tướng Nguyễn Vĩnh
Nghi bàn giao quyền chỉ huy cho Chuẩn tướng Hồ Trung Hậu để về Cần
Thơ đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn IV thay thế Trung tướng Ngô
Quang Trưởng được điều động ra miền Trung.
Trong ngày 24/4,
Không đoàn 43 Trực thăng không vận một đơn vị thuộc Trung đoàn
31/SĐ21BB và Đại đội 21 Công Binh Chiến Đấu từ vùng Suối Tre đổ
xuống Tân Khai khoảng giữa suối Tàu-Ô và An Lộc thiết lập một căn cứ
hỏa lực để hỗ trợ cho Lữ Đoàn III Nhảy Dù được Trực thăng vận vào
vùng hành quân. Lữ Đoàn này vừa rút từ mặt trận Tây nguyên về và
được đưa ngay vào trận địa QL-13. Cũng trong ngày này, các Tiểu đoàn
1, 2 và 3ND cùng Bộ Chỉ Huy LĐIIIND vừa rút về từ chiến trường Tây
Nguyên Kontum đã được không vận về phi trường Biên Hòa, sau đó di
chuyển bằng xe đến Lai Khê. LĐIIIND do Trung tá Trương Vĩnh Phước
chỉ huy gồm TĐ1ND do Trung tá La Trịnh Tường làm TĐT; Tiểu đoàn 2
Nhảy Dù do Trung tá Lê Văn Mạnh làm TĐT và TĐ3ND do Thiếu tá Trần
Văn Sơn làm TĐT.
Ngày hôm sau, 25/4 Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù chia
làm 2 cánh quân được Trực thăng vận xuống bãi đáp đã dự trù phía
đông QL-13, quãng giữa Suối Tàu-Ô và xã Tân Khai ở phía Bắc. Cánh
thứ nhất gồm 3 Đại đội 20, 22 và 23 đáp xuống phía Đông Bắc suối
Tàu-Ô cánh thứ hai gồm 2 Đại đội 21 và 24 được thả xuống cách phía
Đông Tân Khai khoảng 1km. Ngay từ đợt đổ quân đầu tiên, cộng quân đã
pháo dập dữ dội vào TĐ2ND từ những hầm hố đã thiết trí sẵn các khẩu
pháo 61, 82 và 122ly. Có 2 chiếc Chinook bị bắn rơi, nhưng các chiến
sĩ Nhảy Dù vẫn tiến đánh các mục tiêu đã ấn định.
Ngày
26/4/1972, Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù của Trung tá La Trịnh Tường cũng chia
làm hai cánh quân và cùng được thả xuống phía Đông QL-13 nhưng vượt
sang phía Tây quốc lộ đánh thốc vào rừng cao su về hướng Tây Bắc lên
đến xã Đức Vinh tiến chiếm mục tiêu này, chừng 5km phía bắc Tân Khai
và khoảng 8km Nam An Lộc. Tiểu đoàn 1ND chỉ giao tranh lẻ tẻ với lực
lượng địch trong vùng.
Quân CSBV đóng chốt ở vùng suối Tàu-Ô
và ấp Tân Khai rất vững chắc và kiên cố, với hai Trung đoàn 209 và
165 tăng cường các đơn vị phòng không và chống chiến xa. Do đó Tiểu
đoàn 2 Dù của Trung tá Lê văn Mạnh chạm địch rất mạnh ở cả hai khu
vực Suối Tàu-Ô và Tân Khai. Tiểu đoàn 2 Dù phải đóng một căn cứ tạm
Anh Dũng trong khu vực hành quân, với một số khẩu 105 pháo binh dã
chiến mang theo để yểm trợ. Trong nhiều ngày liền Tiểu đoàn 2 Dù đã
mở nhiều đợt tấn công vào các chốt của địch nhưng không thể chiếm
được các mục tiêu này của SĐ-7/CSBV, mặc dù được sự yểm trợ của KQVN
và HK kịp thời và dữ dội, với hỏa lực của các phi xuất dội bom khủng
khiếp vào khu vực đóng chốt của chúng, kể cả các phi vụ B-52. Hơn
một tuần, từ ngày đổ quân cho đến ngày 2/5, sau nhiều đợt tấn công,
rồi liên tục bị phản công hay bị dập pháo vào căn cứ dã chiến, và
mặc dù tổn thất của CSBV rất nặng, cánh quân của TĐ2ND không thể
“bứng” được các chốt trên QL-13 ở hai vùng chốt chặn nói trên. Vùng
hành quân là khu rừng rậm có nhiều sông rạch và trảng trống lớn,
nhất là gần QL-13 và đường rầy xe lửa dễ bị lộ mục tiêu. Cộng quân
lại thường phối trí các lực lượng với những súng phòng không, súng
cối, v.v. gần các khe suối và các trảng trống gây trở ngại nhiều cho
việc tiếp tế và tản thương của quân ta.
Thời tiết
những ngày này rất tốt thuận tiện cho việc yểm trợ bằng phi pháo. Ở
khu vực ấp Đức Vinh, phía bắc Tân Khai, TĐ1ND khi mới đổ quân vào
chỉ chạm súng nhẹ. Nhưng cho đến ngày 2/5/1972, thì căn cứ dã chiến
của hai Đại đội 14 & 15 ở ấp Đức Vinh bắt đầu bị tấn công mạnh “tiền
pháo hậu xung”. Tin tức tình báo kỹ thuật ghi nhận là từ đầu tháng
5, Trung đoàn 271 của SĐ-9/CS được tái bổ sung sau trận tấn công An
Lộc lần đầu 13/4 và bị tổn thất lớn, đã được TWC/MN đưa xuống vùng
Tây Bắc ấp Đức Vinh, đồng thời Trung đoàn 141 của SĐ7/CSBV, sau khi
kết hợp với hai Trung đoàn F6 và 275 của SĐ-5/CS tấn công Tiểu đoàn
6 Dù tái chiếm vùng Đồi Gíó, Đồi 169 và Sóc Ton Cui ở Đông Nam An
Lộc từ 18 đến 21/4, cũng được trả lại cho SĐ-7/CSBV và rút về vùng
ấp Đức Vinh để kết hợp với Trung đoàn 271 của SĐ-9/CS nhằm ngăn chận
và tiêu diệt TĐ1ND không cho tiến lên An Lộc. Những gì Tướng Minh dự
trù đều diễn ra đúng như vậy. Đánh nhử phía Nam để địch giảm bớt
quân ở An Lộc phía bắc.
Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù khi đáp xuống đã
thiết lập căn cứ hỏa lực Anh Dũng cho một pháo đội 105ly Nhảy Dù bắn
yểm trợ các cánh quân bạn hoạt động trong vùng. Từ ngày 26/4 các Đại
đội bung ra lục soát quanh căn cứ, cũng chỉ chạm địch lẻ tẻ. Trong
khi đó địch quân pháo vào căn cứ rất nhiều, nhất là các vị trí đóng
quân của hai Đại đội 21 và 24 hằng trăm quả đạn mỗi ngày. Ngày 27/4
cộng quân dùng đại bác không giật 57ly bắn thẳng vào căn cứ Anh Dũng
làm 3 khẩu pháo 105ly bị hư hỏng không thể điều chỉnh tác xạ được.
Những ngày sau đó, địch quân vẫn dùng đủ loại pháo, liên tục tác xạ
vào căn cứ nhất là khi có Trực thăng lên xuống tiếp tế và tản
thương.
Tuy đã tính trước là kéo các đơn vị lớn của TWC/MN về
vùng chốt chặn, nhưng với tình hình nguy hiểm đó, trong ngày 2/5,
Tướng Minh ra lệnh cho Tướng Nghi và Bộ Tư lệnh nhẹ của Sư đoàn Dù
đưa Trung đoàn 31 (-) ở phía đông QL-13, Đông Bắc Chơn Thành, lên
Đức Vinh và cũng cho Trực thăng vận Đại đội Trinh sát của SĐ21BB từ
Lai Khê vào ấp Đức Vinh để tăng cường cho Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù. Ông
cũng ra lệnh cho Lữ Đoàn III Nhảy Dù Trực thăng vận Tiểu đoàn 3 Nhảy
Dù vào vùng hành quân Suối Tàu-Ô và Tân Khai tăng cường cho Tiểu
đoàn 2 Nhảy Dù.
Ngày 2/5 Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù được Trực thăng
vận thả xuống vị trí giữa suối Tàu-Ô và Tân Khai từ đó triển khai
thành 2 cánh quân cặp hai bên QL-13 càn quét về phía Nam. Ngày
5/5/1972, khi TĐ3ND tiến đến một cây cầu cách Tàu-Ô khoảng 1km về
phía Bắc thì chạm địch cấp Tiểu đoàn. Trận đánh diễn ra vô cùng ác
liệt, địch quân cố thủ trong các công sự kiên cố. TĐ3ND được các phi
tuần Cobra, các phi tuần phản lực của Hoa Kỳ và Trinh sát cơ yểm trơ
đắc lực liên tiếp đánh vào các mục tiêu một cách chính xác. Trong
khi đó quân Dù phân tán mỏng, bò vào tấn chiếm từng khu vực. Đến
ngày 7/5, quân Dù đã kiểm soát được phía Đông đường rầy xe lửa. Trận
chiến kéo dài đến chiều ngày 8/5/1972 thì địch quân rút lui bỏ chạy.
Những ngày sau đó các đơn vị Nhảy Dù hành quân lục soát trong khu
vực trách nhiệm, cộng quân vẫn cố tình tránh né đụng độ và triệt để
áp dụng chiến thuật tiêu hao, bám sát các đơn vị của ta. Quân cộng
sản Bắc Việt đã xây những hầm chiến đấu sâu đến 6m dưới lòng đất
khiến phi cơ khó có thể phá nổi. Các chiến binh Dù phải đánh cận
chiến, đánh bằng lựu đạn, và chiếm cứ từng hầm hố, từng địa đạo,
từng căn nhà, từng thước đất một.
Để phá vỡ chiến thuật bám
riết của địch, các chiến sĩ Dù sau khi di chuyển đã gài hệ thống mìn
phục kích tự động. Trong những đêm 10, 11, 12/5/1972 hằng chục cộng
quân bám theo sau đã vướng phải mìn và bỏ mạng. Hệ thống mìn tự động
này là một thứ mìn do SĐND biến cải từ mìn Claymore có gắn một viên
điện trì giăng mắc chung quanh khu vực đóng quân, hay những lối đi
nghi ngờ cộng quân di chuyển qua, chỉ cần vướng nhẹ phải dây bẫy là
mìn bị kích hỏa và phát nổ.
Ngày 12/5 Tiểu đoàn 3ND chuẩn bị
vượt qua khoảng trống phía Nam suối Tàu-Ô chừng 500m, giữa đường xe
lửa và QL-13 để di chuyển sang phía Đông thì chạm địch. Khởi đầu
cộng quân dùng đủ loại pháo đã bố trí sẵn tác xạ vào cánh quân đang
di chuyển. Một Trung đội trưởng dẫn đầu đoàn quân là Thiếu úy Lê
Viết Phong (khóa 4/69 Trường Bộ Binh Thủ Đức) lãnh nguyên một quả
đạn pháo của địch. Sau đó cộng quân tập trung quân xung phong. Các
chiến binh Nhảy Dù nghinh chiến dùng lưỡi lê và lựu đạn đánh cận
chiến với địch. Đại đội trưởng Đại đội 31 là Trung úy Lâm Tấn Quy cố
gắng điều quân để vượt qua phía Đông QL-13, khi vừa qua khỏi trảng
trống tới bìa rừng phía Đông thì cộng quân thổi một quả 57ly vào nơi
BCH/Đại đội, Ông và hai binh sĩ Truyền Tin bị hy sinh ngay tức khắc.
Trận đánh kéo dài tới ngày 13/5. Đại đội 32 Nhảy Dù thay thế Đại đội
31 tiến chiếm mục tiêu. BCH Tiểu đoàn đã gọi phi pháo yểm trợ.
Khoảng 10.00 giờ sáng, đôi bên dàn quân đánh cận chiến “xáp lá cà”
cuối cùng cộng quân rút lui bỏ lại trận địa trên 10 xác đồng bọn,
lực lượng Dù phá hủy 30 hầm hố chốt kiềng quanh khu vực suối Tàu-Ô.
Sau đó, để trả thù cộng quân pháo tới tấp vào BCH Tiểu đoàn, Thiếu
úy Mai Viết Phát, (Khóa 2 Nguyễn Trãi, SQ Tâm Lý Chiến Tiểu đoàn) bị
trúng pháo tử trận, các phi tuần khu trục được gọi tới yểm trợ tối
đa. Vì quân đôi bên quá gần nên một phi cơ trinh sát L19 muốn xác
nhận điểm đứng quân bạn, phóng một quả đạn khói xuống ngay
BCH/TĐ3ND, chẳng may quả đạn này trúng phải vai trái Thiếu tá Trần
Bá Ngôn, Tiểu đoàn Phó Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù trong khi Ông còn đang
liên lạc với phi cơ. Ông đã tắt thở trên đường tản thương.
Sau đó ngày 15/5 các đơn vị của Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù được lệnh di
chuyển tập trung về phía Nam suối Tàu-Ô khoảng 3km để Trực thăng di
tản các thương, tử binh. Ngày 16/5 Các Tiểu đoàn thuộc LĐIII Nhảy Dù
cũng được lệnh rút về hậu cứ bằng đường bộ để tái trang bị lên đường
tham dự kế hoạch Lôi Phong tái chiếm Quảng Trị.
Cuộc chiến ở
giai đoạn này dằng dai đã trên ba tuần lễ từ 22/4/1972 mà Tướng Minh
vẫn chưa thực sự tung lực lượng trừ bị vào trận địa. Câu hỏi được
đặt ra là: -Tại sao? Trả lời: Thứ nhất, Tướng Minh tin vào quyết tâm
gan lì và khả năng cầm quân giữ An Lộc của Tướng Lê văn Hưng và của
Đại tá Lê Quang Lưỡng với sự yểm trợ hùng hậu của hỏa lực Không quân
HK và KQVN. Thứ hai: Khi tung Lữ đoàn III Nhảy Dù cường thám vào
“hang hùm” suối Tàu-Ô lên đến ấp Tân Khai xong, hiểu rõ thực lực của
địch quân ở đó, ông sẽ dùng SĐ21BB vào trận đánh quyết định giải tỏa
An Lộc...
Trong thời gian này, tại thành phố An Lộc chỉ có
những vụ chạm súng nhỏ vì các đơn vị phòng thủ, tuy bị hứng pháo mỗi
ngày, nhưng vẫn bung dần ra từng căn phố, diệt mòn các đơn vị cộng
sản đã chiếm khu vực phía Bắc và Đông Bắc từ các trận tấn công
trước, không rút ra được, đang cố bám sát các đơn vị phòng thủ để
tránh bị oanh kích. Rõ ràng lần này TWC/MN đang củng cố lực lượng,
bổ sung quân, vận chuyển đạn dược và... lập kế hoạch mới quyết tâm
dứt điểm An Lộc.
Trong An Lộc, Tướng Hưng và Đại tá Ulmer đã
đề nghị KLHK đánh những boxes B-52 vào các mật khu và các hành lang
chuyển vận của CSBV trong vùng biên giới; đánh bom các chiếc cầu mà
các xe be chuyển gỗ đã lập trước đây trong vùng rừng rậm giữa bắc
Bình Long và Kratié. Hằng đêm vẫn xin “Hỏa Long” bao vùng và ban
ngày xin KQVN tiếp tục các phi vụ không thám liên tục. Đồng thời sân
bay Trực thăng tạm ở đầu xa lộ phía Nam vẫn được TĐ8ND bảo vệ hữu
hiệu với sự yểm trợ của TĐ5ND. Các loại Trực thăng KQVN và KLHK vẫn
tiếp tục di tản thương binh và tiếp tế nhu yếu phẩm cần thiết, với
số lượng thay quân hạn chế. Thiệt hại của KQVN và KLHK tuy không
đáng kể, nhưng vẫn có, mỗi khi bay vào ra An Lộc...
Mặt Trận An Lộc từ 5/4 đến 8/6/1972
Tấn công An Lộc lần thứ 3:
Ngày 6/5/1972, một Đại đội/Liên đoàn 3 BĐQ của Trung tá Nguyễn
văn Biếc phục kích đêm tại khu vực Quản Lợi đã bắt được một tên Việt
Cộng Chuẩn úy Nguyễn Thế Hòa, một Sĩ quan trinh sát Tiểu đoàn Trinh
Sát của SĐ-5/CS đến thám sát khu vực để điều nghiên cho trận đánh
mới. Đương sự khai rằng: trong các ngày 20 và 21/4, TWC/MN có mấy
buổi họp phê phán các đơn vị cộng sản trong các trận tổng công kích
trước vào An Lộc và hội thảo về kế hoạch mới tấn công An Lộc. Trong
các lần tổng công kích trước vì SĐ-9/CS đánh quá kém và thiếu sự
phối hợp với các Trung đoàn Chiến xa 202 và 203, nên coi như TWC/MN
đã bị thất bại. Do đó, TWC/MN sẽ chủ động một trận tổng công kích
mới vào An Lộc với quyết tâm và nỗ lực tuyệt đối đánh chiếm cho được
mục tiêu này và tiêu diệt SĐ5BB của Tướng Hưng bằng mọi giá.
Về ngày giờ tấn công đương sự không biết rõ ngoài sự phối trí lại
lực lượng dưới sự chỉ đạo của TWC/MN. Chủ lực của trận tổng công
kích này là SĐ Công trường 5/CSBV, phối hợp với các đơn vị chiến xa,
Trung đoàn Đặc công 469 và các đơn vị pháo, phòng không, của SĐ-70
Pháo, tấn công vào mặt Bắc và Đông Bắc thành phố. SĐ-9/CS giữ vai
trò thứ yếu, cũng sẽ có một số chiến xa phối hợp và phòng không yểm
trợ, tấn công vào mặt Tây và Tây Nam. Lực lượng tấn kích An Lộc đợt
này sẽ được phối trí như sau:
1. Thứ nhất, đơn vị nỗ lực
chính tấn công:
• Trung đoàn 174/SĐ-CT5/CSBV phối hợp với một
đơn vị chiến xa và một đơn vị của Trung đoàn Đặc công 429 tấn công
mặt Bắc
• Trung đoàn E-6/SĐ-CT5/CSBV phối hợp với một đơn vị
chiến xa và một đơn vị của Trung đoàn Đặc công 429 tấn công mặt Đông
Bắc
• Trung đoàn 275/SĐ-CT5/CSBV làm trừ bị cho Sư đoàn này
2. Thứ hai, đơn vị tấn công phụ:
• Trung đoàn
271/SĐ-CT9/CSBV phối hơp với một đơn vị chiến xa tấn công mặt Nam,
Cổng Xa Cam
• Trung đoàn 272/SĐ-CT9/CSBV phối hợp với một đơn
vị chiến xa tấn công mặt tây, Cổng Phú Lỗ
• Trung đoàn
95C/SĐ-CT9/CSBV làm trừ bị cho Sư đoàn này.
Theo kế hoạch
này, cộng quân sẽ tập trung tất cả lực lượng pháo và tăng phối hợp
với hai Sư đoàn Công trường 5 và 9 tấn chiếm An Lộc bằng mọi giá.
Trong khi đó Công trường 7 sẽ tiếp tục ngăn chận viện binh trên
QL-13. Kể từ ngày này cộng quân gia tăng nỗ lực pháo kích và phòng
không nhắm vào An Lộc. Ngày 9/5 một Trực thăng Chinook chuyển quân
đã bị bắn rơi trên không phận thị xã nên việc không vận Tiểu đoàn
2/8 tăng cường cho mặt trận An Lộc đã không thực hiện được. Suốt
ngày, sân bay này bị pháo kích liên tục, không một trực thăng nào
đáp xuống được. Tình trạng khẩn trương tăng dần vì lượng đạn đại
pháo dội vào thị xã cũng nhiều gấp bội các ngày trước. Và nhiều tin
tức dồn dập từ nhiều nơi báo cáo nhiều chiến xa địch cũng xuất hiện
di chuyển đến gần An Lộc.
Ngày 10/5, Đại tướng Cao văn Viên,
Tổng TMT/QLVNCH bay lên Lai Khê – căn cứ chính của SĐ5BB, lúc đó là
nơi trú đóng của BTL/HQ/QĐIII & V3CT – họp với Tướng Nguyễn văn Minh
và cố vấn Hoa Kỳ của Vùng 3 Chiến Thuật là Tướng James F.
Hollingsworth Tư lệnh Bộ Tư lệnh Viện Trợ 3 của Hoa Kỳ, (Third
Regional Assistance Command hay TRAC) để duyệt xét tình hình. Các vị
Tướng lãnh đều đồng ý là cộng quân sẽ mở trận đánh lớn trong những
ngày sắp tới và thảo luận những biện pháp đối phó.
Trong buổi
họp nói trên, mặc dù không biết rõ ngày N, giờ G của CSBV nhưng các
vị tướng này biết rằng phải chạy đua với thời gian để tăng thêm quân
vào An Lộc và đem quân vào đó bằng cách nào... Một kế hoạch không
yểm hữu hiệu và chi tiết của KQVN và KLHK cho An Lộc được dự trù.
Nhiều boxes B-52 đánh sát vòng đai phòng thủ được dự liệu cho...
ngay khi thành phố này bị tấn công. Nhiều boxes khác... đánh vào các
mật khu và trên hành lang vận chuyển quân của chúng từ các vùng
ngoại vi vào vòng đai phòng thủ thị xã. Trung đoàn 15 thiện chiến
–của SĐ9BB– lừng danh ở miền Tây hay đồng bằng sông Cửu Long (Mekong
Delta) do Trung tá Hồ Ngọc Cẩn chỉ huy, với một chi đoàn chiến xa và
một pháo đội 105ly, được lệnh đưa ngay vào An Lộc trong ngày hôm sau
11/5/1972 để tăng thêm quân cho An Lộc.
Nửa đêm 10/5/1972,
cộng quân bắt đầu trận địa pháo khủng khiếp và liên tục từ 2.45 giờ
sáng. Những tiếng “départ” của đạn đại pháo rời miệng súng, nổ ran
xa xa ở các hướng, nhiều nhất là hướng Bắc và Tây bắc. Liền sau đó
là tiếng đùng đùng như sấm động nổ khắp nơi trong thành phố, vô cùng
kinh khủng; tiếng đạn pháo nổ rung chuyển trời đất suốt gần ba giờ
liền cho đến gần sáng, ước lượng từ 8,000 đến 10,000 quả. Tiếng pháo
vừa dứt, trời chưa sáng hẳn, khoảng 5 giờ ngày 11/5/1972, binh sĩ
trú phòng biết ngay địch muốn làm gì. Sau khi chịu đợt “tiền pháo”
tất cả đều ra khỏi hầm ghìm súng chờ đợi “hậu xung”. Ngay sau đó,
từng đoàn chiến xa ì ầm kéo tới. Cộng quân từ nhiều hướng với quân
số của mỗi cánh quân ở cấp Trung đoàn, được yểm trợ bởi các chiến xa
dẫn đầu đánh ập vào thị xã. Các tuyến phòng thủ liền theo đó báo cáo
tới tấp chiến xa và bộ binh địch xung kích dữ dội, nhất là hướng Tây
và Đông Bắc. Cộng quân chia thành nhiều mũi dùi cùng một lúc tấn
công vào An Lộc. Mỗi cánh quân ngoài các đơn vị pháo binh và phòng
không yểm trợ, đều có một đơn vị chiến xa từ 6 tới 8 chiếc trợ
chiến. Cũng như hai lần tấn công trước, cộng quân lại phối hợp bộ
binh với chiến xa. Nhưng khi đến tuyến phòng thủ của QLVNCH, chiến
xa lại vọt lên trước và tiến nhanh. Khi chiến xa địch lọt vào thị xã
đơn độc liền lập tức bị các binh sĩ VNCH dùng hỏa tiễn M-72, XM202
và cả súng B-40 (tịch thu của cộng sản) bắn hạ.
Ở mặt Tây thị
xã, Trung đoàn 272/CT9 với 5 chiến xa dẫn đầu, hai chiếc PT-76 vừa
vượt qua cổng Phú Lỗ bị binh sĩ Trung đoàn 7BB bắn hạ. Những chiếc
khác qua được, cộng với bộ binh tùng thiết tràn tới chiếm khu nhà tù
và Ty Công Chánh. Đơn vị phòng ngự là Tiểu đoàn 3/7 không chịu đựng
nổi trước sự tấn công ào ạt của địch quân nên phải tháo lui.
Ở mặt Đông Bắc, Trung đoàn E6 Công trường 5 CSBV đột nhập vào khu
Chợ Mới sát bên phòng tuyến của Tiểu đoàn 52 BĐQ, một chiến xa PT-76
vừa lọt vào cuối đường Nguyễn Du liền bị hạ ngay tức khắc. Tuy nhiên
lực lượng bộ binh địch đã chọc thủng phòng tuyến và chia cắt TĐ52BĐQ
làm hai và đẩy lùi đơn vị BĐQ này về phía Nam. Trận giao tranh tại
đây càng lúc càng đẫm máu, kéo dài mãi đến 10giờ sáng lực lượng CS
chỉ còn cách BCH SĐ5BB có 200m.
Ở mặt Bắc thành phố là mặt bị
uy hiếp nặng nhất ngay từ đầu cuộc chiến. Trung đoàn 174/CT5 trực
diện tấn chiếm đồn Cảnh Sát. Trước sự tấn công như vũ bảo của địch
quân, lực lượng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù phân tán mỏng rút ra khỏi
đồn Cảnh Sát sau khi đã bắn hạ 4 chiến xa của địch. Sau các đợt oanh
kích của phi pháo yểm trợ để triệt giảm áp lực của địch, Liên Đoàn
81 đã phản công và tái chiếm những phần đất đã mất. Bên cạnh, Trung
đoàn 8 Bộ Binh dưới áp lực đè nặng của địch, đã cố gắng cầm cự nhưng
một phần phòng tuyến đã bị cộng quân dùng chiến thuật biển người để
tràn lên áp đảo chọc thủng. Vài chiến xa T-54 chạy sâu vào thành phố
đến ngã tư Nguyễn Huệ-Hùng Vương chỉ cách BCH Trung đoàn khoảng 100m
đã bị quân Trung đoàn 8 bắn cháy. Một chiếc PT-76 khác chạy đến
đường Lê Lợi vướng concertina và cũng bị bắn hạ. Tổng cộng có 8
chiến xa CSBV bị hạ ở mặt trận này.
Ở mặt trận phía Nam và
Đông Nam thị xã, Từ sáng sớm Trung đoàn 271/Công trường 9 CSBV chia
thành hai mũi dùi tấn công vào hai nơi:
Mũi thứ nhất với
chiến xa PT-76 dẫn đầu chọc thủng phòng tuyến của đơn vị ĐPQ tiến
vào đường Huỳnh Thúc Kháng, khi lọt qua phòng tuyến của Đại đội
chiến Tranh Chánh Trị Tiểu Khu chiếc PT-76 liền bị bắn hạ.
Mũi thứ hai tấn công vào mặt Đông Nam, khu vực trách nhiệm của LĐIND
ngay cổng Xa Cam, do Tiểu đoàn 1/48BB (đơn vị tăng phái cho LĐIND)
trấn đóng, Đại tá Lê Quang Lưỡng đã ra lệnh cho TĐ8ND của Trung tá
Văn Bá Ninh tăng cường Đại đội 82 phản công dập tắt ngay tức khắc và
triệt hạ 6 chiến xa địch tại đây, chiếm lại những vị trí đã mất vào
tay địch trước đó.
Một cánh quân khác với Trung đoàn 141/CT7
và Trung đoàn 165/ CT7 bộ đội Bắc Việt sau khi tái trang bị vì thiệt
hại nặng ở Đồi Gió khi chạm súng với TĐ6ND, được yểm trợ bởi 16
chiến xa dẫn đầu, đã theo ngã Tây Nam vào lúc 6 giờ 30 sáng tấn công
vào tuyến phòng thủ của TĐ8ND. Các “Thiên Thần Sát Địch” chống trả
mãnh liệt, hai chiến xa T-54 dẫn đầu bị bắn cháy ngay những giây
phút đầu tiên. Những chiếc phía sau hốt hoảng tắt đèn bỏ chạy nhưng
cũng không thoát khỏi “mắt thần” của những chiếc hỏa long spectre
trang bị đặc biệt dò tìm bắn cháy thêm 14 chiếc còn lại. Lực lượng
bộ chiến địch quân cũng đã bị các chiến sĩ TĐ8ND triệt hạ không sót
một tên nên mũi dùi này không thể tiến thêm được, và các đơn vị Nhảy
Dù được rảnh tay và trở thành đơn vị trừ bị được điều động cứu trợ
cho các phòng tuyến bị yếu thế để kềm chế các mũi tấn công của địch
quân. Tuy nhiên, ở cả hai mặt Bắc lẫn Nam, một số đơn vị đặc công
CSBV đã xâm nhập lọt được vào thành phố và chia thành nhiều tổ chiến
đấu.
Điểm đáng ghi nhận là tuyến Đông Nam của BCH Lữ Đoàn I
Nhảy Dù, với ĐĐTS1ND và TĐ5ND của Trung tá Nguyễn Chí Hiếu đóng gần
đó làm trừ bị không hề bị tấn công... khi mà Trung đoàn 209 trực
thuộc SĐ-CT7/CS, với các đơn vị chuyên môn yểm trợ khác, nằm ở các
vùng cao điểm Đông Nam, chỉ cách tuyến của BCH Lữ Đoàn Nhảy Dù chừng
3, 4km... Tại sao vậy? Có thể đoán là TWC/MN tránh không muốn tấn
công mặt này vì sơ chạm phải các đơn vị Nhảy Dù thiện chiến, tránh
thiệt hại quân vô ích, ngoại trừ tấn công đơn vị trấn giữ sân Trực
thăng ở đầu Nam xa lộ chạy đến gần cổng Xa Cam. Nếu tấn công xung
kích, dứt điểm được Trung đoàn 7 và 8 của SĐ5BB và chiếm được BTL Sư
đoàn này, mặt trận sẽ tan rã, thì các đơn vị Nhảy Dù ở tuyến phía
Nam và Đông Nam cũng bị cô lập và sẽ bị tiêu diệt sau. Nhờ vậy Đại
tá Lưỡng mới rút TĐ5ND và ĐĐ1TSND phản công đánh bật các mũi dùi
phía Tây và Đông Bắc BTL/HQ của SĐ5BB, từ đó bắc đà cho các cánh
quân phòng thủ ở mọi tuyến khác phản công chiếm lại các vị trí đã
mất.
Từ sáng tinh sương đến khoảng 9 giờ 30 phút sáng, đã có
trên 180 phi xuất khu trục phản lực của KQVN và KLHK yểm trợ cho tất
cả các tuyến phòng thủ và hơn 10 boxes B-52 đã dội trên các khu vực
tiếp cận ngoài vòng đai phòng thủ, nhưng tình hình mỗi phút mỗi thêm
nguy ngập. Đại đội 5 Trinh Sát, ngoài hai tiểu đội bảo vệ Tướng Tư
Lệnh, một đang ở cạnh ông và một trên tuyến phía Đông dọc theo đại
lộ Nguyễn Huệ, còn đại bộ phận gần 90 chiến sĩ, đến giờ phút đó đã
hy sinh hay bị trọng thương tại tuyến hơn phân nửa, chỉ còn lại 42
chiến sĩ chiến đấu được, trong số cũng có nhiều người bị thương nhẹ.
Đó là giờ phút nguy hiểm, khó khăn nhất cho Tướng Hưng. Cuối
cùng vì thấy tuyến phía Nam và Đông Nam các đơn vị Nhảy Dù đã hoàn
toàn làm chủ trận địa, Tướng Hưng hỏi ý kiến Đại tá Lưỡng, cùng đồng
ý quyết định tăng cường Đại đội 63 của TĐ6ND (đã rút từ Đồi 169 và
Đồi Gió về tuyến phòng thủ Đông Nam thị xã) cho vị trí phòng thủ của
Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù, án ngữ mặt Nam từ đầu xa lộ khu sân bay Trực
thăng tạm, xuống đến cổng Xa Cam và Đại tá Lê Quang Lưỡng LĐT/LÐIND
cũng đã gởi ngay TÐ5ND lên phía Bắc giải tỏa áp lực địch quân quanh
vị trí của BTL/SĐ5BB. Đến buổi chiều Đại đội 1 Trinh Sát Nhảy Dù
được biệt phái tới để tăng cường phòng thủ cho BCH SĐ5BB. Ðồng thời
ông cũng xin QÐ3 yểm trợ 25 phi xuất B-52 đánh vào vùng tình nghi có
địch tập trung. Ðôi khi mục tiêu chỉ cách tuyến phòng thủ có 500m.
Từ đó, áp lực địch cũng như mức độ pháo kích giảm đi rõ rệt. Từ 10
giờ sáng Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù chia làm hai cánh tiến vào thành phố:
Cánh thứ nhất đánh phản công chiếm lại Trường Trung học Tỉnh lỵ và
Ty Chiêu Hồi, nối lại hai cánh quân của TĐ52/BĐQ. Chiến đoàn 3 BĐQ
lập lại tuyến phòng thủ ở Đông Bắc BTL/HQ nhanh chóng. Cánh thứ hai
đánh phản công chiếm lại Ty Công Chánh ở phía Tây BTL/HQ trong khi
ĐĐ1TS Dù cũng đã đến vòng đai phòng thủ của BTL/HQ. Đến khoảng 2 giờ
chiều cục diện của trận chiến ngày hôm đó đã ngã ngũ. Tiểu đoàn 5
Nhảy Dù, Đại đội Trinh Sát 1 Nhảy Dù là cứu tinh của BTL/SĐ5BB, và
Đại đội 5 Trinh Sát (Trung úy Lê văn Chánh, Đại đội trưởng) trước
tiên là đơn vị đã bảo vệ được vị chủ soái của mình. Chỉ với hơn bốn
chục chiến sĩ còn lại mà đơn vị này đã đẩy lui được nhiều đợt của
hai mũi tấn công của quân CSBV trong bốn tiếng từ 6 đến 10 giờ sáng
trước khi quân Nhảy Dù đến cứu nguy cho BTL/HQ của Tướng Hưng.
Nhờ các đơn vị Nhảy Dù tiếp cứu ở trung tâm thành phố, và nhờ
các Trực thăng Cobra HK đánh rất chính xác vào vị trí quân CSBV, mặc
dù loại hỏa tiễn SA-7 Strela và các loại súng phòng không 23mm, 37mm
và 57mm của chúng bắn lên dầy đặc, làm cho các phi công VN & HK phải
hết sức thận trọng và bị khó khăn, mà vẫn không tránh được thiệt
hại, dù rất ít; nên ở tuyến phía Bắc, Trung đoàn 8 phản công nhích
lên tuyến phòng thủ phía trước và LĐ81BCND cũng phản công tái chiếm
lại trụ sở của Cảnh sát Dã chiến và khu Chợ Mới đã mất trong buổi
sáng và trở lại tuyến phòng thủ đêm hôm trước. Suốt từ trưa đến
chiều, Không Quân Chiến Lược HK cũng đã thực hiện thêm hơn 10 boxes
B-52 chung quanh An Lộc nhất là ngoài tuyến phòng thủ mặt Bắc, Đông
và Tây, yểm trợ cho LĐ81BCND, cho Chiến đoàn 3/BĐQ và cho Trung đoàn
7BB phản công chiếm lại tuyến phòng thủ; có mấy boxes đánh sát các
đơn vị này chừng 800m. Mọi tuyến phòng thủ thành phố trở lại tình
trạng ổn định hơn, trước khi nắng tàn, mặc dù ở tuyến của Tiểu đoàn
52/BĐQ còn khuyết một lõm ở quãng giữa mà quân CSBV cố bám vị trí
rất sát với chiến sĩ BĐQ để tránh bị tiêu diệt bởi hỏa lực của KQVN
và HK. Ở Tuyến hướng chính Tây chúng vẫn còn chiếm giữ Trại giam.
Quân trú phòng cố sức đánh cận chiến để đánh bật các toán cộng
sản Bắc Việt ra ngoài. Mãi cho đến nửa đêm chiến trường mới tạm lắng
dịu. Nhưng pháo binh cộng sản lại bắn liên hồi vào bên trong An Lộc.
Đến giờ này, các đơn vị CSBV tấn công, bị tổn thất rất nặng, kể cả
số chiến xa bị bắn cháy hay chết rụi nằm trong các tuyến. Số quân
còn lại của các đơn vị này vẫn bám trụ bên ngoài của mỗi tuyến phòng
thủ vì KQVN và KLHK oanh kích và dội bom dữ dội vào tuyến của chúng.
Cả ngày hôm đó không yểm chiến thuật lên đến hơn 300 phi xuất và
Không quân Chiến lược HK đánh gần 30 boxes B-52 trong các mật khu và
trên các tuyến đường vận chuyển của chúng, trong số đó có chừng 20
boxes đánh rất gần ngoại vi thị xã. Chính vì sự còn “bám sát” trận
địa của các đơn vị bộ chiến nên đêm tối 11/5, pháo của chúng dội vào
thành phố không nhiều lắm, chỉ chừng trên dưới một nghìn quả. Thêm
nữa, các “Hỏa Long” của KLHK từ căn cứ Không quân Utapao Thái Lan
đến bao vùng từ chập tối, suốt cả đêm, cũng đã triệt hạ từng cụm
pháo hay từng chiến xa địch ở ngoại vi An Lộc.
Sang ngày kế
tiếp, 12/5/1972, hình như để chấn chỉnh lại đội ngũ xung kích nên từ
sáng sớm đến chiều chúng chỉ pháo kích chừng hai nghìn quả vào các
tuyến phòng thủ. Khi trời vừa sụp tối cộng sản Bắc Việt lại lợi dụng
thời tiết xấu với những cơn mưa như trút tấn công vào, từ cả ba mặt
Ðông Bắc, Tây và Nam phối hợp bộ binh chiến xa... đánh ban đêm. Ở
hướng Tây Trung đoàn 272 SĐ-9/CS tăng cường chiến xa tấn kích vào
tuyến của Trung đoàn 7. Ở hướng Đông Bắc, Trung đoàn 174 của SĐ-5/CS
tấn công xung kích vào tuyến của TĐ52/BĐQ và Trung đoàn E-6 của
SĐ-5/CS được tăng cường chiến xa tấn công vào TĐ36/BĐQ ở hướng chính
Đông. Nhưng ở các tuyến, chiến xa của chúng bị hạ thêm và các đợt
xung kích bộ binh dù dữ dội cũng bị đẩy lui với tổn thất lớn. Ngay
trong thành phố, đếm được 28 chiến xa các loại của CSBV bị hạ và ở
cổng Xa Cam 6 chiếc nữa do TĐ8ND hạ; tổng cộng là 34 chiếc gồm các
loại T-54, PT-76, BTR-50 và ZSU.
Như vậy, cộng quân đã liên
tục tấn công vào 6 mặt chung quanh An Lộc trong 2 ngày liên tiếp.
Mặc dù phải liên tục chiến đấu trong 2 ngày ròng rã, trong sự thiếu
thốn cả lương thực lẫn đạn dược, nhưng với sự yểm trợ của Không quân
Việt Nam Cộng Hòa lẫn Hoa Kỳ, lực lượng trú phòng đã lần hồi bẻ gãy
các mũi dùi tấn công và đánh bật cộng quân ra ngoài rìa thành phố.
Trong 3 ngày giao tranh, có đến hằng ngàn xác cộng quân chết ngổn
ngang trên đường phố, chưa kể số tổn thất của cộng sản Bắc Việt vì
B-52. Mùi tử khí bắt đầu xông lên nồng nặc vì không ai có thời giờ
kịp chôn cất ngoài các binh sĩ đồn trú, họ để dành thì giờ nghỉ ngơi
để chôn cất các bạn đồng đội, đánh dấu để sau này thân nhân có thể
tìm ra.
Đến ngày 13/5 quân CSBV không còn vụ xung kích nào
nữa... vì bị thiệt hại lớn lao hay vì lâm vào thế phải thay đổi cả
chiến lược, Tướng Trần văn Trà đã ra lệnh cho SĐ-5/CSBV rút ra khỏi
chiến trường này trong tuần lễ kế tiếp, sau hai ngày thất bại ở đợt
3 tổng công kích An Lộc... để mở các mặt trận mới trong lãnh thổ
Vùng 3 Chiến Thuật, mà Tướng Nguyễn văn Minh đã nhìn thấy trước và
đã giữ lực lượng trừ bị để đối phó. Chỉ còn SĐ-9/CS ở lại bám sát
các tuyến phòng thủ và “bao vây thành phố.” Các đơn vị pháo của SĐ69
Pháo vẫn tiếp tục bắn phá các tuyến phòng thủ và các đơn vị phòng
không của chúng vẫn còn bắn các phản lực oanh kích và dội bom hay
Trực thăng của KQVN và KLHK trong nhiều tuần nữa. Nhưng số đạn chúng
pháo vào thành phố giảm từng ngày, từ một hai nghìn xuống vài ba
trăm, rồi vài chục quả mỗi ngày. An Lộc coi như đã thoát hiểm, các
đơn vị phòng thủ coi như đã chiến thắng cuộc chiến long trời lở đất
đó. Đương nhiên TWC/MN đã không còn đủ lực lượng để tấn công một
trận lớn nào nữa vào An Lộc sau ngày 13/5/1972 này cho đến khi lực
lượng của Tướng Hưng phản công trong tháng 6/1972...
Trong
đêm 11 tháng 5, một Trung đoàn của VC đã hứng chính đạn pháo của
pháo binh họ. Một binh sĩ Đại đội 3 ở tuyến đầu kể: Tụi nó đông như
kiến, tiến lên thì gặp hàng rào kẽm gai bị tụi mình bắn nên tụi nó
rút lui để chuẩn bị bangalore phá rào. Chiến xa càn qua khỏi hàng
rào bị M-72 rang ngay tại chỗ. Cùng lúc đó tụi nó lãnh trái pháo
ngay toán quân. Không may cho tụi nó là thằng Sĩ quan đề lô và thằng
mang máy truyền tin chết, một thằng Việt Cộng khác chạy lại chụp máy
truyền tin chửi:
- Địt mẹ các anh pháo lộn rồi! Các anh pháo
lộn rồi! Ngưng pháo ngay! Ngưng pháo ngay!
Nhưng khi toán
pháo binh Việt Cộng hỏi mật mã để xác nhận thì tên Việt Cộng này
không biết. Phía pháo binh VC, chúng tưởng phe mình vô được tần số
của chúng để gọi ngưng pháo, chúng tưởng đã trúng mục tiêu nên lại
càng pháo dữ dội hơn, khi không mà chúng ta “bất chiến tự nhiên
thành.”
Tướng Lê Văn Hưng và Trung tá Trương Vĩnh Phước
Một cán binh CS thuộc CT7CSBV bị thương nặng và được TĐ8ND cứu
sống đã cung khai: “Lính CS khi tác chiến ở chiến trường sợ nhất là
B-52, vì bom rơi ngay trên đầu bất ngờ và sức tàn phá khủng khiếp
không một thứ gì chịu nổi; Thứ hai là đụng độ với lính Dù, lúc ban
ngày sẽ không thoát được một mống, bắn như ‘để’ và kế đến là lính
Biệt Cách Dù, ẩn hiện như những bóng ma về đêm, lỡ ngủ quên một
chút, khi mở mắt ra là thấy Diêm Vương ngay trước mặt”. Bây giờ cả 3
thứ đó đều hiện diện trên chiến trường An Lộc, CS thua là phải.
Tiếp tục khai thông QL-13:
a. Mặt Trận Suối Tàu-Ô:
Tại suối Tàu-Ô, cộng quân bố trí Trung đoàn 209/CT7 tăng cường
Trung đoàn 101 Địa phương, một Đại đội trinh sát của SĐ-7/CSVB, Đại
đội C41 chống chiến xa, một Đại đội phòng không, tất cả ước chừng
hơn 1,200 cán binh - đóng chốt trong hai căn cứ với những công sự
kiên cố ở hai bên đường do các đơn vị HK để lại, kết hợp với các địa
đạo sâu chằng chịt và hệ thống các chốt “kiềng” dày đặc dàn một trận
tuyến dài khoảng 3km – đã bị dội hàng chục phi xuất B-52, và mỗi lần
bị tấn kích chúng đã phải hứng hàng vài chục phi xuất không kích với
bom, đạn, kinh hồn của KQVN và HK mà chắc chắn rằng tổn thất không
nhỏ.
Khi nhận được báo cáo từ Tướng Hưng trong đêm 10/5 là
địch đang pháo kích với cường độ vô cùng lớn lao và An Lộc sẽ bị tấn
kích trong buổi sáng sớm hôm sau khi dứt tiếng pháo... nên Tướng
Minh và Bộ Tham Mưu Hành quân của ông đã họp khẩn cấp lúc đó để
hoạch định sử dụng các đơn vị chưa lâm chiến thi hành ngay kế hoạch
cứu nguy cho An Lộc trong ngày hôm sau bằng cách tấn công mạnh để
“bứng chốt” ở suối Tàu-Ô nhưng thực ra là để kềm SĐ-7/CSBV không cho
tăng cường quân lên phía Bắc áp lực mạnh lên Lữ Đoàn III Nhảy Dù
hiện đang còn hành quân trong các vùng ấp Đức Vinh và ấp Tân Khai từ
6km đến 10km phía Nam An Lộc hay vừa có thể đánh thốc lên tiến thẳng
vào An Lộc bắt tay với các cánh quân phòng thủ An Lộc của Tướng
Hưng.
Vào sáng ngày 11/5/1972 Trung đoàn 32/SĐ21BB được lệnh
khởi sự thi hành kế hoạch hành quân giải tỏa khu vực suối Tàu-Ô.
Trung đoàn 32 được tăng cường Chi Đoàn 1/2 Thiết Kỵ, Chi Đoàn 1/5
Chiến Xa và một phân đội của Chi Đoàn 1/18 Chiến Xa cùng với sự tham
chiến của 3 Tiểu đoàn 65, 73 và 84 BĐQ Biên Phòng. Ngoài ra còn được
sự yểm trợ của Pháo Binh, Phi pháo và Pháo đài bay B-52.
Lực
lượng hành quân chia làm hai mũi, xuất phát từ Chơn Thành cặp theo
hai bên trục QL-13 tấn công mạnh vào chốt chặn ở đoạn đường dài hơn
3km khu vực suối Tàu-Ô. Cuộc chạm súng đã diễn ra vô cùng dữ dội.
Trong suốt thời gian từ 11/5 đến 21/6 với lực lượng như thế nhưng
trong 40 ngày đó, Trung đoàn 32 chỉ tiến được khoảng 2km. Trung đoàn
32 đã phải chịu trận trước sự kháng cự mãnh liệt của địch quân và
tiêu hao rất nhiều vì không quen thế trận vùng khô. Đơn vị bạn không
nắm vững tình hình địch và địa thế chiến trận, lọt vào thế trận địa
pháo, các trinh sát viên của địch nằm dọc theo trận tuyến báo cáo và
điều chỉnh tác xạ. Khi rơi vào vùng hỏa tập của địch, thiết giáp và
bộ binh của ta bị rối loạn hàng ngũ bị buộc phải tháo lui. Địch quân
tiếp tục dùng pháo truy kích gây cho quân bạn nhiều tổn hại. Đến
ngày 21/6 Trung đoàn 46/SĐ25 hoán chuyển vùng trách nhiệm với Trung
đoàn 32.
b. Căn Cứ Hỏa Lực Tân Khai: Long Phi
Từ ngày
11/5/1972 Trung đoàn 15 của Sư đoàn 9 Bộ Binh do Trung tá Hồ Ngọc
Cẩn làm Trung đoàn trưởng đã được chuyển từ Quân Khu IV đến Lai Khê,
tăng phái cho Cánh quân SĐ21BB thay thế lực lượng LĐIIIND chuẩn bị
xuất phái để tham gia chiến dịch giải tỏa Quảng Trị. Trong ngày 11/5
khi Trung đoàn 15 của SĐ9BB đến Lai Khê, Trung tướng Minh định đưa
vào tăng cường cho Tướng Hưng, bằng Trực thăng vận vào thẳng An Lộc,
nhưng trong đêm 10 rạng 11/5 CSBV pháo kích khủng khiếp vào An Lộc
và biết rằng sáng sớm chúng sẽ tấn công vào các tuyến phòng thủ
thành phố bằng bộ binh và chiến xa nên Trung tướng Minh đã thay đổi
chiến thuật: hai cánh quân được chuẩn bị để đưa vào chiến trường.
Cánh quân thứ nhất là Chiến đoàn 15 với các Tiều Đoàn 1, 2, 3 và
Đại đội 15 Trinh Sát trực thuộc, tăng cường Thiết đoàn 9 Kỵ Binh và
Pháo đội 93 Pháo Binh, do Trung tá Hồ Ngọc Cẩn chỉ huy, chia làm ba
đợt:
- Đợt thứ nhất xuất phát buổi chiều ngày 14/5, gồm Thiết
đoàn 9 Kỵ binh và Tiểu đoàn 1/15 tùng thiết kéo theo Pháo Đội 93,
xuất phát từ Chơn Thành, hành quân bộ tiến lên hướng Bắc, đến ngã ba
Ngọc Lầu, 2km Bắc Chơn Thành bọc vòng qua mạn sườn phía Đông QL-13,
nội trong ngày 15/5 đã vào ấp Tân Khai và thiết lập CCHL Long Phi,
sẽ dùng nơi này làm “bàn đạp” tiến lên An Lộc.
- Đợt thứ hai,
ngày 16/5 Tiểu đoàn 2/15 được Trực thăng vận xuống bãi đáp phía Tây
cách Tân Khai chừng 1km, rồi tiến vào ấp. Sau đó Bộ Chỉ huy Chiến
đoàn được đổ xuống vào căn cứ hỏa lực trong ấp Tân Khai.
-
Đợt thứ ba, Tiểu đoàn 3/15 và ĐĐ15TS cũng được Trực thăng vận đổ
xuống phía Đông, rồi tiến vảo Tân Khai. Các cuộc đổ quân đều an
toàn.
Cánh quân thứ hai là Trung đoàn 33/SĐ21BB với các Tiểu
đoàn Bộ Binh và Đại đội Trinh Sát trực thuộc, do Trung tá Nguyễn
Viết Cần chỉ huy, cũng sẽ vào Tân Khai. Từ đó sẽ tiến lên An Lộc
song song với cánh quân thứ nhất.
Ngày này 16/5, các đơn vị
thuộc LÐIIIND được di chuyển bằng đường bộ rút về hậu cứ, bổ sung
quân số và tái trang bị để tham dự chiến dịch “Lôi Phong” tái chiếm
Quảng Trị.
Ngày 17/5 Đại đội 15 Trinh Sát cũng được Trực
thăng vận đáp xuống Tây Bắc Tân Khai để lục soát và một Tiểu đoàn
của Trung đoàn 33 cũng được Trực thăng vận vào căn cứ Long Phi để
bảo vệ đơn vị pháo binh, thay cho Tiểu đoàn 2/15 rút ra khỏi căn cứ
và di chuyển ra bên ngoài tiếp nối với Tiểu đoàn 3/15 đang hoạt động
tại Bàu Đông Lê 1km phía Tây Nam Tân Khai. Hai Tiểu đoàn luân phiên
hoạt động mở rộng vòng đai an ninh cho Long Phi, một căn cứ quan
trọng về yểm trợ hỏa lực cho các cánh quân và luôn cả tiếp liệu.
Ngày 18/5 các Pháo Đội 105ly, một Khẩu đội 155ly cùng BCH Chiến
đoàn 15, Thiết đoàn 9 và đơn vị tùng thiết tới được CCHL Long Phi an
toàn. Ngay sau đó toàn bộ Chiến đoàn 15 mở ngay cuộc hành quân dọc
theo mạn phía Tây của QL-13 tiến về phía Bắc. Song song với cuộc
hành quân của Chiến đoàn 15, Trung đoàn 33/SĐ21BB (-) do Trung tá
Nguyễn Viết Cần làm Trung đoàn trưởng cũng xuất phát từ Căn Cứ Cà
Mau tại Ngọc Lầu tiến dọc theo mạn phía Đông QL-13 về phía Bắc theo
đường tiến quân của Thiết đoàn 9 Kỵ Binh và Tiểu đoàn 1/15 trong mấy
ngày trước.
Đêm 18/5 địch bắt đầu pháo kích vào căn cứ Long
Phi. Trung tá Hồ Ngọc Cẩn quyết định để thêm Tiểu đoàn 1/15 ở lại
phối hợp với Tiểu đoàn có sẵn của Trung đoàn 33, thay nhau bung ra
để càn quét và hạn chế bớt việc địch pháo bắn súng cối vào căn cứ
hỏa lực quan trọng này. Như vậy, đến ngày này coi như cả hai cánh
quân giải tỏa An Lộc đã đến được địa điểm tập trung và xuất phát chỉ
cách An Lộc về phía Nam chừng 10km.
Nhưng 10km này là đoạn
đường sống chết vô cùng nguy hiểm cho cả hai cánh quân nói trên nếu
không có một cánh quân bạn –tái nhập cuộc– làm đảo lộn cục diện ở
đoạn đường này và cục diện chiến trường An Lộc, vì đã đánh một trận
để đời làm cho... quân CSBV thực sự kiệt lực.
Với quân số 3
Trung đoàn chiến đấu 31, 32, 33 của Sư đoàn 21BB và Trung đoàn 15/Sư
đoàn 9BB tăng cường, 5 Tiểu đoàn Pháo binh gồm 4 Tiểu đoàn thuộc Sư
đoàn 21 và 1 Tiểu đoàn Pháo binh Sư đoàn 9 tổng cộng khoảng 90 khẩu
đại bác, Thiết đoàn 9 Thiết Quân Vận M113 đã gây cho quân CS hao hụt
nhân mạng và mất tinh thần vì ngày đêm phải ăn bom đạn pháo.
c. B-52 trải thảm tiêu diệt BCH chiến dịch của VC
Ngày
19/5/1972 là ngày mà cộng sản Bắc Việt thường năm vẫn gây đổ máu
khắp nơi tại miền Nam để mừng sinh nhật lão Hồ. Theo tin tức của một
tù binh cao cấp cộng sản Bắc Việt bị bắt tại An Lộc thì bộ tham mưu
cộng sản Bắc Việt sẽ cử hành lễ này trước đó 3 ngày, để rồi cố gắng
đánh một trận nữa vào An Lộc, may ra có thể khích động tinh thần cán
binh lần chót quyết chiếm thị trấn này vào ngày 19 tháng 5/1972, gọi
là để mừng sinh nhật “Già Hồ” dù ông ta đã chết toi từ năm 1969.
Nhưng kế hoạch này đã bị bại lộ, một toán Biệt Kích VNCH được tung
vào vùng tình nghi, 16km về phía Tây Nam tỉnh Bình Long để thám sát.
Nhận đúng tọa độ, toán Biệt Kích gọi về Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Và chỉ
mấy tiếng đồng hồ sau, sáu phi vụ B-52 liên tiếp dội bom xuống vùng
này. Nguồn tin này cho hay, 80 phần trăm nhân mạng chung quanh bộ
tham mưu này của cộng sản Bắc Việt đã bị chôn vùi trong hố bom. Nhờ
cuộc không tập này, quân cộng sản Bắc Việt đã không thể mở nổi trận
đánh vào ngày 19/5/1972 như đã dự định.
d. Trận Đức Vinh:
Cánh quân của Chiến đoàn 15 trên trục tiến quân, với sự yểm trợ
của Thiết giáp, đã chia thành hai cánh quân luân chiến để phá vỡ
phòng tuyến địch quân bố trí dọc theo mạn phía Tây QL-13 tiến về An
Lộc và liên tục chạm địch nhiều trận lớn, nhất là bị địch bám sát
bắn súng cối liên tục trong các ngày 19, 20 và 21/5. Ngày 19/5/1972
lực lượng hành quân đã chạm mạnh với Trung đoàn 141/CT7 tại ấp Đức
Vinh. Mặc dù vậy, đến sáng ngày 22/5 cánh quân này đã tiến đến một
địa điểm khoảng 1km hướng Nam xã Thanh Bình. Xã này nằm bên ngoài
vòng đai phòng thủ hướng Tây Nam chỉ cách thị xã tỉnh lỵ An Lộc
chừng 2km. Trung tá Hồ ngọc Cẩn Trung đoàn trưởng Trung đoàn 15 điều
động 2 Tiểu đoàn 2/15 và 3/15 cùng với Trung đoàn 33 của Trung tá
Nguyễn Viết Cần đã quần thảo ngày đêm để lục soát bảo vệ mặt phía
Nam bên ngoài thị xã An Lộc hai bên Quốc Lộ 13.
Đến ngày 23
tháng 5, từ rạng sớm cho đến xế chiều, quân Bắc Việt lại mở liên
tiếp 4 đợt tấn công bằng chiến xa vào Trung đoàn 15 và Trung đoàn 33
tại khu vực Nam và Tây Nam An Lộc. Các Tiểu đoàn 2/15, 3/15, Đại đội
15 Trinh Sát và Bộ Chỉ huy Chiến đoàn bị pháo dữ dội, Trung đoàn 141
chận đánh xung kích bằng bộ binh có chiến xa phối hợp, nhưng đã bị
quân ta đẩy lui mọi cuộc tấn kích đó. Tuy vậy, tiến không được, thối
cũng không xong; các Chiến đoàn đã bị bao vây. Chiến sĩ chết phải
chôn tại chỗ, bị thương không tản thương được. Trong mấy ngày liền
phải được tiếp tế thực phẩm và đạn dược bằng thả dù. Trực thăng cũng
không đáp được. Hàng ngày chỉ có vài chục phi xuất không yểm, oanh
kích và thả bom là có kết quả.
Sau khi trận đánh này kết
thúc, có thêm 13 chiến xa CSBV bị hạ, gồm 5 chiếc T-54 và 8 chiếc
PT-76. Chiều ngày 23/5 Trung tá Cẩn quyết định mở đường máu bằng
Thiết quân vận tản thương cả trăm thương binh về Tân Khai thành
công. Nhưng ngày hôm sau, 24/5 khi trở lên nơi đóng quân của Chiến
đoàn, qua khỏi ấp Đức Vinh, Thiết đoàn bị một đơn vị cấp Tiểu đoàn
và một đơn vị chống tăng của Trung đoàn 141 phục kích, tổn thất
nặng, hàng chục chiến sĩ hy sinh, hàng chục mất tích, gần 80 bị
thương, 22 Thiết quân vận M-113 bị B-40, B-41 và hỏa tiễn AT-3
Sagger bắn hạ.
Chiến đoàn 15 phải đưa một đơn vị bộ binh yểm
trợ và phối hợp tùng thiết với Thiết đoàn 9 Kỵ Binh mở đường trở về
căn cứ Long Phi, ở Tân Khai. Sau đó, thành phần bộ chiến của Chiến
đoàn trụ lại tại địa điểm đóng quân bên ngoài xã Thanh Bình, tổ chức
lại đơn vị. Toàn bộ chỉ còn gần 350 chiến sĩ chiến đấu được. Ngày
25/5 Chiến đoàn này lại đánh thốc lên An Lộc, nhưng không tiến lên
nổi. Không yểm VNCH và KLHK đã yểm trợ hàng trăm phi xuất ngày đó và
những ngày tiếp theo.
Cánh quân thứ hai, Trung đoàn 33 (-)
của Trung tá Nguyễn Viết Cần lúc đó bắt tay được với Trung đoàn
31/SĐ21BB đã được đưa vào tăng cường cho Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù trong
vùng ấp Đức Vinh – khi quân Dù rút, vẫn bám trụ trong vùng này.
Ngày hôm sau, Trung đoàn 33 tiến lên hướng Bắc, Trung đoàn 31 vẫn
tiếp tục được lệnh hoạt động trong địa bàn cũ vùng phía Đông Đức
Vinh. Trung đoàn 33 vừa qua khỏi Đông Bắc ấp Đức Vinh bị Trung đoàn
165/SĐ-7/CSBV chận đánh. Nỗ lực đánh thốc lên phía Bắc của cánh quân
này ngày 31/5/1972, cũng không thành công.
Tổn thất của địch
lớn bởi hỏa lực không yểm của KQVN và KLHK nhất là là Trực thăng võ
trang Cobra HK rất nhanh với các dàn đại liên bắn chính xác. Cánh
quân này của Trung tá Nguyễn Viết Cần tránh không khỏi tổn thất,
nhất là bị pháo kích, nhiều nhất vẫn là các loại súng cối 61ly, 82ly
và loại hỏa tiễn 122ly. Chiến sĩ bị thương đã lên đến hơn 200. Không
ghi nhận rõ bao nhiêu chiến sĩ hy sinh và mất tích.
Trong bốn
năm ngày kế tiếp cả hai cánh quân của Chiến đoàn 15 và Trung đoàn 33
còn tiếp tục chịu nhiều trận tấn công xung kích bộ và chiến xa của
hai Trung đoàn 141 và 165 của SĐ-7/CSBV. Số binh sĩ thương vong của
hai cánh quân bạn càng nhiều hơn, nhưng vẫn không thể tản thương
được vì Trực thăng không thể đáp xuống các vị trí đóng quân dã ngoại
của các cánh quân này. Màng lưới phòng không của chúng dày đặc, nguy
hiểm nhất là loại hỏa tiễn SA-7. Trực thăng không thể đáp được. Chỉ
có thể nhờ vào không yểm mà thôi, kể cả những boxes B-52...
Vào những giờ phút khó khăn, gay cấn nhất của hai cánh quân “giải
tỏa An Lộc” nói trên thì đơn vị cứu tinh tái xuất hiện ở chiến
trường Nam An Lộc này. Đó là Tiểu đoàn 6/Lữ Đoàn I Nhảy Dù, do Trung
tá Nguyễn văn Đỉnh chỉ huy. Trung tá Nguyễn văn Đỉnh trong tháng
4/1972, đã chỉ huy Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù đổ quân vào An Lộc, chiếm hai
cao điểm Đồi Gió và Đồi 169. Khi đang đóng quân tại Sóc Ton Cui gần
đó thì đêm 20/4 rạng ngày 21/4, đơn vị TĐ6ND đã bị hai Trung đoàn
141, 165 của SĐ-7/CSBV và Trung đoàn 209 của SĐ-5/CS tràn ngập, ông
phải chỉ huy hai Đại đội đánh mở đường máu rút xuống ven Sông Bé và
được Trực thăng đón về Lai Khê với hơn một trăm chiến sĩ Dù. Ngày đó
địch đã tấn công đơn vị của ông với lực lượng 6/1 (2,400/400). Phải
đánh mở đường máu mà thôi.
Sau hơn một tháng, Tiểu đoàn của
ông được bổ sung với quân số thặng dư của Sư đoàn Nhảy Dù gồm các
chiến sĩ của tất cả các đơn vị Dù khác bị thương trong nhiều trận
đánh, hồi phục sau thời gian duỡng thương – trong đó có nhiều Sĩ
quan các cấp dày dạn chiến trường – và một số tân binh tình nguyện,
thường là những thanh niên can đảm, nên khi tái thành lập, Tiểu đoàn
6ND đã có khả năng tác chiến như các đơn vị Nhảy Dù khác. Hai Đại
đội/Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù sau khi bị thiệt hại nặng ở Đồi Gió, được
tái trang bị, bổ sung quân số và hoàn tất huấn luyện tại Chơn Thành,
một tháng ở Lai Khê, Tiểu đoàn xây dựng lại từng người lính, từng
Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng, một tháng giữ đường, giữ căn cứ,
ở đâu đâu cũng huấn luyện, đâu đâu cũng tập “điều động dưới hỏa
lực.”
Ngày 3 tháng 6, Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh nhận lệnh giải
tỏa An Lộc. Tướng Minh giao trách nhiệm cho Trung tá Đỉnh đánh giải
vây cho hai cánh quân của hai ông Trung tá Cẩn và Trung tá Cần,
trước khi Tiểu đoàn Dù này vào An Lộc. Trên đường tiến quân, TĐ6ND
còn điều động mang theo 300 quân nhân bổ sung cho Trung đoàn 15 của
Trung tá Hồ Ngọc Cẩn.
Ngày 4 tháng 6, 1972 TĐ6ND được Trực
thăng vận đổ quân ở một bãi đáp cách căn cứ hỏa lực Long Phi ở Tân
Khai chừng 2km, hướng Đông Bắc. Tiểu đoàn cặp theo hướng Đông QL-13
tiến lên hướng Bắc, qua khỏi ấp Đức Vinh, bất thình lình đánh thúc
vào ngang hông của Trung đoàn 165/SĐ-7/CSBV lúc đó đang đối đầu với
Trung đoàn 33 của Trung tá Nguyễn Viết Cần. Đơn vị địch tổn thất
nặng phải bỏ chạy thục mạng khỏi trận địa rút lên hướng Bắc vùng Đồi
Gió và Đồi 169. Áp lực địch không còn, các đơn vị của Trung tá Cần
có thể dọn bãi đáp cho Trực thăng tản thương hơn hai trăm thương
binh ra khỏi trận địa và đơn vị tiếp tục vượt qua đồn điền cao su Xa
Trạch vào ấp Đồng Phất 1, chừng 4km Nam An Lộc. Ngày 6/6, đơn vị Dù
của Trung tá Đỉnh tiếp tục tiến qua hướng Tây trục lộ, một lần nữa
đánh ngang hông Trung đoàn 141/SĐ-7/CSBV, giải vây, bắt tay với
Chiến đoàn 15 và giao 300 quân bổ sung cho Trung tá Cần. Đơn vị của
Trung tá Cần ngay sau đó cũng dọn bãi đáp cho Trực thăng tản thương
gần 150 thương binh. TĐ6ND là cứu tinh của hai cánh quân miền Tây
này ở mặt trận Nam An Lộc. Người hùng Trung tá Nguyễn văn Đỉnh, Tiểu
đoàn trưởng TĐ6ND, đã lập kỳ tích lớn lao đánh những trận quyết định
làm cho hai Trung đoàn 141 và 165 của SĐ-7/CSBV bị thiệt hại thật
nặng –gần như tan rã– báo được mối hận tháng trước bị hai đơn vị
cộng sản này đánh xé đôi đơn vị của mình ở vùng Sóc Ton Cui và Đồi
Gió.
Hai Trung đoàn 33 Sư đoàn 21 và Trung đoàn 15 Sư đoàn
9BB với sự hỗ trợ của Thiết đoàn 9 Kỵ Binh đã cầm cự với lực lượng
Công trường 7 và một phần của Công trường 5 cộng sản bố trí giáp
phía Nam An Lộc cho Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù mới được bổ sung quân số mở
cuộc tấn công phục thù trận Đồi Gió trước đó, dứt điểm chốt suối Xa
Cát của cộng sản để cùng các chiến sĩ Trung đoàn 15 và 33 bắt tay
với quân TĐ8ND trong thành phố An Lộc đánh xuống. Ba ngày, 6km đường
từ Xa Trạch đến Xa Cam. 6km “chốt chận” kẹp chặt An Lộc hơn hai
tháng, Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù đã tấn công ào ạt trong 3 ngày, vừa đi
vừa bắn, không cho địch quân ngóc đầu lên được. Thanh toán hầm bằng
lựu đạn, Tiểu đoàn trưởng, Đại đội trưởng, khinh binh đều dàn thành
một hàng ngang quét một phát qua 6km đường rừng, bắn tung 300 công
sự phòng thủ của hai Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 275/CT7 CSBV. Chín
mươi phần trăm lính Bắc chết tại hầm không có dịp nhìn thấy được mặt
“lính Nhảy Dù” trước khi đi hết đoạn đường “Sinh Bắc tử Nam.”
Cuộc tiến quân giành nhau từng năm mười thước đất, tấn lên dạt
xuống. Ngày ta tiến công. Đêm xe tăng địch tràn vào. Địch chiếm, ta
công phá tiến vào vòng đai An Lộc. Lúc này đây phi cơ oanh kích
không cần hướng dẫn. Máy ra-đa được đặt theo chu vi phòng tuyến.
Loại bom tinh khôn nhận biết từ những tia laser phát sóng chỉ điểm
vị trí phòng thủ, đơn vị bạn được báo bom sẽ trút xuống tiếp cận
30m. Lần đầu tiên bom được ném gần hoàn toàn khác với qui định an
toàn về khoảng cách.
Ngày 7/6/1972, trên QL-13, đêm đó một
chuỗi dài tiếng nổ từ máy bay B-52 thả xuống. Ánh sáng lóe lên trước
mắt như những khối chớp bật lên không ngừng, đất trời rung động, hầm
hố rung chuyển. Từng đợt bom nổ sát phòng tuyến, trải ra từng lớp
một. Sau đó, đại bác trực xạ từ máy bay AC-130 xả xuống săn đuổi xe
tăng địch. Sau đợt oanh kích tiếp cận vừa dứt, lệnh xung phong đồng
loạt tràn lên. Địch bị ép hai đầu, Tiểu Ðoàn 8 Nhảy Dù tại phía Nam
An Lộc từ bên trong đánh ra, Đại đội 62 của Vinh “con”, từ bên ngoài
đã đánh một trận chót thật dữ dội và đã triệt hạ hết 73 cán binh của
hai Đại đội C7 và C8 của Việt Cộng, chỉ còn một tù binh sống sót tên
là Nguyễn Văn Tiền.
Đúng 17 giờ 15 ngày 8 tháng 6, Đại úy Ngô
Xuân Vinh, Đại đội trưởng ĐĐ62ND, đứng lên mặt đường nhựa, ngã ba
vào xã Thanh Bình (đồn điền Xa Cam) bắt tay với Đại úy Trương Ngọc
Ni Đại đội trưởng 81 Nhảy Dù, đơn vị cực Nam của An Lộc. Viên cố vấn
Mỹ nước mắt đầy trên má vì hãnh diện, run tay khi chụp tấm hình lịch
sử của trận chiến An Lộc. Gương mặt những người lính rạng rỡ, sau
bao ngày chịu đựng, họ đã hoàn thành nhiệm vụ nối liền trong ngoài
thành phố An lộc. QL-13 được giải tỏa. Và quân đội Việt Nam Cộng Hòa
tại mặt trận An Lộc dần dần chuyển từ thế thủ ra thế công, từ thế hạ
phong sang thượng phong, để rồi giải tỏa được vòng vây lửa của bốn
Sư đoàn cộng sản Bắc Việt.
- Tôi chỉ xin báo một điều với quý
vị: “Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù đã bắt tay với An Lộc”. Chuẩn tướng Hồ
Trung Hậu, Tân Tư Lệnh Sư đoàn 21BB, kiêm Tư lệnh lực lượng giải tỏa
An Lộc, đã nói câu trên để mở đầu và kết thúc buổi họp tại Lai Khê
lúc 18 giờ cùng ngày.
Sau 54 ngày giao tranh, cộng quân đã
thiệt hại ít nhất là 30,000 bộ đội trong tổng số 4 Sư đoàn. Mưu đồ
của CSBV mong tiến đánh thủ đô Sài Gòn đã hoàn toàn bị chặn đứng tại
An Lộc. Ngày 9/6/1972 lần đầu tiên kể từ hai tháng qua, một đoàn
Trực thăng 23 chiếc hạ cánh an toàn xuống An Lộc, vừa tiếp tế, vừa
đổ quân, để rồi bốc thương binh ra. Quân trú phòng phấn khởi, tiến
lên chiếm lại những vị trí của cộng quân cố thủ tại phía Bắc An Lộc.
Những tổ kháng cự bên trong thị trấn cũng lần lượt bị tiêu diệt.
Cuộc di tản thương binh và thường dân vẫn được tiếp diễn đều đặn.
Ngày 12/6/1972 lực lượng 81 Biệt Cách Nhảy Dù với sự yểm trợ của
Liên đoàn 3BÐQ, tung quân tấn công vào khu phố Việt Cộng chiếm đóng.
Chúng chém vè vào các khu bìa rừng ở hướng Tây và Bắc. Liên Đoàn 81
Biệt Cách Nhảy Dù đã anh dũng cắm quốc kỳ thân yêu VNCH trên ngọn
đồi Đồng Long. Ngọn đồi này cao 128m, và là nơi cộng sản Bắc Việt
đặt pháo binh bắn vào An Lộc từ mấy tháng qua.
Tướng Lê Văn
Hưng tuyên bố với phái viên Vô Tuyến Việt Nam, “Thành phố An Lộc
được hoàn toàn giải tỏa” và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố tất
cả những quân nhân tử thủ ở An Lộc, mỗi người đều được thăng một cấp
đã làm cho những người lính đang chiến đấu ở An Lộc ngạc nhiên và
phấn khởi.
Riêng Trung đoàn 33 khi tiến qua khỏi ấp Đồng Phất
1 và chạm khá nặng với một đơn vị địch quãng giữa đường khi tiến lên
ấp Đồng Phất 2. Tiếc thay, khi đã đẩy lui được mọi cuộc tấn công của
địch quân và vào đóng quân tại ấp này, đến ngày 29/6/72 Trung tá
Trung đoàn trưởng Nguyễn Viết Cần bị hy sinh trong một đợt pháo kích
của địch quân. Ông được truy thăng Đại tá. Nếu ở miền Đông gia đình
“Đỗ Cao...” có hai người con hy sinh cho QLVNCH là Tướng Đỗ Cao Trí,
Tư lệnh QĐ II & V3CT và em ruột là Thiếu tá Đỗ Cao Luận thì ở miền
Tây gia đình “Nguyễn Viết...” cũng có hai Sĩ quan một cấp Tướng và
một cấp Tá hy sinh trên chiến trường làm rạng rỡ dòng tộc là Tướng
Nguyễn Viết Thanh, Tư lệnh QĐ IV & V4CT và em ruột là Đại tá Nguyễn
Viết Cẩn. Còn bao nhiêu gia đình nữa có hai hoặc ba người con hy
sinh ở chiến địa cho miền Nam tự do.
Trên thực tế, con đường
bộ từ Chơn Thành lên đến Tân Khai đã không thể nối liền được. Trung
đoàn 32/SĐ21BB bị thiệt hại nặng ở khu vực chốt chặn suối Tàu-Ô,
phải đưa về SĐ25BB để bổ sung và Sư đoàn này đưa Trung đoàn 46 trực
thuộc vào thay thế để tiếp tục “bứng” chốt ở đó. Ở đoạn trên, các
Trung đoàn 141 và 165 của SĐ-7/CSBV sau mấy trận đánh với Chiến đoàn
15, Trung đoàn 33 và TĐ6ND trong tuần lễ trước, tuy bị tổn thất nặng
nề về vũ khí và nhân mạng, nhưng ngày 17/6 đã tập trung trong vùng
ngoại vi Tân Khai, tổ chức thành cả hàng chục địa điểm phòng không
và pháo với ý định dứt điểm căn cứ hóa lực Phi Long của Chiến đoàn
15 ở Tân Khai. Tướng Hồ Trung Hậu, Tân Tư lệnh SĐ21BB phải điều động
Trung đoàn 31 từ ngoại vi ấp Đức Vinh quay về, phối hợp với hai Tiểu
đoàn bộ binh và Thiết đoàn 9 Kỵ binh (-) trong căn cứ để bảo vệ căn
cứ hỏa lực này.
An lộc an bình trở lại, ngày 18/6 Lữ Đoàn I
Nhảy Dù với ba Tiểu đoàn 5, 6, 8 của Đại tá Lê Quang Lưỡng được lệnh
xuất phái ra khỏi SĐ5BB rời chiến trường An Lộc, trước khi về hậu cứ
của các đơn vị để bổ sung quân số, LĐIND lại nhận thêm được lệnh
khai thông QL-13 tại suối Tàu-Ô. Cả 3 Tiểu đoàn Nhảy Dù lại phải di
chuyển hành quân dọc QL-13, thay phiên nhau bứng chốt dọc QL-13 tới
căn cứ Tân Khai để về Sài Gòn...
Trong số ba Tiểu đoàn Mũ Đỏ
hành quân này, chỉ có Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù là gần đủ quân số, trong
khi đó, hai Tiểu đoàn 5 và 8 chỉ còn chừng một phần tư quân số. Khi
các Sĩ quan chỉ huy đứng sừng sững trên mặt đường nhựa trong làn mưa
đạn địch, phất bản đồ thúc quân xung phong, đoàn quân Mũ Đỏ dàn hàng
ngang tràn qua mặt đường như sóng vỡ bờ, diệt thế trận liên hoàn
chốt kiềng của địch, trên 600 xác cộng quân của hai Trung đoàn thuộc
SĐ-7/CSBV phơi thây trên chiến địa và vô số vũ khí đủ loại. Trực
thăng võ trang UH-1B còn đuổi tàn quân VC tuốt trong rừng sâu,
rocket, đại liên bắn xoẹt đùng tắc tắc như trống múa lân. Những chốt
kiềng dọc đường đều bị nhổ sạch, hoặc địch buộc phải rút vào sâu để
tránh quân Dù, chờ Dù đi qua lại ra chặn đường trở lại... Tướng
Hollingsworth ra lệnh cho Trực thăng Mỹ phải bốc hết Lữ Đoàn trong
ngày, ở cạnh phía Nam căn cứ Tân Khai. Đó là trận đánh lớn cuối cùng
của mặt trận Bình Long mà Lữ Đoàn cứu tinh này đã thực hiện. Sau đó
tất cả các đơn vị Dù của Đại tá Lưỡng được Trực thăng vận về Chơn
Thành rồi di chuyển bằng đường bộ trở về Sài Gòn bổ sung quân số,
rồi tăng viện cho QĐI & V1CT trong chiến dịch Lôi Phong.
Chiến thắng ở Bình Long là điều khẳng định của các Tướng Lãnh, các
cấp chỉ huy đơn vị và toàn thể chiến sĩ phòng thủ và tiếp ứng An
Lộc. Nhưng trên hết vẫn do tinh thần “quyết tử” của những người giữ
thành từ ông Tướng đến một chiến sĩ vô danh như một nghĩa quân, một
địa phương quân, một cảnh sát, hay ngay cả một cư dân, một cậu bé
nhỏ tên Đoàn văn Bình từng xin Đại tá Trần văn Nhựt súng để “bắn xe
tăng” địch, hoặc giả như một cô thơ ký hành chánh tỉnh chạy giặc ẩn
trú trong khu vực của LĐ81/BCND đã viết hai câu đối ca ngợi chiến sĩ
của đơn vị thiện chiến này:
“An Lộc địa sử ghi chiến
tích.
Biệt Kích Dù vị quốc vong thân.”
Như vậy cô thư ký này cũng đã tham dự vào chiến công giữ vững An Lộc.
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại mặt trận An Lộc
‘Xa lân lân, mã tiêu tiêu -
Hành nhân cung tiễn hề tại yêu...
(Chinh Phụ ngâm - Đặng Trần
Côn)
Tài liệu tham khảo:
1. Trận Bình Long, Chiến Sử do P5 Bộ TTM/QLVNCH ấn hành năm
1973
2. An Lộc Chiến Sử Với Lữ đoàn I Nhảy Dù VNCH năm 1972
của Phan Nhật Nam đã đăng trên báo “Diều Hâu” tại Sài Gòn năm
1972
3. Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù, 1972 trấn thủ Bình Long-thượng
kỳ Quảng Trị - Bút ký chiến tranh của Mủ Đỏ Nguyễn Tiến Việt
4. Lữ Đoàn I Nhảy Dù tại Bình Long năm 1972 của Vương Hồng Anh
5. Chiến tranh Việt Nam toàn tập của Nguyễn Đức Phương, Làng Văn
xuất bản tại Canada 2001
6. Battle of An Loc trên trang web:
vnafmamn.com/Valiant_Anloc.html
7. The Battle of An Loc by
Lieutenant Colonel James H. Willbanks trên
wikipedia.org/wiki/BattleofAnLoc
8. Trận chiến An Lộc 1972
của An Lộc Anh Dũng trên trang web:
vietnam.ictglobal.net/webhtml-01/TranChienAnLoc-001.php
9.
Hai tháng tử thủ An Lộc của Đỗ Đức Thịnh trên trang web:
vietnam.ictglobal.net/webhtml-01/AnLoc-DDT-001.php
10. Chiến
thắng An Lộc 1972 do Nhóm Quân Nhân QLVNCH tại Texas thực hiện,
Nguyễn Ngọc Ánh chủ biên xuất bản năm 2007
11. Tướng Lê Văn
Hưng và những sự thật ở chiến trường An Lộc trong mùa Hè 1972
của Văn Nguyên Dưỡng trên diễn đàn Việt Thức
12. Hình ảnh hầu
hết download từ internet
13. Phỏng vấn trực tiếp các chiến
hữu trong SĐND.
Bảng hướng dẫn đến các chương (bấm vào các con số sẽ đi thẳng đến chương đó):
01
|
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 |
21 |
22
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37 |
38 |
39 |
40 |
41 |
42 |
43 |
44
Mục lục
Trích và cập nhật từ quyển “20 Năm
Chiến Sự” - Binh chủng Nhảy Dù
Tác giả:
Đại úy Võ Trung Tín Tiểu đoàn Truyền Tin SĐND – 714-856-9202
Đại úy Nguyễn Hữu Viên Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù – 714-897-1435
1246 S. Huron Dr. Santa Ana CA 92704
Email:
20namchiensu@gmail.com
Tổng Phát Hành: Mr. Hải Võ
1246 S. Huron Dr. Santa Ana CA
92704
Tel: 714-856-9202. Email: 20namchiensu@gmail.com
Giá
quyển sách:
$40.00USD
(Ngoài Hoa Kỳ:
$50.00USD)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by Võ Trung Tín chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, July 29, 2016
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang