|
Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang Quân sử VNCH
Chủ đề:
quân sử sư đoàn nhảy dù qlvnch
Tác giả:MĐ Nguyễn Hữu Viên & MĐ Tín Võ
****** |||
******
MỤC LỤC
*
A.
PHẦN A: TỔ CHỨC
B. Chiến Sự
1.
Trận Điện Biên Phủ (13/3/1954
–
7/5/1954)
2.
Tình Hình Việt Nam Sau Hiệp Định Geneve
3.
Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng (23/5/1955
– 6/12/1955)
4.
Chiến
Dịch Hoàng Diệu (từ 21/9 – 24/10/1955)
5.
Chiến Dịch Nguyễn Huệ (từ 1/1 – 17/2/1956)
6. Binh Biến ngày 11/11/1960
7. Trận Phước Thành (18–19/9/1961)
8. Trận Ấp Bắc (2–3/1/1963)
9. Trận Tân Châu Hồng Ngự (2–4/3/1964)
10. Trận
Bình Giã (3/12/1964 – 3/1/1965)
11. Trận Hắc Dịch (9–10/2/1965)
12. Trận Ba Gia (28–5/1965 – 2/6/1965)
13. Trận Đồng Xoài (9–20/6/1965)
14. Trận Đức Cơ (4–15/8/1965)
15. Chiến dịch Ia Drang – Thần Phong 7 (14–18/11/1965)
16.
Hành
Quân Thần Phong 11 (28/1 – 6/3/1966)
17.
Đại Bàng 800
(12/11/1966)
18.
Hành Quân Liên Kết 81 (16–22/2/1967)
19. Lam Sơn 54–Khu Phi Quân Sự (18–27/5/1967)
20.
Trận
Dakto
(Đồi 1416) (3–22/11/1967)
21.
Tổng Công Kích Năm Mậu Thân (từ
ngày 29/1/1968)
22.
Mặt Trận Sài Gòn (30/1/1968)
23.
Mặt Trận
Quảng Trị (30/1/1968)
24.
Mặt Trận Huế (30/1/1968)
25. Mặt Trận Khe Sanh (1–15/4/1968)
26.
Mặt Trận Ashau (19/4 –
17/5/1968)
27.
Trận Mậu Thân đợt hai (từ ngày 5/5/1968)
28.
Trận Gò Nổi (Tây Ninh) (19/5/1969)
29.
Chiến Dịch Bình Tây (Từ
ngày 27/3/1970)
30.
Hành Quân Toàn Thắng 42 (29/4 – 22/7/1970)
31. Hành Quân Toàn Thắng 43 (1/5 – 30/6/1970)
32.
Hành Quân Toàn
Thắng 45 (6/5 – 30/6/1970)
33. Hành Quân Lam Sơn 719 (8/2
– 6/4/1971)
34.
Trận đánh Căn Cứ
Hỏa Lực 6 (4–17/4/1971)
35.
Trận đánh Căn Cứ Hỏa Lực 5
(24/5 – 19/6/1971)
36.
Mùa Hè Đỏ Lửa
37.
Mặt Trận Tây Nguyên
(17/3 – 28/5/1972)
38.
Mặt Trận Bình Long (2/4
– 8/6/1972)
39.
Mặt Trận Quảng Trị (30/3
– 15/9/1972)
40.
Trận Thường Đức (18/8
–
8/11/1974)
41.
Trận Ban Mê Thuột (10–16/3/1975)
42.
Trận
Khánh Dương (19/3 – 1/4/1975)
43.
Trận Phan Rang (1–17/4/1975)
44.
Trận Long Khánh (9–21/4/1975)
C.
PHẦN C: CÁC VỊ TƯ LỆNH SĐND
******11******
11.
Trận Hắc Dịch (9–10/2/1965)
Trận Hắc Dịch
(9–10/2/1965)
Cuối
năm 1964 đầu năm 1965, sau
khi phục kích và đánh gây thiệt hại hơn 3/4 Tiểu Đoàn 4TQLC và 1
Tiểu Đoàn Biệt Động Quân ở
Bình Giã, Phước Tuy, cộng sản tập trung quân lại chung quanh Căn cứ địa
đó để biểu dương lực lượng. Bộ Tổng Tham Mưu VNCH lập tức phát động
Chiến dịch Nguyễn Văn Nho, cho 2 Tiểu Đoàn Nhảy Dù, 3 Tiểu Đoàn
TQLC, và 1 Chi Đoàn Thiết Giáp trở lại Bình Giã truy lùng các đơn
vị cộng sản. Nhưng khi thấy lực lượng hùng hậu đó, các đơn vị cộng
sản lẩn tránh giao tranh.
Nhưng cùng lúc, theo tin tức tình
báo đến từ Thiếu tá Lê Đức Đạt, Tỉnh trưởng Phước Tuy, cộng sản sẽ
đem 3 Cố vấn Mỹ mà họ bắt được trong trận Bình Giã trước đó, diễn
hành như 1 chiến thắng cho dân chúng địa phương coi (trong trận
Bình Giã, Hoa Kỳ có 5 tử trận, 8 bị thương, và 3 mất tích). Tin tức
này cũng được MACV xác nhận: MACV cho máy bay thám thính sử dụng
hồng ngoại tuyến đã chấm được tọa độ đóng quân của cộng sản ở chung
quanh xã Bình Giã và Hắc Dịch (Bình Giã, Bình Ba, Ngãi Giao, và Hắc
Dịch là 4 xã tạo thành Tổng Cơ Trạch. Tổng: là
1 đơn vị hành
chánh cho 1 vài vùng lúc đó).
Hắc Dịch là 1 khu rừng thấp nằm ở phía Bắc núi Ông Trịnh, giữa
QL15 và Liên tỉnh lộ 7 nối liền
giữa khu Rừng Sác và Chiến khu D của VC. Có nhiều sách địa lý cũng
gọi là Hắc Dịch. Với tin tức cung cấp, QLVNCH quyết định trở lại
truy lùng các đơn vị cộng sản còn lẩn quẩn chung quanh Bình Giã thêm
1 lần nữa trong 1 chiến dịch được đặt tên là Chiến Dịch Nguyễn
Văn Nho (Nguyễn Văn Nho là tên của vị Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng
TĐ4TQLC đã tử trận tại Bình Giã trước đó 1 tháng). Lần này lực
lượng tấn công là 3 Tiểu Đoàn Nhảy Dù.
Ngày 9 tháng 2/1965, Chiến Đoàn II Nhảy Dù do Trung tá Trương
Quang Ân làm Chiến đoàn trưởng với Tiểu Đoàn 5 của Thiếu tá Ngô
Quang Trưởng; Tiểu Đoàn 6 Thiếu tá Vũ Thế Quang; và Tiểu Đoàn 7,
Thiếu tá Ngô Xuân Nghị, nhảy vào càn quét Mật khu Hắc Dịch của cộng
sản. Tiểu Đoàn 5 và 6 là lực lượng chính tấn công, trong khi Tiểu
Đoàn 7 đi sau làm thành phần trừ bị và ngăn chận không cho các đơn
vị cộng sản thoát ra phía Liên tỉnh lộ 15 để băng
qua khu Rừng Sác.
Lực lượng địch: Quân Chủ lực miền của
VC có 2 Trung Đoàn lấy phiên hiệu là Q761 và Q762 với thành
phần Chỉ huy là những bộ đội tập kết:
– Trung Đoàn Q761
do Bùi Thanh Vân làm Trung đoàn trưởng.
– Trung Đoàn Q762 do
Tạ Minh Khâm làm Trung đoàn trưởng.
Lực lượng Bạn:
* Chiến Đoàn I Nhảy Dù, Chiến đoàn trưởng là Trung tá Trương
Quang Ân chỉ huy 3 Tiểu Đoàn Nhảy Dù:
– TĐ5ND Tiểu đoàn
trưởng là Thiếu tá Ngô Quang Trưởng.
– TĐ6ND Tiểu đoàn trưởng
Thiếu tá Vũ Thế Quang.
– TĐ7ND Tiểu đoàn trưởng Thiếu tá Ngô
Xuân Nghị.
– Trung Đội 5 Truyền Tin ND do Thiếu uý Tôn
Thất Hiếu làm Trung đội trưởng.
– Trung Đội Công Binh Nhảy Dù
do Thiếu uý Trần Văn Thọ làm Trung đội trưởng.
Diễn Tiến:
Khoảng 6:00g sáng Ngày
7/2/1965, Chiến Đoàn I Nhảy Dù do Trung tá Trương Quang Ân làm
Chiến đoàn trưởng được lệnh khẩn cấp di chuyển bằng đường bộ đến
vùng hành quân, Mật khu Hắc Dịch của VC tại phía Bắc núi Ông
Trịnh gần ranh giới 2 tỉnh Biên Hòa và Phước Tuy. Đặc biệt
trong trận này có 1 Trung Đội Công Binh Nhảy Dù tăng phái do
Thiếu uý Trần Văn Thọ làm Trung đội trưởng. Rút kinh nghiệm
từ trận Bình Giã 1 tháng trước đó, Trung Đội Công Binh Dù được
lệnh mang theo rất nhiều chất nổ để phá hủy các công sự chiến
đấu kiên cố của địch.
Đến trưa, TĐ5ND đến Bà Rịa và bố
trí quân tại Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp. BCH Chiến Đoàn đóng
tại tỉnh đường Phước Tuy.
Sáng sớm Ngày 9/2/1965 tất cả
chiến binh Nhảy Dù được phân chia thành từng toán 10 người di
chuyển dọc theo Quốc lộ 15 đi về hướng Vũng Tàu. Tất cả xe cộ
dân sự đều bị chận lại không được lưu thông trên đoạn đường này.
Sau đó từng đoàn trực thăng HU1B đã bay rợp trời đến bốc
Tiểu Đoàn 5 Dù trên QL15 và Tiểu Đoàn 6 Dù tại khu vực Trường
Truyền Tin đưa vào vùng hành quân. Đây là lần đầu tiên Lực Lượng
Nhảy Dù đã đổ bộ bằng trực thăng cùng 1 lúc 2 Tiểu Đoàn.
Khi vào trận địa, Tiểu Đoàn 5ND do Thiếu tá Ngô Quang Trưởng
chỉ huy được đổ xuống 1 trảng trống khoảng 150x100 thước có
nhiều lau sậy rất dễ bắt lửa, nhất là vào mùa khô này. Các trực
thăng vừa hạ cánh đổ toán quân đầu tiên phía trái bãi đáp, cách
đó không xa phía bên phải, 1 đơn vị Cộng quân đang mai phục
cạnh bìa rừng tre với nhiều hầm hố công sự phòng thủ, quân số
đông đảo và hỏa lực rất mạnh bắt đầu khai hỏa. Thiếu tá Ngô
Quang Trưởng, Tiểu đoàn trưởng cùng Thiếu uý Tôn Thất Hiếu, SQ
Truyền Tin được trực thăng thả xuống ngay đợt đầu. Khi trực
thăng vừa hạ cánh các chiến binh Nhảy Dù cấp tốc nhảy ra khỏi
trực thăng vào vị trí tác chiến.
Thiếu uý Hiếu nhìn thấy
1 ổ đại liên của địch đang nhắm vào trực thăng. Ông nhanh tay
đẩy Thiếu tá Trưởng và 2 thầy trò lăn vào 1 góc cây lớn
tránh đạn. Năm chiếc trực thăng đổ đầu bị trúng đạn không thể
cất cánh lên được, đồng thời địch quân phóng hỏa đốt cháy những
đám cỏ tranh và rừng tre trước hướng tiến quân. Họ hy vọng khi
lính Dù thấy lửa cháy thì sẽ quay sang hướng khác... và Cộng
quân sẽ bất ngờ phục kích tấn công vào đoàn quân Mũ Đỏ. Nhưng
Tiểu đoàn trưởng Ngô Quang Trưởng không cho lính quay lại: ông
ra lệnh tất cả Lính Dù vừa được đổ xuống xung phong thẳng qua
thế hỏa công của địch, đánh thẳng vào hệ thống phòng thủ của Bộ
Chỉ Huy cộng sản trước mặt, ngay sau đám lửa đốt ngụy trang đó.
Từ trên cao nhìn xuống thấy Nhảy Dù đã bám sát được phòng tuyến
của địch quân, các phi công trực thăng đáp phi cơ đổ quân tiếp
theo ngay sát tuyến đầu. Các chiến sĩ Nhảy Dù đã nhảy xuống ngay
trên đầu quân địch đang ẩn núp tràn vào phòng tuyến VC và tiêu
diệt những tên còn chống cự. Một số lớn hậu quân của địch đã hốt
hoảng bỏ chạy. Ngay đến Tiểu Đội Công Binh Dù tăng phái cho
TĐ5ND, vừa trên trực thăng nhảy xuống HSI Nguyễn Văn Tuế thấy 1 tên VC chĩa súng về phía anh chưa kịp bóp cò, Anh nổ súng hạ
sát tên này tại chỗ, lục soát hầm ẩn núp của hắn tìm thấy 1 khẩu AK47 và
1 súng cối 81ly chỉ còn 1 viên đạn. (HS I Tuế
đã cùng với Đại uý Phạm Văn Phú ở TĐ5ND bị CS bắt làm tù binh
khi Điện Biên Phủ thất thủ năm 1954, sau khi trao trả tù binh
Anh được chuyển về Công Binh Nhảy Dù). Cùng lúc đó HS Ngô Đình
Liêm phát giác 1 hầm VC gần đó, Anh nhào tới chĩa súng vào hầm
hô to: “đưa tay lên đầu hàng, nếu không tao bắn”. Lập tức 2 bàn tay đưa lên và có tiếng la to “Tôi đầu hàng, tôi đầu hàng...
đừng bắn”. Liêm bèn lôi tên VC ra trói lại, lục soát trong hầm
lấy ngay 1 khẩu B40 không còn viên đạn nào hết.
Sau
1 giờ giao tranh, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đã làm chủ chiến trường,
địch quân bỏ lại tại trận 60 xác chết, 4 tên bị bắt sống, tịch
thu 1 súng cối 61ly, 4 trung liên nồi, 11 súng B40 & B41, và 44
AK47. TĐ5ND có 4 chiến sĩ bị hy sinh, 7 bị thương. Về phía Mỹ
có 6 chiếc trực thăng bị hư hại, và 7 phi công cùng xạ thủ đại liên
bị thương.
Cùng lúc với TĐ5ND chạm địch mạnh, BCH Chiến
Đoàn và TĐ6ND do Thiếu tá Vũ Thế Quang làm Tiểu đoàn trưởng cũng
được đổ xuống 1 trảng trống xa về phía Bắc của TĐ5ND chừng
1.5km. Sau khi đáp xuống đất, cánh quân này dàn đội hình tác
chiến tiến về phía trận địa của TĐ5ND lục soát. Tuy không chạm
địch nhưng các chiến sĩ Nhảy Dù đã khám phá ra 1 nông trại của
Việt cộng với 2 căn nhà bỏ trống có dấu vết người vừa bỏ chạy,
chung quanh nông trại nhiều khoai mì, rau đậu xanh tốt với gà vịt
nuôi trong chuồng.
Sau đó 2 đơn vị được lệnh bung rộng
ra lục soát chung quanh trận địa. Khoảng 3:00g, Trực thăng Tản
thương đến bốc các thương binh và tử sĩ, những chiếc
Skycrane đến câu những chiếc trực thăng bị hư đi. Trên trời Trực
thăng Võ trang Cobra vẫn bao vùng.
Khoảng 5:00g chiều,
3 chiếc trực thăng UH1B chở phái đoàn của Đại tướng Craigton
Abram, Tư lệnh Quân Đội Mỹ tại Việt Nam xuống thị sát mặt trận
và thăm Chiến Đoàn I ND. Thiếu tá Ngô Quang Trưởng thuyết trình
về diễn tiến trận chiến cùng mời phái đoàn quan sát từng đống vũ
khí tịch thu của địch và những xác Cộng quân bỏ lại chiến
trường. Trong lúc Đại tướng Abram đang ngỏ lời ngợi khen đến
Trung tá Trương Quang Ân và Thiếu tá Ngô Quang Trưởng cùng các
chiến binh Nhảy Dù trong trận chiến vừa rồi, và chíếc skycrane
còn đang câu 1 chiếc trực thăng cuối cùng thì các toán tiền
đồn của Tiểu Đoàn 5ND báo cáo dồn dập Cộng quân đã trở lại rất
đông. Sau đó Cộng quân bắt đầu nã tới tấp đạn cối 82ly vào vị
trí đóng quân, thế là phái đoàn của Đại tướng Craigton lên phi
cơ cùng chiếc skycrane bay đi luôn bỏ lại chiếc trực thăng cuối
cùng.
Sau loạt pháo, Cộng quân bắt đầu ào ạt tấn công vào
Lực Lượng Nhảy Dù. Nhưng nhờ những công sự sẵn có của Cộng quân
để lại, các chiến sĩ Nhảy Dù chỉ cần tu bổ qua loa là có ngay vị
trí chiến đấu rất tốt chống trả, bất chấp các đợt xung phong của
địch quân.
Từ lúc khởi đầu cuộc tấn công khoảng 6:00g
chiều đến 5:00g sáng ngày hôm sau, Cộng quân đã 11 lần xung
phong. Mỗi lần tấn công, Cộng quân đã thổi kèn đồng thúc quân và
là mỗi lần chúng nhận kết quả thảm khốc, thêm 1 số nhân mạng
rơi rụng trước hỏa lực phản kích của chiến binh Nhảy Dù và hỏa
lực yểm trợ nồng nhiệt của những chiếc gunship cobra luân phiên
bao vùng suốt sáng. Thời gian này, mỗi Trung Đội Nhảy Dù chỉ
được trang bị 3 hay 4 khẩu AR15 còn lại đều sử dụng Garant M1,
Carbine M2, tiểu liên Thompson... trong khi các đơn vị CS được
trang bị AK47 tốt hơn rất nhiều. Nhưng nhờ tinh thần kỷ luật,
tác chiến dũng mãnh, cộng thêm 1 chút tự hào “Thiên Thần Sát
Địch” các chiến binh Nhảy Dù đã kiên cường chiến đấu và đã chiến
thắng oanh liệt.
Khoảng 8:00g tối, sau 2 đợt xung
phong của địch quân, Trung tá Trương Quang Ân, Chiến đoàn trưởng
điều động Tiểu Đoàn 6ND bảo vệ phía sau mặt trận để ngăn ngừa
địch quân đánh bọc hậu, và sau đó Ông cho lệnh Trung Đội Công
Binh Dù phá hủy chiếc trực thăng còn bỏ lại ngoài bãi bốc. Thiếu
uý Thọ phái 4 HSQ là 4 Trung sĩ Trần Đỗ Phương, Nguyễn Văn
Thìn, Hoàng Hiến, và Nguyễn Hữu Viên gom 200 bánh thuốc nổ TNT,
dây chuyền nổ, ngòi nổ điện, chờ cho địch quân ngớt tấn công,
chạy thật nhanh đến chiếc trực thăng, đặt chất nổ vào các vị trí
quan trọng, cấm ngòi nổ rồi chuyền dây chuyền nổ đến vị trí ẩn
núp an toàn. Mọi việc được tiến hành trong khoảnh khắc. Sau khi
kích hỏa, 1 tiếng nổ kinh hồn, mặt đất rúng động như 1 cơn
địa chấn, chiếc trực thăng hoàn toàn biến mất.
Khoảng
2:00g sáng Ngày 10/2/1965, Cộng quân thay đổi chiến thuật,
tập trung quân số dồn mọi hỏa lực tấn công vào 1 vị trí phòng
thủ của 1 Trung Đội/TĐ5ND khiến cho Trung Đội này bị nhiều
thiệt hại. Sau đó BCH/Chiến Đoàn điều động 1 Đại Đội của TĐ6ND
sang tăng cường cho TĐ5ND trám vào lỗ hổng này.
Đến 5:00g sáng, kèn thúc quân của CS lại vang lên như điệu ru ma quái
ai oán, những con thiêu thân yếu ớt gom tàn lực xung phong giờ
chót vào bức tường đồng phòng thủ vững chắc của Chiến Đoàn Nhảy
Dù. Đây là cố gắng lần thứ 11 cũng là cuối cùng của lực lượng
Cộng quân. Sau 5:00g sáng không còn nghe tiếng kèn đồng nữa
và tiếng súng cũng im bặt như lũ âm binh sợ ánh nắng mặt trờì
phải tháo chạy.
Khoảng 7:00g sáng, TĐ5ND tung quân ra
lục soát quanh tuyến phòng thủ. Một cảnh tượng không thể ngờ
được, hàng trăm xác Cộng quân tràn ngập chung quanh tuyến phòng
thủ, đầy dẫy hàng trăm vũ khí đủ loại từ AK47, súng trường CKC,
súng chống Chiến Xa B40, B41 đến trung liên nồi, đại liên
12.8ly, cối 61ly, đạn dược quân trang quân dụng nhiều vô kể. Các
chiến sĩ Dù đã gom lại thành từng đống từng đống...
Khoảng 8:30g, 3 chiếc trực thăng H34 của Không Quân VNCH chở
phái đoàn của BTL/QĐIII, BTL/LĐND, và phái đoàn Báo Chí tại Thủ
đô
Sài Gòn đến thăm đơn vị Nhảy Dù vừa chiến thắng và nhìn tận mắt
bãi chiến trường đã gây thiệt hại nặng nề cho 2 Trung Đoàn
Q761 và Q762 cộng sản Bắc Việt.
Sau khi các phái đoàn
thăm hỏi, ủy lạo, và quan sát chiến trường cùng chụp nhiều hình
ảnh sống thực để đưa lên trang báo, lên trực thăng ra về, Chiến
Đoàn I Nhảy Dù cũng lui binh. Theo báo chí Hoa Kỳ tường trình
lại, trong trận này, Thiếu tá Trưởng và Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đã
cứu được vị sĩ quan Cố vấn Tiểu Đoàn, Đại uý Thomas B.
Throckmorton là con trai của Trung tướng John L. Throckmorton,
Tư lệnh phó cho Đại tướng William Westmoreland, đương kim Tư
lệnh MACV. Khi lui binh, TĐ6ND đi đầu mở đường và TĐ5ND bọc hậu,
trên đường tiến quân Cộng quân đã cài nhiều chốt chận đường phục
kích, nhưng không chốt nào chịu đựng được quá 5 phút trước đà
tiến dũng mãnh của chiến binh Dù. Tiểu Đoàn 6 ND đã tiêu diệt
hàng chục chốt địch và tịch thu rất nhiều vũ khí. Đến 4:00g
chiều ngày 11/2/1965 Chiến Đoàn mới ra tới QL15.
Sau
chiến trận, 1 buổi lễ tuyên dương công trạng Chiến Đoàn I và
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù được tổ chức trọng thể tại tòa Hành Chánh
tỉnh Phước Tuy. Trong buổi lễ này Thiếu tá Ngô Quang Trưởng được
thăng cấp trung tá đặc cách tại mặt trận và Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc
Huân Chương, Thiếu uý Tôn Thất Hiếu, Sĩ Quan Truyền Tin, được
thăng cấp từ thiếu uý nhiệm chức lên thiếu uý thực thụ và 1 anh dũng bội tinh với nhành dương liễu.
Thiếu tá Ngô Quang Trưởng và Đại
uý Thomas B. Throckmorton
Hàng đoàn Trực Thăng UH1Ds tham gia chiến dịch đổ quân
Tài liệu tham khảo:
– Phỏng vấn các
chiến hữu Nhảy Dù.
– Email hồi báo của Trung tá Tôn Thất
Hiếu, Trưởng Phòng TT/SĐND kiêm TĐT–TĐTT SĐND.
– “The
Most Brilliant Commander”: Ngo Quang Truong, This article was
written by James H. Willbanks and originally published in the
December 2007 issue of Vietnam Magazine.
******12******
12.
Trận Ba Gia (28/5/1965 – 2/6/1965)
Trận
Ba Gia
(từ Ngày
28/5/1965 – Ngày 2/6/1965)
Đất Quảng Ngãi, xưa thuộc bộ Việt
Thường, 1 trong 15 bộ của nước Văn Lang. Cuối đời Hán bị quân Lâm
Ấp chiếm, sang đến đời Tống thuộc
Cổ Lũy Động của Chiêm Thành.
Năm Nhâm Ngọ 1402, Hồ Quý Ly sai
tướng Đỗ Mẫn đem 15 ngàn binh thủy bộ chinh phạt Chiêm Thành. Vua
Chiêm là Ba Dịch Lai phải dâng đất Chiêm Động (phủ Thăng Bình, Quảng
Nam) và Cổ Lũy Động (Quảng Ngãi) xin bãi binh. Hồ Quý Ly chia đất
này thành 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Đặt lộ Thăng Hoa cai quản
4 châu. Năm 1414 nhân lúc Việt Nam bị nhà Minh đô hộ, Chiêm Thành
đánh lấy lại vùng đất này. Năm Tân Mão 1471, Vua Chiêm là Trà Toàn
sang quấy phá vùng biên giới, vua Lê Thánh Tôn đem 20 vạn quân thủy
bộ ngự giá thân chinh, quân Chiêm phải rút lui về cố thủ tại Trà
Bàn. Vua Lê ra lệnh vây hãm cửa Thị Nại. Ngày 26 tháng 2 Âm Lịch,
vây Trà Bàn, và bắt được vua Chiêm. Từ đó Chiêm Thành thần phục nước
ta. Vua Lê Thánh Tôn lấy đất Đồ Bàn và Cổ Lũy lập ra Đạo Quảng Nam.
Quảng Ngãi là 1 trong 3 phủ thuộc Đạo Quảng Nam và thay đổi tên
nhiều lần qua các triều đại như Phủ Quảng Nghĩa (1558), Phủ Hòa Nghĩa
(1788).
Đời nhà Nguyễn Tây Sơn (1788–1802) cải Quảng Nghĩa
thành Hóa Nghĩa phủ. Năm 1802, Gia Long đặt Quảng Nghĩa dinh rồi đổi
Quảng Nghĩa trấn vào năm 1808. Đời Minh Mạng đặt là tỉnh Quảng Nghĩa
vào năm 1834.
Trước năm 1975 Quảng Ngãi có 10 Quận: Bình
Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ, Trà Bồng, Sơn
Hà, Minh Long, và Ba Tơ. Quảng Ngãi có các cửa biển Sơn Trà, Sa Kỳ,
Đại Cổ Lũy, Mỹ Ý, Sa Huỳnh, và hải đảo Lý Sơn hay Hòn Ré. Các sông
chính chảy qua tỉnh là sông Trà Khúc, sông Trà Bồng, và sông Vệ. Núi
Thiên Ấn là thắng cảnh đẹp nhất tỉnh Quảng Ngãi, thuộc xã Sơn Long,
gần sông Trà Khúc, cao 105m (315 ft). Trên đỉnh bằng phẳng ước chừng
10 mẫu tây, 4 mặt vuông phẳng trông như cái ấn. Năm 1850, vua Tự
Đức đã liệt Núi Thiên Ấn vào hàng danh sơn và sông Trà Khúc vào hàng
đại xuyên (con sông lớn). Núi Ấn soi mình xuống dòng sông Trà như
dấu ấn của trời đóng xuống dòng sông.
Tỉnh Quảng Ngãi nằm ở
vùng duyên hải miền Trung Việt Nam, phía Bắc vĩ tuyến 15 cách Sài
Gòn 838 cây số với nhiều núi đồi, gò cao, thung lũng, và biển cả. Núi
rừng chiếm gần 2/3 diện tích tỉnh, lưng tựa vào dãy Trường Sơn, mặt
hướng ra biển Đông, phía Bắc giáp Quảng Tín, phía Nam giáp Bình
Định, phía Tây giáp Kontum. Bờ biển Quảng Ngãi dài 135km (84
miles), ngoài khơi có đảo Lý Sơn (Cù lao Ré). Miền đồng bằng đất đai
phần lớn là phù sa nhiều cát. Tổng diện tích 513,520 mẫu tây, Quốc
lộ 1 chạy xuyên qua tỉnh, Quốc lộ 24 nối Quảng Ngãi với Tây Nguyên,
Lào, và vùng Đông–Bắc Thái Lan.
Ba Gia (có nơi đọc là Ba Giá)
là 1 đồn nhỏ nằm trên ngọn đồi có tên là Gò Cao cạnh Tỉnh lộ 5 bên
bờ sông Trà Khúc, cách thị xã Quảng Ngãi khoảng 12km về phía Tây–Bắc
thuộc Quận Sơn Tịnh. Ba Gia, Sơn Hà, và Trà Bồng là 3 Cứ điểm phòng
ngự phía Tây của tỉnh Quảng Ngãi. Đồn Ba Gia do 1 Đại Đội Địa
Phương Quân trấn giữ với 2 Khẩu Đội Pháo Binh 105ly.
Năm 1960
Đồn Ba Gia đã bị cộng sản tràn ngập và sau khi Không Quân oanh tạc,
Quân Lực VNCH mới tái chiếm được. Đến tháng 5/1965 Bộ Tư Lệnh Quân
Khu 5 cộng sản tấn công vào Đồn Ba Gia để mở màn cho chiến dịch mùa
Hè trong khu vực Quảng Ngãi và Kontum.
Lực lượng địch:
– Quân Khu 5 cộng sản do Tướng Nguyễn Đôn làm Tư lệnh.
–
Sư Đoàn 3 Sao Vàng,
Tư lệnh
là Tướng Nguyễn Phú Thứ chỉ huy trực tiếp mặt trận.
– Trung
Đoàn 1 Chủ Lực Quân Khu 5 với 3 Tiểu Đoàn 40, 60, và 90.
–
Tiểu Đoàn 45 Biệt lập.
– Tiểu Đoàn 83 địa phương.
Lực lượng Bạn:
– Trung Đoàn 51BB. (Trung đoàn
trưởng:
Trung tá Nguyễn Thọ Lập).
– Chiến Đoàn B TQLC (Thiếu tá Tôn
Thất Soạn).
– Tiểu Đoàn 1 TQLC (Thiếu tá Soạn kiêm nhiệm).
– Tiểu Đoàn 3 TQLC (TĐT: Thiếu tá Nguyễn Thế Lương).
– TĐ37 BĐQ
(Tiểu đoàn trưởng: Thiếu tá Sơn Thương).
– TĐ5ND (Tiểu đoàn
trưởng: Thiếu tá Nguyễn Khoa Nam).
– 2 Tiểu Đoàn Pháo Binh
105ly và 155ly.
Diễn Tiến:
Theo
tin tức tình báo, Tướng VC Nguyễn Đôn Tư lệnh Quân Khu 5 cộng
sản phát động chiến dịch mùa Hè bằng cách lập kế hoạch tấn chiếm
tỉnh Quảng Ngãi. Trực tiếp chỉ huy mặt trận này là Thiếu tướng
VC Nguyễn Phú Thứ, Sư đoàn trưởng Sư Đoàn 3 Sao Vàng. Bộ Chỉ Huy
mặt trận của VC đặt tại Phú Sơn, 1 tiền đồn bỏ hoang của QLVNCH.
Mở đầu chiến dịch CSBV tấn công Đồn Ba Gia để làm “điểm”
chính và chận đánh quân tiếp viện làm “diện” rồi sau đó thừa thế
tấn chiếm luôn tỉnh Quảng Ngãi.
Lực lượng Cộng quân tham
dự trận tấn công Ba Gia gồm Trung Đoàn 1 Chủ lực Quân Khu 5 CSBV
với 3 Tiểu Đoàn 40, 60, và 90 được tăng cường thêm Tiểu Đoàn
biệt lập 45 và Tiểu Đoàn 83 địa phương. Ngày 28/5/1965 Cộng
quân huy động 1 Trung Đoàn tấn công vào Đồn Ba Gia, cách tỉnh lỵ
Quảng Ngãi 12km về phía Tây–Bắc.
Trước hết 1 đơn vị cộng sản địa phương tấn công 1 đồn Nghĩa
Quân tại làng Phước Lộc. Tiểu đoàn trưởng TĐ1/51 BB chỉ huy 2
Đại Đội từ Ba Gia đi tiếp viện. Đơn vị Bộ Binh này đã lọt ổ phục
kích của Tiểu Đoàn 90 CSBV tại Lộc Thọ. Tiểu Đoàn 1/51 đã chống
trả quyết liệt nhưng vì địch quân quá đông nên đơn vị bị thiệt
hại nặng chỉ còn 65 Binh sĩ và 3 Cố vấn Mỹ lọt khỏi vòng vây. Và
sau đó khoảng 4:00g sáng Cộng quân đã xua quân tấn chiếm từ 4 phía vào
Đồn Ba Gia. Trong khi địch quân vẫn tiếp tục pháo
kích tới tấp vào đồn nên các khẩu pháo 105ly không hoạt động
được. Lực lượng trú phòng cố gắng chống trả nhưng áp lực của
địch quân quá đông và hỏa lực quá mạnh. Quân trú phòng cầm cự
đến 6:00g sáng thì Căn cứ bị tràn ngập. Đến 8:00g phi cơ
đã oanh tạc bom lửa Napalm vào trong đồn. Ít nhất 2 Đại Đội
Cộng quân đã bị tiêu diệt.
Hành Quân Tự Lực Giai
đoạn 1
Lực lượng phòng thủ đồn do 1 Đại Đội
Địa Phương Quân trấn đóng, và 2 Khẩu Đội 105ly. Trước áp lực quá
nặng của địch, đơn vị trú phòng đã phải rời bỏ vị trí phòng ngự.
Ngay sau đó, Thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Quân Đoàn I
đã mở cuộc Hành Quân Tự Lực, điều động Trung Đoàn 51 Bộ Binh
Biệt lập, Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân thống thuộc Quân Đoàn I,
và Tiểu Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến – đơn vị tăng phái đang hành
quân tại Quảng Nam – khẩn cấp tăng viện để tái chiếm Đồn Ba Gia.
Sáng Ngày 30/5/1965, 3 cánh quân với TĐ3 TQLC là nỗ lực
chính tiến dọc theo Tỉnh lộ 5 (từ Sơn Tịnh đi Sơn Hà) hướng tiến
về Ba Gia. Trong khi TĐ37 BĐQ theo đường An Thuyết, Vĩnh Lộc,
Vĩnh Khánh tiến chiếm núi Chóp Nón, và Trung Đoàn 51 Bộ Binh theo
hướng Phước Lộc tiến chiếm Mã Tổ.
Đến trưa thì mũi tiến
quân của BĐQ bắt đầu chạm địch. Sau nhiều giờ giao tranh,
TĐ37 BĐQ đã chiếm được Chóp Nón, đánh tan Tiểu Đoàn 90 CSBV tịch
thu trên 200 súng cá nhân và hàng trăm xác địch. Trong lúc đó,
TĐ60 CSBV từ Vĩnh Lộc chận mũi tiến công của TĐ3 TQLC, trận chiến
diễn ra ác liệt, TĐ3 TQLC bắt được lệnh hành quân của địch với 4
mục tiêu: Chiếm Đồn Ba Gia; tiêu diệt các đơn vị tiếp viện; đánh
bại Lực Lượng Tổng Trừ Bị của QK1; và dụ Mỹ đưa quân vào tiếp
viện rồi tiêu diệt.
TĐ40 CSBV cũng đã tấn công vào trục
tiến quân của Trung Đoàn 51BB. Đơn vị CS này vừa từ Đỗ Xá kéo
đến thì đụng đầu với cánh quân của Trung Đoàn 51BB do Trung tá
Nguyễn Thọ Lập chỉ huy.
Chiến trận kéo dài đến 4:00g
chiều thì tiếng súng thưa dần. Lực lượng tiếp ứng đã gây thiệt
hại nặng cho địch quân. Nhưng sau đó khoảng vài giờ, CQ đã huy
động thêm lực lượng, dùng đại bác 57ly và súng cối 82ly tác xạ
để yểm trợ cho Bộ Binh tấn công vào TĐ3 TQLC, TĐ37 BĐQ để ngăn
chận cuộc phản công của các đơn vị VNCH. Trận chiến kéo dài suốt
đêm, tổn thất đôi bên đều bị thiệt hại nặng.
Khởi đầu,
tuyến phòng thủ Đại Đội 4 TQLC chịu áp lực nặng nhất của địch
quân, 1 vài nơi phòng tuyến đã bị chọc thủng. Đại Đội 2 được
điều động tăng cường phản công. Suốt đêm Cộng quân lại tấn công
thêm 1 vài lần nữa nhưng bị đẩy lui. Đồng lúc đó, quân Tiểu
Đoàn 45 cộng sản áp dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung tấn công
vào đồi Chóp Nón do Tiểu Đoàn 37 BĐQ chiếm giữ từ ngày hôm
trước. Đến 3:00g sáng ngày 31/5 thì Cứ điểm này bị tràn ngập.
Đến sáng ngày hôm sau Lực Lượng Tiếp Viện đã thấy nhiều xác
chết của binh sĩ đôi bên rải rác trên sườn đồi với dấu vết của
nhiều đạn pháo kích. Trong trận này Tiểu Đoàn 37 BĐQ tổn thất
108 thương vong. Để tăng cường lực lượng giải tỏa áp lực địch,
Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH đã điều động Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn B và
Tiểu Đoàn 1 TQLC từ Sài Gòn ra Quảng Ngãi.
Trận
tái chiếm Ba Gia Giai đoạn 2
Ngày 1/6/1965,
ngay sau khi đến nơi, Chiến Đoàn B/TQLC gồm 2 Tiểu Đoàn 1 và 3
đã cùng với Trung Đoàn 51 Bộ Binh khởi động giai đoạn 2
của cuộc phản công. Tiểu Đoàn 1 TQLC do Thiếu tá Tôn Thất Soạn
làm Tiểu đoàn trưởng kiêm nhiệm Chiến đoàn trưởng, được trực
thăng vận xuống vùng hành quân thay thế Tiểu Đoàn 37 BĐQ (đơn vị
BĐQ này đã đánh bại Tiểu Đoàn 90 CSBV đẩy địch quân ra khỏi mục
tiêu Chóp Nón, tịch thu hơn 200 vũ khí nhưng sau đó địch đã dồn
lực lượng chọc thủng phòng tuyến, Tiểu Đoàn bị tổn thất 108 binh
sĩ, chưa kịp tản thương và bổ sung đạn dược nên phải dời về
tuyến sau.) Và Tiểu Đoàn 3 TQLC do Thiếu tá Nguyễn Thế Lương làm
Tiểu đoàn trưởng. Trong giai đoạn này chỉ có những cuộc chạm
súng lẻ tẻ không đáng kể. Các đơn vị lục soát quanh khu vực Căn
cứ Ba Gia, 1 ĐĐ/ĐPQ được đưa tới tái chiếm và sửa chữa vị trí
phòng thủ của đồn. 2 khẩu pháo 105ly cũng được thay thế.
Liên Kết 66: Chiến Đoàn B và Tiểu Đoàn 5 Nhảy
Dù tại mặt trận Ba Gia, giai đoạn 3:
Sau khi giai đoạn 2
kết thúc, tin tức tình báo ghi nhận từ 1 cán binh VC thuộc
Sư Đoàn 3 Sao Vàng ra hồi chánh đêm trước cho biết: địch tuy bị
thiệt hại trong mấy ngày qua, nhưng vẫn chưa từ bỏ ý định tấn
chiếm Quảng Ngãi. Lực Lượng Tiếp Viện là đại bộ phận của
Sư Đoàn 3 Sao Vàng CSBV đã tiến về hướng Tây–Bắc của Đồn Ba Gia và Núi
Tròn.
Để vô hiệu hóa kế hoạch và ý đồ của địch, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I
quyết định điều động Chiến Đoàn B/TQLC mở cuộc hành quân “Liên
Kết 66” truy kích, trong đợt này Chiến Đoàn B được tăng cường
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù do Thiếu tá Nguyễn Khoa Nam làm Tiểu đoàn
trưởng. (Thật sự, Thiếu tướng Thi đã xin tăng viện 2 Tiểu Đoàn
Nhảy Dù Việt Nam và 1 Tiểu Đoàn TQLC của Hoa Kỳ nhưng yêu cầu
của Thiếu tướng Thi không được đáp ứng hoàn toàn)
Nỗ lực
chính của cuộc hành quân là Tiểu Đoàn 1 TQLC và Tiểu Đoàn 5 Nhảy
Dù, riêng Tiểu Đoàn 3 TQLC làm thành phần trừ bị.
Theo kế
hoạch, Tiểu Đoàn 1 TQLC từ vị trí đóng quân đêm ở Ba Gia được
đoàn trực thăng của TQLC Hoa Kỳ không vận xuống bãi đáp 1 để
tiến chiếm 2 mục tiêu A và B ở hướng Bắc và Tây–Bắc Đồn Ba Gia. Sau khi Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn B và Tiểu Đoàn 1 TQLC hoàn tất
cuộc đổ quân, đoàn trực thăng quay về phi trường Quảng Ngãi để
bốc Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù trực thăng vận xuống bãi đáp 2, chiếm 2 mục tiêu C và D ở hướng chính Bắc của
Đồn Ba Gia, nằm giữa Ba Gia và các mục tiêu A, B với mục đích
càn quét tất cả các đơn vị Cộng quân còn lẩn khuất trong vùng từ
Đồn Ba Gia lên tận sông
Trà Bồng ở phía Bắc kéo dài ra tới Quốc lộ 1.
Ngày
2/5/1965, 7:00g sáng Ngày N, Thiếu tá Tôn Thất Soạn,
Chiến đoàn trưởng, ngồi trên Trực thăng Chỉ Huy, bay bao vùng và chọn lựa
bãi đáp để đổ quân, hộ tống chuyến bay có 2 Trực thăng Võ trang (gunships). Để tạo yếu tố bất ngờ, Chiến Đoàn không dùng
phi pháo để dọn bãi đáp và bắn vào các mục tiêu. Đến giờ G, trực
thăng lần lượt đổ quân từng Đại Đội của Tiểu Đoàn 1 TQLC xuống
bãi đáp và ồ ạt chiếm mục tiêu.
Địch quân phản ứng dữ dội
trong các giao thông hào, sau 1 giờ giao tranh, các đơn vị
TĐ1 TQLC cũng làm chủ chiến trường tiến chiếm mục tiêu A và B.
Các đơn vị báo cáo: tịch thu nhiều vũ khí, 1 số Cộng quân đang
chạy về mục tiêu C.
Cánh quân của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù
cũng vừa xuống bãi đáp, Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Khoa
Nam tung 2 Đại Đội đi đầu tiến chiếm bìa làng mục tiêu C, địch
quân đã chuẩn bị nghinh chiến trong các công sự phòng thủ kiên
cố và chống trả ác liệt. Các Thiên Thần Mũ Đỏ không hề nao núng,
đã dàn đội hình thần tốc xung phong chiếm mục tiêu, địch hoảng
sợ bỏ chạy tán loạn. Các chiến sĩ Nhảy Dù đã phá tan đội hình
kháng cự của địch, thu được 1 số vũ khí, có 1 số binh sĩ
TQLC đang tràn qua mục tiêu C để thu lượm chiến lợi phẩm, Thiếu
tá Nam đã yêu cầu BCH Chiến Đoàn tránh ngộ nhận. Cuối cùng Cánh
A Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù chiếm xong mục tiêu C trong vài giờ giao
tranh. Tiếp theo đó, Tiểu Đoàn 5ND tung cánh B của đơn vị này
tiếp tục tấn chiếm mục tiêu D, thu thêm 1 số vũ khí, phát giác
nhiều hầm hố địch. Đơn vị Nhảy Dù có 3 tử thương, 7 bị thương.
Sau nửa ngày quần thảo với địch quân, Tiểu Đoàn 1 TQLC và Tiểu
Đoàn 5 Nhảy Dù đã hoàn toàn chiếm xong các mục tiêu. Tổng kết: 2
đơn vị Dù và TQLC có 10 chiến binh hy sinh, 22 bị thương, vũ khí
bảo toàn. Về phía CQ có khoảng 100 xác nằm rải rác trên trận
địa, 85 vũ khí bị tịch thu. Sau giai đoạn 3, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù
rút khỏi hệ thống của Chiến Đoàn B/TQLC. Và TĐ1 TQLC tiếp
tục hành quân yểm trợ cho 1 Đại Đội Địa Phương Quân tái chiếm
Quận Sơn Hà.
Tổng kết:
• Thiệt
hại về phía VNCH có 80 tử thương, bị thương, và mất tích khoảng
312, mất 446 súng cá nhân.
• Về phía CSBV ghi nhận có 556 bỏ
xác tại trận, 37 tù binh.
Triển lãm chiến lợi phẩm
Tài liệu tham khảo:
1. Việt Nam: 1 Trời Tâm Sự của Trung tướng Nguyễn Chánh
Thi, nxb Anh Thư California.
2. Chiến Đoàn B/TQLC và TĐ5ND
truy kích Cộng quân ở Ba Gia năm
1965 của Mũ Xanh Tôn Thất Soạn.
3. Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim.
4. Chiến Tranh Việt
Nam Toàn Tập của Nguyễn Đức Phương nxb Làng Văn năm 2001.
******13******
13.
Trận Đồng Xoài (9–20/6/1965)
Trận
Đồng Xoài
(9–20/6/1965)
Thị trấn Đồng Xoài thuộc tỉnh
Phước Long, cách Sài Gòn khoảng 88km về hướng Tây–Bắc, tọa lạc ngay
giữa lòng Chiến khu D của VC, và
là
giao điểm của những con đường quan trọng. Đây là nơi đặt các cơ sở
của Quận và Chi Khu Đôn Luân. Ngoài Đại Đội 111 Nghĩa Quân & Địa
Phương Quân, 1 Chi Đội Thiết Giáp và 2 khẩu Pháo Binh 105ly bảo vệ
cơ sở quân sự; Đồng Xoài cũng có 1 Căn cứ tân lập của Lực Lượng
Đặc Biệt nhằm kiểm soát sự xâm nhập của CS, 1 Cứ điểm chiến lược
có thể chế ngự toàn vùng. Khu vực quân sự tại Đồng Xoài nằm ngay góc
Tây–Bắc giao lộ của QL14, Liên tỉnh lộ 13, và LTL1A gồm 4 khu riêng
biệt: Quận đường, Trại Pháo Binh, và Thiết Giáp, Trại Lực Lượng Đặc
Biệt, và khu Gia binh.
Ngày 25/5/1965 đơn vị Biệt Đội A342 của Lực
Lượng Đặc Biệt và
các Cố vấn Mỹ hoàn tất việc di chuyển vào Căn cứ này khi doanh
trại vừa được xây xong. Trong Căn cứ gồm có 8 Cố vấn Mỹ của Quận
Đôn Luân, 10 quân nhân của Toán LLĐB–Hoa Kỳ A342, 8 của toán
Công Binh Ong Biển, 10 LLĐB–VN của toán A351 cùng 2 Đại Đội
327 & 328 Dân Sự Chiến Đấu khoảng 400 người đa số là Cambodian.
Kể từ ngày Lực Lượng Đặc Biệt đến, doanh trại này liên tục
chịu các cuộc tấn công thăm dò và quấy rối bằng súng cối của
Việt cộng. Trong khi đó lần đầu tiên trên chiến trường Việt Nam,
Cộng quân tập trung 3 Trung Đoàn của Công Trường 7 vào trận địa
(2 Trung Đoàn Q762 và Q763 (tân lập) mở mặt trận chính tại đồn
điền và sân bay Thuận Lợi để đón đánh viện binh, Trung Đoàn Q761
tấn chiếm Quận lỵ và Cứ điểm LLĐB để chiếm Quận Đôn Luân (Đồng
Xoài), và dàn quân đợi các lực lượng tiếp cứu đến để tiêu diệt.
Chi Khu Đôn Luân
Lực lượng tham chiến:
Lực
lượng địch:
Lực lượng cộng quân tham chiến
là Sư Đoàn tân lập Công Trường 7 VC gồm khoảng trên 2,000 quân
với 3 Trung Đoàn Q761, Q762, và Q763 do Lê Trọng Tấn chỉ huy.
Trong đó có Trung Đoàn Q763 vừa mới thành lập.
Ngoài ra
còn có 1 Tiểu Đoàn Pháo và 1 Tiểu Đoàn Cơ Động địa phương
của tỉnh Phước Thành trợ lực. Trước ngày tấn công, các cán bộ CS
tuyên huấn với các cán binh rằng họ sẽ dứt điểm Đồng Xoài trong
vòng 90 phút.
Lực lượng Bạn:
– Đại Đội 111 Địa Phương Quân thuộc Chi Khu Đôn Luân.
– Trại Lực Lượng Đặc Biệt Đôn Luân.
– Tiểu Đoàn 1/Trung
Đoàn 7/SĐ5BB.
– TĐ52 BĐQ do Đại uý Hoàng Thọ Nhu làm Tiểu
đoàn trưởng.
– 1 Pháo Đội 2 khẩu 105ly.
– Tiểu
Đoàn 7ND do Đại uý Nguyễn Tấn Nhâm vừa nhậm chức TĐT 1 tuần
lễ, Đại uý Vũ Văn Hải TĐP kiêm ĐĐT Đại Đội 73, Đại uý Nguyễn Văn
An Trưởng Ban 3, Trung uý Nguyễn Trọng Hợp ĐĐT/ĐĐ70, Trung uý
Nguyễn Trọng Kỳ ĐĐT/ĐĐ71, Đại uý Trương Điền ĐĐT ĐĐ72, và Đại uý
Lê Văn Phát ĐĐT Đại Đội 74.
– Đại Đội 118th Trực
Thăng/Tiểu Đoàn 145th/Lữ Đoàn 1st Aviation Brigade trực thăng
vận.
Diễn Tiến
Đêm 9/6/1965 trận
Đồng Xoài bắt đầu. Từ các vườn cao su chung quanh Chi Khu Đôn
Luân, Cộng quân áp dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung, với quân
số trên 2,000 tấn công tràn ngập Đồng Xoài.
Lúc 21:00g, trạm gác
phi trường báo cáo Việt cộng xâm nhập chu vi phòng
thủ. 23:00g hàng loạt đạn súng cối rơi vào các Căn cứ quân
sự. Sau đó khoảng nửa giờ Cộng quân chia thành nhiều mũi dùi tấn
công vào Đôn Luân:
– Mũi thứ nhất tiến qua ngả phi trường
rồi tấn công vào khu Gia binh và Đại Đội Địa Phương Quân. Lực
lượng trú phòng phản công quyết liệt với sự trợ giúp của Lực
Lượng Đặc Biệt, Cộng quân bị tổn thất nặng. Nên khi chiếm được
khu Gia binh họ đã tàn sát khoảng 200 người đàn bà và trẻ con là
những thân nhân và gia đình binh sĩ.
– Mũi thứ nhì Cộng
quân tập trung quân số khoảng 1,500 người, chia thành 2 mũi tấn
công biển người với ít nhất 7 khẩu đại liên 50 (do các phi công
trực thăng nhận diện được) và súng phun lửa tràn ngập Trại LLĐB.
Trong trại có 18 quân nhân Mỹ và 2 Đại Đội 327 & 328 Dân Sự
Chiến Đấu, bị yếu thế trước hỏa lực quá mạnh của VC nên đã rút
quân vào Quận đường Đôn Luân.
– Mũi thứ 3 từ 2 hướng
Đông–Nam và Nam tấn công vào xóm đạo Đồng Xoài (Ấp chiến lược)
rồi tràn sang khu Thiết Giáp, hơn phân nửa số xe Thiết Giáp bị
hư hại, Cộng quân chiếm được 2 chiếc và dùng 2 khẩu đại liên
50 trên xe này yểm trợ cho quân bộ chiến, về sau những xe này bị
phi cơ bắn hạ tại Quận đường. Nghĩa quân của xóm đạo Đồng Xoài
đã tử chiến trong đêm đến người cuối cùng.
Trong ngày
quân VC liên tục mở 4 đợt tấn công biển người nhưng vẫn không
chiếm được hoàn toàn Quận đường. Qua ngày hôm sau quân cộng sản
chiếm được phần lớn khu vực trận địa. Với những trận oanh kích
dữ dội của Không Quân Hoa Kỳ và VNCH yểm trợ, binh sĩ trú phòng
đã tử chiến trong doanh trại Chi Khu, 1 số chạy thoát và 1 số vẫn còn nằm cố thủ bên trong
Quận đường.
Sáng hôm sau,
QLVNCH điều động Tiểu Đoàn 1/7/SĐ5 Bộ Binh và Tiểu Đoàn 52 Biệt
Động Quân vào trận địa để tiếp viện. Đơn vị Trực Thăng 118AHC có
Căn cứ tại phi trường Biên Hòa với trên 125 trực thăng HU1B phụ
trách việc chuyển quân từ Phước Vĩnh đến Đồng Xoài.
Đúng
8:00g sáng ngày 10/6/1965, Tiểu Đoàn 1/7 BB (–) (gồm 2 Đại Đội và BCH/TĐ) vừa đáp xuống phía Nam đồn điền Thuận Lợi (ấp
Thuận Thiên) tại vị trí cạnh LTL1A và cách Quận đường khoảng
3km về hướng Bắc, bị lọt vào ổ phục kích mà Trung Đoàn Q763 đã
chuẩn bị trong khu rừng cao su với những công sự kiên cố nên bị
tổn thất nặng, Lúc 9:00g, 14 trực thăng UH1B cũng đã thả Đại
Đội thứ 3 của TĐ1/7 còn lại xuống sân bay trong đồn điền cao su
Thuận Lợi cũng bị mất tích luôn và 1 trực thăng bị thiêu hủy
hoàn toàn.
Buổi chiều ngày 10/6, trên 115 chiếc trực
thăng chuyển quân của Phi Đoàn 118 Trực Thăng Hoa Kỳ đã bốc Tiểu
Đoàn 52 BĐQ từ Phước Long đổ xuống sân vận động ngoài cửa Quận
Đôn Luân vào lúc 16:00g.
Vừa đáp xuống đất Tiểu Đoàn
52 BĐQ tiến vào Quận đường liền chạm ngay hỏa lực của VC trong 2 xe
Thiết Giáp (VC vừa chiếm được của ta khi tràn ngập Chi
Đội Thiết Giáp) tác xạ bằng đại liên 50 nên phải dạt ra chiếm
khu phố bên cạnh Quận đường. TĐ52 BĐQ đã gọi phi pháo triệt hạ 2 chiếc
Thiết Giáp này.
Không ảnh Chi Khu Đôn Luân
Đợt oanh tạc chấm dứt, kho đạn trong Quận đường phát nổ dữ dội.
Trung uý Trần Thanh Thủy chỉ huy Đại Đội 3 len lỏi tấn công vào
chiếm lại Quận đường. Vào khoảng 8:00g đêm kho đạn ngừng nổ thì
toàn thể Đại Đội 3/TĐ52 BĐQ đã bố trí sẵn sàng chung quanh hàng
rào phòng thủ của Quận để đợi Cộng quân từ 2 trại bên kéo trở
lại tiếp viện.
Sau đó TĐ52 BĐQ đã tấn công như vũ bão,
đánh tan tác 2 cánh quân này của VC và thừa thắng tràn lên
chiếm lại Căn cứ Lực Lượng Đặc Biệt, Pháo Binh, và tiêu diệt các
ổ kháng cự của VC quanh các khu phố.
Tuy nhiên TĐ52 BĐQ
cũng bị tổn thất nhiều, nên được lệnh bố trí tại Quận Đôn Luân
để Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù được trực thăng vận đến ngay buổi sáng
ngày 11/6 thay thế tiến lên truy kích địch về phía Thuận Lợi.
Trong số vũ khí Tiểu Đoàn 52 BĐQ tịch thu được, có hơn 50 súng
AK47 và 1 súng phun lửa Trung cộng, lần đầu tiên Cộng quân sử
dụng trong chiến trường Việt Nam.
Sáng sớm ngày
11/6/1965, Phi Đoàn Trực Thăng 118 Aviation trở lại Phước Vĩnh
với sự hộ tống của các Trực thăng Võ trang thuộc đơn vị 145 CAB
bốc Đại Đội 74 Nhảy Dù của Đại uý Lê Văn Phát thả xuống bãi đất
trống phía Tây–Nam Quận đường. Vừa đáp xuống đất Đại Đội 74 bung
rộng lục soát quanh ấp Đồng Xoài, vòng đai của Quận về phía Đông
rồi vòng lên phía Bắc tảo thanh các ổ kháng cự của VC. Đại Đội
74 Nhảy Dù đã tịch thu được 4 khẩu AK47 còn mới nguyên và bắt
được 1 tù binh còn trẻ, người Tàu ở Chợ Lớn. Đương sự khai có 2 Trung Đoàn VC tấn công
Quận lỵ Đồng Xoài hôm nay và Trung
Đoàn 1 do 1 người đàn bà chỉ huy.
Chiến trận tại đồn điền Thuận Lợi
Trong ngày toàn bộ Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù được tiếp tục thả xuống
tại phía Nam Quận đường an toàn. Sau đó TĐ7ND mở cuộc hành quân
đẩy lui lực lượng Cộng quân đang bao vây quanh Đồng Xoài. Địch
quân bị tổn thất nặng (tính đến ngày giờ này Cộng quân bị thiệt
hại ít nhất 2 Tiểu Đoàn bộ chiến khi giao tranh với các đơn vị
VNCH – theo lời xác nhận của các tù binh) rút khỏi Quận Đôn Luân
và mở 1 phòng tuyến mới tại đồn điền Thuận Lợi với 2 Trung
Đoàn Q762 và Q763.
Ngày 12/6/1965 Tiểu
Đoàn 7ND tiếp tục
giải tỏa áp lực địch quân về phía Bắc Quận lỵ dọc theo LTL1A lục
soát khu vực giao tranh ngày hôm trước tìm thấy nhiều xác chết
của quân sĩ TĐ1/7/SĐ5BB trong đó có vị Tiểu đoàn trưởng, đồng
thời cũng tìm thấy 1 quân nhân còn sống sót đang ẩn núp trong
bụi rậm. Phải mất gần trọn 1 ngày để thu dọn chiến trường dưới
cơn mưa tầm tã.
Ngày 13/6/1965 nhiều đồng bào từ hướng
đồn điền Thuận Lợi chạy về cho biết Cộng quân đang tập trung
quân số rất đông và chúng đã chuẩn bị phòng tuyến trong khu rừng
cao su để chờ lực lượng VNCH đến. Lúc 17:00g dưới thời tiết
ảm đạm của ngày mưa dầm, Đại uý Nhâm TĐT/TĐ7ND cho lệnh Tiểu
Đoàn tiến về phía Bắc đồn điền Thuận Lợi. Tiểu Đoàn 7 dàn đội
hình di chuyển theo 2 mũi dùi tấn chiếm phi trường Thuận Lợi
(xem phóng đồ): Cánh tiến quân chính dọc theo mạn phía Đông
LTL1A do Đại Đội 74 của Đại uý Lê Văn Phát dẫn đầu, tiếp theo
sau là Đại Đội 73 của Đại uý Vũ Văn Hải bọc hậu. Cánh phụ thứ 2 tiến song song về phía Đông của cánh chính do Đại Đội 71 của
Trung uý Nguyễn Trọng Kỳ dẫn đầu; Đại Đội 70 của Trung uý Nguyễn
Trọng Hợp với Trung Đội vũ khí nặng và BCH/Tiểu Đoàn đi trung
quân, Đại Đội 72 của Đại uý Trương Điền bảo vệ sườn bên trái.
Khi TĐ7ND tiến gần đến sân bay đồn điền Thuận Lợi khoảng
200m, các đơn vị tiền sát báo cáo có 1 số VC lẩn khuất trước
mặt và tần số
âm thoại liên lạc luôn bị khuấy rối; theo kinh nghiệm chiến
trường Đại uý Lê Văn Phát dự đoán chắc chắn sẽ có đánh lớn vì
Cộng quân nghi binh để dẫn dụ quân ta vào trận thế của chúng nên
đã đề nghị với Tiểu đoàn trưởng xin Pháo Binh và gunship yểm
trợ. Đại uý Nhâm không đồng ý bắn Pháo Binh vì sợ ảnh hưởng hư
hại nhà dân chung quanh.
Thật sự, Cộng quân đã mai phục 2 Trung Đoàn Q762 và Q763 quanh sân bay Thuận Lợi từ mấy ngày
trước. Hai Trung Đoàn này đã tham dự trận đánh tại Đồng Xoài rồi
rút về đây mai phục. Họ đã chuẩn bị hầm hố chiến đấu, bố trí cả
súng phòng không, đại liên 50 trên tháp nước, trên các ngọn cây
cao, đồng thời thiết đặt bãi mìn dọc theo lề đường Tỉnh lộ 1A đi
về ngả Phú Riềng. Họ chuẩn bị đánh 1 trận để ra mắt Sư Đoàn
Công Trường 7 tân lập của Việt cộng với những vũ khí trang bị
tối tân như AK47, B40, súng phun lửa của Trung Cộng... trong
khi Lực Lượng Nhảy Dù chỉ được trang bị mỗi Đại Đội 15 khẩu
AR15, vũ khí tối tân nhất của Quân Lực VNCH thời bấy giờ.
Trong khi đó các sĩ quan Cố vấn Mỹ của Tiểu Đoàn cũng đã đề
nghị dừng quân vì trời tối, thời tiết xấu phi cơ võ trang không
thể yểm trợ và
khu vực hành quân lại ngoài tầm đạn Pháo Binh. Tiểu đoàn trưởng
Nhâm vẫn không đồng ý và cho lệnh tiếp tục tiến quân. 3 vị sĩ
quan Cố vấn Mỹ (Đại uý Toptoy, Trung uý Denspy, và Trung Sĩ Nhất
Taglery) bất mãn nên gọi trực thăng đến bốc họ bỏ chạy về Sài
Gòn.
Khi tiền quân của TĐ7ND đến xóm nhà gần sân bay thì
có 1 người lính Bộ Binh nhảy ra cho biết quân VC rất đông ở
phía trước. Đại uý Nhâm TĐT ra lệnh cho ĐĐ74 phải vượt qua phi
đạo tấn chiếm khu trung tâm sân bay và lục soát tất cả các ngôi
nhà chung quanh. Đại uý Phát bèn cho Đại Đội 74 dàn đội hình
hàng ngang xung phong tấn công vào mục tiêu.
Khi 2
Trung Đội dẫn đầu của ĐĐ74ND tiến ra sân bay khoảng 100m thì VC
bắt đầu khai hỏa. Ngay sau đó đủ loại súng lớn nhỏ bùng nổ khắp
mọi nơi, 2 Trung Đoàn Q763 từ hướng Đông và Trung Đoàn Q762 từ
hướng Bắc cùng 1 lúc ào ạt tấn công biển người. Tiểu Đoàn 7
Nhảy Dù đã lọt vào trận địa phục kích của quân cộng sản.
Sau khi cộng quân khai hỏa, hầu hết các Trung Đội tiền phong của
2 Đại Đội 72 và 74 đều bị tử trận ngay trong đợt chạm súng đầu
tiên. TĐT Nhâm bèn dốc toàn lực các Đại Đội còn lại đồng loạt
tiến lên cứu viện. Toàn bộ binh sĩ và sĩ quan của Tiểu Đoàn 7
quyết liệt tử chiến nhưng địch quân quá đông. Cộng quân lại sử
dụng đại liên 50, đại bác phòng không hạ nòng bắn thẳng đặt trên
lầu nước trên các ngọn cây tác xạ gây thiệt hại nặng cho các
chiến sĩ Nhảy Dù xung phong vào thế trận. Sau 1 giờ giao tranh
ác liệt, Đại uý Nhâm TĐT bị trúng đạn tử thương ngay tức khắc.
Đại uý Vũ Văn Hải, TĐP kiêm ĐĐT/ĐĐ73 thay thế điều động binh sĩ
còn lại chống cự với quân địch.
TĐ7ND không nhận được sự
yểm trợ của phi pháo dù đã yêu cầu khẩn cấp, đạn dược của các
chiến sĩ Mũ Đỏ chỉ còn 2/3 cấp số lúc ban đầu vì đã tiêu hao hết
1 phần trong trận đánh tại Quận Đôn Luân. Các Chiến sĩ Nhảy Dù
đã sử dụng vũ khí cá nhân chiến đấu chống lại lực lượng biển
người của 2 Trung Đoàn Cộng quân.
Thành phần của 2
Đại Đội 72 và 74 còn sống sót sau đợt giao tranh đầu tiên, đã mở
đường máu dạt về phía Ấp chiến lược phía tay phải, thêm 1 số
lại bị thương vong do bãi mìn VC thiết đặt từ trước. Khi đến
được xóm nhà dân Đại Đội 74 chỉ còn lại 8 người trong số đó có
Đại uý Đại đội trưởng.
Cùng lúc đó, cánh quân phía sau
của Tiểu Đoàn cũng bị tấn công biển người từ ngang hông. Quân sĩ
của các Đại Đội 70, 71, và 73 bị tử thương gần hết. Những người
còn sống sót gom lại khoảng 2 Trung Đội vừa bắn vừa chạy theo
Trung uý Nguyễn Trọng Hợp tiến qua 1 khu vườn chuối phía tay
phải. Cuối vườn chuối là gặp phải hàng rào Ấp chiến lược. Bỗng 1 tràng súng đại liên bắt đầu khai hỏa rồi súng lớn súng nhỏ
nổ khắp nơi, các chiến sĩ Nhảy Dù cố gắng chống trả đến viên đạn
cuối cùng rồi lần lượt gục ngã.
Đến 19:00g đêm, chiến
trường im dần tiếng súng. Sau 1 hồi kèn vang lên như tiếng gào
của ma quái, Việt cộng bắt đầu thu dọn chiến
trường, chúng hành quyết các thương binh của ta 1 cách rùng
rợn. Những tiếng chửi mắng tục tĩu pha lẫn những tiếng cười hềnh
hệch man dã như lũ âm binh sau những tiếng nấc cuối cùng của
thương binh khi hứng chịu những nhát lưỡi lê tàn bạo hay những
viên đạn hận thù của lũ người vô lương tâm không còn 1 chút
nhân tính. Ngược lại với sự tuyên truyền láo khoét của các cán
bộ chính trị VC rằng lính của VNCH rất hung dữ bắt được tù binh
là không mong gì được sống sót... Sự thật, người chiến sĩ Nhảy
Dù nổi tiếng là “Thiên Thần sát địch” luôn bảo vệ sự an toàn cho
đồng bào, mỗi khi bắt được tù binh CS dù bị thương hay không đều
đối xử tử tế, băng bó vết thương, cho ăn uống đầy đủ, còn cho
thuốc hút, bánh kẹo, khuyến khích biên thư về cho gia đình cha
mẹ vợ con...
Cộng quân thu dọn trận địa suốt đêm, thanh
toán thương binh của ta và di chuyển toàn bộ thương binh tử sĩ
của chúng ra khỏi chiến trường với các xe của đồn điền với hàng
trăm dân công cưỡng bách trong vùng. Đây là 1 lần hiếm có
trong 20 năm chiến tranh VN, khi Lực Lượng Du kích VC đã được tổ
chức tới cấp Sư Đoàn, tấn công, và chiến đấu với các đơn vị ưu tú
của VNCH. Đây cũng là lần đầu tiên mà quân số tổn thất cả 2
bên tương đương, mỗi bên đã thương vong hàng trăm người. Thông
thường trong suốt cuộc chiến tại VN nhất là khi giao tranh với
Lực Lượng Nhảy Dù, Cộng quân phải tổn thất ít nhất 3 lần so với
phía chiến sĩ Cộng Hòa.
Sáng ngày 15/6/1965 Tiểu Đoàn 145
CAB (Combat Aviation Battalion) trực thăng vận 1,089 quân nhân
thuộc 2 Tiểu Đoàn 3 và 8 Nhảy Dù thả xuống tăng viện để tảo
thanh và truy kích địch quân quanh vùng đồn điền Cao Su cho đến
ngày 17/6/1965, nhưng quân CS đã rút lui khỏi chiến địa không
còn dấu vết.
Tổng kết trận đánh Đồng Xoài được
ghi nhận như sau:
Phía VNCH: 1,190 Chết và bị
thương.
Phía Mỹ: 7 tử thương, 15 bị thương, 13 mất tích.
Phía Việt cộng: 700 xác bỏ tại trận cùng 1 số lớn mang đi.
Xét chung về trận chiến có nhiều nguyên nhân bất thường đưa
đến việc thất trận tại Đồng Xoài. Có thể do nhiều biến động
chính trị tại Sài Gòn nên các cấp chỉ huy quân sự để lộ nhiều sơ
hở như là:
– Tin tức tình báo không được cung cấp chính
xác. Với sự chuyển quân 3 Trung Đoàn VC trong vùng như thế mà
tin tình báo cho biết chỉ có các đơn vị địa phương cấp Tiểu Đoàn
do đó ước lượng quân số về phía địch sai lầm nên TĐ7ND đã bị
tràn ngập bởi 2 Trung Đoàn Chủ lực CS với trang bị đầy đủ vũ
khí tối tân thời bấy giờ.
Hơn nữa, Đại uý Nguyễn Tấn Nhâm
mới vừa nhậm chức Tiểu đoàn trưởng thay thế Thiếu tá Ngô Xuân
Nghị được 7 ngày đã có quyết định sai lầm khi cho Tiểu Đoàn
vẫn tiếp tục tiến công mặc dầu đã có lời yêu cầu can ngăn của
ĐĐT/ĐĐ73 và 3 vị Cố vấn Mỹ, trong khi nhiều yếu tố chiến thuật
không thuận lợi cho đơn vị như trời tối, ngoài tầm đạn Pháo Binh, thời tiết xấu không có phi pháo yểm trợ, không có thành
phần trừ bị... và có dấu hiệu cho thấy địch quân xuất hiện rất
đông.
– Hệ thống phòng thủ mới vừa xây cất xong, việc
phối hợp trợ chiến phòng thủ chưa được hoàn chỉnh, Pháo Binh và
Thiết Giáp không được sử dụng hiệu quả. Quân số của địch quân
quá đông, 2 Trung Đoàn tấn công trong khi quân phòng thủ chỉ có
khoảng 1 Tiểu Đoàn gồm Đại Đội 111 Địa Phương Quân, 2 Đại Đội
DSCĐ.
– Việc trang bị cho quân đội VNCH quá trễ tràng so
với quân địch. Trong khi VC được Nga Tàu yểm trợ trang bị các vũ
khí tối tân AK47, B40, súng phun lửa Trung Cộng... thì Lực Lượng
Nhảy Dù là đơn vị ưu tú của QLVNCH cũng chỉ được trang bị
15 khẩu AR15 cho mỗi Đại Đội tác chiến.
Tài liệu tham khảo:
– Phỏng vấn các Chiến Hữu trong SĐND.
– Chiến Tranh Việt
Nam toàn tập của Nguyễn Ðức Phương, Làng Văn Canada xuất bản
2001.
– Lời tường thuật về trận Đồng Xoài của Đại tá Lê Văn
Phát, Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn 3ND hiện đang cư ngụ tại Orange
County.
– Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân của LÍNH ĐIÊN trên trang
nhà
http://www.bietdongquan.com.
– The Battle of Dong Xoai
from various official and non–official publications about
significant battles and operations of 118th phi côngs and crew
members trên trang web
http://www.118ahc.org.
******14******
14.
Trận Đức Cơ (4–15/8/1965)
Trận
Đức Cơ
(4–15/8/1965)
Trong
năm 1963 Bộ Quốc phòng Hoa
Kỳ dự trù hoàn tất kế hoạch bành trướng Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu
mà phía Mỹ thường gọi là
CIDG
tại VN từ 50,000 người lên đến 125,000 người để trấn giữ 49 Trại
LLĐB trên toàn cõi VNCH. Đức Cơ là 1 trong những Trại LLĐB này nằm
về cuối đường QL19 phía Tây tỉnh Pleiku 55km, cách biên giới
Việt–Miên 13km và trực thuộc Khu 24 Chiến Thuật do Chuẩn tướng Cao
Hảo Hớn làm Tư lệnh.
Trại LLĐB Đức Cơ được thiết lập gần ngôi
làng Thượng Plei Girao Kop có tiết diện hình Thang và nằm kế cận 1 phi đạo dã chiến dài khoảng 1km có khả năng tiếp nhận được các loại
phi cơ C7–Caribou, C47, C119, và C123 với rừng rậm bao bọc cả 3 phía. Từ đây, các toán Viễn Thám của Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ xuất
phát các cuộc hành quân để thu thập tin tức tình báo và ngăn chặn sự xâm nhập của quân Bắc Việt từ phía Kampuchea và đường mòn HCM, đồng thời bảo vệ đoạn cuối của Quốc lộ 19.
Lực lượng trú phòng gồm 1 đơn vị Lực Lượng Ðặc Biệt Việt Nam
với Trại trưởng là Trung uý Trần Tự Lập. Về phía LLĐB Hoa Kỳ, vị
sĩ quan Trưởng toán A215 là Đại uý R. B. Johnson cùng các
chuyên viên tình báo. Trong trại có khoảng 400 DSCĐ, đa số là
người Thượng và Nùng. Chia thành 4 Đại Đội do các hạ sĩ quan
(HSQ) LLĐB–VN làm Đại đội trưởng.
Vào đầu năm 1965, lo
ngại trước việc Hoa Kỳ đổ quân vào miền Nam Việt Nam và oanh tạc
miền Bắc, và để đối phó với tình hình mới, cộng sản Bắc Việt
(CSBV) đã đẩy mạnh các hoạt động quân sự ở miền Nam hầu phân tán
các lực lượng của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Mở đầu là các trận
đánh ở Đồng Xoài, tỉnh Phước Long. Tiếp theo là Chiến dịch Ba
Gia ở tỉnh Quảng Ngãi. Xa hơn về phía Tây, họ cắt đứt các trục
lộ chính ở Tây Nguyên và cuối cùng là bao vây, tấn công Trại Lực
Lượng Đặc Biệt (LLĐB) Đức Cơ trong tỉnh Pleiku.
Hành Quân Dân Thắng 7 (3–15/8/1965)
Trận chiến chính trong cuộc tấn công do địch quân chọn lựa vào
thời điểm gió mùa của tháng 8 trên QL19.
Ngày 31/5/1965
Tiểu Đoàn 952 VC tấn chiếm Quận lỵ Lệ Thanh nằm về phía tây Pleiku do
1 Tiểu Đoàn Địa Phương Quân trấn giữ cách Đức Cơ khoảng 8km về
hướng Đông–Bắc. Việt cộng cũng chiếm luôn các làng và các trung
tâm phát triển nông thôn về phía tây của tỉnh Pleiku. Và sau đó,
ngày 30/6/1965 Trung Đoàn 32 CSBV bao vây Trại LLĐB Đức Cơ với
mục đích lôi cuốn và tiêu diệt viện binh trên Quốc lộ 19B. Do vị
thế bất lợi vì nằm ngoài tầm yểm trợ Pháo Binh, trại này đã bị
hỏa lực CS Bắc Việt khống chế ngay từ khi Quận Lệ Thanh thất
thủ. Áp lực của địch quân đến độ vào giữa tháng 7, trại này bị
hoàn toàn bao vây và các cuộc tuần tiễu phát xuất từ trại đều bị
đánh dội trở lui vào phía trong của hàng rào kẽm gai phòng thủ.
Mặc dù có rất nhiều cuộc oanh kích của Không Quân VNCH, Việt
cộng không những chỉ bao vây trại mà còn đặt các súng cối và
súng không giựt nhắm bắn trực xạ vào trại. Việt cộng tiếp sau đó
tiến sát vòng đai phòng thủ trại, và hỏa lực của chúng trở nên
nặng nề đến độ các trực thăng không còn có thể lên xuống tiếp tế
và tản thương.
Biết được ý định của địch, ngày 4/8/1965
lúc 8:00g sáng Thiếu tướng Vĩnh Lộc (Tư lệnh Quân Khu 2 VNCH)
cho trực thăng vận Chiến Đoàn II Nhảy Dù do Trung tá Ngô Xuân
Nghị làm Chiến đoàn trưởng vào Đức Cơ để giải tỏa áp lực địch.
Chiến Đoàn Dù khoảng 1,300 người, gồm Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù do
Thiếu tá Trương Kế Hưng làm Tiểu đoàn trưởng và Tiểu Đoàn 8 Nhảy
Dù do Đại uý Nguyễn Văn Thọ XLTV Tiểu đoàn trưởng. Cuộc đổ quân
trực thăng vận xuống phi đạo dã chiến trước Trại Đức Cơ hoàn tất
lúc 16:00g cùng ngày. Tại bãi đáp Chuẩn tướng Cao Hảo Hớn đã
bay đến trao cho Chiến Đoàn những chỉ thị giờ chót của BTL/QĐII.
Tiểu Đoàn 3 Dù được giao trách nhiệm phòng thủ khu vực phía Tây
trại, TĐ8ND được chỉ định đóng quân cách trại 500m về hướng Bắc.
Tình hình yên tĩnh trong đêm.
Ngày 5/8/1965 Chiến Đoàn
Dù mở cuộc hành quân tảo thanh về phía Bắc nhằm đẩy lui Việt
cộng và nới rộng phạm vi trại. Trong cuộc hành quân này, Chiến
Đoàn Dù phát hiện Việt cộng đã chuẩn bị các công sự để chiến đấu
lâu dài rất kiên cố và cuộc chiến trở nên gay go. Khoảng 14:00g chiều phi cơ quan sát báo cáo thấy VC đang chuyển quân lên
từ phía Tây–Nam. 15:00g Đại Đội đi đầu của TĐ3ND bắt đầu chạm
địch tại trảng tranh khu đồi Chu Kram. Một số cán binh CS ngụy
trang vừa chạy vừa tác xạ vào Lực Lượng Dù, các Phi Tuần khu
trục và Trực thăng Võ trang được gọi tới yểm trợ. Lực lượng địch
mới đụng độ được phát hiện là Trung Đoàn 32 CSBV. Các tài liệu
bắt được cho biết đây là Trung Đoàn đã chiếm Quận Lệ Thanh và
thực hiện loạt phục kích kế tiếp dọc theo Quốc lộ 19 về phía Tây
Pleiku vào đầu tháng 6.
16:30g, Thiếu tá Trương Kế
Hưng TĐT/TĐ3ND bị trọng thương ở ngực, Đại uý Phùng sĩ Thanh TĐP
lên thay thế, 1 Trực thăng Võ trang Mỹ khi yểm trợ tiếp cận đã
bắn lầm 2 hỏa tiễn vào ĐĐ33ND đang đóng tại bìa rừng khiến Trung
uý Lâm Đôn ĐĐT bị thuơng cùng với 1 số binh sĩ. Trung uý Bùi
Quyền thuộc ĐĐ81ND được cử sang thay Trung uý Lâm Đôn. Đêm đến 2 bên hưu chiến và tản thương. Các đơn vị Nhảy Dù rút lui
về vị trí cũ đóng quân. Thiếu tá Đào Văn Hùng TĐT/TĐ8ND theo
Trực thăng Tản thương đến đảm nhiệm chức vụ chỉ huy.
Ngày 6/8/1965 2:00g sáng, CS bắt đầu tấn công vào
Trại Đức Cơ từ 2 hướng Tây và Tây–Nam. Pháo Binh của CS pháo kích tới tấp
vào trại trong khi quân chính quy tấn công vào tuyến phòng thủ
của TĐ3ND, các đơn vị trú phòng chống trả mãnh liệt suốt sáng.
Phi cơ C47 từ Pleiku bay đến thả hỏa châu soi sáng trận địa.
Càng gần sáng, cuộc chạm súng thưa dần. Nhưng cường độ pháo kích
của quân Bắc Việt càng gia tăng. Đạn súng cối nổ gần như liên
tục vào khu vực Trại Đức Cơ, phi đạo, và vào vị trí của 2 Tiểu
Đoàn Nhảy Dù. 8:00g sáng, phi cơ bắt đầu tham chiến oanh tạc
các vị trí pháo địch, phòng không của địch bắn lên dữ dội. Dưới
hỏa lực phòng không quá mạnh, các phi cơ vận tải phải bay thật
cao để tránh đạn, nên phần lớn dù tiếp tế đã bay lạc ra ngoài
nên thực phẩm và đạn dược ngày càng khan hiếm. Trại Ðức Cơ hầu
như đã trở thành địa ngục dưới các cơn pháo dữ dội của quân cộng
sản.
Ngày 7/8/1965 Trời mưa to, đem lại lượng nước đầy
đủ cho quân trú phòng, vì bồn chứa nước bị pháo bể ngày qua.
Phi cơ tiếp tục oanh kích các vị trí của địch. Ngày 8/8/1965
cường độ pháo kích của địch giảm bớt, các đơn vị trú phòng sửa
chữa các công sự phòng thủ.
Ngày 9 tháng 8/1965 từ 7:00g
sáng, dưới sự yểm trợ hỏa lực mãnh liệt của các oanh tạc cơ
Việt–Mỹ, Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù do Thiếu tá Nguyễn Khoa Nam chỉ huy
đã được trực thăng vận xuống đầu phi đạo. Ðơn vị này tiến chiếm
các vị trí trong khu vực nằm về phía Bắc trại. Sau đó liên lạc
được với 2 Tiểu Đoàn 3 và 8 Nhảy Dù.
Nhận thức được
cuộc chiến quyết liệt tại mặt Tây Pleiku và địch quân có ý định
tấn chiếm Đức Cơ bằng mọi giá, Tư lệnh Quân Đoàn bắt đầu huy
động các lực lượng trừ bị của mình để xung trận. Chiến Đoàn Thủy
Quân Lục Chiến được rút khỏi các cuộc hành quân tại Kontum và di
chuyển nhanh chóng tới 1 vùng tập trung gần Pleiku. Các tin
tức tình báo về hành tung của các đơn vị Việt cộng khác dọc theo
Quốc lộ 19 trong vùng giữa Đức Cơ và bản doanh mới của Quận Lệ
Thanh cho thấy Việt cộng tăng gia quân số quan trọng sẽ đòi hỏi
1 lực lượng phản ứng lớn mạnh hơn mà Quân Đoàn II hiện có
trong tay.
Tướng Vĩnh Lộc 1 lần nữa yêu cầu tăng cường
thêm các đơn vị Lực Lượng Tổng Trừ Bị. Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH
yêu cầu Tướng Westmoreland cho các Lực Lượng Hoa Kỳ di chuyển
tới Pleiku ngõ hầu cho phép các đơn vị QLVNCH trấn đóng tại Quân
Khu II có thể bổ xung vào Lực Lượng Tiếp Viện Đức Cơ. Tướng
Westmoreland đồng ý và Lữ Đoàn 173 Dù Hoa Kỳ được phái tới
Pleiku. Trút được gánh nặng phòng thủ Pleiku, Tư lệnh Quân Đoàn
thu vén tất cả các đơn vị khả dụng và thiết lập 1 Lực Lượng Đặc
Nhiệm khác gồm 1 Chiến Đoàn Thiết Kỵ, 1 Tiểu Đoàn Biệt
Động Quân, cùng Pháo Binh, và Chiến Đoàn A Thủy Quân Lục Chiến để
giải tỏa Quốc lộ 19 và tiếp viện cho các lực lượng đang giao
tranh tại Đức Cơ. Cuộc hành quân này do Chuẩn tướng Cao Hảo Hớn,
Tư lệnh Biệt Khu 24 (vùng đất thuộc 2 tỉnh Kontum và Pleiku)
trực tiếp chỉ huy.
HÀNH QUÂN DÂN THẮNG 7
Ngày 9 tháng 8/1965, 1 Lực Lượng Đặc
Nhiệm gồm 2
Chiến Đoàn được thành lập để mở cuộc Hành Quân Dân Thắng 7 nhằm khai
thông Quốc lộ 19 và tiếp tế cho Trại LLĐB Đức Cơ. Cuộc hành quân
này do Chuẩn tướng Cao Hảo Hớn, Tư lệnh Biệt Khu 24 trực tiếp
chỉ huy.
– Chiến Đoàn Thiết Giáp do Trung tá Nguyễn Trọng
Luật chỉ huy gồm có:
* Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 3 Thiết
Giáp.
* Chi Ðoàn 1/5 Chiến Xa do Đại uý Trần Văn Thoàn làm Chi đoàn
trưởng.
* Chi Đoàn 2/6 Thiết Quân Vận do Đại uý Dư Ngọc Thanh
làm Chi đoàn trưởng.
– Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân (BĐQ) do
Đại uý Nguyễn Văn Sách làm Tiểu đoàn trưởng.
– 1 Pháo Đội
đại bác 105ly.
– 1 Trung Đội Công Binh Chiến Đấu.
– 1 Chi Đội
Thiết Giáp M8.
– Các thành phần Vận Tải và Tiếp Vận.
– Chiến Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) do Trung tá Nguyễn
Thành Yên chỉ huy gồm có:
* Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn A–TQLC
với Thiếu tá Cổ Tấn Tinh Châu làm TMT.
* Tiểu Đoàn 2 TQLC do
Thiếu tá Hoàng Tích Thông làm Tiểu đoàn trưởng.
* Tiểu Đoàn
5 TQLC do Thiếu tá Dương Hạnh Phước làm Tiểu đoàn trưởng.
Hai Chiến Đoàn này mở cuộc Hành Quân Dân Thắng 7 khai thông Quốc
lộ 19. Đến 14:00g khi đoàn quân vừa vào tới Quận Lệ Thanh thì
bị 1 Tiểu Đoàn/Trung Đoàn 32 CSBV phục kích. Hai Chiến Xa đầu tiên bị lãnh
đạn B40. Tiếp ngay sau đó Tiểu Đoàn địch xông ra từ 1 ngôi
làng về phía Nam của Quốc lộ 19 tấn công vào TĐ21 BĐQ bảo vệ cánh
trái đoàn quân, 2 phi cơ F100 được gọi tới yểm trợ, 1 chiếc
bị bắn rơi. Đoàn Hành Quân phá tan cuộc phục kích của địch.
Gần tối, VC lại tấn công tập hậu vào Đoàn Hành Quân, Lực
Lượng Hành Quân phản công mạnh mẽ nên VC rút lui khi trời sập
tối.
Ngày 10/8/1965 rạng sáng VC lại tấn công vào
Đoàn Hành Quân, gặp ngay vị trí của Chiến Đoàn TQLC, do đó cuộc tấn
công của địch đụng phải hỏa lực hùng hậu của Lực Lượng TQLC,
cộng với nhiều cuộc oanh kích gây nhiều tổn hại cho địch khiến
cuộc phục kích bị bẻ gẫy.
Vào lúc này Chiến Đoàn Dù tại
Đức Cơ được lệnh tấn công xuống Quốc lộ 19 về hướng Đông để bắt
tay với Lực Lượng Tiếp Viện. Sợ bị kẹp giữa 2 lực lượng tấn
công này, các đơn vị địch quân chém vè và tháo lui.
Lúc
11:00g Đoàn Hành Quân đến được phi trường Đức Cơ, các phi cơ
Caribou lên xuống tiếp tế nhiên liệu, đạn dược, và thực phẩm.
Ngày 11/8/1965 Các đơn vị VNCH mở cuộc hành quân tảo thanh
quanh Căn cứ Đức Cơ tới tận biên giới nhưng không gặp sức kháng
cự nào của CS.
Ngày 15/8/1965 Hành Quân
Dân Thắng chấm
dứt các đơn vị được trả về vị trí cũ.
Lực Lượng TQLC tùng thiết di chuyển trên QL19
trong cuộc Hành Quân Dân Thắng 7
Kết Quả: Trong cuộc đụng độ giữa quân Nhảy Dù và CSBV
– Chiến Đoàn II ND có khoảng 20 quân nhân thiệt mạng tại Đức
Cơ.
– Phía bên Hoa Kỳ, Toán LLÐB A215 dưới quyền chỉ huy của
Đại uý R. B. Johnson đã bị thiệt hại nặng.
– 158 cán binh cộng
sản bỏ xác tại trận và 100 cán binh khác chết vì phi cơ oanh
kích.
Kết quả cuộc Hành Quân Dân Thắng 7 do
BTL/QK2 tổng kết như sau:
– Chiến Đoàn A–TQLC có
31 quân nhân tử trận và 27 bị thương.
– Bắc Việt có 566 cán
binh tử trận và 26 tù binh.
– Vũ khí bị tịch thu gồm có 12 vũ
khí cộng đồng và 94 vũ khí cá nhân.
– Ngoài ra, có 2 đại liên
50 và 2 khẩu súng cối 81ly bị phá hủy.
Hình chụp 1 đơn vị bộ chiến VNCH đang di chuyển trên Quốc lộ 19
trong cuộc hành quân giải tỏa Ðức Cơ năm 1965
Tài liệu tham khảo:
– Chiến Đoàn A–TQLC Tại mặt trận Đức Cơ của Tác giả Tôn Thất Soạn trên trang nhà vietnam.ictglobal.net.
– Giải Cứu Trại LLBĐ Đức Cơ của Đại tá Theodore Mataxis trên trang nhà generalhieu.com.
– Chiến tranh VN toàn tập 1963–1975 của Tiến sĩ Nguyễn Đức Phương, Làng Văn xuất bản 2001.
– Phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù.
******15******
15.
Chiến dịch Ia Drang – Thần Phong 7 (14–18/11/1965)
Chiến
dịch Ia Drang – Thần Phong 7
(từ 14–18/11/1965)
Bắt đầu mùa hè
năm 1964, Hà Nội đã quyết định chủ trương leo thang
chiến tranh bằng cách tung quân chính quy ồ ạt vào chiến trường
Miền
Nam đánh chiếm phần cao nguyên của VNCH để khai triển kế hoạch Chiến
dịch Đông–Xuân của Tướng Võ Nguyên Giáp nhằm cắt đôi Việt Nam Cộng
Hòa. CSBV cũng hiểu rằng ai kiểm soát được con đường QL19 sẽ làm
chủ được cao nguyên; ai chiếm được vùng cao điểm này sẽ khống chế
được toàn cõi Đông Dương. Chiến dịch Đông–Xuân gồm 3 giai đoạn:
Tấn chiếm Trại Pleime sau đó tấn chiếm Pleiku, và từ đó theo
Đường 19 ào ạt tiến về chiếm Qui Nhơn. Tướng Võ Nguyên Giáp đã dùng
tới 3 Trung Đoàn Bắc Việt để thực hiện ý đồ này. Mưu đồ của CSBV vây
hãm Trại Lực Lượng Đặc Biệt Pleime là để buộc QLVNCH sẽ phải gởi
quân tới để giải vây, rồi dùng chiến thuật cố hữu “công
đồn đả viện”
tiêu diệt lực lượng tiếp cứu, chắc chắn sẽ phải rời Pleiku xuôi Nam
trên Đường 14 rồi đi theo hướng Tây–Nam đường Liên tỉnh 5. Tại đây,
1 Trung Đoàn cộng sản nằm chờ sẵn để phục kích. Sau khi đã dứt
điểm đoàn quân cứu viện, bọn chúng sẽ thanh toán Pleime rồi Pleiku.
Tướng CSBV Chu Huy Mân được giao trọng trách dùng 1 Sư Đoàn
gồm 3 Trung Đoàn 32, 33, và 66 thực hiện giai đoạn 1, tấn chiếm Trại
LLĐB Pleime, và giai đoạn 2 tấn chiếm tỉnh Pleiku. Do đó, Trại Lực
Lượng Đặc Biệt Đức Cơ bị quân chính qui Bắc Việt vây hãm 2 tháng
trời (từ tháng 6 đến tháng 8/1965), Bộ TTM/QLVNCH phải gởi Chiến
Đoàn II Nhảy Dù do Trung tá Ngô Xuân Nghị làm Chiến đoàn trưởng đến
để giải vây, rồi đến Trại Lực Lượng Đặc Biệt Pleime phía Nam Đức Cơ,
Ngày 19/10/1965 bị 1 lực lượng đông đảo quân Bắc Việt tấn công
5 ngày liên tiếp trong Chiến dịch Đông–Xuân của CSBV, tức cuối
mùa mưa Cao Nguyên.
Ngày 23 tháng 10 năm 1965,
để giải vây cho Pleime, Quân Đoàn II đã tổ chức cuộc Hành Quân Dân
Thắng 21 cấp Trung Đoàn phối hợp Bộ Binh và Thiết Giáp của QLVNCH
gồm 2 Tiểu Đoàn 21, 22 BĐQ, Tiểu Đoàn 1 Trung Đoàn 42 BB, và
Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh, với sự yểm trợ của phi pháo. Chiến Đoàn này
đã lọt vào trận địa phục kích của Trung Đoàn 32 CSBV dài 4 cây số
trên Tỉnh lộ 5, phía Nam tỉnh lỵ Pleiku. Nhưng Lực Lượng Hành Quân đã phản kích hiệu
quả, bẻ gẫy kế hoạch đả viện của đối phương.
Do tổn thất
nặng, Chu Huy Mân, Tư lệnh mặt trận cao nguyên của các Lực Lượng
CSBV, đã ra lệnh cho các đơn vị CS rút lui về phía bên kia biên giới
Việt–Miên. Biết được ý định của địch quân, BTL Quân Đoàn II–VN
quyết định sử dụng Lực Lượng SĐ1KBKV của Mỹ để truy lùng tàn quân CS
đang rút về hướng Tây của Trại Lực Lượng Đặc Biệt Pleime và phá vỡ
kế hoạch Đông–Xuân của CSBV. Kỵ Binh Không Vận là 1 quan niệm sử
dụng không lực mới của Lục Quân Hoa Kỳ sau trận chiến Triều Tiên.
Trực thăng được dùng 1 cách đa dạng trên chiến trường từ trinh
sát, chuyển vận đến tấn công. Do đó SĐ11 Không Kích (11th Air Assaut
Div) của quân đội Hoa Kỳ được biến cải thành SĐ1 Kỵ Binh – Không Vận
gọi tắt là SĐ Không Kỵ (1st Cavalry Division). Vào tháng 7/1965,
SĐ1KBKV đã đến Việt Nam, và được phối trí tại vị trí chiến lược đèo
An Khê tỉnh Bình Định gồm 4 Lữ Đoàn KB (4 Brigade/1st Cavalry
Division), 1 Lữ Đoàn Hàng Không (Aviation Brigade) và 1 Lữ Đoàn
Phòng ngự 15 (15th Sustainment Brigate). Tham chiến trong Chiến dịch
Ia–Drang SĐ1 Không Kỵ do Thiếu tướng H. O. Kinnard làm Tư lệnh và có
3 Lữ Đoàn Không Kỵ tham gia trận chiến:
• Lữ Đoàn I KB, do
Đại tá H. Clark chỉ huy với 3 Tiểu Đoàn 1/8, 2/8, 1/12 KB, và TĐ2/9
PB.
• Lữ Đoàn II KB, do Đại tá W. R. Lynch
chỉ huy với 3 Tiểu Đoàn 1/5, 2/5, 2/12 KB, và TĐ1/77 PB.
• Lữ Đoàn III KB, do Đại
tá Thomas “Tim” Brown chỉ huy gồm 2 Tiểu Đoàn 1/7, 2/7, và TĐ1/21
Pháo Binh.
• Ngoài ra còn có Tiểu Đoàn 1/9 Kỵ Binh đảm nhiệm
công tác trinh sát, 1 Tiểu Đoàn Pháo Binh Hàng Không (Aerial
Rocket Artillery) với các trực thăng HU1B trang bị hỏa tiễn 2.75ly.
Việc không vận có 3 Tiểu Đoàn trực thăng xung kích 227, 228, và 229.
Ngày 25/8/1965 Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Không Vận được vận chuyển đến
An Khê tỉnh Bình Định, thiết lập Căn cứ Camp Radcliffe gần đèo Mang
Yang trên QL19 với trách nhiệm bảo vệ an ninh dọc QL19 từ bờ biển
đến biên giới Việt–Miên, và từ Bồng Sơn đến Tuy Hòa.
Khí thế
của Quân Mỹ lúc mới nhập trận lên rất cao, những ngày đầu quân Mỹ
mới đến Pleiku, Mặt trận B3 chưa nắm vững khả năng quân Mỹ nên quyết
định chém vè rút về Căn cứ địa ở thung lũng Ia–Drang. Những ngày
cuối tháng 10 đầu tháng 11/1965, những toán quân tiên phong của SĐ1
Không Kỵ bắt đầu đụng độ với đoàn quân CS trên đường rút về.
Thung lũng Ia–Drang
SĐ1 Không Kỵ của Mỹ đã chạm địch nặng
tại thung lũng Ia–Drang. Đối với đa số người Việt thời 1965, có lẽ
thung lũng Ia–Drang còn rất xa lạ, 1 cái tên chưa hề nghe bao giờ.
Nhưng dường như cả nước Mỹ trong những ngày cuối thu năm 1965 ấy
đều nghe nói đến “Ia–Drang”, bởi vì đó là thời sự nóng bỏng nhất hồi
đó, 1 số con em họ đã bỏ mình ở đó, và báo chí Mỹ thời đó đã mô tả
cường độ giao tranh là đẫm máu nhất từ đầu cuộc chiến tới giờ.
Vào Ngày 14/11/1965 1 Tiểu Đoàn 450 người, do Trung tá Harold
G. Moore chỉ huy, đã đổ bộ bằng trực thăng xuống 1 mảng rừng
trống với ngụy danh là bãi đáp X–Ray (landing zone X–Ray) trong
thung lũng Ia–Drang, dưới chân núi Chu Prong về phía Tây–Nam thị
xã Pleiku
khoảng 60 cây số. Lập tức khoảng 2,000 quân chính qui Bắc Việt
đã bao vây đánh Tiểu Đoàn Mỹ. Lực Lượng Mỹ nhờ hỏa lực của Pháo Binh,
Không Quân, và nhờ tinh thần chiến đấu của binh sĩ, sau 3
ngày đêm chống trả với nhiều đợt xung phong biển người của đối
phương đã đẩy lui địch. Cả 2 bên đều tổn thất nặng. Ba ngày sau,
cách xa bãi chiến trường X–Ray khoảng 3 cây số, tại 1 khoảnh rừng
trống với ngụy danh bãi đáp Albany (landing zone Albany) cũng trong
thung lũng Ia–Drang, 1 Tiểu Đoàn khác của Mỹ bị đối phương “đánh
không còn 1 manh giáp”. X–Ray và Albany là 2 trận đánh tàn bạo
nhất trong chiến tranh Việt Nam đã cho thung lũng Ia–Drang cái tên
hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp thiên nhiên của nó:
Thung Lũng Tử Thần
(Valley of Death).
Pleiku là thủ phủ của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn
II và Quân Khu II. Nằm ngay trên Quốc lộ 14 đi Kontum–Ban Mê Thuột.
Từ Pleiku nhìn về hướng Đông là Quốc lộ 19 đi Qui Nhơn, hướng Tây
cũng gọi Quốc lộ 19 nhưng đường trải bằng đất sét đỏ, có đoạn lót
bằng đá xanh đi về đồn điền Trà lớn nhất Cao Nguyên là Catecka.
Vị Trí Địa Dư của Thung Lũng Ia–Drang
IA là tiếng của
người thượng có nghĩa là sông, cho nên vùng này các dòng sông đều
mang tên là IA như IA Meur, IA Toe.
Ia–Drang được mệnh danh là thung
lũng tử thần, vì đây là thánh địa của Cộng quân, cửa ngõ xâm nhập
toàn thể vùng cao nguyên Trung Phần VN. Thung lũng Ia–Drang là 1 dãy rừng núi trùng điệp, chằng chịt sông suối, trải hàng mấy chục
cây số đến tận biên giới Việt–Miên về phía Tây, và đến tỉnh Ban Mê
Thuột kế cận về phía Nam. Thung lũng Ia–Drang nằm về hướng Nam/Tây–Nam tỉnh lỵ Pleiku độ
60km và ở về hướng chính Tây khoảng
trên 20 cây số đối với vị trí Trại Lực Lượng Đặc Biệt Pleime.
Trong toàn vùng rặng núi Chu Prong nổi bật, đỉnh cao nhất 732
thước. Đó là 1 dãy núi chạy từ Đông sang Tây dài khoảng 25 cây số, mà phần nằm trong đất Cambodia chiếm khoảng
7 cây số.
Chiều Nam–Bắc của dãy núi đo khoảng 20 cây số. Chu Prong đầy
dẫy những hang động, những vách núi, những vực sâu, và thác ghềnh.
Dọc theo sườn phía Bắc của dãy Chu Prong là 1 thung lũng khá rộng.
Con sông Ia–Drang, tỏa ra hình mạng nhện, có 3 chi nhánh chính mang
tên Ia–Drang, Ia–Meur, Ia–Tea phát nguyên từ vùng đồn điền trà
Catecka phía Nam thị xã Pleiku, xuyên qua thung lũng, lượn khúc với
nhiều ghềnh thác, rồi chảy về hướng Tây đổ vào đất Kampuchea.
Trong 2 cuộc chiến tranh đã qua, chiến tranh Đông Dương
1945–1954 và chiến tranh Việt Nam 1955–1975; Hà Nội đã dùng
núi Chu Prong để trú quân và chứa kho tàng cho các chiến dịch ở
Cao Nguyên Trung Phần, Bộ Chỉ Huy B3 của Tướng Mân đặt sâu vào
trong 1 hang đá bên phần đất thuộc Kampuchea. Bộ Chỉ Huy Tiền
Phương của B3
đặt tại sườn núi Chu Prong nhìn xuống thung lũng do Thượng tá Nguyễn
Hữu An chỉ huy. Vùng Ia–Drang phía Tây Pleime từ lâu không có người
ở, ngoại trừ 1 số ít người Thượng đã di chuyển về hướng Đông, gần
Pleiku sinh sống. An là 1 sĩ quan có kinh nghiệm chiến trường,
nguyên là Trung đoàn trưởng của Tướng Mân vào thời trận chiến Điện
Biên Phủ. An biết sở trường của Sư Đoàn Không Kỵ nên tính chuyện gài
bẫy sẵn để dụ địch lọt vào những địa thế thích hợp cho lối đánh du
kích của VC.
Quốc lộ 19 từ Pleiku cắt ngang phía Bắc thung
lũng, đi về hướng Tây qua đồn điền trà Catecka, đến Trại Lực Lượng
Đặc Biệt Đức Cơ, đi mãi sẽ vượt qua biên giới Kampuchea vào thị trấn
Stung Streng. Trong Chiến dịch Đông–Xuân 1965, CSBV hoạch đinh kế
hoạch tấn công lớn tại Cao nguyên sẽ chiếm các thành phố lớn như
Kontum, Ban Mê Thuột. Người chỉ huy Chiến dịch cao nguyên này là
Tướng CS Chu Huy Mân, người gốc nông dân Thượng Du Bắc Việt. Người
này là cánh tay đắc lực nhất cho Võ nguyên Giáp, năm 1954 Chu huy
Mân bắn phát súng khai hỏa đầu tiên tại Trận Điện Biên Phủ, lúc đó
ông là Chính ủy Sư Đoàn 316.
Lực Lượng Bạn:
1. BTL/QĐII tại Pleiku, Chuẩn tướng Vĩnh Lộc là Tư lệnh.
2. Trung
Đoàn 3 Thiết Giáp gồm 12 Chiến Xa M41 và 10 Thiết Vận Xa M113, 2
Thiết Xa M8, và 2 khẩu pháo Howitzers 105ly; với TĐ21 & 22 BĐQ,
1 TĐBB/Trung Đoàn 42 biệt lập.
3. Lữ Đoàn Nhảy Dù VN với Chiến
Đoàn Đặc Nhiệm gồm 5 Tiểu Đoàn 3, 5, 6, 7, và 8 Nhảy Dù làm thành
phần trừ bị.
a. Giai đoạn đầu gồm 3 Tiểu Đoàn, không vận vào
vùng hành quân ngày 1/11/1965 do Trung tá Trương Quang Ân, Tham mưu
trưởng Lữ Đoàn Nhảy Dù chỉ huy:
• Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù do
Thiếu tá Khiếu Hữu Diêu làm TĐT.
• Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù do Đại uý
Nguyễn Văn Minh làm TĐT.
• Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù do Thiếu tá Nguyễn
Khoa Nam làm TĐT.
b. Giai đoạn sau do Trung tá Ngô Quang
Trưởng làm Chiến đoàn trưởng (thay thế Trung tá Trương Quang Ân đáo
nhậm nhiệm sở mới, Cố vấn Mỹ là Thiếu tá H. Norman Schwarzkopf) tăng
cường thêm 2 Tiểu Đoàn vào vùng hành quân ngày 20/11/1965:
•
Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do Thiếu tá Nguyễn Bá Trước làm TĐT.
•
Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù do Thiếu tá Nguyễn Văn Thọ làm TĐT.
4. Phi
Đội C130 của Phi Đoàn 7 KQHK đã vận chuyển các đơn vị: Bộ
Chỉ Huy Lữ Đoàn Dù, Ban Chỉ Huy các Chiến Đoàn Dù, và 5
Tiểu Đoàn Dù: 3, 5, 6, 7, và 8 từ các nơi khác nhau, như Sài
Gòn, Biên Hòa, Vũng Tàu, và Phú Yên tới Pleiku.
5. Các
Toán Biệt Cách Dù của Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam (các hoạt
động của các Toán Biệt Cách Dù VN không được tiết lộ).
6. SĐ1KBKV–HK: Tư lệnh là Thiếu tướng H. O. Kinnard (người
Dallas, Texas. Tốt nghiệp Thủ khoa Westpoint năm 1939.) Trong 1 phiên họp với các vị chỉ huy Việt Nam tại Bộ Tư Lệnh Quân
Đoàn II và Quân Khu II Pleiku, H. O. Kinnard đồng ý với phương tiện vô cùng
hùng hậu của Sư Đoàn Đệ Nhất Không Kỵ (1st Air Calvary) sẽ mở 1 cuộc hành quân mang tên là: “Trường Chinh” (Long Reach). Bên VNCH
tăng cường thêm 1 Chiến Đoàn Nhảy Dù nổi danh làm lực lượng trừ
bị.
Cuộc hành quân được chia ra làm 3 giai đoạn như sau:
1. Giai đoạn 1 từ ngày 28/10 đến ngày 8/11
năm 1965: Lữ Đoàn
I Kỵ Binh Hoa Kỳ do Đại tá H. Clark chỉ huy với 3 Tiểu Đoàn 1/8,
2/8, 1/12 KB, và TĐ2/9 PB tham chiến. Cuộc hành quân mang tên Hành
Quân “All the Way” tảo thanh địch quanh vùng phía Tây trại
Pleime.
2. Giai đoạn 2 từ ngày 9 đến 17 tháng 11
năm 1965: Lữ Đoàn III Kỵ Binh Hoa Kỳ do Đại tá Thomas “Tim” Brown chỉ
huy với 2 Tiểu Đoàn 1/7, 2/7, và TĐ1/21 Pháo Binh tham chiến. Cuộc
hành quân mang tên Silver Bayonet truy kích địch xa hơn về hướng
tây trại Pleime và phía Đông của rặng núi Chu Prong.
3.
Giai
đoạn 3 từ ngày 18 đến 26 tháng 11 năm 1965 do
Chiến Đoàn Đặc
Nhiệm Nhảy Dù Việt Nam thay thế các đơn vị thuộc Sư Đoàn 1
Kỵ Binh Mỹ truy kích tiếp tàn quân địch xa hơn về phía Tây
sát biên giới Việt Nam–Kampuchea dọc theo thung lũng sông Ia–Drang.
Cuộc hành quân mang tên “Hành Quân Thần Phong 7” với sự yểm trợ
hỏa lực và không vận của Lữ Đoàn II Kỵ Binh Hoa Kỳ do Đại tá W. R.
Lynch chỉ huy.
Lực lượng địch:
Từ tháng 7
năm 1965,
CSBV đã cử Thiếu tướng CS Chu Huy Mân làm Tư lệnh kiêm Chính ủy
chiến dịch, Đại tá Nguyễn Chánh và Thượng tá Nguyễn Hữu An làm Phó
tư lệnh, Huỳnh Đắc Hương giữ chức Phó chính ủy, Thượng tá Nam Hà là
Tham mưu trưởng, Thượng tá Đặng Vũ Hiệp làm Phó chủ nhiệm chính trị.
Để tiến hành chiến dịch, tháng 8/1965 CSBV tăng cường cho mặt
trận Tây Nguyên thêm Trung Đoàn 33 (Trung Đoàn này nguyên là
Trung Đoàn 101 của Sư Đoàn 325B, được lệnh xuất quân từ
Quảng Ninh đi khoảng 2 tháng vào tới Tây Nguyên). Vào giai
đoạn chót CSBV đưa thêm Trung Đoàn 66/SĐ304 từ Bắc vừa được lệnh di
chuyển vào đến Tây Nguyên ngày 1/11/1965 để đáp ứng nhu cầu giai
đoạn 2 của chiến dịch. Như vậy Lực Lượng CSBV tại Tây Nguyên có 3
Trung Đoàn bộ binh gồm:
1. Trung Đoàn 32 với 3 Tiểu
Đoàn
344, 635, và 966 xâm nhập vào Nam cuối năm 1964 do Thiếu tá Mã Văn
Minh làm Trung đoàn trưởng.
2. Trung Đoàn 33 với 3 Tiểu Đoàn
1, 2, và 3. Trung Đoàn này khởi hành từ Quảng Ninh Bắc Việt
khoảng từ 22 đến 25/7/1965 cho mãi tới ngày 2/10 mới hoàn
tất xâm nhập.
3. Trung Đoàn 66 với 3 Tiểu Đoàn 7, 8, và 9,
được lệnh bắt đầu xâm nhập vào Nam từ đầu tháng 8/1965 và phải
hoàn thành trong 2 tháng.
4. Tiểu Đoàn H15 Gia Rai địa
phương.
5. Cộng với 1 Tiểu Đoàn Đặc công và một Tiểu
Đoàn súng cối 62, 82, và 120ly; 1 Tiểu Đoàn súng phòng không
12.7mm; cùng lực lượng vũ trang địa phương.
Kế hoạch sơ khởi
của Cộng quân đánh chiếm Cao Nguyên Quân Khu 2 VNCH được chia làm
các giai đoạn như sau:
• Giai đoạn 1: Sử dụng 2 Tiểu Đoàn/Trung Đoàn 33 (thiếu
Tiểu Đoàn 2), được tăng cường 1 Đại Đội
súng phòng không 12.7mm vây hãm tiền đồn Pleime để nhử Quân Đoàn II
đem viện binh từ Pleiku kéo xuống vào ngày 23/10/1965.
•
Giai đoạn 2: Sử dụng 3 Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 32 phục kích 1 trận tuyến dài 4km trên Liên tỉnh lộ 5 đón chờ viện binh của VNCH
(chiến thuật “công đồn đả viện”)
• Tiểu Đoàn 2/33 trừ bị đảm
nhiệm đánh phản kích.
• Giai đoạn 3: sau khi triệt hạ viện
binh, các đơn vị này trở đầu tiếp sức thanh toán dứt điểm Trại
Pleime.
• Giai đoạn 4: Khi tuyến phòng thủ của tỉnh Pleiku bị
suy yếu vì phải đưa quân tiếp cứu Trại Pleime, Trung Đoàn 66 BV
sẽ khởi sự tấn kích cầm chừng Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, chờ cho Trung
Đoàn 32 và 33 CSBV thanh toán xong Trại Pleime lên tiếp sức tấn
chiếm tỉnh Pleiku, hoàn tất giai đoạn 2 của Chiến dịch Đông–Xuân.
Chiến thuật “công đồn đả viện”, địch quân thường sử dụng và rất
thành công trong những trận đánh với quân đội Pháp trước đây.
Lần này Bộ Tư Lệnh Mặt trận B3 của Chu Huy Mân cũng tin chắc rằng
BTL/QK2/VNCH sẽ đưa quân lên tiếp viện cho Pleime. Sau khi “dứt
điểm” Trại LLĐB Pleime, bộ đội CS Bắc Việt sẽ chuẩn bị cho trận đánh
lớn trong thung lũng Ia–Drang trong giai đoạn 3 của chiến dịch.
Trận Pleime
Từ ngày 19/10 đến 25/10/1965
Trại LLĐB Pleime là 1 tiền đồn hẻo lánh cách biên giới Cam Bốt
khoảng 40 cây số, cách Quốc lộ 14 khoảng 20 cây số về phía Tây
và cách Pleiku khoảng 40 cây số về hướng Tây–Nam. Trại này do 1
Lực Lượng Đặc Biệt Hỗn Hợp Mỹ–Việt–Thượng trấn giữ: Toán
Operations Detachment A255 gồm 12 LLĐB Mỹ, Toán LLĐB Việt Nam
gồm 14 chiến sĩ, và 3 Đại Đội Dân Sự Chiến Đấu đa số là người
Thượng gồm 415 chiến sĩ thuộc các sắc tộc Jarai, Rha–đê, và
Bahnar. Trại LLĐB này nằm trong mục tiêu, mà Bộ Tư Lệnh Mặt trận
B3 cộng sản Bắc Việt thấy cần phải được thanh toán để mở màn cho
Chiến dịch Đông–Xuân. Bộ Tư Lệnh Mặt trận B3 lúc đó (năm 1965) có 3 Trung Đoàn 32, 33, và 66. Tất cả đều là đơn
vị chính quy từ miền bắc vào.
Trước tháng 10 năm 1965, tiền
đồn này không đóng 1 vai trò quan trọng mấy vì hầu như hoạt động
biệt lập theo mô thức riêng của các đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt. Tuy
nhiên nó bỗng dưng trở nên hết sức quan trọng khi các cơ quan tình
báo phối hợp các nguồn tin phát giác được kế hoạch Chiến dịch
Đông–Xuân của Tướng Võ Nguyên Giáp.
Để hóa giải chiêu độc của
Tướng Chu Huy Mân, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đã phối hợp kế hoạch với
Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ như sau: Quân Đoàn II gửi 1 Chiến Đoàn từ
Pleiku xuống tiếp cứu Trại Pleime từ mạn Bắc; đồng thời sẽ phái 1 đơn vị
Biệt Kích Hỗn Hợp Mỹ–Việt tới Trại Pleime trước để tiếp sức
với quân đồn trú bảo vệ trại đến khi chủ lực tiếp viện quân tới; Sư
Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ sẽ gửi 1 Lữ Đoàn thay thế số quân VNCH đi tiếp
ứng để bảo vệ tỉnh Pleiku; đồng thời Sư Đoàn 1 Không Kỵ sẽ trực
thăng vận nhiều Pháo Đội rải rác tại các vị trí gần trận địa để yểm
trợ cho Chiến Đoàn Tiếp Cứu khi hữu sự.
Diễn tiến của
trận đánh Trại Pleime:
Khởi sự trận đánh, Cộng quân dùng
1 Tiểu Đoàn/Trung Đoàn 33 CSBV bao vây và tấn công vào Trại LLĐB Pleime;
địch quân cũng đã bố trí các loại súng đại liên, phòng không, và súng
cối quanh các ngọn đồi cao chung quanh trại.
Tối ngày
19/10/1965, địch quân mở màn tấn công bằng những đợt pháo kích súng
cối 82ly vào Căn cứ. Tiếp theo, 1 Toán Đặc công lọt qua 1 vị trí
phục kích của lực lượng phòng thủ, cắt hàng rào kẽm gai vào được
tuyến phòng thủ của Trại LLĐB hình tam giác, bắt đầu nổ súng vào
tiền đồn phía Nam của trại và thanh toán tiền đồn này sau 20 phút
giao tranh.
Trại Lực Lượng Đặc Biệt Pleime 1965
Quân CSBV sử dụng đại bác không giật 57ly bắn chính xác vào trong
Căn cứ, phá sập 2 trong số 3 pháo đài chính đặt ngay góc của hình
tam giác. Quân trú phòng phản công lại với súng đại liên. Cả 2 bên
đều dùng đến lựu đạn để tiêu diệt nhau. Các phi cơ AC123 Provider
thuộc Phi Đoàn 309 Cảm Tử bay bao vùng thả hỏa châu suốt đêm soi
sáng chiến trường. Lúc 3:45g sáng ngày 20/10, phi cơ phản lực dội
bom lửa napalm khắp vùng ven trại để yểm trợ quân bạn.
Lúc
6:00g sáng ngày 20/10, Cộng quân tấn công mạn Bắc của trại. Các chiến
sĩ Thượng đă phải xông ra khỏi hầm trú để cận chiến với địch quân
mới đẩy lui được chúng.
Lúc 7:30g sáng, 1 trực thăng tải
thương thuộc Phi Đoàn 498 có trực thăng tác chiến hộ tống đáp xuống
trại để thả xuống 1 bác sĩ giải phẫu và chở lính bị thương đi.
Viên phi công lái trực thăng này là Thiếu tá Louis Mizell. Thình
lình 1 trực thăng đang bay lượn bị súng phòng không bắn hạ rớt
xuống rừng. Một Toán LLĐB nhào ra tiếp cứu thì bị 1 ổ đại liên
địch quân bắn chận phải dội lại trại với 1 trung sĩ Mỹ bị tử
thương. Trái lại, toán tuần tiễu xuất trại từ hôm trước được lệnh
rút về trại lại bước qua cổng trại được êm thấm.
Hành Quân
Dân Thắng 21
Đúng 5:20g chiều ngày 20/10, 1 Chiến Đoàn VNCH với
1 lực lượng 1,200 chiến binh chỉ huy bởi Trung tá Nguyễn
Trọng Luật, tiến dọc theo QL14 để giải tỏa áp lực địch quân quanh
Trại Pleime. Chiến Đoàn VNCH chia làm 3 cánh quân:
Cánh A
gồm: Trung Đoàn 3 Thiết Kỵ với Một Chi Đoàn (–) Chiến Xa 12 chiếc
M41 và Một Chi Đoàn (–) Thiết Vận Xa 8 chiếc M113, cùng 2 Đại Đội
thuộc TĐ21 BĐQ tùng thiết.
Cánh B gồm BCH/TĐ21 với 2 ĐĐ3 &
4 BĐQ cùng 2 Thiết Xa RM8 hộ tống, 1 đoàn công–voa chở lương thực,
đạn dược, và xăng nhớt, 2 khẩu đại bác howitzers 105ly, 1 Tiểu Đội
Công Binh. Cánh quân này đi sau cánh A khoảng 2km.
Cánh C
gồm: Tiểu Đoàn 1 Bộ Binh/Trung Đoàn 42 do Đại uý Mã Văn Nông làm
TĐT, rời Pleiku từ từ theo Quốc lộ 14 tiến xuống phía Nam hướng về
Trại Pleime. TĐ22 BĐQ do Đại uý Phạm Văn Phúc làm TĐT, trừ bị tại
phi trường Cù Hanh Pleiku.
Phóng đồ “công đồn đả
viện’ của Cộng quân
Trong khi đó, Trung tướng Stanley Larsen, Tư lệnh Quân Đoàn I Dã
Chiến 1 (I Field Force, là Bộ Tư Lệnh cố vấn cho Quân Đoàn II), cho trực thăng vận
1 Tiểu Đoàn thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ
Mỹ lên bảo vệ Pleiku. Trưa ngày 22/10, Thiếu tá LLĐB Charlie A.
Beckwith, Trưởng toán Project DELTA, cùng với 2 Đại Đội thuộc Tiểu
Đoàn 91 Biệt Cách Dù QLVNCH tăng phái, được thả vào Trại Pleime và
Thiếu tá Beckwith trở nên Chỉ huy trưởng trại từ giờ phút đó.
Lúc 1:00g trưa, 1 lực lượng gồm 3 Đại Đội xông ra khỏi trại để
khai quang 1 ngọn đồi kế bên trại. Lực lượng này liền bị 1 ổ
súng đại liên địch quân quật ngã, khiến cho Đại uý LLĐB Thomas
Pusser và 12 chiến sĩ người Thượng bị hạ, và 1 số bị thương. Lực
lượng này phải rút lui về trại. Cũng trong ngày 22/10, toán Biệt
Cách Dù QLVNCH xông ra trại tìm cách triệt hạ 2 ổ đại liên địch
nhưng đều thất bại.
Ngày 23/10, lúc 2:00g trưa,
Tiểu Đoàn 22
Biệt Đông Quân được trực thăng vận xuống 1 bãi đáp 2 cây số rưỡi
phía Nam vị trí ổ phục kích của Trung Đoàn 32 CSBV, cùng với Chiến
Đoàn Tiếp Viện từ phía Bắc đi xuống tạo thành thế gọng kềm. Cuối
ngày 23/10, Trung tướng Stanley Larsen đổ xong 1 Lữ Đoàn Không Kỵ
xuống bảo vệ Pleiku. Chiều ngày 23/10, khoảng 6:00g chiều khi Chiến
Đoàn Tiếp Viện tiến tới cây số 4 trên Hương lộ 6C, cách Trại
Pleime
5 cây số, thì lọt vào ổ phục kích của Trung Đoàn 32 CS Bắc Việt,
dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Thượng tá Nguyễn Hữu An, Tư lệnh
phó Mặt trận B3. Lúc đó Cánh quân A của Chiến Đoàn Tiếp Cứu dẫn đầu
gồm các Chiến Xa M41 và Thiết Vận Xa M113, và 2 ĐĐ/BĐQ; cánh quân B
đi sau gồm các Thiết Vận Xa, Thiết Xa RM8 có 2 Đại Đội Biệt Động
Quân hộ tống, cánh quân này đi sau cách cánh quân đầu khoảng 2 cây
số.
Tiểu Đoàn 635 Bắc Việt tấn công cánh quân đầu và Tiểu Đoàn 344
Bắc Việt uy hiếp cánh quân sau. Dưới sự yểm trợ của các phản lực cơ
F100 và các Trực thăng Võ trang đã nã hỏa tiễn, bom, và đạn liên
thanh vào các vị trí súng cối và đại bác không giật của địch. Các
Chiến Xa M41 và Thiết Vận Xa M113 cùng ĐĐ1/BĐQ đi đầu do Trung uý
Wòng Lập Dzếnh chỉ huy, và các Trung đội trưởng Thiếu uý Huỳnh Kim
Tắc, Thiếu uý Ngô Hoàng Gia... đã dàn hàng phản kích dữ dội gây tổn
thương nặng cho phục kích quân. Trong khi đó ĐĐ2 BĐQ do Trung uý Võ
Vàng chỉ huy cùng với Trung đội trưởng Thiếu uý Trần Quốc Cảnh, cũng
bị Cộng quân từ trong các công sự phòng thủ ngụy trang bên đường, từ
các đỉnh đồi đồng loạt xung phong bao vây. Với hỏa lực hùng hậu của
Thiết Giáp M41 và M113 cùng với sự dũng cảm của các chiến binh Biệt
Động Quân, Lực Lượng Tiếp Viện cánh A đã bẻ gẫy âm mưu “đả viện” của
địch. Sau 2 giờ giao tranh Tiểu Đoàn 635 Bắc Việt phải tháo lui
vào rừng.
Trong khi đó, Cánh quân B đi sau với hỏa lực yếu kém hơn
do Thiếu tá Lê Văn Tui Trung đoàn phó Thiết Giáp chỉ huy và Đại uý
Nguyễn Văn Sách TĐT Tiểu Đoàn 21 BĐQ cùng các ĐĐT/ĐĐ4 BĐQ Trung uý
Nguyễn Thành Banh và Trung uý Nguyễn Văn Chính ĐĐT/ĐĐ3 BĐQ đi đoạn
hậu bị Tiểu Đoàn 344 Bắc Việt với quân số đông gấp bội, dùng đại bác
không giật, hỏa tiễn 90ly, và súng cối tấn công tới tấp. Lực lượng hộ
tống đã chống trả mãnh liệt, về sau phải lui về phía cuối đoàn xe bố
trí vị trí phòng thủ quanh 1 Ấp chiến lược bỏ hoang gần đó. Quân
ta đã đẩy lui nhiều đợt tấn công dữ dội của Tiểu Đoàn 344 CSBV. Cũng
may nhờ có các phản lực cơ F100 đến tiếp cứu kịp thời, thả bom
napalm vào các vị trí Cộng quân, bẻ gẫy được lực lượng tấn công của
Tiểu Đoàn 344 Bắc Việt trong đêm tối và cho đến gần sáng ngày hôm
sau chúng đã chém vè tháo chạy về hướng Nam dọc theo Hương lộ 6C.
Vào 3:00g sáng ngày 24/10, Tiểu Đoàn 966 của Trung Đoàn 32 Bắc
Việt chia làm 3 mũi dùi tấn công vào Chiến Đoàn Tiếp Viện. Quân ta
và địch đánh “xáp lá cà” trộn trấu, không thể phân biệt được ai là
địch, ai là bạn. Súng cá nhân và lựu đạn không thể sử dụng được vì
sợ lầm bạn và lộ vị trí nên phải sờ vào quân phục và dùng lưỡi lê
đánh cận chiến trong đêm tối. Cho đến gần sáng các đơn vị địch quân
vì bị phản kích dữ dội gây tổn hại nặng nề phải tháo lui vào rừng
lẩn trốn.
Sáng sớm ngày 24/10, các trực thăng chở các khẩu
đại bác đến 2 vị trí gần khu vực giao tranh để tác xạ yểm trợ cho
Chiến Đoàn Tiếp Viện. Đến khi mặt trời ló rạng vào sáng ngày 24/10,
khi kiểm điểm tình hình thì cánh quân đầu không bị mất Chiến Xa hay
Thiết Vận Xa nào. Nhưng cánh quân cuối thì bị thiệt hại trầm trọng:
2 Thiết Vận Xa M113, 2 xe vận tải 5 tấn chở đạn dược, và 2 xe bồn
xăng bị phá hủy; 1 Thiết Xa M8, 2 xe vận tải 5 tấn, 1 xe ủi đất, 2
xe vận tải 3/4 tấn, và 2 khẩu đại bác 105ly bị hư hại nặng nề.
Chiều ngày 24/10, sau khi được Pleiku tái tiếp tế, Chiến Đoàn Tiếp
Cứu tiếp tục tiến quân và lại lọt vào ổ phục kích của Trung Đoàn 33
với hỏa lực vũ bão hơn trận phục kích ngày hôm trước. Lần này Chiến
Đoàn bị khựng lại không tiến lên được. Một toán “đề lô” điều khiển
Pháo Binh của Sư Đoàn Không Kỵ Mỹ được phái tới trợ giúp đoàn xe bị
vây hãm. Toán này được trực thăng thả ngay xuống đầu đoàn Chiến Xa.
Họ nhảy vào những Chiến Xa dẫn đầu, và từ trong xe điều chỉnh tác xạ
cho đại bác bắn trải thảm phía trước mặt đoàn Chiến Xa. Và cứ như
thế, nhờ làn mưa pháo tàn khốc đổ xuống phía trước mặt, Chiến Đoàn
từ từ tiến tới được và triệt hạ dần các ổ phục kích.
Sáng
ngày 25/10, từ trong Trại Pleime, 1 toán cảm tử dẫn đầu bởi
2 Trung sĩ LLĐB Mỹ, dùng súng phun lửa xông ra trại triệt hạ
được 1 ổ súng đại liên của địch quân. Đến tối ngày 25/10,
Chiến Đoàn Tiếp Cứu tiến vào Trại Pleime, chấm dứt sự vây hãm
trại của địch quân. Sáng ngày 26/10/1965, Chiến Đoàn VNCH mở
cuộc hành quân khai quang càn quét khu vực quanh Trại.
Lúc 10:15g, trong khi Chiến Đoàn tiến về phía Nam của Trại,
1 đơn vị địch quân bỗng nhiên khai hỏa dữ dội. Cộng quân cố
gắng ra tay trước để đánh phủ đầu, nhưng họ gặp phản ứng mãnh
liệt bởi hỏa lực hùng hậu của các Thiết Vận Xa, Pháo Binh, và Không Quân. Khi cuộc giao tranh
chấm dứt, hơn 140 thây Cộng quân nằm la liệt trên chiến địa, 5
bị bắt, và ít nhất 100 khác bị thương, với hơn 20 vũ khí
cộng đồng bị tịch thu.
Trong 5 ngày Cộng quân vây hãm
Trại Pleime, Không Lực HK và VN thực hiện tổng cộng 300 phi vụ oanh
tạc nã xuống đầu Trung Đoàn 33 BV quanh trại. Các máy bay vận tải
C123 của Không Quân và CV2 Caribou của Lục Quân đã tiếp tế thả dù
xuống trại 333 ngàn cân anh (trong số đó 9 ngàn cân anh lọt ra ngoài
rào giây kẽm gai) đạn dược, thuốc men, lương thực, và nước uống.
Cộng quân thiệt hại rất nặng dưới sức mạnh không kích của Không
Quân Mỹ–Việt, đường dây liên lạc giữa BCH Trung Đoàn CSBV và các đơn
vị hoàn toàn bị cắt đứt. Trung Đoàn 33 BV vây hãm trại chỉ sống sót
được khoảng 1 Đại Đội. Trung Đoàn 32 BV phục kích Chiến Đoàn Tiếp
Cứu bị chết 40% chiến binh, trong đó có 2 Tiểu đoàn trưởng chết vì
bị thương, và bị mất toàn bộ 18 khẩu súng phòng không 12.7ly cùng 11
súng cối. Vì các chiến binh của Quân Đoàn II và của Sư Đoàn 1 Không
Kỵ Mỹ bẻ gẫy Chiến dịch Đông–Xuân ngay từ giai đoạn đầu nên Tướng
Võ
Nguyên Giáp buộc phải từ bỏ ý đồ cắt đôi Miền Nam năm 1965–1966.
Trận Ia–Drang
(Long Arm Reaching)
(từ 28/10/1965 đến
18/11/ 1965)
Sau khi liên quân Việt–Mỹ đánh bật cộng sản Bắc Việt (CSBV) ra
khỏi vòng đai Căn cứ Pleime và giải vây cho đơn vị trú phòng,
ngày 27/10/1965, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II đã phối hợp với Bộ Tư
Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Quân Khu 2 mở 1 cuộc
hành quân quy mô tổng truy kích 3 Trung Đoàn 32, Trung Đoàn 33, và
Trung Đoàn 66 CSBV ở vùng núi Chu Prong. Nỗ lực chính trong cuộc
hành quân này là 1 số đơn vị bộ chiến của Sư Ðoàn 1 Không Kỵ (1st
Air Calvary Division) Hoa Kỳ, trong đó có 5 Tiểu Đoàn của các Trung
Đoàn 7, 8, và 1 thành phần của Trung Ðoàn 9. Cuộc hành quân xuất
phát từ Pleiku trải rộng về hướng biên giới Việt–Miên. Chỉ huy trực
tiếp Lực Lượng Xung Kích của cuộc hành quân giai đoạn đầu là Ðại tá
Harlow Clark, Lữ đoàn trưởng của Lữ Ðoàn I thuộc Sư Ðoàn 1 Không Kỵ.
Nhiệm vụ chính của Lữ Đoàn là thực hiện các cuộc hành quân bộ chiến
theo phương thức các đơn vị tác chiến được trực thăng vận (Không Kỵ)
nhảy xuống trận địa từ trực thăng của các Đại Đội Trực Thăng cơ hữu
để truy lùng và tiêu diệt địch quân.
Giai đoạn I: (All the
Way: từ ngày 28/10/1965 đến ngày 8/11/1965)
Ngày
28/10/1965 Lữ Đoàn I Không Kỵ được trực thăng vận chở đến
phía Tây trận địa Plei Ia Priêng, Quynh Kla, và suối Ia Mơ, nơi
mà Chiến Đoàn VNCH trước đây bị phục kích trong trận
công đồn đả
viện Pleime của CVBV. Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn đóng tại đồn điền trà Catecka, nằm trên
Quốc lộ 19 và cách Quốc lộ 14 độ 4km. Vùng hành quân rộng lớn đến
120km² được chia làm 3 khu vực nhỏ mang tên 3 vị Thiếu tá Tiểu đoàn
trưởng Hoa Kỳ: Shoe, Jim, Earl.
Ngày 1/11/1965 lúc
7:30g các trực thăng thám thính phát giác sự hiện diện của cán binh
Viêt cộng khoảng một Trung đội lẩn khuất trong vùng thung lũng
tại 10 cây số Tây–Nam của Trại Pleime. Lữ Đoàn I Không Kỵ
ngay lập tức thả xuống 1 Đại Đội Trinh Sát chận đánh. Sau 1 cuộc
chạm súng, quân CS bị bất ngờ nên hốt hoảng bỏ chạy để lại 20 xác
chết cùng 19 tên bị bắt sống. Cuộc hành quân tảo thanh liền được
khai triển tiếp theo và Quân Mỹ đã khám phá 1 bệnh viện dã chiến
cấp Trung Đoàn tại phía Tây của Trại Pleime khoảng 9km. LĐIKK đã đột
kích bắt gọn toàn thể nhân viên và tịch thu nhiều tấn các trang bị,
thuốc men, và dụng cụ giải phẫu chế tạo tại các nước cộng
sản còn mới nguyên, tổng cộng trị giá khoảng $40,000.00 Mỹ
kim.
Đến chiều, trong khi việc di tản chiến lợi phẩm
bằng trực thăng tiếp diễn, 1 đơn vị Cộng quân cấp Tiểu Đoàn
thuộc Trung Đoàn 33 âm thầm di chuyển tới gần và mưu toan bao
vây và tấn công các vị trí đóng quân của Mỹ ngay tại bệnh viện
(CSBV muốn cứu thoát 1 Đại tá CS, có thể là Đại tá Hà Vi Tùng,
đang bị thương nằm điều trị tại đây). Lữ Đoàn I KBKV tức thời điều
động các đơn vị bao vây khu vực. Giao tranh ác liệt kéo dài suốt 5
giờ liền. Đến gần sáng Cộng quân rút lui bỏ lại tại trận 250 xác, 44
tù binh, phỏng đoán có đến 200 bị thương rút về hướng biên giới
Việt–Miên. Trong trận này, phía Hoa Kỳ có 12 binh sĩ tử trận, 51
người bị thương, 8 trực thăng bị hư hại. Chiều ngày 2/11, các đơn
vị Mỹ rút khỏi khu bệnh viện và tiếp tục truy lùng tàn quân CS quanh
quẩn lẩn khuất đâu đó.
Khu vực hành quân giai đoạn 1 của LĐIKK Hoa Kỳ
Chiếm được bệnh viện dã chiến của địch là
một khám phá lớn của Sư Đoàn Không Kỵ, ngoài việc hủy diệt
các lực lượng Viêt cộng, nó cũng đã cung cấp các tài liệu
tình báo quý giá, đặc biệt là một bản đồ ghi rõ các đường
tiếp liệu và tiến quân trong chiến dịch của CSBV.
Ngày 3/11/1965 lúc 21:00g đêm, Tiểu Đoàn 1/9 KBKV hành quân
phục kích ngay trung tâm của vùng Chu Prong – Ia–Drang đã chạm
địch
và tiêu diệt 1 đơn vị vận chuyển vũ khí cấp Đại Đội của Trung
Đoàn 33 CSBV. Đến 22:00g đêm Tiểu Đoàn 8 thuộc Trung Đoàn 66
CSBV (Trung Đoàn này vừa mới xâm nhập vào Nam từ tỉnh Quảng Ninh
sau 2 tháng lội bộ) trở lại bao vây và tấn công Tiểu Đoàn 1/9
tại bãi đáp Mary, Lực Lượng Hành Quân chống trả mãnh liệt, giao tranh kéo dài
đến 4:00g sáng VC rút lui bỏ lại 112 chết (đếm được xác), hơn
200 khác ước tính chết và bị thương, và 30 vũ khí tịch
thâu.
Sáng ngày 4/11/1965 2 Đại Đội B và D của
Tiểu Đoàn
1/8 KBKV được trực thăng vận đến thay thế các đơn vị chạm địch từ
hôm qua để truy kích địch quân và thu dọn chiến trường tìm thấy 22
xác VC thuộc Trung Đoàn 33 chính quy.
Trong khi đó Đại Đội B
của TĐ2/12 KBKV cũng chạm địch tại gần vị trí bệnh viện đã khám
phá một kho chôn giấu vũ khí, quân trang, quân dụng, và thực phẩm
tại 5 cây số phía Tây của Trại Pleime, gần cạnh sông Ia Meur.
VC bỏ lại tại trận địa 72 xác chết và 1 tù binh thuộc Trung Đoàn
66/SĐ304 chính quy CSBV vừa vượt biên giới vào Nam. Về phía Mỹ có 4
tử thương, 25 bị thương.
Lực Lượng Hành Quân tiếp tục truy
kích địch qua phía Bắc của Bệnh viện dã chiến của VC, các cuộc đụng
độ gia tăng, VC bắn sẻ vào các đơn vị của Tiểu Đoàn 2/8 KBKV, chiến
sự giảm cường độ khi trời tối. Trong khi đó các tù binh bắt được
khai báo Trung Đoàn 33 đang di chuyển về núi Chu Prong.
Ngày
5/11/1965 Tiểu Đoàn 2/8 Cavalry được lệnh hành quân chận địch và
Pháo Binh yểm trợ được di chuyển từ Cavalair đến Falcon. Nhiều trận
đụng độ đẫm máu xảy ra tại phía Bắc của sông Ia Meur giữa các
đơn vị của Tiểu Đoàn 2/8 KBKV với Tiểu Đoàn 6 Trung Đoàn 33 CS kéo
dài tới ngày 7/11 mới chấm dứt. Tiểu Đoàn 6 thuộc Trung Đoàn 33
gần như bị tiêu diệt với 77 xác bỏ lại chiến trường (đếm được
xác) gần 400 khác ước tính bị giết và bị thương. Mỹ phải
dùng đến 3 chiếc Chinook để chở chiến lợi phẩm.
Từ ngày
6/11/1965 Lữ Đoàn I KBKV tập trung cả 3 Tiểu Đoàn trực thuộc càn
quét vùng chạm địch có diện tích khoảng 2,500km²
trong 3 ngày liên tiếp, hy vọng tiêu diệt các Trung Đoàn 32 và
Trung Đoàn 33 CSBV, nhưng trong các cuộc đụng độ thực hiện
trên, không thấy tăm hơi Trung Đoàn 32. Mặc dù con số tổn
thương Viêt cộng, gồm cả số trong đợt đầu lên tới 1,500
người, lại tìm thấy thêm một Trung Đoàn – Trung Đoàn 66 – đã
được đưa thêm vào thế trận.
Giai đoạn II: (Silver
Bayonet: từ Ngày 9/11/1965 đến 17/11/1965)
Cuộc hành quân
của Lữ Đoàn I Không Kỵ không đánh trúng được tâm điểm trú ẩn của Lực
Lượng CSBV, BTL Lực Lượng Tham Chiến Hoa Kỳ dựa vào các thông tin
tình báo thiếu sót nên đánh giá có thể là các đơn vị của
Trung Đoàn 32 đã chuồn mất về hướng Đông, do đó Tướng Kinnard
cho các đơn vị thuộc SĐIKBKV tiến về phía Đông và Nam của Trại LLĐB
Pleime để truy lùng quân địch. Ngày 9/11/1965, LĐIIIKBKV do Đại tá
Thomas “Tim” Brown chỉ huy được lệnh không vận vào vùng để thay thế
LĐI của Đại tá H. Clark và cuộc hành quân của LĐIIIKBKV được chuyển
trọng tâm từ Tây sang Đông bắt đầu vào ngày 10/11/1965.
Trong khi tin tức tình báo VN của Quân Đoàn II thì cho biết
Trung Đoàn 66 CSBV gồm 3 Tiểu Đoàn 7, 8, & 9 vừa mới từ Bắc Việt xâm
nhập vào Tây Nguyên đang ém quân đóng thành hàng dọc theo sông
Ia–Drang (làng Tung, phía Tây của Pleime) mà chờ lệnh sẽ rùng rùng
ào ra. Trung Đoàn 32 đang ở phía Bắc sông Ia–Drang trong cùng
vùng – Trung Đoàn 33 cũng đang ém quân tại các vị trí kế cận
làng Anta (theo danh xưng Viêt cộng), các cánh quân này đều đang
ở vị trí phía Đông của rặng núi Chu Prong (tức là phía Tây của
Pleime).
Theo cung từ của một sĩ quan chính trị viên
hàng binh (Thiếu uý CSBV Bùi Văn Cường – đã đầu hàng lúc 8:44g ngày 7/11): Sáng ngày 11 tháng 11, Bộ Tư Lệnh Tiền Phương
B3 của CSBV sẽ triệu tập 1 buổi họp các Trung đoàn trưởng, kể
cả Chỉ huy trưởng của Trung Đoàn 66 mới đặt chân tới chiến
trường để điều nghiên kế hoạch cho 1 cuộc tái tấn công 1
mặt trận mới. Mục tiêu chính của cuộc tấn công này là hủy
diệt Trại LLĐB Pleime. Vì tin chắc các lực lượng hành quân của
Mỹ và VNCH đã đánh mất vết tích của các đơn vị của họ, Mặt
Trận CSBV của Chu Huy Mân khởi động thế trận này để lấy lại ưu
thế bằng 1 cuộc tập kích lần thứ 2 vào Trại LLĐB Pleime được
ấn định vào ngày 16/11 với sự tham dự của cả 3 Trung Đoàn
cũng như 1 Tiểu Đoàn pháo 120ly, và 1 Tiểu Đoàn súng
Phòng Không 2 nòng 14.5ly. Cả 2 đơn vị này đang trên đường
xâm nhập và dự tính sẽ tới nơi kịp thời.
Nhưng kế
hoạch của Chu Huy Mân sẽ chẳng bao giờ có dịp được đem ra thực
hiện vì chỉ vài ngày sau đó, ngày 13/11/1965 BTL Sư Đoàn KBKV
đã sử dụng tin tức tình báo của VNCH cung cấp về vị trí của quân
Viêt cộng ẩn nấp tại rặng núi Chu Prong, và quyết định đánh
vào nơi mà quân CSBV đang nằm phục kích chờ đó. Rặng Chu Prong cao
độ 720 mét có thể quan sát kiểm soát quanh vùng Ia–Drang. Lữ Đoàn
III KBKV đã đánh thốc trở lại hướng Tây.
Ngày
12/11/1965 lúc 1:15g 1 đơn vị Đặc công CSBV gồm 26 bộ đội
trong toán tiền kích trang bị 4 súng cối có Du kích địa phương
hướng dẫn, đột kích thử sức vào hậu cứ Lữ Đoàn III tại đồn điền
trà Catekca, (mặc dầu có 1 Thiếu tá Dù VNCH đã cảnh cáo là
quân của CSBV thường đánh sau lưng Bộ Chỉ Huy trong lúc đơn vị vừa hoán đổi). Nhưng nhờ
có chó canh phòng Quân Khuyển nên cuộc đột kích này không thành
công. Kết quả địch quân đã bỏ xác tại trận 6 tên, bên Hoa Kỳ chết 7
người và bị thương 23 người. Tìm được hơn 100 gói bánh chất nổ bộc
phá của địch bỏ lại để liệng vào trực thăng và bồn nhiên liệu quanh
đó.
Phóng đồ trận đánh tại Lz X–Ray do Ban Sử của West Point vẽ lại
Bãi đáp X–Ray Ngày 14 tháng 11 năm 1965:
Chu Prong với địa thế núi rừng trùng điệp, Căn cứ của Bộ Tư Lệnh
B3 Tiền Phương gần sát biên giới Việt–Miên có các đơn vị yểm trợ
với nhiều kho tiếp liệu. Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 66 và Tiểu Đoàn 7 chiếm
1 khu lều trại nối tiếp nhau ở mặt phía Đông, Tiểu Đoàn 8 đóng
ngay trong thung lũng Ia–Drang cách đó 8km. Mặc dù mỏi mệt và đói
khát vì đoạn đường bôn tập, bộ đội CSBV phải làm ngay lều trại, đào
công sự phòng thủ, chuyên chở gạo nước đạn dược từ các hầm tiếp vận
của Mặt trận B3. Trung Đoàn này được coi là đầy đủ quân số.
Mỗi Tiểu Đoàn CSBV có khoảng 500 bộ đội, mỗi Đại Đội có từ 100 đến
120 người, trang bị súng trường tự động AK47, SKS, tiểu liên, trung
liên, súng phóng lựu RPG, súng cối 82ly, và súng không giật. Phần lớn
các bộ đội chưa quen với địa thế.
Sáng sớm ngày 14 tháng
11, vào lúc 4:30g sáng, Sư Đoàn 1 KBKV đã phát giác ra
vị trí của Tiểu Đoàn 9 thuộc Trung Đoàn 66 tại sườn núi
Chu Prong. Do đó, Tiểu Đoàn 1/7 KK với quân số khoảng 450 người, do
Trung tá Harold G. Moore chỉ huy được trực thăng vận vào vị trí bãi
đáp X–Ray dưới chân rặng núi Chu Prong với nhiệm vụ tìm và diệt
địch. (Trung tá Harold G.Moore, 42 tuổi, xuất thân trường Võ bị West
Point lớp 1945).
Địa thế vùng này không nhiều cây to nhưng
khá um tùm và đặc biệt nhiều cỏ voi cao ngang đầu người bao quanh
nhiều gò mối khổng lồ, to như 1 căn nhà chòi.
Sau 30 phút,
hỏa lực Pháo Binh, hỏa tiễn, Không Quân cày nát bãi đáp, 16
chiếc trực thăng chuyển quân được Trực thăng Võ trang hộ tống
bắt đầu đổ Đại Đội B/1/7 (quân số 109 người) xuống bãi đáp
X–Ray, cách Pleime khoảng 14km về phía Tây. Bãi đáp chỉ tiếp
nhận mỗi đợt 4 chiếc trực thăng đổ quân, đến 14:00g, sau hơn 3
tiếng chỉ chuyển vận được ¾ Tiểu Đoàn. Tiểu đoàn trưởng,
Trung tá Harold G. Moore, thân chinh cùng Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn,
Đại Đội xung kích – Đại Đội B – đổ
bộ đúng 10:48g. Đại Đội trưởng Đại Đội B, Captain John
Herren lo thiết lập an ninh bãi đáp, ra lệnh các Trung Đội lục
soát các khu vực chung quanh và đã tập kích bất ngờ vào vị trí
Tiểu Đoàn 9/66 trong thế chưa sẵn sàng ứng chiến. Vào
khoảng 11:20g Tiểu Đội của Trung sĩ John Mingo bất ngờ bắt được
một tù binh CSBV (không võ trang), tên này khai là chỉ ăn
chuối thay cơm trong 5 ngày qua và cho biết có 3 Tiểu Đoàn
thuộc Trung Đoàn 66 CSBV hiện đóng quanh núi Chu Prong.
Lúc
12:10g, các Đại Đội A, quân số 106 người do Đại uý Tony Nadal
chỉ huy. Và Captain Bob Edwards chỉ huy Đại Đội C, cũng lần
lượt được
thả xuống. Sau khi đổ quân các đơn vị được bung rộng ra lục
soát chung quanh bãi đáp X–ray. Trung tá Moore điều động Đại
Đội C (Charlie) thủ mặt Tây, ĐĐ A (Alfa) thủ phía Tây–Bắc, và ĐĐ
B (Bravo) thủ mặt Đông–Bắc. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn trấn thủ phía
Đông–Nam. Một dòng suối
cạn chạy dài từ Tây–Nam ôm sát bãi đáp lên hướng Đông–Bắc gần tới
bãi đáp Albany xa khoảng 3 dặm.
Khi chiếc trực thăng đầu tiên
bay đến, các tay chỉ huy Trung Đoàn 66 và Tiểu Đoàn 9 CSBV đang
đi điều nghiên địa thế ở bờ sông Ia–Drang, cách nơi đóng quân
hàng chục cây số. Chính ủy Trung Đoàn 66 là Nguyễn ngọc Châu và
Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 9 cũng không có mặt ở Bộ Chỉ Huy. Từ
Bộ Tư Lệnh mới
thiết lập trên đỉnh Chu Prong, Nguyễn hữu An chỉ huy Mặt trận B3
Tiền Phương tỏ ra mất tinh thần khi thấy máy bay và Pháo Binh Mỹ tàn
phá nơi đóng quân Tiểu Đoàn 9 với những đợt trực thăng nhào xuống
phía bên kia núi.
Dưới trận mưa bom, các trạm tiền tiêu của
Tiểu Đoàn này đã bị tiêu diệt gọn, Tiểu Đoàn 9 không phát hiện
ra là lính Mỹ đang tiến tới, cho đến khi còn cách độ 100 mét họ
mới biết. Quân Mỹ chia thành 2 cánh, 1 tiến thẳng vào Đại
Đội 11 của Tiểu Đoàn 9 và 1 đánh thẳng vào Bộ Chỉ Huy Tiểu
Đoàn.
Khoảng
12:45g, các Trung Đội tiền đồn của Đại Đội B (1st Platoon,
Lieutenant Al Devney; 2nd Platoon Lieutenant Henry Herrick, and the
3rd Platoon, Lieutenant Dennis Deal) bắt đầu chạm địch trong 1
cuộc đọ súng với tầm mức tương đối nhẹ và Cộng quân cũng bắt
đầu pháo vào vị trí đóng quân.
Cuộc nổ súng bắt đầu, Tiểu
Đoàn 9 CSBV gần như bị tê liệt. Riêng Đại đội trưởng Đại Đội 11 cố
gắng chống đỡ cuộc tấn công, nhưng chính trị viên Tiểu Đoàn hoảng
sợ, người tạm thay Tiểu đoàn trưởng chỉ huy, hắn chôn chân dưới hầm,
Tiểu Đoàn coi như không có người chỉ huy. Tiểu đoàn trưởng từ bờ
sông Ia–Drang chạy trở về đơn vị, gặp Đại Đội 11 khoảng 1 giờ sau,
nhưng không liên lạc được với ai trong đơn vị. (Trận đánh tại bãi
đáp X–Ray là trận đánh kinh hoàng nhất cho đời Trung tá H.G. Moore
mà sau này ông thăng lên cấp thiếu tướng vẫn không tài nào quên
được, Tiểu Đoàn 1/7 mà ông là Tiểu đoàn trưởng, đơn vị chủ yếu trong
trận đánh X–Ray mà phim ảnh Hollywood gọi là “We were Soldiers” sau
37 năm họ dựng lại 1 đoạn đánh để đời của Trung tướng H.G Moore.)
Vào lúc 14:00g, Nguyễn Hữu An ra lệnh cho
2
Tiểu Đoàn 7 & 9
của Trung Đoàn 66 đồng loạt tấn công 3 mặt vào bãi đáp X–Ray. Ngay
lúc đó, Đại đội trưởng Đại Đội B báo cáo bị ít nhất 2
Đại Đội địch tấn công. Cộng quân tập trung hỏa lực bắn xối xả vào
2
Trung Đội đi đầu và đã gây thiệt hại khá nặng cho 2 Trung Đội này,
và Trung đội 2B1/7 của Trung uý Henry Herrick bên cánh phải đã
đuổi theo 1 đám địch quân ẩn hiện phía cạnh sườn phải, và đã tiến
xa hơn 100 thước, nên bị tách rời khỏi Đại Đội. Khi tới 1 khoảng
trống, Trung Đội bất ngờ chạm trán hơn 50 địch quân. Herrick bình
tĩnh chỉ huy Trung Đội tấn công và gây thương vong cho hơn phân nửa
số địch mà không bị tổn thất nào đáng kể. Cộng quân sau đó bu lại
bao vây và chia cắt Trung Đội 2B1/7 cách xa Tiểu Đoàn bởi một
Lực Lượng VC đông đảo. Cuộc chạm súng gia tăng cường độ,
Herrick cấp tốc liên lạc với Đại Đội, đồng thời thiết lập chu vi
phòng thủ tại 1 gò đất. Trong vòng 25 phút giao tranh, đã có 5
quân Mỹ bị tử thương trong đó có Trung đội trưởng Herrick. Trước khi
hy sinh viên Thiếu uý này còn đủ bình tĩnh báo cáo số anh em bị
thương vong cho Đại Đội, trao quyền Chỉ huy lại cho Trung sĩ Palmer,
và ra lênh phá hủy mật mã, đồng thời vẫn còn tỉnh táo gọi Pháo Binh
bắn yểm trợ rồi buông máy ra đi. Nhưng cũng không lâu sau đó cả 2
Trung sĩ Palmer và người phụ tá là Trung sĩ Stoke cũng bị đạn địch
đốn ngã. Trung sĩ nhất Savage lên chỉ huy và liên tục kêu Pháo Binh
nhả đạn chính xác vào quân địch đang bao vây tứ bề. Tới lúc này
Trung Đội đã có 8 người chết, 13 người bị thương. Nhưng nhờ sự bình
tĩnh chỉ huy của Savage cũng như lòng can trường của Y tá Charlie
Lose, liều chết bò trườn dưới lằn đạn của địch để băng bó thương
tích cho đồng đội. Trung Đội được mệnh danh là “xé lẻ” đã giữ vững
vị trí chiến đấu trong suốt thời gian bị Cộng quân Bắc Việt bao vây
và tấn công.
Những binh sĩ của Đại Đội B/1/7th Cavalry lục soát khu vực quanh X–Ray
Khoảng 2:30g, Đại Đội D (Delta) do
Đại uý Ray Lefebvre chỉ huy với quân số đầy đủ đuợc trực thăng vận
đổ xuống, như vậy là TĐ1/7 đã có mặt cả 4 đơn vị cấp Đại Đội A, B,
C, D. Đại Đội D đã nhanh chóng xen vào cùng 3 Đại Đội kia lập tuyến
phòng thủ. Trong khi đó pháo cối 60 và 81ly của địch tiếp tục
rót xuống bãi đáp, Cộng quân ngày càng tấn tới từ phía núi.
Đại Đội A liền được điều động di chuyển sang bên cánh trái
của Đại Đội B để bảo vệ cạnh sườn. Đại Đội C được lệnh
chiếm 1 vị trí ngăn chận bên ngoài bãi đáp về phía Nam
và Tây–Nam để tránh cho bãi đáp khỏi bị tràn ngập, và cũng
để bảo vệ cạnh sườn trái của Đại Đội A. Tiểu đoàn trưởng
Moore cũng đã gọi Pháo Binh và Không Quân yểm trợ tối đa. Hỏa lực
không yểm và pháo yểm được lệnh bắn phá vào phần ven triền
núi và tiến dần lên núi để chận đường viện quân của địch
tới bãi đáp từ hướng Tây và Nam.
Đợt dội bom của Không
Quân vừa dứt, Cộng quân với khoảng 400 tên từ Chu Prong tràn xuống
dọc theo dòng suối cạn, chia làm 2 cánh tấn công trực diện Đại Đội
A và đánh thốc vào cạnh sườn Đại Đội C với ý định chẻ Lực Lượng Mỹ
ra làm 2. Một Lực Lượng VC ít nhất cũng 1 Đại Đội tiến
dọc theo ven phía Tây của bãi đáp tấn công trực diện vào Đại
Đội A. Giao tranh bùng nổ dữ dội. Nhờ 2 khẩu đại liên M60 do các
Binh nhất Ladner và Adams là xạ thủ, cách nhau không quá 10 thước.
Họ đã quạt liên tục, đốn ngã nhiều đợt tấn công của Cộng quân gây
nhiều tổn thất cho địch.
Ngay khi cuộc giao tranh với Đại
Đội A bùng nổ, 1 lực lượng khác gồm từ 175–200 địch quân
tiến tới bãi đáp và đánh thẳng vào Đại Đội C. Địch quân
bị chận đứng và nhiều bộ đội đã bị ngã gục dưới hỏa lực của các
khẩu đại liên khi cố xông tới chiếm cứ bãi đáp. Cuộc giao
tranh kéo dài khoảng 1 tiếng rưỡi cho đến khi địch bị rối
loạn đội hình buộc phải tháo lui dưới hỏa lực không kích và
pháo kích, lôi theo nhiều xác chết và quân sĩ bị thương.
Trận đánh tại bãi đáp X–Ray
Lúc 15:30g, hỏa
lực địch bắt đầu thuyên giảm dưới sức phản công của 2 Đại
Đội C và D. Cuộc tấn công của họ bị khựng lại vì tổn thất khá
nhiều. Chúng rút lui về phía rừng cây sau những đám cỏ voi.
Rảnh tay, Tiểu đoàn trưởng Moore ra lệnh các đơn vị lo di tản
thương binh, tu sửa vị trí phòng thủ, và tái phối trí lực lượng.
Sau đó, điều động 1 cuộc tấn công để tiến tới giải cứu Trung
đội 2B1/7 của Herrick đang vị bao vây. 2 Đại Đội tiến quân được
chừng 70 thước dọc theo bờ suối thì bị 1 tổ đại liên của địch bố
trí sau 1 gò mối, khai hỏa ồ ạt, gây nhiều tử thương cho binh sĩ.
Thiếu uý Marm, 1 mình lẻn ra phía sau gò mối, tung từng đợt lựu
đạn và bắn rỉa M16 vào tổ đại liên địch, hạ sát tại chỗ 12 tên,
trong đó có tên sĩ quan chỉ huy của chúng.
Tới lúc này
khoảng 17:40g, chiều núi rừng đổ xuống thật mau. Trung tá Moore
ra lệnh cho 2 Đại Đội quay trở lại vị trí xuất phát cố thủ qua đêm.
Tạm thời kiểm điểm quân số thì Đại Đội B thiệt hại 47 (kể cả 1 sĩ
quan), Đại Đội A bị 34 (3 SQ), Đại Đội C bị tấn công nặng nhất nhưng
chỉ bị thiệt hại có 4 nguời. Về phía Cộng quân thiệt hại rất lớn,
xác địch ngổn ngang chung quanh vị trí của Tiểu Đoàn không kịp đếm.
Khoảng 18:00g, Đại Đội B thuộc Tiểu Đoàn 2/7 đổ bộ
để tăng cường cho Tiểu Đoàn 1/7. Pháo Binh tác xạ bảo vệ tuyến
phòng thủ cho các đơn vị suốt đêm kể cả Trung Đội đang bị bao vây.
Lợi dụng bóng đêm, Cộng quân đã tấn công Trung Đội này 3 lần, nhưng
đều bị đẩy lui vì súng, lựu đạn mặc dù quân số Trung Đội này chỉ còn
7 người khỏe mạnh với 13 bị thương và 9 tử trận. Cộng quân đã dùng
“Tù Và” thổi để thúc quân, hòng uy hiếp tinh thần và mong dứt điểm
đối phương. Từ nơi xa, Pháo Đội bạn đã bắn đến viên đạn thứ 4 ngàn
trong đêm.
Ngày 15 tháng 11 năm 1965: Vì bị tổn
thất nặng vào buổi chiều, địch chỉ đánh dạm nhẹ xung quanh
chu vi phòng thủ vào ban đêm. Còn Trung đội bị cô lập thì
bị 3 đợt tấn công riêng rẽ nhưng nhờ vào hỏa lực pháo cận
phòng liên tục, khi trời sáng, nhiều xác địch nằm ngổn ngang
xung quanh Trung đội. Thượng tá Nguyễn Hữu An tức giận, 2 Tiểu
Đoàn tấn công quân Mỹ khi chưa kịp tổ chức phòng thủ mà không làm gì
được nên tung thêm 1 Tiểu Đoàn của Trung Đoàn 33 tập kích gấp rút
để tấn công vào quân Mỹ lúc 2:00g sáng, nhưng đơn vị này ở khoảng
cách xa, đi lạc đường, và lộ mục tiêu vì dùng đèn pin chiếu sáng khi
di chuyển nên bị phi cơ Mỹ phát giác và oanh kích.
Khi mặt
trời vừa ló dạng, địch quân tái xuất hiện và đồng loạt
tấn công từ 3 phía Nam, Tây–Nam, và Đông–Nam. Vào khoảng 7:30g,
2
Tiểu Đoàn 7/66 CSBV và H15 tấn công vào tuyến phòng thủ
của các Đại Đội A, C, & D. Địch quân đã di chuyển gần sát chu vi
phòng thủ mặc dù bị Pháo Binh, bích kích pháo, và không kích
tiếp cận gây tổn thất nặng nề. Có nhiều cuộc đánh xáp lá
cà xảy ra. Lúc 8:00g hơn, 2 phản lực cơ F100 bay đến yểm trợ,
oanh tạc lầm vào đơn vị bạn làm chết thêm 1 số người.
Vào khoảng 09:10g, theo lời yêu cầu của Trung tá Moore Đại Đội A/TĐ 2/7 do Đại
uý Joel Sugdinis chỉ huy được trực thăng vận tới
tiếp viện. ĐĐ này được điều động trám vào khoảng trống tiếp theo Đại
Đội C. Sau gần 2 tiếng rưỡi giao tranh, quân CS rút lui. Xác địch,
vũ khí, và quân cụ nằm ngổn ngang đầy ven bờ và phía trước
chu vi phòng thủ. Có dấu vết chỉ cho thấy nhiều xác địch và
thương binh địch được lôi kéo ra khỏi khu vực giao tranh.
Đơn vị thiệt hại nhất thuộc quyền Trung tá Moore là Đại Đội C.
Quân số tại hàng khi chưa đụng trận thì Đại Đội C này gồm có 5 sĩ
quan và 106 binh sĩ. Đến 2:00g trưa ngày 15/11 khi kiểm điểm tình
hình thì toàn thể sĩ quan Đại Đội C đều hy sinh, binh sĩ 42 tử
thương và 20 bị thương.
Lúc 11:30g, Lữ Đoàn III tung Tiểu
Đoàn 2/5 do Trung tá Bob Tully chỉ huy đổ bộ từ bãi đáp Victor
rồi tiến sát tới bãi đáp X–ray lúc 12:05g để giải cứu
Trung đội 2B 1/7 đang vị bao vây. Địch quân chỉ kháng cự nhẹ
và Trung Đội ̣được giải thoát lúc 15:10g. Đơn vị này gồm
29 người còn lại 7 người khỏe mạnh 13 người bị thương, tinh thần
còn tốt, và chỉ bị 9 chết kể cả Trung đội trưởng và Trung đội
phó. Tất cả những người bị thương và chết đều được di tản. Đêm đến,
Lực Lượng Mỹ lại bố trí phòng thủ qua đêm thứ nhì. Tiểu Đoàn 2/5 CAV
được giao cho phòng thủ 1 nửa chu vi Cứ điểm.
Ngày 16
tháng 11 năm 1965: ngày này lực lượng phòng thủ đã có 2
Tiểu Đoàn, những tưởng địch quân sẽ tháo lui vì thiệt hại quá nhiều, yếu
tố bất ngờ, lấy nhiều đánh ít đã thất bại... Nhưng Chu Huy Mân ra
lệnh đánh tiếp.
Đêm trải qua yên tĩnh đến 04:00g sáng, hệ
thống mìn tự động và trái sáng quanh vị trí phòng thủ bị kích hỏa,
Pháo Binh bắn cận phòng suốt đêm cũng không ngăn được địch quân với
một lực lượng gồm 250–300 người len qua màn lưới thép tấn công
từ phía Đông–Nam. Phi cơ thả trái sáng được gọi đến. Địch
quân liên tục tấn công 4 đợt, giao tranh cận chiến đẫm máu cho đến
7:00g sáng. Trung tá H. G. Moore yêu cầu Pháo Binh bắn vào khu vực
hàng rào kẽm gai quanh trại. Loạt đạn nổ chụp quanh rào làm tất cả
các địch quân đang tiến vào doanh trại đều bị tử thương cách hàng
rào phòng thủ không đầy 3 mét. Như vậy Pháo Binh đã bẻ gẫy cuộc đột
kích và gây tổn thất nặng nề cho đối phương.
Lúc 8:00g
sáng công cuộc tìm và càn quét quanh Căn cứ được thực hiện
bởi tất cả các đơn vị trong phạm vi phòng thủ. Xác địch bỏ
tại trận trên 200 nằm la liệt khắp cùng khu vực và thu lượm
được vô số vũ khí. Đại Đội B/1/7 có 9 Binh sĩ bị thương.
Tổng kết toàn trận đánh kéo dài liên tục trong 48
tiếng đồng hồ, địch quân tổn thất tại X–ray gồm:
– Chết đếm được xác: 634. Chết xác mang đi (ước tính):
1,215.
– Bị bắt: 6.
– Vũ khí bị tịch thu: 141.
– Vũ
khí bị phá hủy: 100.
Về phía Tiểu Đoàn 1/7 CAV thì 79
quân sĩ bị thiệt mạng và 121 bị thương được lệnh lui về Pleiku
để chỉnh trang. Lúc 3:00g chiều, Tiểu Đoàn 1/7 bàn giao X–Ray lại
cho Tiểu Đoàn 2/7 do Trung tá Robert Mac Dade và Tiểu Đoàn 2/5 được
gởi đến thay thế.
Trung Đoàn 66 CSBV bị tổn thất nặng nề
trong trận đánh X–ray là vì họ bị Tiểu Đoàn 1/7 tấn công bất
ngờ (Pháo Binh tác xạ ngoài rào phòng thủ) và các cán bộ chỉ
huy đã không khéo sử dụng địa thế. Các chiến thuật của họ
hầu như dựa vào “biển người” và họ quá tự tin là cuộc
tấn công của họ sẽ làm cho Tiểu Đoàn 1/7 rã ngũ rất mau
chóng, họ đã không sử dụng các vũ khí cộng đồng trong khi tấn
công. (thật ra các khẩu súng cộng đồng và 18 khẩu súng phòng không
của họ đều đã bị Chiến Đoàn QLVNCH giải vây Pleime tiêu diệt)
Trận đánh Ia–Drang của SĐ1 Kỵ Binh Không Vận
Ngày 17 tháng 11 năm 1965: Từ chiều
Ngày 15 tháng 11, các Phóng Pháo Cơ B52 đã tham gia vào
trận đánh với ít nhất 5 phi vụ oanh tạc mỗi ngày tại
rặng núi Chu Prong. Ngày 17/11, các mục tiêu oanh tạc trải
thảm của Pháo Đài Bay B52 cũng bao gồm quanh khu vực núi Chu
Prong luôn cả bãi đáp X–ray. Hai Tiểu Đoàn 2/7 và 2/5 được
lệnh di chuyển ra cách bãi đáp 3 cây số về hướng Bắc
và hướng Đông–Bắc tới 2 bãi đáp khác gọi là LZ Albany
và LZ Columbus. Việc di chuyển cũng dựa trên ước tính là
địch đã rút lui về hướng đó. Vào buổi chiều ngày hôm
trước, 1 trực thăng đã bị bắn rớt trên vùng đó, sự
di chuyển của địch cũng nhắm tấn công vị trí Pháo Binh
nằm phía Đông bãi đáp X–ray, đã từng yểm trợ hữu hiệu
cho Tiểu Đoàn 1/7 trong 2 ngày chót.
Vào khoảng 9:00g
sáng, 2 Tiểu Đoàn bắt đầu di chuyển theo 2 hướng khác
nhau, TĐ 2nd/7th dưới sự chỉ huy của Trung tá Robert McDade di
chuyển đến LZ Albany khoảng 3km về hướng Bắc/Đông–Bắc và TĐ
2nd/5th do Trung tá Bob Tully chỉ huy di chuyển về LZ Columbus
khoảng 3km hướng Đông–Bắc. Sau khoảng 3 giờ di chuyển TĐ2/5 đến
được mục tiêu LZ Columbus. Trong khi đó, Tiểu Đoàn 2/7 do Trung
tá McDade chỉ huy cũng vừa đến vị trí Albany vào lúc 1:30g
trưa thì bị lọt vào ổ phục kích của các đơn vị CS rất đông quân
số đang nằm chờ nơi đó từ lâu. Các đơn vị CS này gồm có Tiểu
Đoàn 1/Trung Đoàn 33 CSBV, BCH/Trung Đoàn 33 cùng với TĐ8/Trung
Đoàn 66 1 đơn vị trừ bị còn sung sức của Chu Huy Mân.
Bộ Chỉ Huy của TĐ2/7 đi đầu cùng với Trung Đội Trinh Sát bảo vệ,
khi tới nơi, toán trinh sát bắt được 2 tên VC đóng chốt đang nằm
ngủ. Bắt được tù binh, Trung tá Mc Dade cho lệnh đoàn quân dừng
chân nghỉ mệt rồi ông đích thân thẩm vấn 2 tên Việt cộng. Chúng
khai rằng Tiểu Đoàn 8/66 hiện đang có mặt quanh đây. Trung tá Mc
Dade gọi các Đại đội trưởng đến họp để ban lệnh. Ngay khi Tiểu
Đoàn đang họp thì Cộng quân nhất loạt xung phong tấn công vào
quân Mỹ.
Lợi dụng lúc quân Mỹ đang nằm ngồi ngổn ngang
nghỉ mệt, Cộng quân hàng trăm tên đồng loạt xung phong. Một cánh
đánh trực diện đơn vị dẫn đầu của Tiểu Đoàn 2/7 và cánh khác
đánh vào cạnh sườn phía bên phải hay phía Đông trong 1 đội
hình phục kích chữ L. Cộng quân tấn công dữ dội vào phòng tuyến
Mỹ bằng đủ loại vũ khí và luôn cả đánh xáp lá cà. Bộ Chỉ Huy
Tiểu Đoàn 2/7 hoàn toàn bị tê liệt, bị cả 1 lực lượng đông đảo
địch quân tấn công. Trong giờ phút đầu tiên bị tấn công, Lữ Đoàn
hay tin nhưng không thể liên lạc được.
Trận chiến kéo dài
cho đến trời tối, địch quân đã cắt Tiểu Đoàn 2/7 ra thành từng
mảng, Các binh sĩ Hoa Kỳ phải ẩn mình trong các vị trí kín đáo
để tự chiến đấu. Cộng quân đã gây thiệt hại 50% quân số cho Tiểu
Đoàn 2/7. Lúc này quân sĩ Hoa Kỳ gần hết đạn vì hầu hết tất cả
quân nhân Hoa Kỳ khi mới đụng trận vào giờ phút đầu thì họ bắn
hết phân nửa số đạn mang theo. Quân sĩ Hoa Kỳ thường ỷ y khi
đánh trận, bắn cho hết ga, bắn cho sướng tay, càng bắn nhiều thì
địch càng chết nhiều. Rồi trực thăng sẽ chở đạn dược đến không
cần phải lo. Nhưng khi trực thăng bị lưới phòng không phủ chụp
xuống thì việc tiếp tế không thể thực hiện được.
Lúc 3:00g
chiều, Đại Đội B của Tiểu Đoàn 1/5 Kỵ Binh do Đại uý Buse Tully
được lệnh di chuyển từ LZ Columbus vào phía sau của Tiểu Đoàn
2/7 cách đó khoảng 2 dặm (3km). Lúc 16:30g, họ đã bắt tay được
với Đại Đội A/2/7 của Đại uý George Forrest. Một Trực thăng Tản
thương đã hạ cánh an toàn và những thương binh đã được di tản.
Lúc 18:25g, các đơn vị này đã nhận được lệnh tổ chức vị trí phòng
thủ đêm chu vi 2 Đại Đội. Các Đại Đội C và A bị mất 70 người
ngay trong những phút đầu. Đại Đội C thiệt hại nặng nhất, 45
người chết và hơn 50 người bị thương; các phóng pháo cơ A1E
Skyraider được gởi đến yểm trợ thả bom napalm. Tuy nhiên, do
sương mù và sự xen kẽ của quân 2 bên đánh xáp lá cà, nên cuộc
không kích kém hiệu quả.
Tiểu Đoàn 2, Lữ Đoàn VII đã gom
lại 1 chu vi nhỏ tại Albany bao gồm những người sống sót của
Đại Đội A, Trung Đội trinh sát, Đại Đội C, Đại Đội D, và BCH Tiểu
Đoàn. Cách xa khoảng 500m về phía Nam là Đại Đội A/2/7 của Đại
uý George Forrest và Tiểu Đoàn 1/5 Kỵ Binh. Vào khoảng 10:00g
đêm, các Trực thăng Tản thương đã đáp được xuống Albany để di
tản những thương binh mặc dù đạn phòng không của địch quân dầy
đặc. Đêm về toán địch quân đi thanh toán chiến trường. Tất cả tử
thi đều bị địch quân đâm suốt từ tim ra sau lưng, dù tử thi đã
chết từ lâu. Thiếu uý G. A. Custer bị miểng pháo cắt ngang chân,
đang nằm chờ chết. Xung quanh anh toàn là người chết xếp lớp.
Anh diễn tả khi nghe địch quân “đi thanh toán chiến trường” như
sau:
“Họ đi hàng ngang, lưỡi lê kéo dài rất nhọn từ súng
AK47, họ đến từng người lật ngửa xác ra và chĩa lưỡi lê vào
ngay tim rồi ấn xuống. Có xác chết từ lâu thì tiếng lưỡi lê hay
cây sắt nhọn đâm vào tim, tiếng nghe rất dòn: ‘Xụt xụt... Ọt
ọt’, có nạn nhân đang hấp hối bị đâm suốt vào tim thì người sẽ
cong lên và hét lớn lần cuối”. Tiếng thét này đeo đẳng theo
Thiếu uý G. A. Custer suốt đời, từ Ia–Drang đến tận Chicago nơi
mà thiếu uý về an dưỡng cuộc đời phế binh 37 năm sau.
Khi
đến cách thiếu uý chừng vài mét thì có cuộc trải thảm của B52
nên Thiếu uý Custer nghe tiếng kèn thổi lui quân của địch. Và từ
đó ông không còn nghe gì nữa cho đến 3 tuần sau tại phòng Hồi
Sinh của bệnh Viện Hoa Kỳ đóng tại phi trường Cù Hanh Pleiku.
Ngày hôm sau, 18/11, Các đơn vị Mỹ bắt đầu kiểm kê lại trận
đánh tại LZ Albany, xác chết đôi bên nằm la liệt trên chiến địa.
Tổng kết phía Mỹ thiệt hại 155 tử thương, 124 bị thương, và còn
lại 171.
Về phía địch quân, 403 xác đếm được, tịch thu 147
súng đủ loại. Và sau hết Lực Lượng Mỹ rút khỏi LZ Albany.
Trận đánh Ia–Drang từng được xưng tụng là chiến thắng ngoạn
mục của quân đội Hoa kỳ, nhưng theo nhiều nhà bình luận cho là 1 thảm họa mà trong đó khoảng 300 bộ binh Mỹ thiệt mạng vì cấp
chỉ huy quờ quạng vụng về.
Với hỏa lực yểm trợ hùng hậu từ B52,
khu trục, phản lực cơ, và Pháo Binh cộng với tốc độ chuyển quân
thần tốc của trực thăng vận và lòng dũng cảm chiến đấu kiên
cường của người lính, từng ấy ưu điểm đáng lý phải đè bẹp đối
phương. Vậy mà để rồi cứ 4 lính Mỹ tham chiến tại Ia–Drang thì
có 1 người bỏ mạng, thế chủ động chiến trường tan theo mây khói
và niềm tin vào 1 thế thượng phong của Hoa Kỳ cũng triệt tiêu.
Trở lại phần phân tích trận chiến, nhiều người đồng ý là lỗi
lầm đầu tiên của các Tiểu đoàn trưởng là đã không thu thập tin
tức tình báo về bãi đáp X–Ray và điểm tới LZ Albany. Các Ông cần
phải biết rõ về địch tình, địa thế, và thời tiết. Các Ông chỉ lo
tìm vị trí bãi đáp và không để ý đến địch quân dù rằng quân số
địch ước tính cả Trung Đoàn. Họ chọn bãi đáp đổ quân cho cuộc
hành quân rất gần nơi địch quân đang ẩn núp trong dãy núi Chu
Prong. Tình báo chiến trường của họ cho biết là chắc chắn quân
địch đang ở biên giới Kampuchia từ lâu rồi, vì quanh núi Chu
Prong đoàn phi cơ thám thính không thấy dấu hiệu địch quân như:
dấu chân trên cát hay cỏ, không có dấu hiệu khói nấu ăn, không
có cành cây gẫy khi đại quân đi qua, tất cả an toàn cho bãi đổ
quân. Nhưng tất cả đã lầm.
Nơi đây Tiểu Đoàn Hành Quân đã
chạm địch ác liệt, đến nỗi họ phải kêu Pháo Đài Bay B52 dội bom
lửa sát phòng tuyến của họ. Lệnh này được lặp lại 3 lần thì phi
công B52 mới dám thi hành. Sau đó các phi vụ B52 đánh bom đến
18 lần trong ngày. B52 được lệnh từ Pleiku trải thảm bom toàn
thể núi Chu Prong chận địch quân đánh xuống khu vực Hoa Kỳ vừa
đổ quân và đồng thời cũng chận bít con đường rút quân của Tướng
Chu Huy Mân chạy trốn sang Kampuchea.
Hành Quân
Thần Phong 7
(từ 18/11/1965 đến 26/11/1965)
Chiến Đoàn Đặc Nhiệm Nhảy Dù Việt Nam tham chiến (giai
đoạn 3 từ Ngày 18 đến Ngày 26/11/1965)
Theo
tài liệu tổng kết của BTL/Quân Đoàn II: Trong 5 Ngày liên
tiếp, từ 15 đến 19 tháng 11, các Phóng Pháo Cơ B52 đã
bay tổng cộng 96 phi vụ. Từng khu vực 1, các khu vực
của rặng núi Chu Prong – mỗi khu 20mi² – tuần tự
trải qua một cơn động đất từ Tây sang Đông. Các công sự
và hầm hố trước nay đã từng không ảnh hưởng đến các cuộc
không tập hay pháo tập bắt đầu bị các trái bom 750 cân anh
trực tiếp đánh sập. Lớp cây lá rừng rậm không còn hữu
hiệu cho công việc ẩn núp lẫn bao che. “Cửa hậu” vào Căm
Bốt bị đóng lại và để trốn thoát, tàn quân Viêt cộng
chỉ còn lại thung lũng eo hẹp của Ia–Drang. Hao mòn bởi
những thất bại và tổn thất liên tiếp, hậu cứ tại Chu
Prong lại đang bị B52 phá hủy, cuối cùng Viêt cộng thôi
cố gắng và phân tán thành từng toán nhỏ rút lui về
hướng biên giới.
Ước tính tình báo về khả năng địch,
thực hiện vào ngày 17 tháng 11 do các Toán Biệt Cách
Dù hành quân tàng hình giữa lòng địch, bám theo sát
địch quân trong khi chúng di chuyển, và hành động như tai
mắt của QLVNCH báo cáo thường xuyên tất cả mọi vị trí
và di chuyển của địch quân, cho thấy là gần 2/3 lực
lượng của họ bị tiêu hao trong những trận giao tranh ở
giai đoạn I và giai đoạn II.
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II sau khi
nghe báo cáo kết quả từ phía Hoa Kỳ tại trận đánh X–Ray trong
thung lũng Ia–Drang, nên quyết định tung Lực Lượng Đặc Nhiệm
Nhảy Dù trừ bị gồm 5 Tiểu Đoàn Nhảy Dù thiện chiến của QLVNCH để
càn quét nhắm vào 2 Tiểu Đoàn Viêt cộng 635 và 344 cùng
các thành phần còn lại của 12 Tiểu Đoàn thuộc 3
Trung Đoàn 32, 33, và 66 CSBV, và buộc địch phải sa vào bẫy
các lực lượng của ta giăng ra và xô đẩy họ vào các lộ
trình rút lui mà chúng ta đã dự liệu,
Chiến dịch mang tên
Thần Phong–7. Lần này nỗ lực chính là
2 Chiến Đoàn Nhảy
Dù QLVNCH với sứ mạng ngăn chận và tiêu diệt các đơn vị CSBV
bị đánh bại trong thung lũng Ia–Drang đang tìm cách đào thoát
sang Kampuchea đồng thời triệt hủy tất cả các cơ sở của
chúng xung quanh thung lũng. Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ trước
nay gánh chịu sự tấn công, sẽ tiếp tục tạo áp lực từ
Đông sang Tây và cung ứng pháo yểm cho 2 Chiến Đoàn Nhảy
Dù. Cuộc hành quân “Thần Phong 7” khởi sự từ chiều ngày
18 tháng 11 khi 2 Chiến Đoàn Nhảy Dù Đặc Nhiệm VNCH gồm 5
Tiểu Đoàn được Phi Đội C130 của Phi Đoàn 7 KQHK đã vận
chuyển khẩn cấp từ các nơi khác nhau, như Sài Gòn, Biên
Hòa, Vũng Tàu, Phú Yên, và đưa tới sân bay vùng đất đỏ Đức Cơ,
và từ đó trực thăng vận xuôi Nam xuống vùng thung lũng hành
quân.
Chiến Đoàn Nhảy Dù khởi sự do Trung tá Trương Quang
Ân làm Chiến đoàn trưởng với 1,500 chiến binh được không vận đến
vùng hành quân vào ngày 17 và 18/11/1965:
* Tiểu Đoàn
3ND do Thiếu tá Trương Kế Hưng làm Tiểu đoàn trưởng.
* Tiểu
Đoàn 5ND, Thiếu tá Nguyễn Khoa Nam làm Tiểu đoàn trưởng.
*
Tiểu Đoàn 6ND, Đại uý Nguyễn Văn Minh làm Tiểu đoàn trưởng.
Về sau, Trung tá Ngô Quang Trưởng được Tướng Dư Quốc Đống, Tư
lệnh SĐND chỉ định chỉ huy Lực Lượng Đặc Nhiệm Nhảy Dù và tăng
cường thêm 2 Tiểu Đoàn 7 & 8 Nhảy Dù, cấp tốc được không vận
đến phi trường Đức Cơ trong ngày 20/11/1965:
* Tiểu Đoàn
7 Nhảy Dù do Thiếu tá Nguyễn Bá Trước làm TĐT.
* Tiểu Đoàn 8
Nhảy Dù do Thiếu tá Nguyễn Văn Thọ làm TĐT.
Ngày
18/11/1965 Lữ Đoàn III KBKV trực thăng vận đổ TĐ2/5
Không Kỵ
xuống bãi đáp Crook thiết lập Căn cứ hỏa lực Pháo Binh để yểm
trợ cho Chiến Đoàn Dù VNCH vào vùng hành quân. Ngày 19/11/1965
Tiểu Đoàn 1/5 Không Kỵ cũng được lệnh thiết lập và giữ an ninh
bãi đổ quân Golf.
Ngày 20/11/1965 Đại tá Thomas “Tim”
Brown bàn giao vùng trách nhiệm chiến dịch cho Đại tá W. R.
Lynch Lữ đoàn trưởng LĐIIKBKV, BCH Lữ Đoàn đóng tại Trại LLĐB
Đức Cơ để phối hợp hành quân với BCH Chiến Đoàn Nhảy Dù VN.
Bộ Chỉ Huy Hành Quân Chiến Đoàn Nhảy Dù đã cho Pháo Binh tác
xạ vào những nơi nghi ngờ Cộng quân trú ẩn, sau đó cho các đơn
vị Nhảy Dù trực thăng vận đáp xuống tại các trảng trống phía Bắc
của sông Ia–Drang và từ đó tung quân băng qua sông đóng chốt dọc
theo triền núi Chu Prong. Trong khi di chuyển, các đơn vị Nhảy
Dù đã nhìn thấy rất nhiều xác địch chết ngổn ngang do đạn Pháo
Binh tác xạ.
Trong 10 ngày “tìm và diệt” – từ
ngày 18 đến 26 tháng 11 – nhiều cuộc giao tranh xảy ra
trong thung lũng sông Ia–Drang giữa các đơn vị Dù và
địch. Nhưng phần đông là những cuộc đụng độ nhỏ với
các phần tử Viêt cộng tản mác. Tình trạng tan vỡ của
các đơn vị địch đã được 1 Trung đội trưởng của Trung
Đoàn 32 BV mô tả trong cuốn sổ nhật ký như sau:
“Tôi vừa được bổ nhiệm làm trung đội trưởng vài ngày
thì thình lình quân lính dù địch được tung vào gần vùng
chúng tôi đóng quân. Chúng tôi bắt đầu di chuyển vào đêm
18 tháng 11. Chúng tôi tiếp tục di chuyển để ra khỏi
vòng vây địch. Ngày hôm sau, qua một đêm và tới ngày 20
tháng 11. Vào lúc 01:30g ngày 21 tháng 11, chúng tôi
được lệnh sẵn sàng cho một cuộc tiến công. Vào lúc
07:00g chúng tôi tới một xóm làng... và lúc 7:30g tới khu tập trung. Chắc địch mới oanh tạc khu vực
này vì mặt đất loang lỗ những hố to. Chúng tôi không
khỏi lấy làm ái ngại. Chúng tôi vừa phân tán thì thình
lình phi cơ địch lại xuất hiện và ria đạn vào vị trí
chúng tôi. Trung đội của tôi có 3 đồng chí bị giết.
Chúng tôi cũng thiệt hại một số lớn đạn dược và quân
cụ...”
Phóng đồ hành quân Thần Phong 7 theo BTL QĐ II, Why Pleime 1966
Cuộc giao tranh lớn nhất trong giai đoạn này xảy ra vào
lúc 14:40g ngày 20 tháng 11, tại phía Bắc sông
Ia–Drang. Lần này là lần thứ 2 trong trận Ia–Drang Viêt
cộng rơi vào ổ phục kích của ta và hứng chịu tổn hại
nghiêm trọng (phục kích lần thứ nhất vào ngày 3 tháng
11, bởi Tiểu Đoàn 1/9 của Sư Đoàn 1 Không Kỵ). Trung Đoàn 32
CS Bắc Việt cố tình ém quân trong suốt đợt 2, cuối cùng
bị tìm thấy và buộc phải chiến đấu, mặc dù cố né
tránh đụng độ càng nhiều càng tốt.
Sáng ngày 20 tháng 11, TĐ3ND được lệnh di chuyển từ vị trí
(191100 trên bản đồ) về hướng Nam để bắt tay với Tiểu
Đoàn 6 Nhảy Dù
(tại vị trí 201440H gần LZ Golf như ghi trên bản đồ). Cả 2 đơn vị đã thực hiện
1 cuộc truy lùng kỹ càng tại 2
trục khác nhau từ bãi đổ bộ về hướng Tây. Trong khi di
chuyển, Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù bị 1 đơn vị địch cấp Tiểu
Đoàn âm thầm theo dõi. Nhưng 1 khi cuộc bắt tay hoàn
tất giữa 2 Tiểu Đoàn Nhảy Dù, đơn vị Viêt cộng này bị
lọt vào trong xạ trường của Tiểu Đoàn 6 và ngay trọng tâm
của ổ phục kích. Tiểu Đoàn 6 Dù khai hỏa, Cộng quân bị tấn
công bất ngờ, không nơi ẩn núp, bỏ chạy tán loạn làm bia cho các
chiến sĩ Dù tác xạ. Sau khoảng 1 giờ giao tranh, lực lượng
Cộng quân bỏ chạy, gần 200 Viêt cộng bị hạ sát tại chỗ. Sau
chiến thắng này, Thiếu tướng Vĩnh Lộc, Tư lệnh chiến trường đã
bay ngay tới mặt trận trao gắn cấp bậc đặc cách mặt trận cho
Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Minh và cấp bậc đại uý cho
4 Đại đội trưởng, cùng tưởng thưởng cho tất cả quân nhân ghi
chiến tích trong TĐ6ND.
Trong ngày 20/11 20/11, vào lúc
17:45g, Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù được trực thăng vận thả vào
Thung Lũng Ia–Drang tại bãi đáp Tee. Ngày 22/11, vào lúc
11:00g, Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn Đăc Nhiệm và Tiểu Đoàn 7
Nhảy Dù cũng được trực thăng vận từ Đức Cơ thả xuống cùng
địa điểm.
Ngày 22/11, vào lúc 13:30g, tại BCH hành
quân, Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn Đặc Nhiệm đã thảo hoạch hành
động chung cho các đơn vị Nhảy Dù. Ngày hôm sau 23/11 lúc 11:00g
2 Tiểu Đoàn 7 và 8 dàn quân án ngữ mặt Bắc bờ sông
Ia–Drang. Trong khi đó Chiến Đoàn 2 dàn quân từ trên đỉnh núi về
phía Nam sông Ia–Drang, (tại bãi đáp Mary 231115H như ghi trên
bản đồ). TĐ3ND được điều động lục soát về phía tay trái và
Tiểu Đoàn 5ND được phái về phía phải. Như vậy, Lực
Lượng Nhảy Dù đã thiết lập trận thế để dẫn dụ địch quân vào các
đường lối mà chúng ta đã dự liệu.
Sáng ngày 24/11
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù tiến quân về cánh trái, lục soát dọc theo
khoảng giữa sườn núi và con sông Ia–Drang. Lúc 08:45g Tiểu
Đoàn này báo cáo chạm mạnh với Tiểu Đoàn 635 thuộc Trung Đoàn
32 tại ven bờ sông (tại 240845H như ghi trên bản đồ). Trong
khi đó, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù tiến về phía phải đánh xuống
mạn sông, đến lúc 10:30g Tiểu Đoàn này cũng bắt đầu đụng
độ với Tiểu Đoàn 334/32 CSBV (tại 241030H như ghi trên bản
đồ). Sau cùng Tiểu Đoàn 6 còn lại từ trên lưng chừng đồi đánh
thẳng xuống bờ sông.
Cuộc giao tranh của các chiến sĩ
Nhảy Dù và tàn quân của CSBV kéo dài tới 1:00g trưa, địch quân
tháo chạy. Những đứa thoát chết vứt bỏ lại súng ống vào bụi
cây dọc theo đường mòn hay xuống lòng suối, quân sĩ ôm về
từng bó súng ống chất thành đống.
Sau đó, Chiến Đoàn Nhảy
Dù đã mở cuộc lục soát lùng kiếm các cơ sở địch trong vùng
hành quân, Chiến Đoàn Nhảy Dù đã phá hủy 3 trung tâm huấn
luyện, 1 kho giấu quân cụ, và 75 căn nhà. Cuộc hành quân
tiếp tục tìm và diệt cũng được thực hiện dọc theo sông
Ia–Drang tới biên giới Việt–Miên nhưng chỉ có những đụng độ
nhỏ với các phần tử Viêt cộng tản mác.
Ngày
26/11/1965 vì không còn đụng độ với địch, Lực lượng Nhảy
Dù rút ra khỏi vùng hành quân, Chiến dịch Thần Phong 7 chấm
dứt với 265 tên CS bỏ xác tại trận, bắt sống 10 tù binh, tịch
thu 58 vũ khí đủ loại.
Cuối cùng Mặt Trận B3 CSBV của
Tướng VC Chu Huy Mân với 3 Trung Đoàn bị đánh vùi dập và
sứt mẻ rút lui trong thế bại trận, bỏ lại hàng ngàn
xác chết tại rặng núi Chu Prong và tại thung lũng
Ia–Drang. Trong số 3 Trung Đoàn này, Trung Đoàn 33 là
xấu số nhất và hứng chịu thất bại cay chua nhất: Trung
Đoàn này cho mãi tới ngày 2 tháng 10 mới hoàn tất xâm
nhập từ Bắc Việt (ngày khởi hành là khoảng từ 22 đến
25 tháng 7 năm 1965)! Trung Đoàn 66 bị chận đánh từ ngày 3
tháng 11 trong một ổ phục kích khi vừa mới bước chân
vào Nam Việt Nam có 2 ngày. Trung Đoàn 32 với kinh
nghiệm 9 tháng chiến đấu tại vùng Cao Nguyên cũng
không tránh khỏi bị đánh bại mặc dù tìm cách lẩn trốn
trong suốt cuộc săn đuổi của Sư Đoàn 1 Không Kỵ trong giai đoạn II.
Các chiến binh Nhảy Dù lùng và diệt địch trong rừng già Ia–Drang
Tổng kết tổn thất của Viêt cộng từ lúc khởi đầu chiến
dịch 28/10 đến 26/11 năm 1965 tại Chu Prong đến Ia–Drang là
2,004 Cộng quân bỏ xác tại trận, 2,270 ước lượng xác mang đi,
1,293 bị thương, 179 tù binh. Vũ khí bị tịch thu gồm: 169 súng cộng
đồng (chưa kể 2 khẩu đại liên và 2 khẩu pháo cối 82ly
có chân đế sắt do Nhảy Dù bắt được lần đầu tiên), và 1,027 súng
cá nhân (không kể 400 vũ khí khác bị phả hủy tại bãi
đáp X–ray và Albany).
Về phía Hoa Kỳ: tại X–Ray 79
chết, 121 bị thương. Tại Albany: 155 chết 124 bị thương. Tính
chung cho Chiến dịch Ia–Drang (không chỉ riêng cho các trận đánh
nêu trên): 305 chết, 524 bị thương. Lần đầu tiên từ trận
Điện Biên Phủ, các quân lính cộng sản không còn huênh hoang
mình “vô địch” và hứng chịu 1 thất trận thê thảm trên
chiến trường. Cũng là lần đầu tiên sự cuồng tín của quân
lính cộng sản Bắc Việt bị bẻ gẫy bởi 1 tình trạng suy
thoái tâm thần nghiêm trọng. Một tù binh của Tiểu Đoàn 8
thuộc Trung Đoàn 66 (xâm nhập sau cùng) báo cáo là sau
lần giao tranh ngày 17 tháng 11, đơn vị anh ta bị 30 chết,
50 bị thương, và quan trọng hơn cả, 50 đào ngũ. Những tù
binh khác của Trung Đoàn 32 vào cuối tháng 11 thú nhận
là họ nghĩ là họ đã thua trận chiến. Các cán bộ của
Trung Đoàn 33, bực dọc vì bị không yểm của ta nhắm bắn
chính xác đã hội họp để điều tra điều gì khiến cho
các phi vụ không kích chính xác và liên tiếp xảy ra:
kết luận là chỉ có thể là gián điệp trà trộn trong
bộ đội cung cấp cho các lực lượng của ta vị trí và di
chuyển của các đơn vị trong Trung Đoàn. (thật sự là do các
Toán Biệt Cách Dù hành quân tàng hình giữa lòng địch,
bám theo sát địch quân trong khi chúng di chuyển).
Chiến dịch Ia–Drang đã đập nát tiềm năng quân sự của địch
nhưng kết quả quan trọng nhất gặt hái được là đánh tan
mộng chiến thắng và quyết tâm chiến đấu của địch quân.
1/7 Cavalry tại LZ X–Ray
Tài liệu tham khảo:
– Why Pleime – April 1966 (Đòn Kết Liễu Tại Ia–Drang) của Thiếu tướng Vĩnh Lộc trên trang nhà generalhieu.com.
– Thung lũng Ia–Drang của Hà Kỳ Lam trên trang nhà Nguyệt San Đoàn Kết.
– The Battle of Ia–Drang From Wikipedia last modified 23:16, 29/11/2007.
– Chiến tranh VN toàn tập 1963–1975 của Tiến sĩ Nguyễn Đức Phương, Làng Văn xuất bản 2001.
– It Doesn’t Take A Hero cùa General H. Norman Schwarzkopf 1992.
– Trận Đánh Thung Lũng Ia–Drang? Trận Nào? của Nguyễn Văn Tín ngày 06/03/2008 trên trang nhà generalhieu.com.
– Trận chiến Pleime 1965 của Trần Quốc Cảnh và Trần Đức Hợp K19/VBĐL trên trang nhà bietdongquan.com.
– “Ia–Drang Máu Nhuộm” của Trường Hận Thư Sinh trên trang nhà
http://bietdongquan.org.
– Sương mù chiến tranh thung lũng Ia–Drang 1965 của Diệu Tân trên internet.
– Góp ý của Tác Giả Nguyễn Kỳ Phong ngày 29/12/2012 về trận Ia–Drang 1965.
– Phỏng vấn các chiến hữu Nhảy Dù.
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by mđ nguyễn minh hoàng chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, April 23, 2015
Cập nhật ngày Thứ Sáu, May 23/2025 – đổi sang hệ thống bootstrap framework 5.x
tkd. Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH