Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề:
Tình Quê
Tác giả: Nguyên Nhung
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Cứ
ra Tết độ mùng bảy là cụ Chánh lại làm một nồi canh riêu cá. Lúc ấy
trời đã
sang xuân, nắng dịu, gió thổi hiu hiu, những món rau tươi cũng rất
sẵn sàng cho nồi canh riêu cá được đậm đà, mát mẻ. Mọi người sau
những ngày Tết ăn nhiều thứ nóng nảy, nặng bụng, đều cảm thấy khoan
khoái, dễ chịu với nồi canh riêu cá, một món ăn dân dã, ngon miệng
trên những mâm cơm của gia đình miền Bắc.
Bà Chánh người Bắc Ninh, nơi xuất xứ những
bài dân ca quan họ nổi tiếng. Thuở còn trẻ, bà cũng có đi hát đối,
không phải vì ăn chơi, lãng mạn gì nhưng đấy là nền văn hóa đặc
trưng của dân tộc. Bà Chánh vào Nam thấy đám trẻ mỗi lần hát bài Dân
ca Quan Họ, bà lại nhớ đến khúc “Người ơi, người ở đừng về”, cũng vì
mấy câu “Hai bên vạt áo ướt đầm như mưa” mà ông Chánh độ ấy còn trẻ,
gốc người Thái Bình, đã phải về quê nói với cha mẹ đến xin cô gái
Bắc Ninh về làm vợ.
Năm năm mươi tư, dạo ấy bà Chánh còn trẻ,
mới độ bốn mươi thì ông chết, bà một mình dẫn ba người con về quê
chồng, tỉnh Thái Bình, vùng đồng chiêm. Sau khi ông Chánh qua đời,
bà Chánh nửa muốn đem con về quê mình, nhưng rồi thời cuộc đưa đẩy,
từ đấy cứ theo người làng nước chạy ra Hải Phòng xuống tàu đi Nam.
Bởi vậy khi ra đi, bà cũng mất liên lạc luôn với gia đình ở quê nhà,
lúc cùng lũ con ngồi trên chiếc tàu há mồm lênh đênh từ biển Bắc
xuôi về Nam, nước mắt bà cứ tuôn như mưa. Nhờ ơn trời cả nhà đi được
hết, không thiếu một mống. Năm ấy anh con trai cả mới mười tám, đứa
con út lên bảy. Cũng vì bà muộn con, lấy chồng mấy năm cầu khẩn mãi
trời mới làm phúc cho được mống con trai, rồi thêm luôn hai cô con
gái.
Tưởng hôm ấy
ra đi bà Chánh bặt tin luôn người thân ở quê nhà, nhưng lần hồi khi
vào Nam họ cũng gặp lại nhau. Hóa ra lúc thời thế hỗn độn, người nào
người nấy cứ im ỉm từ giã làng quê mà đi. Lắm nhà kẻ ở người đi, chỉ
có một dải đất mà biền biệt ngóng chờ nhau đến hai mươi năm chưa gặp
lại. Hai mươi năm ly loạn, bom đạn giăng giăng trên quê hương làm
đau lòng người dân hiền lành trên hai miền đất nước, bà Chánh vẫn
khắc khoải nhớ từng con đường làng, lũy tre xanh, những thửa ruộng
xanh màu lá mạ, gác chuông nhà thờ vươn lên khoảng trời đầy mây tím,
vài cánh chim bay về tổ mỗi khi chiều xuống. Miền Nam mưa nắng hai
mùa, Tết đầu tiên đón Xuân trời nắng chang chang, món thịt đông miền
Bắc không thể thực hiện được. Chợ Tết dưa hấu chất cao như núi, bánh
tét thay cho bánh chưng, mùa Xuân mà nóng đến chảy mỡ, bà cứ nhớ cái
rét ở quê xưa thắt cả ruột.
Bà Chánh tiêu biểu cho một người phụ nữ
Việt Nam hiền lành, tần tảo và đảm đang. Bà chẳng hiểu chính chị,
chính em là gì, nhưng từ lúc Tây về nước, Việt Minh lên nắm chính
quyền, rồi sau này lại bảo là cộng sản, xem ra làng quê đã có chiều
thay đổi. Từng đoàn bộ đội từ mặt trận kéo về, đêm nào cũng văn
nghệ, đánh trống, phèng la, thanh niên nam nữ, trẻ con trong làng
họp nhau lại để nhảy “son-đố-mì” thì bà đâm sợ. Tự nhiên người ta
nhòm ngó nhau từ cái rổ đi chợ cho đến nồi cơm trong bếp, người ta
bươi móc sự giàu nghèo của nhau để mà kết tội. Làng bên chồng lẫn
lộn vàng thau, chẳng biết ai tốt ai xấu, ai thật ai giả, có một số
đi biệt đã lâu nay trở về xem chừng con người đã đổi khác. Mỗi
chiều, ngay cả tiếng chuông nhà thờ nghe cũng buồn mênh mang, dường
như từ độ ấy, nghe đã vắng tiếng cười vui trong các thôn ổ, gặp nhau
bỗng nghi ngại điều gì, đa số những người lớn tuổi thường nhìn nhau
rồi quay vội đi nén tiếng thở dài. Tuy là đàn bà, lại góa bụa, nhưng
bà cũng biết nhìn xa, cứ kiểu cách này thì đám con bà khó mà nên
người. Thế là một đêm tối trời, bà dẫn lũ con theo dăm người trong
họ nhà chồng bỏ làng ra đi, nước mắt cứ tuôn như mưa dầm tháng Bảy.
oOo
Bà
Chánh di cư vào Nam, nhưng phong tục tập quán nơi quê cha đất tổ
thì bà không thay đổi. Tết chưa phải là Tết nếu không có bánh
chưng, thịt mỡ, dưa hành, dưa cải, thịt đông, thịt kho tàu và nồi
gà xáo măng, lại thêm giò thủ nhai lựt xựt, đậm đà lẫn với tiêu
sọ và [nấm] mộc nhĩ. Món ngọt thì đã có nồi chè kho, đấy là thứ
đậu xanh đãi vỏ nấu nhừ, nhưng không nhão, cô lại với đường rồi
đổ ra cái mâm gỗ, trên mặt rắc vừng
[mè].
Quan trọng nhất vẫn là vại dưa, vại cà,
Tết lại phải thêm món dưa hành để ăn với thịt mỡ. Món dưa hành
miền Bắc sau này cũng có khác đi khi ở miền Nam, vì mỗi nơi có
một lối muối khác nhau. Miền Nam ăn cái gì cũng ngọt, cho nên dưa
hành chua ngọt ăn cũng hay hay. Ở làng bà ngày xưa, hễ thời làm
con gái là phải biết muối dưa muối cà, cô nào đoảng vị, “muối
dưa, dưa khú, muối cà, cà thâm” là kể như ế chồng.
Bây giờ theo thời gian mọi người đã gọi
bà Chánh bằng cụ, khi anh con trai lấy vợ rồi có được ba đứa con
lớn tồng ngồng cả lên. Cô con gái kế cũng đi lấy chồng, còn mỗi
cô út kén cá chọn canh vẫn ở nhà với mẹ, cụ Chánh vẫn ở với con
trai. Phong tục Việt Nam mình thế, “tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu, phu tử tòng tử” [khi còn ở nhà phụng dưỡng cha mẹ, đi
lấy chồng thì thơm chồng giọn đời, chồng tử trận thì ở vậy nuôi
con đến khi chúng trưởng thành]. Đó là cụ theo lối cổ, chứ thời
buổi này mọi thứ thay đổi cả rồi, còn mấy ai lại chịu lệ thuộc
con cái như phụ nữ Việt Nam ngày xưa.
Buổi sáng hôm nay, cụ Chánh vọc tay vào
vại dưa, xem lại mớ dưa chua cụ làm từ trong Tết. Mấy ngày Tết,
cả nhà đã thanh toán nhanh chóng mấy món thịt đông, thịt kho nước
dừa ăn với dưa cải, dưa hành của cụ. Dạo còn ở ngoài Bắc cụ Chánh
chỉ làm thịt kho tàu, thịt thái từng miếng nhỏ cỡ hai đốt ngón
tay, kho xong miếng thịt đỏ au, tươm mỡ, rất đậm đà. Nhưng từ lúc
vào Nam, cụ bắt chước người miền Nam cắt thịt từng miếng to
tướng, kho với hột vịt và dùng nước dừa tươi, nồi thịt kho trông
thật hấp dẫn, vừa mềm, vừa béo, vừa thơm. Dầu vậy, thịt kho tàu
hay thịt kho nước dừa, nếu không có món dưa cải chua thì vẫn chưa
đủ bộ. Ngay từ khi miếng dưa chưa đủ chua, còn nồng nồng vị cay
và thơm lựng mùi hành xanh, các con các cháu cụ đã thắc thỏm khen
ngon, đã bảo cụ Chánh làm dưa khéo từ hồi con gái.
Hôm nay chỉ còn ít thịt kho, cả nhà ăn
đã ngán, cụ Chánh nhìn mớ dưa còn lại bảo con dâu:
- Hôm nay đi chợ nhớ mua bún, cá thu
tươi với lại cà chua, thì là, hành lá. Nhớ là cà chua phải thật
chín, rau sà-lách, rau kinh giới và tía tô, thêm một bó ngò rí
nữa mẹ nó ạ.
Cô con dâu người Nam, gốc miền Tây Nam Bộ, tính tình rất đơn sơ
cho nên độ mới về làm dâu, mẹ con cũng có vài khác biệt nho nhỏ.
Chẳng hạn cụ kho thì phải mặn, người miền Nam lại thích ngọt cho
nên lúc nấu ăn, thế nào cũng phải cho thêm tí đường. Lâu dần cụ
Chánh cũng quen với lối nêm nếm của miền Nam, ăn canh chua cá lóc
đã thấy ngon, nhưng món riêu cá của cụ cũng chẳng xa lạ gì với cô
con dâu gốc Nam Bộ ấy nữa. Bây giờ “Nam-Bắc đề huề”, cô con dâu
đã biết pha tiếng “ạ” mỗi lần nói chuyện với bà con bên chồng,
cái giọng Nam pha Bắc nghe ngọt ngào dễ thương làm sao.
Cô con dâu hiểu ý mẹ chồng, năm nào
cũng vậy, nồi canh riêu cá là món cuối cùng tổng hợp tất cả những
món ngon ngày Tết còn lại, vậy mà cả nhà ai cũng thích. Chị xách
giỏ đi chợ, nhớ kỹ những món mẹ chồng dặn, vì cụ Chánh chả mấy
khi ra chợ, cụ ở nhà lãnh phần ru cháu ngủ. Ra Tết đồ hàng bông
rất rẻ và rất non, xanh mươn mướt. Bao năm rồi về làm dâu cụ
Chánh, chị đã quen cái món rau xanh ăn với canh riêu cá của bà mẹ
chồng. Những món bánh chưng, lạp xưởng, giò thủ, giò lụa, thịt
kho, xáo măng giờ này xem đã nặng bụng lắm. Giữa tiết trời thế
này, trong người thấy hao háo một cái gì man mát, tươi tươi, xem
ra món canh riêu cá đáp ứng thật là đúng lúc.
Cô con dâu đi chợ về, bình thường thì
chị vẫn nấu ăn, nhưng đặc biệt món canh riêu cá ngày đầu năm phải
đích thân do cụ Chánh nấu. Cụ rửa sạch mấy khứa cá thu với một
chút nước muối, bao nhiêu thứ tanh tưởi trôi đi nhờ nước muối.
Sau đó, cụ xát một chút muối tiêu vào từng khứa cá, rồi mới chiên
sơ trên chảo mỡ. Cụ Chánh vớt hết dưa chua còn lại trong vại, dưa
đã chua, ăn tươi thì hơi ghê (ê) răng nhưng chua thế này thì nấu
riêu ngon tuyệt. Cụ trầm trồ nhìn mớ cà chua chín đỏ thẫm, cà
phải chín thì nồi canh mới ngon, là vì trong cái chua ngọt của cà
lẫn với cái chua dôn dốt của dưa, nó hòa hợp y như là có thuyền
thì phải có sông vậy.
Cụ Chánh thái dưa, thái cà, đảo trên
bếp với một chút hành lá, rồi tất cả những thứ thịt thà, mắm muối
còn dư trong chạn cụ đổ cả vào nồi riêu. Người ta cho cụ là người
tằn tiện, không bỏ phí một tí gì, nhưng nếu đã trải qua trận đói
năm Ất Dậu như cụ, cả nhà suýt chết đói nếu không có người họ
hàng giúp cho ít gạo nấu cháo, thì không thông cảm được cái lòng
của cụ. Cái kinh nghiệm quý giá ấy, sau này các con cụ mới thấy
rõ, nhất là anh con trai phải đi “cải tạo” mấy năm, càng nghĩ anh
lại càng thương mẹ đã chắt chiu, tiện tặn.
Bây giờ cụ Chánh quay lại với nồi canh
dưa của mình. Tí nữa thì cụ quên, còn phải cho vào tí mắm tôm,
nhờ vậy hương vị của nồi canh dưa mới đậm đà, mà mấy anh muối
hoặc nước mắm không làm sao có được. Ngần ấy thứ hỗn hợp với
nhau, có thể nói nồi canh riêu cá là một thứ canh đặc biệt hòa
hợp tất cả những thứ đồ ăn linh tinh còn lại của nhà bếp, bát
thịt kho cũ, bát mắm ăn dở, tất cả trộn lẫn vào nhau để thành một
hương vị riêng. Bếp vừa lửa, canh sôi vài dạo, canh dưa phải nấu
kỹ mới ngon, nhưng cũng không lâu quá để miếng dưa cải vẫn còn
hơi sần sật, và cái màu cà chua đỏ thẫm lẫn lộn với màu dưa cải
vàng, một lớp mỡ váng trên mặt nồi canh, nhìn đã thấy thèm.
Cụ Chánh cho những khứa [lát] cá thu
chiên vào nồi canh dưa, cá lẫn với dưa, bốc lên một mùi dễ chịu.
Người ta cũng có thể nấu dưa với sườn heo non, hoặc thịt bò bắp,
nhưng thật ra không anh nào qua mặt được thứ riêu cá. Cụ sống ở
vùng biển nên dùng cá biển cho tiện, thực ra thịt cá thu vừa
thơm, vừa bùi, đem kho riềng thì phải gọi là vô địch trong các
thứ cá, trẻ con ăn không sợ hóc xương. Nồi canh dưa không thể nào
ngon nếu không có hành, thì là, khi nấu canh xong, người nội trợ
phải cho vào nồi canh rồi bắc ngay xuống bếp, mùi hành lá và thì
là đặc biệt dậy lên một mùi thơm khó mà tả nổi.
Trong lúc nồi canh đặt trên bếp, cụ
Chánh đã lo sửa soạn món rau sống. Trong chiếc rổ to, những cọng
sà-lách non mềm mại, tươi hơn hớn như con gái đang xuân, rau ngò
rí thật thơm, kinh giới, tía tô, giấp cá đầy vị thuốc. Người Việt
Nam mình sống trên đống thuốc mà không biết, những thứ rau cỏ
hàng ngày đã cung cấp bao nhiêu thứ mát tỳ, mát vị, bổ âm bổ
dương, lại cứ cầu kỳ đi tìm những thứ thuốc giời ơi, uống lắm chỉ
phá gan, nát thận. Cứ nghiệm cái câu “thịt cá hương hoa, dưa cà
căn bản”, mới biết ông bà ta ngày xưa đã tìm ra được chân lý
trong vấn đề ẩm thực, mới thấy cái văn minh, văn hóa của dân tộc
tiềm tàng ngay từ trong cách ăn, nết ở.
oOo
Trưa
hôm ấy, mâm cơm được dọn lên chỉ duy nhất có nồi canh riêu cá,
đấy là dấu hiệu báo Tết đã hết, các món ngon, đầy bụng cũng không
còn, nhà nhà đã trở lại những thức ăn dân dã đạm bạc. Gia đình
anh con trai cả, gia đình cô con gái lớn, cô con út chưa chồng
nhưng anh rể tương lai cũng được mời đến ăn canh riêu cá của cụ,
chắc chắn là anh sẽ thành con rể sau này khi đã có dịp thưởng
thức canh riêu cá.
Cả nhà quây quần quanh nồi canh riêu
nóng, một rổ bún trắng ngần, mát như lụa, bún chan canh riêu nóng
ăn với rau sống và một chút nước mắm cay. Cái hài hòa của thực
phẩm và rau cỏ đi với nhau làm khoan khoái lục phủ ngũ tạng trong
cơ thể con người, nhưng cái chính là nó đã nói lên sự bền chặt,
ấm áp của một gia đình đoàn tụ. Họ nhai rau ráu, họ húp sùm sụp,
miếng rau quyện vào miếng cá, bún cứ thế trôi tuồn tuột vào bao
tử mọi người trong nhà, ăn đến đâu mát ruột đến đấy. Cụ Chánh hể
hả nhìn niềm vui khoan khoái giãn ra trên nét mặt lũ con cháu cụ.
Bát canh riêu cá chứa đựng biết bao nhiêu tình yêu của một người
mẹ, đậm đà như miếng cá nằm trong bát canh sóng sánh, mát mẻ dịu
dàng như các thứ rau xanh biểu hiện cho một tấm tình quê mộc mạc,
chuyên chở được tất cả tình thương của người mẹ Việt Nam trong
gia đình, với tình quê hương bàng bạc trong đó.
Sau bữa ăn, hai cô con gái phụ chị dâu
dọn dẹp mâm bát, cả nhà quây quần trong phòng khách uống nước vối
ăn chè kho. Năm nào cũng thế, nồi chè kho ăn lăn lóc mãi ra giêng
cũng chưa hết, vì nó ngọt quá, nhưng cứ xong một bữa canh riêu cá
ngon lành, miếng chè kho hình như bùi đậm hẳn lên, khi được chiêu
bằng ngụm nước vối nóng.
oOo
Chẳng
ai ngờ được có một ngày cụ Chánh lại theo đám con sống ở quê
người. Sau năm 75, anh con trai bị đưa đi cải tạo ngoài miền Bắc,
cụ lại khăn gói gió đưa đi thăm con, rồi nhân tiện đáo về quê cũ
thăm mồ mả cha mẹ, ông bà. Bao nhiêu năm xa quê, cụ cứ thắt cả
ruột khi nhìn lại xóm làng cũ, nơi chôn nhau cắt rốn nay đã tàn
tạ, xác xơ, may là mồ mả cha mẹ vẫn còn vì nhờ có mấy tấn đá ong
quây quanh nên cũng còn dấu vết.
Chuyến xe hỏa từ Nam ra Bắc, đi qua bao
nhiêu đoạn đường dài, cụ Chánh không ngủ được, cụ đứng tựa vào
khung cửa sổ của con tàu, ngắm nhìn cảnh quê xưa đang lần lượt
trở về trong tầm mắt của cụ. Làng xóm miền Nam khác xóm làng miền
Bắc, chỉ cần vượt qua ranh giới hai miền là cụ đã nao nao xúc
động, khi nhìn thấy cây đa cao ngất với những luỹ tre xanh bao
bọc thôn làng, dăm nóc nhà ngói đỏ, mấy đứa trẻ con đang chơi
đánh đáo dưới bóng cây cổ thụ râm mát. Cụ cứ bùi ngùi mãi, lúc
bước thấp bước cao về tới quê xưa, ngôi Thánh Đường hồi ấy đẹp đẽ
xiết bao, nay đã nghiêng ngả, tiều tụy như người ốm lâu ngày
không vực dậy được . Nhưng lúc ấy hai miền Nam Bắc có khác gì
nhau, mà cụ cũng không còn đường để chạy, mãi cho đến ngày anh
con trai và cả gia đình được đi Mỹ theo diện HO, là cụ vui vẻ đi
ngay không nuối tiếc.
Nói như thế không có nghĩa cụ là người
bạc bẽo với quê hương, nhưng nếu không theo con cháu đi nước
ngoài, mong gì cụ có thể giúp đỡ cho người còn ở lại. Sang Mỹ,
người cụ có khỏe ra nhưng cái lưng lại còng hơn, bao nhiêu năm
vất vả người cụ không đổ xuống là may. Suốt ngày trong nhà, cụ
lạch từ nhà trên xuống nhà dưới, từ trong nhà ra ngoài sân, rồi
từ cái khoảng sân sau mát mẻ ấy, cụ trồng rau. Anh con trai sợ mẹ
già vấp ngã khi vun tưới cho vườn rau sau nhà, đã gắn sẵn cho mẹ
một hệ thống tưới cỏ tự động. Cứ mỗi chiều, cụ Chánh lạch bạch ra
vườn, ngồi ở mé hiên gần cây hoa đào, phe phẩy chiếc quạt trong
tay, cụ nhìn những tia nước phun lên rào rào trên những luống
rau, luống cà, cụ lại ngỡ trời mưa. Cơn mưa xuân ở quê nhà ngày
xưa cũng y như thế, trong trí cụ lại lan man hình ảnh mình với áo
tứ thân, những câu dân ca Quan Họ ngày trẻ tuổi. Cánh đồng lúa
chín với những cô thôn nữ hai má rám nắng hồng, đôi môi đỏ vì
miếng trầu cánh phượng, những mối tình quê mộc mạc và đằm thắm, ý
tứ kín đáo mà lại biết bao nhiêu tình. Buổi chiều mắt cụ Chánh
tuy đã hấp hem, nhìn những giọt nước đọng trên rau cỏ trong vườn,
sao nó cứ thấm thía tình tứ như
câu quan họ ngày xưa:
“Người
ơi! Người ở đừng về,
Người về ta chẳng ý
y cho về,
Ta giữ vạt áo, ý a ta đề câu
thơ,
Người ơi! Người ở đừng về
Người về em những ý y khóc thầm,
Hai bên
vạt áo ướt đầm, đầm như mưa,
Người ơi!
Người ở đừng về...”
Không biết có phải vì chiều nay nắng
hanh hanh, cơn gió Xuân chợt tới mà bà cụ già tự dưng lại cất cái
giọng khàn khàn để hát lại cái bài Dân Ca Quan Họ. Những giọt
nước mắt nóng hổi bỗng dưng cứ chảy dài xuống đôi gò má nhăn
nheo, cụ lấy vạt áo lau vội đôi hàng lệ, hóa ra cái tình quê vẫn
còn nguyên trong lòng cụ, như hương vị nồi canh riêu cá cụ cũng
vẫn mang theo từ quê nhà tới quê người. Thế cho nên dẫu sống ở xứ
người, sung sướng tới đâu, chẳng mấy ai đã quên được mảnh đất quê
nhà, và những kỷ niệm ở quê hương, một lúc nào đó sống dậy, lại
biến thành những nỗi nhớ đằm thắm dịu dàng cho suốt một đời vậy.
Bởi thế, đã bao nhiêu năm qua đi không
thay đổi, nhà cụ Chánh vẫn duy trì nồi canh riêu cá, rau tươi và
món chè kho vào ngày mùng bảy Tết. Đạm bạc, đơn sơ, nhưng cái ấm
cúng của một gia đình xum họp, ràng buộc với nhau bằng nồi canh
riêu cá của bà mẹ già mới là những gì phải ghi nhớ mãi.
Nguyên Nhung
Để tưởng nhớ đến Mẹ Già
với “Nồi
Canh Riêu Cá” ở quê nhà năm xưa
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Phụ Lục
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Đặc San Lâm
Viên chuyển
http://www.dslamvien.com/2018/02/noi-canh-rieu-ca.html
Đăng ngày Thứ Ba, February 20, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang