Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề:
Xuân Cao nguyên
Tác giả:
Huy Văn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Đà Lạt không có gì thay đổi
mặc dù đã 3 năm rồi tôi mới có dịp quay trở lại. Thủy Tạ vẫn in
bóng trắng trên nền sóng bạc lặng lờ của hồ Xuân Hương, và tháp
chuông của Lycée Yersin phía xa xa vẫn muôn đời im lặng một cách
khiêm nhường bên cạnh sự nhấp nhô của đồi Cù vàng vọt. Hòa Bình
vẫn là tụ điểm của mọi trục lộ giao thông trong thị xã và chợ
Hoa, nhà lồng, vẫn luôn là nơi mua bán mọi thứ trên đời. Từ trên
Café Thảo Nguyên, cùng dãy với xi-nê Ngọc Lan, nhìn xuống con
đường dẫn từ bến xe chạy vào chợ hoa, nhìn các gian hàng bán Tết
và nhìn cảnh người qua, kẻ lại trong một chiều tàn năm âm lịch mà
lòng tôi thấy nao nao khi nhớ lúc từ giã bạn bè, đồng môn, từ giã
sự trầm lắng thật thơ mộng của cao nguyên, từ giã những trưa ăn
cơm xã hội, chiều ngồi cà-phê Domino và buổi tối co ro học bài
trong căn phòng trọ. Mới đó mà đã 3 năm!
Đà Lạt vẫn còn đây nhưng đồng môn đã
tản mác khắp mọi nơi. Không biết nên buồn hay vui khi tôi âm thầm
dành hai ngày phép cuối cùng để thăm lại thành phố của một thời
lãng mạn rất... hồn nhiên! Trường cũ vẫn hiền hòa, trầm lắng.
Ngày cận Tết nên khuôn viên, phòng ốc, giảng đường đều vắng vẻ,
im lìm. Mọi người đã về quê, về nhà đón Tết từ lâu nên Viện Đại
Học trở thành một thắng cảnh không hơn, không kém. Ngôi nhà trọ
trên đường Thành Thái cũng vậy. Biệt thự đã vừa đổi chủ và người
quản gia cũng không biết gì về những sinh viên, học sinh ở trọ
của những năm trước. Ba năm trong Quân Đội không đủ để thay đổi
một nỗi lãng đãng, bâng khuâng và chút mơ mộng của những ngày trọ
học. Cảm giác đó chợt bùng lên ngay khi tôi vừa hít thở lại không
khí cao nguyên. Nhưng rồi thoáng say sưa – có lúc tưởng chừng như
đã làm tôi muốn ôm choàng lấy con người và cảnh vật để diễn đạt
nỗi hạnh phúc nghẹn ngào khi vừa trở lại thăm khung trời kỷ nịêm
– bây giờ đã trở thành một trống vắng mênh mông không sao diễn tả
được.
Nỗi hụt
hẫng trải dài theo bước chân lòng vòng các phố phường trong thị
xã cho đến những con đường ngoại ô, để sau cùng dẫn về con dốc
Ngọc Lan và chiếc quán nhỏ, ngày xưa không có tên, nằm khiêm
nhường cách rạp xi-nê không bao xa. Quán ấm cúng với lối trang
trí mới mẻ và lạ mắt hơn lúc tôi còn trọ học. Nhạc thời trang với
âm lượng vừa phải, khách ngồi rải rác đó đây. Không khí lắng đọng
càng làm cho tôi thêm nhớ kỷ niệm và người xưa. Những tháng rộng,
ngày dài của tuổi trẻ hồn nhiên đã không còn nữa. Chỉ mới vài năm
thôi mà lòng đã già hơn tuổi tác. Vì gian khổ chiến trường, vì
sinh tử rất bất chợt, hay vì kỷ luật của Quân Đội? Có thể là vì
tất cả mọi thứ liên quan đến đời binh nghiệp! Hình như có ai đó
đã nói là: “Muốn sớm trưởng thành thì cứ bước vào đời lính”. Điều
này có lẽ đúng với tôi khi chỉ vài năm trước còn cười, nói nhi
nhô, bon chen mọi mặt và chẳng thấy mình “người lớn” chút nào dù
đã có nhãn hiệu “đại học sĩ” và đã có được chỗ dành riêng trong
Thư Viện. Còn bây giờ, những nụ cười dòn tan như thời bốc hạt dẻ
ném vào nhau trong đêm vui cuối tuần, hay những lần đua xe gắn
máy quanh sân Cù đã nhường chỗ cho những trầm ngâm, căng thẳng
lúc vào vùng hành quân. Nụ cười dòn đã trở thành xa xỉ phẩm, vì
nụ cười của Lính chỉ thật sự tươi tắn khi biết mình còn sống sau
một trận giao tranh. Buồn vì nỗi cô đơn, nhưng cũng lâng lâng vui
lây với không khí Tết là tâm trạng của tôi ngay lúc này đây...
Tôi quay đầu nhìn về phía trong. Như
hiểu ý, cô thâu ngân đến bên bàn kèm theo bình trà và phiếu tính
tiền. Tôi lên tiếng trước:
– Làm phiền cô quá! Người nhân viên khi
nãy đâu rồi?
Cô gái mỉm cười:
– Cô em họ của tôi mới về nhà có chút
việc rồi đi sắm tết luôn.
– Còn cô đã mua được gì chưa?
– Khi nào xong việc ở đây thì tôi mới
đi.
Tôi nhìn
đồng hồ:
–
Cũng hơi trễ rồi, coi chừng không kịp!
Cô gái lại mỉm cười:
– Tôi thì không sao, nhưng thiếu úy
không phải dân địa phương...
Tôi ngắt lời:
– Sao cô biết tôi không phải dân địa
phương hay vậy?
– Nhìn bộ quân phục là biết ngay! Vả
lại, Đà Lạt nhỏ xíu hà. Nhìn là biết thiếu úy chỉ là du khách.
Tôi định nói là mình rành đường xá Đà
Lạt không thua gì người dân ở đây, nhưng cô gái đã mang tiền thối
lại và nói ngay:
– Thiếu úy không giống như những du
khách khác...
Tôi ngạc nhiên, định hỏi thì cô gái đã tiếp ngay:
– Cứ ngồi tư lự như kẻ thất tình, lâu
lâu lại mỉm cười một mình...
– A! Thì ra cô theo dõi tôi.
– Không phải đâu. Chỉ tại vì...
– Vì sao?
– Vì giống như đang nhớ ai vậy đó.
Tôi cười:
– Cô không làm thầy bói được rồi.
– Hay là “lạnh giò” vì sắp ra trận?
Tôi vừa bước ra cửa vừa nói với trở
lại:
– Tôi
đang nghỉ phép thường niên.
– Vậy thì chúc thiếu úy vui xuân thoải
mái. Nhớ trở lại ủng hộ nữa nha!
Tôi lắc đầu:
– Tiếc quá! Mai tôi đi rồi!
Khi quay lưng, tôi chợt thấy đôi mắt có
điều gì muốn nói, nhưng rồi cô gái chỉ buông nhẹ:
– Chúc thiếu úy đón xuân vui vẻ.
Tôi cám ơn rồi bước ra ngoài. Trời về
chiều mát lạnh. Đường xuôi dốc nên từ Ngọc Lan đến xi-nê Hòa Bình
là những bước chậm và đều theo sự lãng đãng của tâm trí. Đà Lạt
đang chuẩn bị mừng Xuân nên cuối tuần càng thêm nhộn nhịp. “Thành
phố buồn” đang khởi sắc và có vẻ an bình làm sao so với không khí
chiến tranh đang dần dà leo thang đến mức đáng e ngại! Xe cộ đầy
đường. Người đi tấp nập. Tôi dừng lại ngay trước quán Mékong, vừa
định bước qua thềm Hòa Bình để vào chợ, thì có tiếng còi và một
chiếc Honda Dame chắn ngay trước mặt. Ngồi trước tay lái là cô
tiếp viên của quán Thảo Nguyên, đang nhìn tôi cười cười. Phía sau
cô là một người đàn ông trung niên cụt một cánh tay, vừa chăm chú
nhìn tôi vừa bước xuống xe. Tôi nhận ra người này ngay:
– Ông Thái!
Là ông đây sao!?
– Thiếu úy! Tôi đây.
Tôi ngây người nhìn Trung đội phó của
mình. Tôi không nói được lời nào vì quá bất ngờ. Thượng sĩ Thái
cũng im lặng nhìn tôi một lúc rồi mới mở lời:
– Tôi đang phụ với bà chị bán hàng
trong chợ thì cháu Tâm kéo tôi ra đây.
Cô gái tắt máy xe, vừa cười vừa nói:
– Chị Thảo và em nhìn phù hiệu là biết
ngay ba ở cùng đơn vị với Thiếu úy nên em lật đật chạy nói cho ba
biết.
– Sao
mấy cô không hỏi trước cho chắc ăn?!
– Kỳ thấy mồ. Ai mà dám.
Tôi hết nhìn cô gái rồi lại nhìn người
đồng đội cũ. Như hiểu tôi đang nghĩ gì, Thượng sĩ Thái nói ngay:
– Ông không biết nó là phải. Tên nó là
Tâm. Vì nó lớn nhứt nên tôi gởi nó trên này ở với gia đình chị
tôi. Chỉ có hai đứa nhỏ là theo tôi về Đà Nẵng.
Tâm cúi đầu chào rồi thêm:
– Còn người thâu ngân ở Thảo Nguyên là
chị Thảo. Con của bác Hai. Hai chị em chỉ phụ trông quán vài hôm
thôi.
Thượng
sĩ Thái tiếp lời:
– Ở đây không nói được nhiều. Mời Thiếu
úy về nhà hàn huyên tiếp. Chuyện hàng quán có em nó lo rồi. Xin
đừng ngại.
Khi
tôi nói còn phải mua sắm vài thứ bánh mứt làm quà cho đơn vị thì
Thượng sĩ Thái quay sang Tâm:
– Con lo chuyện này cho thiếu úy giùm
ba. Nói với bác gái là ba về trước nghe.
Tâm dạ rồi quay xe vòng qua chợ. Chúng
tôi nhìn theo cô gái một lát rồi cùng rảo bước, vừa đi vừa hỏi
han những người quen trong đơn vị và những chuyện hành quân sau
này...
Chiều
đang tắt nắng. Trời trở lạnh. Nhìn cánh tay áo phất phơ của người
Trung đội phó mà tôi cảm thấy nao lòng. Dù sao cũng là quyết định
của tôi. Một sự tình nguyện hoàn toàn theo bản năng sắp sẵn của
Hướng Đạo để dẫn đầu đại đội đánh vào căn cứ địa của địch. Tuy
hoàn thành trách nhiệm nhưng cái giá phải trả là một cánh tay,
bốn mạng người và một nửa trung đội bất khiển dụng, không kể lời
trách móc của lính tráng và nhứt là của Chị Thái.
Lính than phiền ngay lúc còn dùng chân
rà mìn trên một ngọn đồi của vùng biển Quảng Ngãi. Họ xôn xao và
bất mãn khi sau đó tôi tình nguyện đưa trung đội vào ngôi làng bỏ
hoang dưới chân đồi để truy lùng du kích và khai quang trước khi
cơ giới vào san bằng. Kết quả là Thượng sĩ Thái mất cánh tay, 4
đứa em hy sinh và thêm bốn đứa nữa trọng thương vì một trái mìn
nội hóa và một quả đạn 155ly do địch gài bẫy. Hôm đó là một ngày
cuối tháng 4–1974. Lúc đó, chị Thái trách tôi bồng bột khi tình
nguyện dẫn lính vào tử địa khiến cho Ông Thái trở thành thương
phế binh. Tôi không gặp lại chị lần nào. Những lời phiền hà của
chị được anh em trong trung đội kể lại. Ba tháng sau, tiểu đoàn
từ Quảng Ngãi về hậu cứ để tái trang bị và bổ sung quân số. Tôi
có đến Trại gia binh để thăm thì gia đình Thượng sĩ Thái vừa mới
dọn đi. Không ai biết là họ đi đâu. Bây giờ thì tôi gặp lại Ông
Thái nơi đây.
Người Trung đội phó không có đến một lời than trách. Ông vẫn thân
tình và cởi mở như trước. Nhắc đến những ngày rà mìn bằng lưỡi lê
và cánh tay đã bỏ lại Mộ Đức, ông chỉ lắc đầu tỏ vẻ thương cảm
cho số phận người Lính và kết luận:
– Tôi thường nói với má con Tâm là phải
chấp nhận thực tế dù có đau lòng cách mấy. Vì làm lính là chờ đến
lúc chết hoặc bị thương. Chỉ có hai đường đó mà thôi. Bà xã tôi
có trách móc thiếu úy thì cũng chỉ là thường tình của phụ nữ.
Nhưng xong rồi thì thôi. Mất một cánh tay còn hơn là mất mạng.
Lúc tôi xuất viện là bà ấy cũng nhận ra điều đó. Vả lại, tôi có
nói là nhờ Thiếu úy bình tĩnh cầm máu cho tôi, bằng không thì...
Công bằng mà nói thì trong lúc hoảng
loạn, tôi chỉ hành xử theo bản năng. Vừa hò hét qua kẽ răng –
không dám la lớn vì sợ địch biết mình đang bị thiệt hại – vừa mở
băng cá nhân cầm máu cho những người bị thưong, lại vừa phải phối
trí lại đội hình đang chết dí tại chỗ. Tinh mắt một chút, anh em
sẽ biết ngay là tôi đang run và tiếng chửi thề hay gằn giọng khi
ra lệnh chỉ là để ngụy trang cho nỗi sợ hãi trong lòng. Rất may
là địch không có cơ hội phản công và đại đội nhanh chóng mở
đường, khai lối để vào tải thương. Cảm động nhứt là trong cơn mê
sảng của cơn đau, Thượng sĩ Thái còn hỏi lại tôi “Chuẩn úy có sao
không?” trước khi ngất xỉu.
Câu chuyện tạm dừng khi Thượng sĩ Thái
chỉ tay về một khu vườn, trong đó có hai ngôi nhà, cách nhau một
khoảng sân rộng. Chúng tôi băng qua đường. Vừa đến trước cổng thì
có tiếng reo vui và hai đứa trẻ cùng xuất hiện một lượt.
– Ba! Chú Huy!
Sau gần một năm không gặp, Toàn và
Thiện, hai đứa con của ông Thái trông lớn hẳn ra. Thượng sĩ Thái
xoa đầu cả hai:
– Vào nói với Mẹ là có khách quen ghé
thăm.
Nhưng
hai đứa vẫn nắm chặt tay tôi, mỗi đứa một bên, kéo tôi bước lên
thềm để vào nhà. Cửa mở. Chị Thái sững người nhìn tôi. Không ai
nghĩ là sẽ gặp lại nhau tại nơi này. Sau một thoáng ngạc nhiên,
chị cười thật tươi, và niềm nở mời tôi vào. Vẫn như ngày nào còn
ở Trại gia binh của hậu cứ tiểu đoàn. Không có dấu hiệu của sự
trách cứ mà tôi đã được nghe kể lại.
Không khí chẳng khác gì những ngày vui
lúc dưỡng quân, chỉ khác là bây giờ có một mình tôi, còn trước
đây cả nhóm “con bà phước” hầu như ngày nào cũng ghé qua căn nhà
của gia đình Thượng sĩ Thái để nhậu nhẹt, hát hò hoặc bài bạc.
Vẫn là cảnh chị Thái vừa làm bếp vừa góp chuyện và hai nhóc tì
lăng xăng chơi đùa chung quanh bàn ăn. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy
ngôi nhà bên kia mảnh vườn cũng vừa lên đèn. Ông Thái cho biết đó
là nhà của gia đình người chị cả. Hai vợ chồng chị ông Thái lập
nghiệp đã lâu và có hai con. Người con trai lớn đã lập gia đình
và đang là giáo viên dạy ở một trường tiểu học trong khu đồn điền
trà Minh Rồng, Bảo Lộc. Cô em gái là Thảo thì đang làm cho Tòa
hành chánh thị xã Đà Lạt trên đường Yersin. Anh rể của ông Thái
đã về hưu sau gần 40 năm làm trong ngành bưu điện. Nhờ chí thú
làm ăn và được sự hỗ trợ của gia đình bên chồng, nên chị ông Thái
dần dà sang được một tiệm tạp hóa ngay trong chợ. Cũng là lúc
Thượng sĩ Thái giải ngũ nên mọi chuyện sau đó chỉ là cơ hội cho
hai nhà gom lại một chỗ.
Đang hàn huyên thì có tiếng mở cửa, rồi
Tâm bước vào, trên tay lỉnh kỉnh túi, giỏ. Tâm vừa sắp soạn lên
bàn kiếng vừa nói:
– Có mấy món đặc sản Đà Lạt tặng cho
Thiếu úy để ăn Tết.
Tôi cảm động nhận lấy phần quà, định
hỏi giá tiền nhưng lại thôi. Chị Thái quay sang nói với chồng:
– Anh mời anh chị hai và cháu Thảo qua
ăn cơm tối cho vui.
Chị vừa nói xong thì Tâm bước ngay ra
cửa:
– Để con
đi cho! Chị Thảo còn bận ngoài quán. Chắc phải chờ đóng cửa mới
về...
Bữa cơm
gia đình đơn sơ nhưng thân mật. Ông bà Phương vui vẻ và nồng
nhiệt không kém gì anh chị Thái. Mới gặp lần đầu mà như quen biết
đã lâu.
– Cũng
nhờ cả nhà chú thím nhắc tới thiếu úy hoài nên không biết cũng
thành quen. Nhất là hai nhóc tì này đây, cứ khoe là chú Huy hay
dẫn đi ăn kem lắm.
Ông Phương nói xong, Tâm cũng phụ họa:
– Khi về đây, hai đứa cứ bắt em dẫn đi
ăn kem cho bằng được, và còn nói là chú Huy hay mua quà cho nữa.
A! Mà phải cám ơn chị Thảo mới đúng. Vì khi nhìn phù hiệu và
chiếc mũ nâu là chị nói em nên cho ba biết ngay, vì có thể là
người quen không chừng. Mà đúng là quen thật!
Không khí ấm cúng và thân tình làm tôi
chạnh lòng khi nghĩ đến lúc chia tay và thầm tiếc cho hai ngày đã
qua. Phải chi gặp lại nhau sớm hơn thì vui biết mấy. Trong bữa
ăn, tôi có cho biết là đã rời trung đội để về học Tiếp liệu Binh
đoàn mấy tháng qua. Phép mãn khóa cộng với Sự Vụ Lệnh về trình
diện đơn vị đủ để thăm gia đình tại Sài Gòn rồi dành cho Đà Lạt
vài hôm trước khi trở lại Đà Nẵng. Cả nhà cũng tiếc cho khoảng
thời gian thật ngắn ngủi nên Thượng sĩ Thái ngỏ lời giữ tôi ở lại
qua đêm. Tôi nhận lời ngay nhưng nói là cần phải về khách sạn để
gom mớ hành lý. Tâm đề nghị:
– Hay là Thiếu úy lấy xe đi cho nhanh
hơn, để có thì giờ hàn huyên với ba và kể chuyện lính cho cả nhà
nghe.
Tôi bật
cười:
– Tôi
chưa đầy ba năm lính thì mười phút là xong chuyện. Nghe ba cô kể
mới đúng.
Quay
sang Ông Thái, tôi tiếp:
– Thôi để tôi đi bộ. Từ đây về Duy Tân
cũng chẳng bao xa. Tôi sẽ trở lại ngay, chỉ có một túi xách thôi
nên gọn nhẹ lắm.
Nói xong, tôi chào mọi người rồi đi ra
cửa. Con đường Hải Thượng vàng vọt ánh sáng, nằm im lìm trong cơn
mát lạnh của cao nguyên. Không khí thật dễ chịu. Lòng tôi cũng
lâng lâng. Không uổng công về thăm Đà Lạt chút nào. Định tìm bè
bạn hay đồng môn thì gặp lại đồng đội cũ. Đúng là trái đất tròn.
Gom mọi thứ cho vào túi xách, kiểm soát căn phòng lần cuối, trả
chìa khóa cho văn phòng, ra khỏi khách sạn thì chưa tới 9 giờ tối
nên tôi lưỡng lự một chút trước khi vòng qua Minh Mạng với ý định
mua vài ly chè cho gia đình Ông Thái, rồi xuống tiệm Tàu gần rạp
xi-nê Ngọc Hiệp tìm món gì đó để nhâm nhi với nhau qua đêm. Tôi
vừa qua rạp hát thì có ánh đèn xe từ phía sau rọi tới, một chiếc
Honda rề rề kế bên, rồi có tiếng nói:
– Thiếu úy đi đâu đây!? Tâm nói là đã
theo cậu về nhà lâu rồi mà?!
Tôi nhận ra Thảo, nên dừng lại, chỉ vào
quán cơm Tàu:
– Tôi định vào đây tìm món đưa cay mời bác Phương và ông Thái
nhâm nhi cho vui. Còn cô thì chắc là xong việc rồi phải không?
Thảo vừa khóa xe, vừa trả lời:
– Người em họ ra trễ. Mùa Tết. Lại nhằm
thứ bảy nên càng về đêm càng bận.
Chúng tôi cùng bước vào một lượt. Thảo
vừa lom khom nhìn các quầy hàng, vừa nói với lại phía sau:
– Ba mẹ thích xá xíu của nơi này lắm.
– Còn ông Thái thì vịt quay.
Thảo quay lại, tròn xoe mắt:
– Sao Thiếu úy biết hay vậy?
– Đồng đội cũ mà.
– Mợ ba nói thịt vịt mỡ nhiều, ăn khó
tiêu. Còn cậu ba thì xơi luôn cả da. Ổng nói nốc chừng vài chung
thì thứ gì cũng sắp xếp thứ tự trong bụng cả.
Chúng tôi
cùng cười sau câu nói đùa, và khi ra cửa thì trên tay Thảo là một
gói xá xíu và một túi vịt quay: quà của tôi dành cho hai gia
đình, coi như mừng ngày tao ngộ bất ngờ. Đến chỗ đậu xe thì tôi
mới nhớ là cần phải mua rượu thì Thảo bật cười:
– Tưởng gì
chứ rượu thì cậu và ba lúc nào cũng có vài chai trong nhà. Thiếu
úy đừng lo.
–
Sắm mồi mà không mua rượu thì coi không được đâu.
– Đã hơn 9 giờ. Đâu còn chỗ nào bán!?
Tôi thừ người một lúc rồi chợt nghĩ đến
một người:
–
Cô đói bụng chưa?
Thảo ngẩn người, nhướng mắt. Tôi lật
đật nói tiếp:
– Tôi biết một người có thể giúp tôi ít nhứt là một chai Cognac.
Nếu cô không gấp về nhà thì theo tôi đi tìm rượu ngon.
– Trời ơi! Đặc sản của Đà Lạt cũng ngon
rồi. Cần gì rượu tây!
– Cô cho tôi quá giang qua nhà thờ Con
Gà được không?
Thảo bật cười lớn:
– Thiếu úy định xin rượu lễ của mấy Cha
hả?
– Cô đi
với tôi rồi sẽ biết.
– Được thôi. Thiếu úy lái xe đi. Nhà
binh mà ngồi sau lưng con gái thì...
– Thì cứ coi như hậu phương yểm trợ
tiền tuyến vậy mà... Nếu cô không run thì để tôi lái cũng được.
Thảo chỉ cười, rồi tự nhiên ngồi lên
phía sau...
Tôi dừng ngay cuối dốc nhà thờ, ngay trước quán cà-phê Không Tên.
Thảo vừa xuống xe đã hỏi ngay:
– Chỗ này à?
– Chỗ này. Cô chờ tôi một chút. Tôi ra
ngay.
Nói xong
là tôi vội vã đi vào quán, không để ý dường như Thảo cũng có điều
gì đó muốn nói nhưng không kịp.
Chú Phúc thấy tôi liền reo lên:
– Đi đâu mất biệt vậy?
– Cháu gặp người Trung đội phó. Ổng ở
bên đường Hải Thượng. Xin chú để lại cho cháu một chai Cognac.
Đêm nay cháu tâm tình với ổng rồi mai đi luôn.
– Đúng là hữu duyên thiên lý. Cháu muốn
Henessy hay Rémy Martin?
– Dạ, loại nào cũng được.
Chú Phúc vào bên trong chừng một hai
phút là trở ra đưa cho tôi một bao giấy:
– Chú tặng cháu.
Tôi lắc đầu:
– Cháu kẹt nên qua đây làm phiền chú.
Đâu dám nhận không!
– Thằng này lạ nhỉ?! Coi như lì xì cho
mày không được à?! Cầm lấy đi!
Tôi biết không thể từ chối nên đành cám
ơn rồi nhận chai rượu. Chú Phúc đưa ra cửa, nói:
– Chú có một ông bạn nhậu, rất thân,
làm bưu điện nay đã về hưu, cũng ở bên Hải Thượng. Lâu nay không
có dịp gặp nhau. Nghe nói cũng có tiệm chi đó trong chợ.
Tôi buột miệng:
– Có phải tên Phương không?
Chú Phúc trợn mắt, vừa định hỏi lại thì
đã thấy Thảo ngoài sân:
– Cháu Thảo. Chờ ai ngoài này vậy?
Thảo chỉ vào tôi, chưa kịp trả lời thì
chú Phúc bước ra cửa, hỏi tiếp:
– Cháu quen với Huy hồi nào?
– Dạ, mới vài tiếng đồng hồ thôi.
Chú Phúc nhìn tôi chờ câu trả lời. Tôi
kể sơ về cuộc hạnh ngộ vừa qua. Chú cười, vỗ vai tôi:
– Đúng là hữu duyên. Chuyện lạ đó nghe!
Rồi quay sang Thảo, chú nói:
– Thảo về nói với ba mẹ là chú gửi lời
thăm. Nếu không bận thì chú sẽ chạy qua cụng ly với ba và cậu của
cháu. Nói với mẹ là chú không ép rượu ba cháu đâu!...
Trên đường về, tôi kể cho Thảo nghe về
người chủ quán tốt bụng. Chỉ là bạn học với cháu của ông, nhưng
chú Phúc xem tôi như là con cháu trong nhà. Mặc dù thời gian trọ
học không bao lâu, nhưng hầu như ngày nào tôi cũng ghé ủng hộ
cà-phê và bánh croissant của ông. Thỉnh thoảng, tôi cũng hay ngồi
nghe ông kể chuyện sinh sống ở Paris nên thân thiết từ lúc nào
không biết. Con đường về không xa. Chỉ chừng mười phút lái xe. Đủ
để trao đổi những gì cần biết về cuộc sống của nhau. Qua Thảo tôi
biết được gia đình người Trung đội phó đang sống thật đơn sơ
nhưng hạnh phúc. Và hình ảnh của Tâm hôm nay cũng là Thảo của mấy
năm trước, khi phải bỏ dở mơ ước vào đại học để đi làm phụ lo cho
gia đình. Nếu không...
– Nếu không thì mình đã là đồng môn
rồi!
– Không
dám đâu! Đồng viện mới đúng vì chương trình bên Chính Trị Kinh
Doanh khó lắm!
Bù lại, tôi kể cho Thảo nghe về những
ngày đầu khi mới về đơn vị, về Thượng sĩ Thái, chiến sĩ xuất sắc
trong trận tái chiếm Sa Huỳnh hai năm trước và cũng là người thầy
của tôi trên mọi phương diện, nhứt là kinh nghiệm chiến trường.
– Không nghe cậu ba nói gì nhiều. Nhưng
hai nhóc tì thì nhắc tới thiếu úy hoài.
– Là vì có chút kẹo bánh cho hai đứa mà
thôi. Tóm lại, ông Thái vừa là thầy, vừa là bạn và chị Thái thì
như một bà chị cả trong nhà. Cũng may là chị đã không còn trách
tôi về chuyện tàn phế của ông Thái. Nếu không, chắc khó có một
ngày vui như hôm nay...
Vừa chạy vào sân thì đã thấy ông Thái
chờ trên thềm, có vẻ ngạc nhiên khi thấy chúng tôi về chung,
nhưng không hỏi mà chỉ tươi cười:
– Thấy lâu quá mà thiếu úy chưa về nên
tôi vừa mới ra đây dòm dòm một chút.
Chỉ vào Thảo, tôi nói:
– Tình cờ gặp nhau ở Phan Đình Phùng.
Sau đó...
–
Sau đó thì thiếu úy chạy tìm rượu ngon để cụng ly với cậu đó.
– Với bác Phương nữa. Tôi nói thêm.
– Trời ơi! Mua làm gì cho tốn tiền. Bà
xã tôi đã làm hai ba món gì đó cho mình lai rai rồi. Bà ấy còn
đang nấu thêm để mai khỏi làm lụng gì hết, để cho Ông Táo nghỉ xả
hơi. Thôi, sẵn đây cậu nhờ Thảo về mời ba qua đây lai rai chút
đỉnh, rồi con trở qua ăn tối luôn...
Bên ngoài, đêm đã vào xuân. Trong căn
nhà nhỏ cũng ấm tình chiến hữu. Câu chuyện hàn huyên vẫn là những
kỷ niệm đã có với nhau ngoài vùng I và thêm vài âu lo về thời sự
lẫn chiến cuộc, nhưng mọi thứ đều tạm nhường cho niềm vui bất ngờ
của sự hữu duyên. Tôi cũng không mong gì hơn. Hạnh phúc lâng lâng
khi trở lại Đà Lạt đã tăng thêm cường độ. Nỗi man mác, lãng đãng,
buồn buồn, hụt hẫng, đã không còn nữa. Thay vào đó là những nồng
nàn trong tình cảm dành cho gia đình người Trung đội phó, cùng
với chút rộn ràng vừa tìm thấy được sau câu chuyện trao đổi với
một mái tóc dài mới quen. Chú Phúc không thấy qua. Bác Phương về
ngủ sớm. Thảo cũng cáo từ sau đó không lâu để còn lo phụ mẹ chuẩn
bị cho hàng quán ngày mai. Tâm theo mẹ và hai em đi ngủ từ lâu
mặc dù rất muốn ngồi lại để nghe chuyện xưa và nay. Chỉ còn lại
ông Thái và tôi bên lò sưởi. Thêm vài câu chuyện kể, vài lần nhấm
nháp, là người chiến sĩ một thời ngang dọc nằm ngay dưới sàn nhà
ngủ ngon lành. Hình như tôi cũng đã thiếp đi một chút. Khi tỉnh
giấc thì thấy trên mình có một tấm mền, đắp chung với ông Thái.
Chiếc bàn nơi phòng khách đã được lau sạch hồi nào không hay. Và
ghế cũng đã được sắp qua một bên để cho rộng chỗ nằm. Có lẽ là
Chị Thái đã ra thu dọn mọi thứ, cả túi xách và giỏ bánh mứt cũng
đuợc gom vào một chỗ trong góc phòng. Tất cả đều ngăn nắp, trật
tự: dấu ấn của một bàn tay nội trợ tuyệt vời!
Ánh đèn từ nhà bếp dọi qua đủ để tôi
thấy những nếp nhăn trên trán và mớ tóc muối tiêu bên thái dương
của người Trung đội phó. Ông Thái đang ngủ ngon, tiếng ngáy nhỏ
và đều đặn. Nhìn người chiến sĩ thương binh mà thấy mang mang một
sự thương cảm nào đó thật khó diễn đạt thành lời. Một thời ngang
dọc bây giờ đành khoanh mình như đang hứng chịu sức nặng của
quang gánh mưu sinh. Một cánh tay đã dâng hiến cho tổ quốc. Bây
giờ là phần đời còn lại dành cho gia đình. Mãnh hổ về chiều có vẻ
mệt mỏi làm sao! Tôi chạnh nghĩ đến mình. Đến lúc bằng tuổi ông
Thái bây giờ thì tôi sẽ ra sao? Không tìm được câu trả lời và
cũng không muốn suy nghĩ vẩn vơ, tôi quay lưng dỗ giấc muộn màng
trong đêm về sáng. Nhưng tôi không ngủ lại được mà chỉ chập chờn
bằng những suy tư miên man về mọi thứ trên đời. Tôi tỉnh người
khi nghe tiếng xe từ ngoài đường vọng lại. Một ngày mới đang bắt
đầu. Chúa Nhựt 04–02–1975. Ngày đưa Ông Táo về trời. Ngày tôi rời
Đà Lạt để trở về đơn vị. Chuyến xe sớm nhất sẽ đưa tôi xuống Phan
Rang. Kịp thì có xe đò ra Nha Trang ngay. Không kịp thì đứng dọc
đường quá giang quân xa để ra Nha Trang ở qua đêm. Dù sao đi nữa,
tôi cũng chắc chắn sẽ có mặt tại Đà Nẵng vào ngày kế tiếp nếu
không muốn trình diện thẳng tại vùng đơn vị hành quân, ngoài
Quảng Ngãi.
Hai tờ giấy bạc làm quà Tết cho Toàn và Thiện. Một vài chữ chúc
xuân cho gia đình. Một vòng mắt để thu hết tổ ấm của người chiến
hữu. Một thoáng bùi ngùi khi nhè nhẹ đẩy cánh cửa bước ra ngoài
đủ để tôi cảm khái thở dài. Muốn gọi ông Thái dậy để nói lời từ
giả, nhưng lại e bịn rịn khó rời. Sau một lúc ngập ngừng, tôi
quyết định đóng hẳn cánh cửa. Khi quay lưng lại thì đã thấy Thảo
đứng dưới thềm từ bao giờ không biết. Thấy tôi có vẻ ngạc nhiên,
Thảo lên tiếng trước:
– Có chút quà của gia đình. Hồi đêm
mang qua thì thấy mọi người đều ngủ cả.
Tôi nhận gói giấy nhỏ, mềm. Chưa kịp
đoán ra là món gì thì Thảo tiếp:
– Chỉ là chút kỷ niệm về Đà Lạt thôi.
Tôi cám ơn, cất vào túi xách, vừa đi ra
cổng vừa nói:
– Thảo cho tôi gởi lời chào hai bác. Chắc chắn là tôi sẽ về đây
mỗi khi có dịp đi phép.
– Hay là lấy xe đi cho nhanh. Cũng xa
lắm đấy!
Tôi
cười:
– Cám ơn
Thảo. Hãy còn sớm lắm. Tôi muốn nhìn Đà Lạt trong cơn ngái ngủ và
xem cảnh vật ra sao. Thảo vào đi. Coi chừng bị cảm lạnh.
Thảo vừa chúc bình an là tôi vội bước
đi. Chần chờ thêm một chút là có lẽ tôi sẽ quay vào nhà, rồi tới
đâu thì tới. Vừa được vài bước thì có tiếng Thảo nói với:
– Khi rảnh nhớ viết vài chữ cho mọi
người biết tin nha.
Tôi không dừng lại, chỉ quay nhìn rồi
đưa tay vẫy. Người con gái vẫn còn đứng dưới vòm sáng mờ mờ của
ngọn đèn ngoài cổng, vẫy tay, làm tôi thoáng nao nao trong lòng.
Chút lãng mạn bất chợt hay dấu hiệu của sự bắt đầu cho một tình
cảm đậm đà hơn?
Tôi không có cơ hội nhìn Đà Lạt trong
cơn ngái ngủ như đã nói. Suốt đoạn đường ra phố để xuống bến xe
là những suy nghĩ về hạnh phúc tình cờ thật ngắn ngủi, cùng với
hình ảnh chia tay trong màn sương với người con gái mới quen mà
như đã biết nhau lâu rồi. Khi xe chuyển bánh, tôi bất giác lấy
gói quà Thảo đưa ra xem. Một chiếc khăn quàng cổ màu nâu và một
mảnh giấy nhỏ. “Quà mọn để nhớ Đà Lạt...” Chỉ có vậy thôi, nhưng
cũng đủ hiểu tấm lòng sau ba dấu chấm lửng lơ, mời gọi, làm tôi
nhớ lại sáng nay đã không gọi Thảo bằng cô và lời lẽ của nàng
cũng không có chủ từ. Cả cấp bậc Quân Đội gắn cho tôi cũng được
bỏ quên đâu đó. Tôi chợt mỉm cười khi nhớ dòng nhật ký viết trong
đêm sau cùng ba năm về trước: “Mãi mãi Đà Lạt sẽ sống trong tôi
như là khung trời của mơ mộng và cô đơn”. Lần này tôi không kịp
ghi chữ nào, nhưng chắc chắn sẽ không phải là tiếng thở dài như
thời trọ học.
Khi xe vừa chạy ngang Thủy Tạ, tôi nhìn lại thành phố thêm một
lần nữa. Sau màn sương nhẹ giăng trên mặt hồ là ánh hừng đông
đang ló dạng trên sân cù. Chắc chắn sẽ là một ngày nắng ấm để làm
đẹp cho Đà Lạt lúc vào xuân. Và trong cơn bồi hồi, tôi lại nhớ
đến lúc chia tay với Thảo, nhớ từng gương mặt trong gia đình
người chiến hữu thương binh. Chưa rời khỏi thị xã, chưa khuất
dáng thông xanh mà đã nghĩ đến ngày quay trở lại. Chỉ mong là
ngày ấy sẽ không xa và cũng sẽ là một ngày nắng đẹp như hôm nay.
Huy Văn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trung tâm lưu trữ các Ngày lễ mừng Bổn mạng BCND/QLVNCH...
|
Hình nền: Xuân Kỷ Hợi. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Đoàn Hữu Định chuyển
Đăng ngày Thứ Hai,
February 4, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang