Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự
truyện
Chủ đề:
QH–30–T4Đ
Tác giả:
Chu Tất Tiến
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trên
thế giới có lẽ không có trại giam nào khủng khiếp hơn các nơi gọi là
Trại Tập Trung Cải Tạo, bởi vì kẻ giam giữ đối xử với những người tù
như những con vật, không cấp thuốc men, chỉ cung cấp lương thực để
khỏi chết đói tại chỗ, trong khi bắt làm việc cật lực từ sáng đến
tối. Các tù nhân phải dựng nhà cho cán bộ, khai quang, làm đường cho
xe bộ đội chạy, trồng rau cho cán bộ vừa ăn vừa bán. Ngoài ra, còn
phải làm dụng cụ, tiện nghi cho cán bộ, như rèn dao, làm vali bằng
tôn, đóng bàn ghế, và đan giỏ mây. Trong khi đó, kẻ giam giữ có toàn
quyền sinh sát, muốn hành hạ, muốn bắn muốn giết lúc nào cũng được,
không cần tòa án. Không kể những lần xử bắn tù nhân vì trốn trại, mà
tù nhân lúc nào cũng có thể bị đạn bay vào mình. Tôi nhớ có lần đang
gánh củi, một anh nói đùa với bạn:
–Mày trông như xì–ke.
Tên lính gác đang dẫn toán đi làm việc,
đột nhiên nổi giận, lấy súng ra khỏi vai, nhắm luôn vào chân anh kia
bắn một tràng:
–Ð.M. mày! Nói ai xì–ke?
Lần khác, toán chúng tôi đi làm rừng. Tới
chỗ cổng gác, không thấy ai đứng đấy, anh trưởng toán bảo “thôi, cứ
đi!” Vừa ra khỏi cổng chừng 10 thước, tên lính gác núp sau một thân
cây, nhảy ra, chĩa súng vào đám người ngơ ngác, nổ liền mấy phát,
vừa nổ, vừa chửi:
–Ð.M. chúng mày! Ði mà không báo cáo ông
à?
Anh em chúng
tôi vừa thấy mũi súng chĩa ngang, liền nhảy ngay xuống cái rãnh cạnh
đấy, nghe đạn nổ trên đầu vèo vèo. Bắn hết một tràng, tên gác quát
nạt chúng tôi leo lên, đứng xếp hàng cho hắn chửi đã đời.
Khi được thăm nuôi, anh em chúng tôi cứ
phải đi từng đoàn, ra về lẻ tẻ, phải có anh em đi đón, kẻo gánh quà
đi một mình, thì nhất định sẽ bị bộ đội bao vây, lột hết đồ thăm
nuôi, rồi bị đuổi về trại, tay không:
–Ð.M. Ðằng sau quay, đằng trước bước! Chạy
về trại, đứng lại láng cháng, ông bắn bỏ mẹ!
Tụi lính gác trấn lột hết quà của anh em
như thế, nhưng đến đêm, lại bò vào trại, cầm từng gói đường, gói đậu
mà bán lại cho anh em, lấy tiền!
“Ðường đây! Một ký-lô ba đồng! Ðậu xanh
đây! Ba đồng một ký!”
Có một đêm, anh bạn T. vừa mua xong ký
đường, giận dữ kêu lên:
–Mẹ nó! Ðúng cái hộp Ghi–gô đựng đường
này, vợ tớ mới cho tớ hồi sáng! Nó cướp của tớ, giờ đem bán lại.
Trong Kà Tum, vì bộ đội ra vào trại rất
thường, anh em có nhờ một tên bộ đội mua giùm đường, đậu. Tên này
nhận lời, nhắn anh em gom tiền lại, hắn mua giùm. Lần đầu sòng
phẳng, tiền trao cháo múc. Lần thứ hai, anh em gom lại, gần như toàn
trại một số tiền lớn, nhờ mua giùm. Tên bộ đội hẹn giờ ra lấy hàng.
Hai anh đại diện gánh một cái sọt lớn, ra rừng chờ đợi. Hàng trao
xong, hai bạn gánh về. Chưa được trăm thước, thì một lũ lâu la hiện
ra, tay súng gườm sẵn, hò hét um xùm:
–Bỏ gánh xuống! Hàng ăn trộm! Biết điều bỏ
xuống, chúng ông bắn bỏ mẹ!
Thế là hai bạn đành bỏ hàng, chạy lấy
người.
Cuộc sống
truân chuyên như thế, ngày tháng dài bất tận như thế, ăn uống thiếu
thốn như thế, lại thêm mỗi tối tẩy não, khiến cho đời sống tù ngục
căng thẳng hơn. Năm 1975, tôi ở Trảng Lớn. Năm 1976–1978, tôi ở Kà
Tum, Khối 2, L 1 T 2 (?) có anh Mừng, Quân Cảnh, làm khối trưởng,
Ngô Phước Cương (ca sĩ), Ngô Phước An (nhạc sĩ chơi Mandoline), Tuấn
(Hải quân, độc tấu ghi–ta), Hùng “rống” (ca sĩ). Tôi làm Trưởng ban
văn nghệ, kiêm quản ca. Ðúng ra, Tuấn được anh em đề cử làm Trưởng
ban, nhưng trong lần đầu tiên, tập hát cho anh em, bị kẹt vì thiếu
sư phạm, nên đánh nhịp tới lui, cũng không ai biết hát. Anh em la ó
ầm trời. Thấy Tuấn vất vả, toát mồ hôi, tôi vì biết nhạc lý, nên
nhảy vào “cứu bồ”, giữ nhịp cho anh em hát êm xuôi. Tối hôm đó, Tuấn
qua lán tôi, thuyết phục tôi làm Trưởng Ban, và hứa sẽ đàn hát “số
dách” cho tôi nhẹ gánh. Tuấn còn biểu diễn cho tôi nghe những bản
nhạc Flamenco bất hủ cuả anh. Anh đánh đàn tay trái. Tay phải vừa
gảy dây đàn, vừa kẹp dây lại, biến thành trống. Những ngón tay trái
vừa nhấn phím, vừa móc dây! Nghe anh đánh đàn, từ “Chinese Rose”,
đến “La Cumpasita”... hồn người nghe như bay vút đến một thiên đường
nào. Dĩ nhiên là tôi nhận lời và sau đó, buổi trình diễn văn nghệ
đầu tiên, lại là hát nhạc vàng! Tôi vừa được thăm nuôi, có đậu, có
đường, nên nấu một nồi chè khổng lồ, mời Tuấn, Cương, An, Hùng đến
hát “chui”. Ban nhạc ngồi ở chiếc bàn tre thấp, quay ra sân trống,
trước cửa B1. Tuấn chơi ghi–ta, An chơi Mandoline, Cương và Hùng
thay nhau hát. Tôi đứng đằng sau ban nhạc, dặn đi dặn lại các anh là
nếu thấy tôi đá chân vào bàn, lập tức chuyển “tông” sang “Bác đang
cùng chúng cháu hành quân” và các bài khác. Ðể tránh bị bộ đội đột
kích bất ngờ, tôi cử hai anh làm “lính gác giặc”, đứng ở cuối sân,
chỗ gần cổng ra vào.
Tối hôm đó, trăng sáng mông mênh. Cả vài
trăm anh em ngồi xếp bằng ngoài sân, nghe những ca sĩ “tù” hát “Love
Story”, “Anh đến thăm em một chiều mưa”... Trong ánh trăng bàng bạc,
cảnh tượng một nhóm đông người ngồi yên lặng nghe nhạc, gợi lên
trong chúng tôi, những tình cảm bàng hoàng không thể tả được. Tôi
đứng lặng người, say sưa nghe hát. Bất ngờ, cảm giác thấy có hơi thở
dồn dập gần tai, tôi vội quay lại, và điếng người khi thấy tên Chính
ủy đang đứng sát tôi, chăm chú lắng nghe! Vội vàng, lật bật, tôi đá
chân vào bàn “lạch cạch, lạch cạch”. Tuấn nhận ra dấu hiệu trước
nhất, anh chuyển “tông” ngay sang “Ta vượt trên đỉnh núi cao Trường
Sơn, đá mòn mà đôi dép không mòn...”. Cả ba bạn kia lập tức họa
theo. Tên chính ủy đứng thêm một lúc, thấy hát nhạc “cách mạng” thì
thở dài:
–Tưởng
gì! Nghe nhạc này, chán bỏ mẹ!
Rồi quay đi. Cả bọn tôi thở dài. Phen này,
cả lũ xuống hố rồi! Hai ông bạn làm “lính gác giặc” vì mê say nghe
nhạc quá, đã từ từ bỏ vị trí vào tuốt bên trong, nên khi tên chính
ủy vào, chả ai biết. Chương trình văn nghệ chấm dứt. Anh em lục tục
về lán.
Ngày hôm
sau, anh Mừng đi họp sớm về, gọi tôi vào:
–Này, tên chính ủy nó hỏi tôi, ai tổ chức,
tôi đành phải bảo tên ông, vì không thể nói tên anh em khác. Nó bảo
tôi: “Bảo thằng Tiến dẹp đi! Lần sau mà còn tổ chức hát nhạc đồi
trụy nữa, tao bắn bỏ mẹ!”
Thái độ hăm dọa nhẹ nhàng đó, có lẽ vì anh
em hát hay quá! Nhất là Ngô Phước Cương, giọng ca điêu luyện hơn các
ca sĩ ngoài rất nhiều. Khi anh hát bài “Love Story” đến đoạn điệp
khúc, giọng anh cao vút, khiến ai cũng mê mẩn.
Ban Văn Nghệ cuả chúng tôi, hồi đó, còn
Ðiền, một nhạc sĩ trẻ. Anh chơi ghi–ta sô–lô hay lắm, nhưng rất
tiếc, anh không thuần nhịp. Khi vào ban nhạc, có bass, có ghi–ta
“lead”, có đàn “accord”, tiếng đàn solo cuả anh lạc điệu. Tuấn cố
gắng chỉnh hoài, nhưng không được, nên đành cho anh ra ngoài ban,
chỉ chơi solo một mình. Ðiền buồn lắm. Anh chỉ còn một người bạn
thân, là con chim trắng có ngù, đẹp tuyệt, mà anh đã dậy bao ngày.
Con chim cứ nằm trong túi áo cuả anh, thỉnh thoảng thò đầu ra, dương
ngù lên như chiếc mũ cuả lính La Mã. Số phận đắng cay không tha anh,
khi qua Suối Máu, anh bị ung thư ruột. Những ngày cuối đời, tôi cứ
phải sang anh vào buổi tối để làm massage cho anh ngủ, nếu không,
thì anh đau lắm, gào thét kinh hoàng. Ðiền ra đi, khi anh vừa mới độ
ba mươi.
Không
được tổ chức nhạc vàng nữa, mỗi tối, tôi bắt đầu kể chuyện phim cho
một số bạn bè thân thiết nghe. Trong số đó có Thanh, Huệ, Tập (Khối
Phó Khối 3), Nguyễn Vũ (họa sĩ), Ngô Ngọc Trác (QGHC), Thắng và vài
anh em khác. Nếu tôi nhớ không lầm, trong khối 3 có nhà nghiên cứu
văn học Huỳnh Hữu Ủy. Vì việc kể chuyện phim như vậy, mà anh em gọi
tôi là “Máy chiếu phim” hay “Nhà sản xuất phim ảnh”. Mỗi lần kể, là
được một chén trà “quặu”, đặc quánh. Kể chuyện phim mãi cũng hết,
tôi quay sang chuyện “chưởng”. Tôi thuộc hai bộ “Lộc Ðỉnh Ký” và “Cô
gái Ðồ Long” như húp cháo. Từ khi kể chuyện “chưởng”, số người nghe
tăng lên dần. Từ 5, 6 bạn đến vài chục người. Mỗi tối, sau khi ăn
cơm xong, là anh em giục giã:
–Nhà chiếu phim đâu rồi! Ra đây! Ra đây
mau lên! Khán giả đang chờ!
Và cứ thế, tháng ngày ở Kà Tum trôi qua,
trôi qua!
Ðến năm
1978, chúng tôi chuyển trại về Suối Máu. Tôi được bổ vào Ðội 3, Nhà
12, K4. Anh Mừng vẫn làm Ðội (Khối?) Trưởng. Số tôi vất vả, nên sau
khi các đội, khối họp lại, anh em vẫn chỉ định tôi làm Trưởng Ban
Văn Hóa, Văn Nghệ, nghĩa là vừa muá, hát, đóng kịch, vừa làm Bích
báo mỗi khi có lễ, tết. Cùng làm việc với tôi có Tống Châu Khôi,
Tham Sự Hành Chánh, làm Trưởng Ban Thể Thao. Tôi kiêm luôn Trưởng
Ban Vũ, phải lựa 5 bạn có chân tay dẻo cùng với tôi làm thành một
ban Vũ gồm 6 người, đi muá cho các trại bạn coi chơi. Với anh Hùng
làm cố vấn, chúng tôi tập cho anh em muá Sạp bằng thanh tre. Vì
không có nữ, nên tôi chuyên giả gái! muá Guatamela, thì làm cô Mễ,
muá Lơ thơ tơ liễu buông mành, tôi làm cô thôn nữ, vấn khăn mỏ quạ,
áo tứ thân, yếm hồng, tay cầm quạt giấy, uốn éo. Cùng với Minh “lùn”
(chuyên viên làm ảo thuật), cặp chúng tôi làm anh em cười bò lăn, vì
cô thôn nữ quá cao, trong khi anh chàng kia quá thấp. Sau khi tôi
muá xong, bạn bè chạy vào nắm tay, sờ má tôi, nói:
–Mẹ kiếp! Cô này là cô Tây Lai, chứ con
gái Việt nam sao mà cao quá!
Vài anh chạy lại, quơ tay quơ chân. Tôi
giả bộ uốn qua uốn lại, tránh né.
Chúng tôi cười nghiêng ngả cho quên buồn.
Thực tế, những niềm vui ấy chỉ hiếm họa
mới xảy ra một năm hai, ba lần, còn lại lao động cật lực.
Những ngày tháng buồn tẻ, mệt mỏi dường
như dài hơn thường lệ. Tôi trở lại với chuyện “chưởng”, với Ðồ Long
Ðao, Trương Vô Kỵ và Triệu Minh. Nhà 12 cuả tôi, buổi tối, biến
thành sân khấu. Tôi ngồi trên võng đầu nhà, anh em ngồi nghe chăm
chú. Bên cạnh tôi, luôn luôn có một ly nước trà, hay một chén chè
ngọt. Kể chuyện như thế, đời tôi qua đi trong hạnh phúc. Nhưng cũng
có lúc tái người.
Một hôm, tôi đang kể đến khúc Trương Vô Kỵ
đang ở nhà cuả hai chưởng môn phái Côn Lôn là Hà Thái Xung và Ban
Thục Nhàn để chưã bệnh cho người vợ thứ năm cuả Hà Thái Xung bị hai
con Kim Ngân, Huyết Xà cắn, bỗng nhìn thấy mặt anh em tự nhiên căng
thẳng lạ lùng, cứ nhìn lên đầu võng mình chăm chăm. Tôi giật mình
quay lại, thì thấy tên Chính ủy đang đứng ngay đầu võng cuả mình.
Phen này thật khó sống yên. Trong một tích tắc, não tôi làm việc
không ngừng, tôi cứ tỉnh bơ, coi như không có gì, tiếp tục kể, nhưng
về các phương thuốc Nam! May mắn là đúng vào lúc mà Vô Kỵ đang tìm
cách chữa bệnh cho cô Năm, nên tôi nặn óc tiếp theo:
–Mỗi buổi sáng, với người bị loại rắn Kim
Ngân này cắn, phải tìm cho ra các vị sau đây: Lan linh chi, một gói,
tì sương hai chỉ, lạc đỉnh hồng, một cân, khổng tước đàm một chỉ.
Hoà tất cả vào trong một ly nước. Cất chừng 3 tiếng đồng hồ, còn lại
một chút cặn, đổ thêm nước vào, nấu tiếp cứ 3 thành 1. Cho người
bệnh uống... Với người bị Huyết xà cắn thì khác hơn, buổi sáng ra
ngoài vườn, tìm ra cây Nhị tiên Hồng, có hoa mầu đỏ mềm, cánh nhỏ,
đào xuống ba tấc...
Tôi cứ vừa mở miệng nói, vừa dùng óc, nặn
ra các toa thuốc không có trên thế gian này, vừa nhìn thẳng vào anh
em, như đang mở lớp dậy thuốc Nam vậy. Tên Chính ủy nghe mấy danh từ
quái đản này khoảng 15 phút thì chán, bỏ đi. Sau khi hắn vừa ra khỏi
nhà, tôi gục xuống liền. Vì động não quá sức, cứ cố tìm ra các tên
thuốc tầm bạy tầm bạ, nên mệt lử, nằm thẳng cẳng.
Nhưng không vì vậy mà chương trình chuyện
“chưởng” chấm dứt. Tôi kể hết nhà 12 thì sang nhà 16, đội 4, kéo dài
cả năm trời. Mỗi buổi chiều, sau khi ăn xong, Tống Châu Khôi, nhà
16, chạy qua nhà 12:
–Sư phụ! Sư phụ qua mau, anh em đang chờ.
Tôi còn mệt mỏi, tần ngần chưa qua, thì
Tống châu Khôi tiến lại:
–Sư phụ để đệ tử cõng qua.
Việc phục vụ anh em hình như đã nằm trong
máu tôi, nên không có cơ hội nào bảo vệ được anh em, mà tôi lại
không làm.
Một
buổi tối, khoảng 7 giờ, đột nhiên tên Chính ủy mặt nám (mặt tên này
bị một miếng nám đen ngay má), cho gọi tôi ra hội trường, nơi treo
bích báo kỷ niệm 2 tháng 9. Nhà tôi ngay cạnh hội trường, nên vừa
bước ra khỏi cửa đã thấy anh Trần Ðức Thịnh, Ðại diện trại và tên
mặt nám đứng đó. Anh Trần đức Thịnh, giáo sư Nguyễn bá Tòng, (hiện
đang ở Canada) là người cứu mạng tôi hôm đó. Không có anh, đời tôi
đã tiêu diêu miền nào rồi.
Tên mặt nám vẫy tôi vào chỗ treo tờ bích
báo cuả Ðội, gằn giọng:
–Anh vẽ gì đây? Bôi bác chế độ hả? Vẽ gì
mà tay què, tay cụt? Chê công nghiệp mất cân đối hả?
Nhìn lại tờ bích báo, thấy trên phần tựa
đề “Quyết Tâm”, có hình một anh công nhân đội mũ bảo hiểm, một tay
giơ lên, tay kia bỏ xuống, nhưng vì chỉ có một khung ngang, nên phần
dưới không có. Tôi nhún vai:
–Anh coi lại đi! Nếu tôi vẽ giơ cả hai tay
lên, thì anh nói là “đầu hàng”, nếu để cả hai tay xuống, thì lại là
cụt cả hai tay sao? Ở đây, cái khung ngang, hẹp, nên tôi chỉ có thể
vẽ một tay giơ lên thôi. Ðâu có gì là công nghiệp mất cân đối đâu!
Tên Chính ủy lại chỉ vào một logo cuả anh
Minh vẽ hình chiếc xe máy cầy:
–Còn cái này nữa, bánh xe gì mà bị dây kẽm
gai cuốn vào? Ý đồ muốn ám chỉ là công nghiệp Xã hội chủ nghĩa bị
trì kéo lại hả?
Tôi bắt đầu mất bình tĩnh:
–Anh nói sao? Ðây là cái xe mới cáu. Bánh
xe còn nguyên gai cao su, chúng tôi chỉ vẽ đại khái thôi, làm sao mà
có kẽm gai ở đây?
Chưa thôi, tên Mặt Nám lại gõ tay vào bài
viết cuả anh Giáo Sư Nguyễn văn Phú, (sau làm giáo sư tại Trung Tâm
Nghiên Cứu Dịch Thuật Thành Phố):
–Này, xem này! Ðúng là kêu gọi anh em Trở
Cờ, chống phá cách mạng. Còn cãi cái gì nữa?
Tôi đọc lại bức thư. Thì ra, đó là hai câu
viết cho bạn bè ở nhà. Câu trên viết: Tôi mong có ngày chúng ta cùng
“Trở”. Hết hàng, xuống dòng, câu sau: để cùng nhau có cơ hội mà chơi
“Cờ”... Hai chữ “Trở” và “Cờ” viết ở cuối hàng một cách vô tình,
nhưng tên Mặt Nám này cố tình hãm hại người ngay. Thái độ cố tình
gán ghép này để tìm ra một con dê tế thần đây. Ðột nhiên, tôi nổi
điên lên:
–Tôi
nói cho anh biết. Anh chỉ bới bèo ra bọ! Chẻ sợi tóc làm tư làm tám.
Kiếm cớ hại người. Chúng tôi đâu có ngu. Ở tù như cá nằm trên thớt,
anh muốn bắn, muốn giết lúc nào chả được. Chúng tôi có chống anh,
thì chống ở trong đầu đây nè, đâu có ngu mà chống trên giấy trắng
mực đen như thế! Hai chữ này ở hai hàng khác nhau. Vô tình mà viết
ra như thế. Anh muốn kiếm cớ để bắn tụi tôi chứ gì? Mẹ kiếp! Ðã thế,
tôi nói cho anh biết, bắn thì bắn mẹ nó đi, đừng nói lòng vòng. Tôi
đây này. Muốn bắn muốn giết thì cứ ra tay nhanh đi!
Thấy tôi nổi cơn nói một tràng, tên Mặt
Nám cũng nổi cơn theo. Hắn chụp tay xuống bao súng, quát lên:
–À, thằng này chống đối cách mạng hả!
Anh Thịnh, cứu tinh, ngay trong phút giây
ấy, vội giơ tay cản tên Mặt Nám:
–Khoan! Khoan! Cán bộ! Anh Tiến chiều nay
bị “ấm đầu”. Anh ấy mê sảng, nói tầm bạy, tầm bạ. Cán bộ đừng để ý.
Rồi anh quay về phiá nhà tôi, nói to:
–Anh em ơi! Ra cạo gió cho anh Tiến đi
này! Anh ấy bắt đầu nói sảng rồi!
Trong khi tôi bị gọi lên hội trường, một
số anh em đã đi theo, đứng ngoài cửa ngó vào. vừa nghe thấy anh
Thịnh gọi ầm lên như thế, hai ba anh chạy ra ngay. Mấy anh đè ngay
tôi ra đất, lột áo lên, làm massage liền, trong khi đó, A Cửu, Vua
đan giỏ, đổ dầu gió vào lưng tôi, cạo soẹt soẹt.
Tên Mặt Nám đứng ngớ người ra, tay buông
khỏi cây súng, rồi phải bỏ về. Anh Thịnh trách tôi:
–Anh nóng quá! Phải bình tĩnh để sống còn.
Mai mốt trả thù không muộn. Hồi nãy, tôi không nhanh trí, thì anh
mất mạng rồi! Còn đâu mà trả hận nữa!
Tôi cám ơn anh Thịnh và dặn lòng đừng làm
Trương Phi nữa. Ngày hôm sau, tên Mặt Nám kêu tôi lên phòng, chỉ vào
mặt, mắng:
–Anh
là thằng phản động, nhưng may mắn. Lần sau mà còn thế nữa, tôi bóp
cò không tha!
Tôi
chỉ mím môi, không nói chi, và gật đầu, đi về. Không làm Trương Phi,
đôi khi cũng hay.
Nhưng chỉ được một thời gian, tính nào tật
ấy, không bỏ được, sém mất mạng. Lần này, đau đớn hơn, không mất
mạng, mà mất danh dự.
Hôm ấy, như mọi ngày, nhà 12 chúng tôi
trách nhiệm gánh phân tươi ra đổ ngoài ruộng rau cho cán bộ. Khoảng
gần 30 người lê bước dưới nắng gắt cuả trại Suối Máu, Biên Hoà về
đến cổng trại cỡ 1 giờ trưa, đói lả. Vừa tới cổng trại, bỗng nhiên
tên Sáu Méo, (chúng tôi đặt tên thế vì miệng hắn bị méo) quản giáo
đội 3, hô lớn:
–Ðứng lại!
Tất cả
ngơ ngác đứng nhìn tên Sáu Méo. Hắn tiếp tục hô to:
–Dàn hàng ngang ra, người này cách người
kia một thước.
Lại đứng dàn hàng ngang, cách nhau một thước. Tôi cũng đứng theo
lệnh, nhưng đến khi lệnh kế tiếp thì khựng lại:
–Tất cả quỳ xuống, dang tay ra!
Anh em chới với, trợn mắt. Thấy chưa ai
thi hành, Sáu Méo gào to:
–Tôi “lói”: quỳ xuống! Dang tay ra!
Sáu Méo rờ tay vào cây súng lủng lẳng bên
hông:
–Nghe
không? Quỳ xuống!
Ở đầu hàng bên kia, sát với chỗ Sáu Méo
đứng, một vài anh lục tục cử động, có vẻ muốn quỳ. Ðột nhiên, tôi
lại lên cơn điên. Tôi giơ tay, nói lớn:
–Chúng tôi không quỳ! Yêu cầu anh cho biết
lý do.
Thấy một
tên phản động lớn tiếng, Sáu Méo nhảy ngay lại, tay phải rút súng,
tay trái chỉ mặt tôi:
–A! Thằng “lày”! Mày chống đối cách mạng
hả?
Tôi nhìn
thẳng vào mặt hắn:
–Không chống đối chống điếc gì cả! Nhưng
chúng tôi không quỳ! Anh có thể cùm giam chúng tôi, nhưng không được
làm nhục nhân phẩm chúng tôi.
Tên kia cũng bắt đầu nổi điên. Hắn lên đạn
cái xoẹt, chĩa ngay súng vào mặt tôi:
–Mày dám?
Nhìn thấy họng súng đen ngòm chĩa ngay vào
mặt, tôi nổi xung thiên:
–Bắn hả? Bắn đi! Tôi nói cho anh biết, có
bắn thì cứ bắn ngay mặt nhé! Ðừng bắn sau lưng, đừng bịt mắt! Tôi
không sợ! Chỉ tức cái vô lý thôi! Tự dưng bắt quỳ mà không có lý do,
muốn nhục mạ nhân phẩm Sĩ Quan Quân Lực Cộng Hoà à? Ðừng hòng!
Chuyện gì cũng phải có lý do.
Sáu Méo, dân Bắc Kỳ vùng cao, thấy tôi
cứng cựa, cũng tự nhiên chùn tay. Hắn hậm hực:
–”Ní” do hả? “Lói” thì “nắm”, “nàm” thì
“nười”. “Nàm” không chất “nượng”. Ði đứng uể oải, như một lũ công tử
bột!
Tôi chỉ tay
vào đống quang gánh:
–Nhìn kià! Sáng nào tụi tôi cũng gánh đúng
50 ký–lô phân tươi, đi bốn lần, mỗi lần 5 cây số, tổng cộng là hai
mươi cây số, mà cho ăn chỉ có hai củ khoai mì bằng hai ngón tay
chéo. Lấy sức đâu mà làm? Anh chạy xe gắn máy, cũng phải đổ xăng thì
xe mới chạy. Tụi tôi không có ăn, làm như vậy là quá sức rồi, còn
thế nào nữa mới đủ chất lượng?
Nghe tôi nói một tràng như bắn na–phan,
tên Sáu Méo ngẩn người ra. Hắn đứng suy nghĩ một hồi, rồi hậm hực
đút súng vào bao, hất hàm:
–Ðược rồi! Ðể đấy, về trại đi, tôi kiểm
tra, anh mà “lói náo”, tôi xử lý anh ngay.
Tôi cũng hất hàm:
–Cứ kiểm tra. Nếu tôi nói không đúng, anh
cứ việc bắn liền. Thoải mái!
Tên Sáu Méo ra lệnh cho anh em nhà 12 về.
Tôi vừa ngồi, thở ra được một lúc, thì đã thấy Sáu Méo đến gọi “ra
đây!” rồi đi trước, tới nhà bếp. Tôi lẳng lặng theo sau, đầu cúi
xuống, vì mệt mỏi. Con đường từ nhà 12, đội 3 đến nhà bếp phải qua
đội 2 gồm 4 dãy nhà đâm ngang ra con đường đi chung. Sau đó, tới đội
1, gồm 4 căn nhà nữa, mới tới bếp. Ðây là con đường đau khổ nhất cuả
cuộc đời tôi, vì chính nó đã làm cho tôi “thân bại, danh liệt”. Ðang
lầm lũi đi theo sau tên Sáu Méo đến nhà bếp để chứng minh, đột
nhiên, tôi nghe thấy một tiếng nói nhỏ, phát lên từ một căn nhà đội
2:
–Ð.M. Ăng–ten
đi báo cáo!
Nghe
mấy tiếng ấy, tôi rùng mình, muốn ngừng thở. Tôi liếc về dãy nhà đội
2, thấy mấy cặp mắt đang trừng trừng nhìn tôi. Lạy Chuá! Sao lại có
chuyện như vậy được? Chân tôi như tê dại đi. Tim đập thật mạnh đến
nỗi tôi hơi lảo đảo. Tôi muốn kêu lên, nhưng miệng tắc nghẽn. Nhưng
tôi vẫn phải đi theo tên quản giáo kia. Không thể đứng lại và phân
bua...
Tôi không
trách loài người, không trách Chuá, nhưng chỉ trách số phận tôi
không may mắn. Oan ơi! Oan!
Run rẩy mãi cũng đến nhà bếp. Sáu Méo gọi
to tiếng:
–Quản
cơm đâu?
Anh Hai
“néo”, bếp trưởng chạy ra. Quản giáo Sáu Méo chỉ tay vào một trong
những cái xô nhôm đựng khoai mì mà hỏi:
–Mỗi cái xô này cho mấy người ăn?
Hai “néo” trả lời:
–Thưa cán bộ, 10 người.
Sáu Méo tiến lại, thò tay vào đếm số
khoai, mỗi miếng chỉ dài hơn ngón tay giữa một chút. Tổng cộng có 19
miếng, không được 20. Sáu Méo không nói gì, lẳng lặng ra về.
Ngày hôm sau, hắn tập họp đội 3 lại, phân
công theo “tua”, mỗi nhà đi một ngày. Ngày chẻ củi, ngày lấy phân,
ngày gánh nước... Nhà 12 chúng tôi không còn phải mỗi ngày mỗi đi
lấy phân như trước. Anh em hả dạ, nhưng riêng tôi, đau xót như có ai
đâm vào tim mình. Thà nó bắn tôi lúc trưa ngày hôm qua... Trời ơi!
Nước mắt tôi ứa ra. Tính tôi không hay khóc, nhưng khi đó, thì nước
mắt chảy đầy môi, mặn đắng. Tôi mà làm ăng–ten ư? Trời! Bố tôi bị
đấu tố, mẹ tôi bỏ xứ ra đi, chịu nghèo khổ kinh hoàng. Nhà có ba anh
em, hai anh tôi thì động viên. Còn tôi, lính tình nguyện. Tôi đã
từng làm đơn xin đi Nhảy Dù mà bị bác. Sau đó, lại xin đi Bến Hải,
Cà Mâu, cũng bị bác đơn. Giờ này, lại bị mang tiếng “ăng–ten”! Ðau
hơn dao cắt thịt.
Nhưng số phận đã như vậy rồi, đành chấp
nhận khi không thể tránh. Tuy thế, sự nghiệt ngã vẫn chưa buông tha.
Chắc kiếp trước tôi làm ác, nên kiếp này, đành trả.
Một buổi trưa nắng, tôi mang cái lon
ghi–gô vào bếp, để hâm lại môn “cháo khoai mì”, cháo làm bằng khoai
mì, trộn thêm nước, rồi bóp cho mềm, đổ thêm muối, bỏ vào lòng bếp,
một lúc sôi lên, thì là một món ngon lành. Vì bếp rất cao, tôi ngồi
xổm một mình ở đó, không ai thấy, nên tình cờ tôi mới rõ một sự việc
khiến cho tôi bị hoạ lớn.
Vừa lúc lon ghi–gô sôi sùng sục, tôi ngước
lên về phiá cổng gác, tới chỗ nhà cuả quản giáo, tôi thấy Tống Châu
Khôi, Tham Sự Hành Chánh, người vẫn xưng là “đệ tử” với tôi, người
vẫn cõng tôi đi kể chuyện “chưởng”, vừa lùi lũi bước ra khỏi nhà cuả
tên Sáu Kéc, quản giáo đội 4, trên tay còn cầm quả banh! Tống Châu
Khôi liếc tới liếc lui, không thấy ai, nên dọt lẹ vào cổng. Hắn
không nhìn thấy tôi ngồi thấp hơn cái bếp. Tôi muốn nổi cơn lên
nữa...
Ðợi cho
Khôi hấp tấp bước qua chỗ núp, tôi gọi lớn:
–Khôi! Ðứng lại!
Tống Châu Khôi giật mình, nhìn quanh. Thấy
tôi, hắn lúng búng:
–Tớ... tớ đi bơm banh!
Tôi nghiến răng, vung tay vào mặt hắn,
chửi liền:
–Ð.M.
Mày làm ăng–ten phải không? Mày đâu có nhiệm vụ bơm banh. Bơm banh
đã có Thịnh lo, không phải mày. Mày báo cáo cái gì đó?
Tống Châu Khôi sợ hãi, xuống giọng:
–Tớ... tớ nói thật mà! Ðây, banh nè!
Tôi nổi nóng, tiến tới, tính dọng cho hắn
một quả. Hắn co cẳng chạy tuốt.
Ðã tính rượt theo, rồi thôi. Ðã tính báo
cho anh em hay, rồi cũng thôi. Tôi nghĩ rằng tên này sẽ hết dám.
Thôi, tha Tào! Ðâu có ngờ vì sự yếu đuối cuả tôi, mà đời tôi tan
nát.
Cuối năm 78,
bộ đội bỏ đi, bàn giao lại cho Công An. Khi Công an tới, chúng khôn
ngoan, không tỏ thái độ gì, chỉ xào lại danh sách. Từ K4 sang K3, từ
K1 qua K2... Nghĩa là không cho bạn bè gần nhau nữa. Trại K4 nơi tôi
ở toàn mặt mới. Không còn mấy người cũ đã từng nghe tôi kể chuyện,
đã từng chứng kiến tôi đối đầu với quản giáo, hoặc ca hát, muá may
cho anh em coi. Không khí căng thẳng hẳn lên. Nhiều xung đột xảy ra,
dẫn đến đánh nhau. Khi nghe báo cáo có mấy việc đánh nhau, tên quản
trại chỉ nói:
–Việc cuả các anh, tôi chỉ quản lý nhân số thôi.
Thế là bùng lên một làn sóng dư luận sôi
nổi. Nào là “công an sắp bàn giao cho Mỹ rồi”, “Cờ ba sọc đã được
kéo lên ở Dinh Ðộc lập rồi”, “Nguyên soái Nguyễn Cao Kỳ đã về đến
Trảng Bom rồi”... Nghe tin này, nhiều anh em hùng khí nổi lên, đi
đánh “ăng–ten” lia chia. Tôi thấy tình hình hỏng bét, lên tiếng báo
động:
–Anh em
không biết đâu. Công an có nghề cuả chúng. Bây giờ, mới bàn giao,
chúng cần tìm hiểu xem ai là ăng–ten, ai chống đối. Chúng chờ cho ta
ra mặt là chúng vớt, y như vớt bèo trong ao. Ðừng có nóng vội!
Ðang lúc xung động, đang hăng say đi đánh
ăng–ten mà không gặp trở ngai, những lời khuyên chí tình cuả tôi,
như dầu đổ vào lửa. Mấy người mới đến nhìn tôi, nghi hoặc. Một
chiều, người nằm sát tôi nhiều năm là Hưá Sang, Thiếu úy Nhảy Dù,
ghé tai tôi nói nhỏ:
–Chết mẹ! Chúng nó định đánh anh rồi! Tôi
cố cản, nhưng coi bộ không xong!
Tôi hỏi Sang:
–Cậu nằm trong ban “hành động”, vậy mà cậu
không bênh vực cho công lý ư?
Sang buồn bã:
–Anh hiểu cho tôi. Cả băng chúng nó, toàn
thằng mới, có mình tôi, nói ai nghe.
Thuyết mập, ở nhà 16, người say mê nghe
tôi kể chuyện, cũng chạy sang:
–Ông cẩn thận, có thằng nó tố ông là
ăng–ten. Tôi đang thuyết phục tụi nó.
–Ai tố tôi vậy?
–Không biết ai nữa!
A Cửu thì cẩn thận hơn:
–Tôi đi loanh quanh gần ông. Ðưá nào đụng
đến ông, tôi nhảy vào can thiệp.
Còn Hùng, Hoàng (Ðại úy Công Binh) là
những người cùng ở với tôi một thời gian dài thì chỉ nhìn tôi, thở
dài. Nhìn quanh, toàn khuôn mặt mới lạ, đằng đằng sát khí.
Tôi vẫn cố khuyên bạn bè:
–Các bạn nhớ là công an nó sẽ vớt các bạn
đó. Nên cẩn thận.
Còn cá nhân tôi, bình tĩnh chờ đợi. Khi
không thể tránh được rủi ro, thì cứ nhìn thẳng vào mặt nó.
Ðêm ấy, tôi hơi buồn. Bạn bè ra ngoài hội
trường hết rồi. Không khí căng như dây đàn. Tôi lấy cây đàn thân yêu
ra ngồi xổm dưới đất, chơi mấy bài nhạc cũ. Bất ngờ, đèn tắt phụp.
Vừa ngơ ngác ngước lên, thì “bụp”, một cú đá bay vào giữa mặt! Với
phản ứng quen, tôi lộn nhào ra sau, tránh được cú thứ hai, và đứng
dậy luôn. Trong ánh sáng mờ mờ, tôi thấy có bốn khuôn mặt lạ hoắc,
chưa hề biết là ai, đứng nhìn tôi chằm chằm.
Bình tĩnh lau máu từ mũi chảy ra, tôi hỏi:
–Các anh là ai? Tại sao lại đánh tôi?
Mấy người kia không nói nửa lời. Họ không
tấn công nữa, khi thấy tôi thủ tấn vững vàng. Nhìn tôi chừng vài
phút, nhóm người lẳng lặng bỏ đi. Tôi buồn bã lê bước về chỗ ngồi.
Vừa lúc ấy, Hưá Sang chạy về, hốt hoảng:
–Chúng nó đánh anh rồi hả?
Tôi gật đầu. Hưá Sang đẩy tôi ngồi xuống,
lấy khăn mù xoa ra thấm máu cho tôi, rồi vắt khăn đi. Vì bị đá bằng
một bàn chân rất mạnh, mũi tôi bị vỡ toang, xương bị dập, máu ra
nhiều đến nỗi vắt được thành dòng. Cùng lúc đó, A Cửu cũng chạy về,
thấy máu tôi ra đầy áo, A Cửu lột áo tôi, và thay áo mới. Hùng kinh
nghiệm hơn, giục Hứa Sang:
–Mày ra lấy nước, tao đun cho ảnh một chậu
nước nóng.
Cả ba
chăm sóc tôi kỹ luỡng như những Ma Sơ. Tôi bồi hồi nhìn các bạn, cám
ơn nghẹn lời. Liếc qua cửa, tôi thấy ba bốn khuôn mặt vừa đánh tôi
cũng đang ngạc nhiên nhìn vào, không hiểu sao một tên ăng–ten lại
được anh em thương như vậy.
Sau khi thay quần áo xong, Hưá Sang, với
hai bàn tay cứng cáp, bóp tay chân, lưng, cổ cho tôi. Mãi một lúc
sau, Thuyết mới về tới. Cả Thắng “ròm” nữa. Bạn thì sưả lại cây đàn,
bạn xếp dọn chỗ nằm cho tôi. Tôi vừa nói lời cám ơn thì tất cả đều
gạt đi. Cùng lúc ấy, điều tôi tiên đoán đã xảy ra. Sau nhiều ngày bỏ
mặc, Công an đã bất ngờ nhảy vào, bắn súng ầm ĩ, đạn chạm vào mái
tôn, bật ra, kêu leng keng. Bọn chúng tràn vào như chó sói:
–Ở đâu, yên đó. Nhúc nhích, bắn chết mẹ!
Thế là anh em bị dính trấu. Không chạy kịp
về phòng mình, một số anh bị còng ngay. Lần lượt, công an vào từng
nhà, lôi các người bị đánh đi hết sang K 30 là khu bệnh xá. Tới lượt
nhà 12, hai tên công an bước vào hỏi ầm ĩ:
–Nhà này! Có ai bị đánh không?
Vì tôi không muốn xa anh em, nên lẳng lặng
gục đầu xuống, dấu bộ mặt máu me. Ðã tưởng thoát nạn, tên công an
sắp bước ra, thì anh Hoàng, nhà trưởng, lại đột nhiên đứng dậy, chỉ
tay vào tôi. Tên Công an tiến tới:
–Anh này, quay mặt ra đây coi!
Không còn cách nào khác, tôi phải quay ra,
và phải đi theo tên công an kia, sang K 30 bên cạnh. Lòng buồn như
chết.
Ngay buổi
sáng hôm sau, bọn công an uà vào trại, bắt ráo những người trong ban
“hành động”. Chúng khai thác tôi rất kỹ, nhưng tôi nhất định không
khai. Tôi nói vì tắt đèn tối thui, tôi không nhìn thấy ai. Vì thế,
mà chỉ đến ngày thứ ba, sau vụ đánh, thì anh em mới hiểu là họ đã
mắc mưu kẻ chia rẽ rồi. Lý do đơn giản: tất cả những ai ở trong ban
Hành Ðộng, lập danh sách, và đi đánh người đều bị nhốt con–nếch hết.
Còn nhóm đánh tôi đều bình an! Tối hôm thứ ba, anh Nguyễn Lê Tuấn,
gốc K 3, liều mạng chui rào qua thăm tôi! Anh là một chủ chốt trong
nhóm “hành động”. Việc anh liều chui qua hai lần hàng rào để thăm
tôi là một hành động nguy hiểm, lính canh mà thấy là ăn đạn ngay.
Anh nói nhỏ:
–Tôi thay mặt nhóm để xin lỗi ông! Bây
giờ, hỏi thăm anh em cũ, mới biết mình lầm. Ông chính là anh hùng
của trại, lại bị oan, rồi kiên quyết không khai anh em, bọn tôi xin
lỗi.
Tôi bồi hồi,
xúc động:
–Không
sao! Ở đời, ai chẳng có lúc nhầm. Biết được mình nhầm, mà nhận lỗi,
mới là anh hùng thiệt. Cám ơn các bạn.
Nguyễn Lê Tuấn trầm ngâm một lúc, rồi đưa
ra đề nghị làm tôi tá hoả tam tinh:
–Tụi tôi... mong ông trở về trại, lãnh đạo
anh em!
Nghe Tuấn
nói, tôi ngẩn người, lắp bắp:
–Ông nói sao?
Tuấn nghiêm mặt:
–Tụi tôi muốn ông làm lãnh đạo. Ông vừa
can trường, vừa tình cảm. Mong ông nhận lời.
Tôi bối rối quá, không biết nói sao, chỉ
biết ú ớ:
–Nhờ
ông chuyển lời giùm tôi, cám ơn anh em. Ðã hiểu nhau, là vô cùng cảm
động rồi, lại được anh em thương mến, tôi xúc động lắm. Xin anh em
tha thứ cho tôi, khi hiện giờ, tôi không thể làm chi được. Xin chờ
cho tôi có cơ hội về lại trại nhe.
Cầm lấy tay Tuấn, tôi muốn khóc:
–Ông cẩn thận khi về trại. Bọn gác mà
biết, nó bắn ông, không tha.
Nhìn theo bóng Nguyễn Lê Tuấn len lách,
chui bò qua hàng rào, mà ruột gan tôi nóng bỏng. Tôi run người, chỉ
sợ nghe thấy tiếng la “Ðứng lại” là một anh hùng ngã xuống.
May sao, không có chi. Bóng tối đã che
chở. Ðược thể, tối hôm sau, Thắng “ròm” chui qua, dúi vào tay tôi
mấy viên thuốc đau nhức:
–Ông cầm lấy, tôi biết ông bị đau lắm!
Tôi ôm lấy bạn hiền, mà nước mắt ưá ra.
Tối hôm ấy, tôi phải một phen lo sợ. Vừa
lúc sắp đưa Thắng về, tự nhiên, tên gác nghi ngờ, bước vào phòng, la
to:
–Ở đâu, yên
đấy! Không được di chuyển.
Không biết làm sao hơn, tôi đẩy Thắng chui
ngay xuống gầm cái chõng tre tôi đang nằm, rồi trải tấm chăn ra, cho
thòng xuống hai bên. Tôi nằm trong chăn, trợn mắt méo mồm, như đang
bệnh nặng. Tên gác đi qua, nhìn tôi rồi bỏ đi. Tim tôi đập mãi như
trống làng cho đến khi biết chắc tên gác đã về, tôi mới đẩy Thắng
ra.
Ngày kế tiếp,
vì không muốn cho anh em lây hoạ về mình, tôi quyết định cũng vượt
rào về trại cũ. Ðợi khi khuất bóng trăng, tôi chùi xuống đất, vừa bò
vừa gạt kẽm gai, vào tới đất trại cũ, tôi vui mừng đi kiếm bạn. Gặp
ngay Trần Ðức Thịnh, anh khều tôi vào nhà, rót cho tôi một ly trà
nóng, và xác nhận:
–Có tên... lập danh sách đánh ông để trả
thù cá nhân. Người cũ, ai cũng biết nó là ăng–ten, chỉ trừ có những
anh em mới, không rõ, nên mới mắc mưu nó. Bây giờ mới hiểu, họ cô
lập nó rồi. Nó không dám gặp mặt ai, cứ trốn trong nhà như chó cún.
Tôi cười:
–Thôi, kệ nó với Trời. Kẻ nào gieo ác thì
sẽ gặp ác.
Rồi
tôi chạy đi kiếm Hưá Sang, Hùng, A Cửu, Thuyết. Gặp nhau... băng đã
đánh tôi hôm nọ. Mấy anh đang ngồi chơi, thấy tôi vào thì giật mình.
Tôi vẫy tay chào họ, mỉm cười. Họ hơi gật đầu chào lại. Không muốn
làm cho họ khó chịu, tôi đi chỗ khác chơi.
Bắt tay, trò chuyện một hồi, đã tới nửa
đêm, tôi phải chui rào về lại K 30. Biết một đi là không có dịp gặp
lại, lòng tôi nao nao.
Rồi K 30 cũng giữ chân tôi thêm vài năm,
thêm bao kỷ niệm, nhưng cũng tại đây, một lần nữa, tôi đụng với cán
bộ công an coi tù. Hôm đó, đang ngồi gảy đàn Ghi–ta, cây đàn này là
chính hồn tôi, giúp tôi viết tù ca, không thể rời, tên công an quản
giáo vào đứng ở cửa phòng, chống nạnh, nói lớn:
–Anh Tiến! cho tôi mượn cây đàn!
Trời! Cây đàn ghi–ta còn trọng hơn trái
tim tôi nữa. Đó là linh hồn tôi, là sức sống của tôi, làm sao mà đưa
cho công an, để mất luôn! Không được! Đột nhiên, bao nhiêu buồn
phiền, phẫn nộ, oan ức ở đâu ùa tới, làm máu nóng của tôi nổi lên,
tôi la lớn:
–Đ.M.
Con c.! Đéo cho công an mượn đàn!
Rồi tôi nghiến răng móc luôn 2 sợi giây
đàn, giật mạnh lên. Dân đàn đứt “bực” một tiếng, nghe như tiếng tim
tôi đứt vậy. Tôi giơ cao cây đàn lên cho tên công an thấy:
–Đàn đứt giây rồi!
Tên kia quê xệ, nhưng vì bất ngờ quá,
không biết phản ứng ra sao, nên bỏ đi. Tối đó, hắn kêu nhà của tôi
lại họp, kiểm điểm, tính làm thịt tôi.
Ngồi họp có Trung tá Hoàng Hữu Hệ (Quân
Nhu – Pleiku), Thiếu tá Đặng Quýnh, Thiếu úy Huỳnh Văn Á (Ban 3,
Không Trợ, ăng–tên thứ thiệt), Quế mập, Nguyễn Hạnh và khoảng hơn
mười bạn tù cùng nhà. Tên Công An Quản giáo ngồi ghế, chúng tôi ngồi
trên chiếu. Chắc đã được lệnh trước, tên Huỳnh Văn Á khai hỏa:
–Báo cáo cán bộ, chúng tôi là những kẻ lầm
đường, lạc lối. Chúng tôi từng phản bội Tổ Quốc, chúng tôi phạm tội
trời không dung, đất không tha, may nhờ Cách Mạng khoan hồng...
Mới nghe đến mấy chữ “chúng tôi... phản
bội...”, cơn phẫn nộ vì cây đàn đứt giây lại như sôi lên, tôi ngắt
lời tên khốn kia, chỉ tay vào mặt nó và gằn giọng:
–Anh Á! Nếu anh có phản bội tổ quốc, nếu
anh có phạm tội trời không dung, đất không tha, thì anh phải nói:
TÔI PHẢN BỘI, anh không được nói chữ CHÚNG TÔI! Chúng tôi không bao
giờ phản bội Tổ Quốc, chúng tôi phục vụ cho Tổ Quốc Việt Nam! Nghe
rõ chưa?
Tên kia
đang thao thao lập công, bị tôi chỉ đúng cổ họng, cũng nổi điên, vụt
đứng dậy, gào lớn, và chỉ tay vào mặt tôi:
–Báo cáo Cán bộ! Thằng Tiến này chống đối
Cách Mạng, chống đối cán bộ. Chiều nay, nó chửi cán bộ: Đ.M. Con C.
Đéo cho công an mượn đàn! Thằng Tiến này là phản động nguy hiểm, cần
phải tiêu diệt!
Tên Công An quản giáo kia, bất ngờ thấy tình hình không như tiên
liệu, và cũng có lẽ vì bị tôi chửi tục như thế mà không làm gì được,
thì lại càng quê xệ. Hắn ngước lên vẫy tay, bảo tên Á ngồi xuống
nhưng tên khốn này, được thể làm già:
–Báo cáo cán bộ, thằng Tiến này cực kỳ
nguy hiểm, nó chuyên viết nhạc chống đối cách mạng, rồi hát cho anh
em nghe. Tên này còn chui rào, trốn sang gặp bọn phản động bên kia
trại...
Tên
ăng–tên này càng nói càng hăng, đến xùi cả bọt mép! Nhưng nó không
biết rằng nó bị phản tác dụng, vì một thằng tù mắc tội lỗi tôi tầy
đình như thế mà quản giáo đéo biết gì, nên tay công an kia quát lên:
–Tôi bảo: Anh Á! Đi ra ngoài. Đi ra ngoài!
Ngay!
Tên Ăng–tên
kia hậm hực bỏ đi. Trong này, tên quản giáo thấy bể dĩa lung tung,
nên cũng phất tay ra lệnh tan hàng. Tôi không bị xây sứt gì! Nghĩ
lại thấy cũng hú hồn! May mà tên công an này còn non, khoảng dưới 30
tuổi, người miền Núi gì đó, cũng không gian ác lắm. Nếu mà tên công
an này gốc Thanh Nghệ Tĩnh thì giờ này, xương tôi đã mục!
Tên Huỳnh Văn Á, sau buổi kiểm điểm, đi
đến từng nhà, hăm dọa lung tung: “Đ.M. từ giờ phút này, thằng Tiến
đi đâu, sẽ có bước chân tao theo đến đó, nó mà hát nhạc vàng nữa, là
tao cho nó chết!”
Với tôi, thoát hiểm nhờ may mắn, và đã gây
thù chuốc oán với tên ăng–tên này rồi, thì thôi, biết thân biết
phận, không có may mắn lần nữa đâu, từ đó, làm việc đàng hoàng, buổi
tối, xong việc thì nằm một chỗ, tán gẫu một lúc rồi ngủ, không dám
hó hé gì, để tránh cho tên kia kiếm cớ giết mình.
Trời không tha kẻ gian ác. Tên Á được về
sớm, nhưng chỉ ngày hôm sau, anh em ngớ người nhìn thấy nó còng lưng
vác ba–lô đi vào cổng trại tù! Chưa hiểu tình hình ra sao, thì một
tên công an thường nhận thuốc lá 555 của bạn tù tôi, tửng tửng đi
vào nói: “Đ.M. Tôi chưa thấy thằng lào ngu hơn ló! Thằng Á ngu hơn
chó! Về nhà, thấy vợ bán nhà, đi theo giai rồi, không kiếm được chỗ
ở, nại nên trại xin vào nàm chân lấu bếp! Trại đâu có thừa cơm mà
cho ló ăn. Chỉ cho ở tạm một đêm rồi đuổi quách! Đ.M. Tình nguyện
vào tù để có chỗ ngủ! Đúng nà ngu nhất thế giới!”
Thời gian dần trôi. Tôi được tha cùng lúc
với 3 Đại úy Quân Y: Lương Tấn Lộc, Lê Hồng Khánh, Phạm Thanh Nhân
(BS Nhân, sau nhiều lần vượt biên bất thành, vợ ở Canada từ chối
không bảo lãnh, đã chích thuốc tự tử!)
Về nhà, gặp Nguyễn Lê Tuấn, bán vật liệu
xây dựng ở Lý Thường Kiệt, Tân Bình. Gặp Trần Ðức Thịnh để hai thằng
cùng đi dậy học chung với nhau. Qua Mỹ theo diện H.O., gặp biết bao
bạn tù: Phạm Thanh Tâm (đội 2), Mùi “rỗ”, Trường “lắc”, Hùng
“Rống”... Mừng mừng vui vui. Kể chuyện về trại tù như một thời gian
rèn luyện tâm hồn. Từ đó, với sự tiếp tay cuả các bạn đồng tù, Nhà
Văn Bích Huyền và các bạn H.Ô mà tôi liều mình đứng ra tổ chức Cây
Mùa Xuân H.Ô năm 1991 và 1992, tổ chức Tù Ca năm 1993 và 1994. Qua
các cơ hội này, gặp thêm bao nhiêu bạn bè, chỉ nhớ mặt, mà không nhớ
tên. Lần đông đảo nhất là lần cùng với Nam Lộc và Tổng Hội Sinh Viên
tổ chức gây quỹ xây Tượng Ðài Chiến Sĩ Việt–Mỹ. Những khuôn mặt
phong sương nhưng quả cảm cuả người Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng
Hoà lúc nào cũng toát lên niềm kiêu hãnh cuả một quân đội Bách
Chiến, nhưng thua vì chính trị đểu cáng. Thôi, đành mong lá cờ Vàng
Ba Sọc Ðỏ thân yêu mãi mãi tung bay khắp miền thế giới. Mọi tranh
chấp rồi cũng qua đi. Con người rồi cũng qua đi. Chỉ còn lịch sử tồn
tại muôn đời.
Chu tất Tiến
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Chu tất Tiến chuyển
Đăng ngày Thứ Hai,
April 27, 2020
thư ký dù
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang