Bắc đẩu tinh

 

Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang sách báo–Hồi Ký
Chủ đề:
QH30–T4Đ
Tác giả: Ngọc Ánh

NGÀY THÁNG BUỒN HIU

 

 

Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)



1. Lời giới thiệu

LTS: Tạp Chí Dân Văn – Xin giới thiệu đến quý bạn đọc thiên hồi ký bi hùng, thương tâm, đầy nước mắt của một đôi vợ chồng mang bản án phản động, âm mưu lật đổ nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội sau ngày 30/4/75.

Tác giả là người Sóc Trăng, cùng quê với người bạn thân nhất trong đời quân ngũ của Chủ Nhiệm TCDV, nguyên Đại úy BĐQ Huỳnh Lập Quốc, hiện sống với gia đình tại TP Denver, TB Colorado, USA.

Cùng đi tù với cha mẹ, có cháu Vy Dân mới hơn một tuổi, sau 8 năm tù, thằng bé suy dinh dưỡng nên chậm phát triển, thân hình co rút là di chứng của viêm não, đã được cơ quan “Terre des Hommes (The leading Swiss child relief agency)” của Thụy Sĩ, vào thẳng Nhà Tù đón cháu sang Thụy Sĩ để chữa trị, mời quý độc giả đọc đoản văn “Một chuyến đi” kể về việc người Mẹ sang thăm con tại Thụy Sĩ của chị Ngọc Ánh phía dưới cùng.

Anh Trần Thắng Tài đã bị cộng sản tử hình ngày 14 tháng 6 năm 1982 tại Phan Thiết – Việt Nam.

Trang 75 có hình ngôi mộ Anh Trần Thắng Tài.

Trang 94 có hình Chị Ngọc Ánh và cháu Vy Dân chụp tại Thụy Sĩ.

Toà soạn cũng vừa nhận được cuốn Hồi Ký này tái bản lần thứ tư, nhưng vẫn còn nhiều lỗi “hỏi ngã” vì đồng cảm và mến phục gương can đảm của chị Ngọc Ánh nên toà soạn đã tự động sửa các lỗi này để lần tái bản thứ 5, tác phẩm được hoàn chỉnh hơn.

Cuối cuốn hồi ký có ghi một số nhận xét và cảm nghĩ của các thân hữu Nhà Văn, Nhà Báo đã đọc “
NGÀY THÁNG BUỒN HIU”.

Muốn nhận cuốn Hồi Ký này, liên lạc với Tạp Chí Dân Văn qua Email: lytrungtin.de@gmail.com
.



Lời giới thiệu: Ngay từ đầu trang tác giả đã xác định mình, cô là con gái trong một “gia đình cách mạng” qua hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ như nhiều gia đình khác tại Miền Nam. Sau biến cố 75, tác giả lúc ấy còn rất trẻ chưa qua tuổi hai mươi, nhưng thảm trạng xã hội thời bấy giờ đã khiến cô không thể khoanh tay ngồi yên nhìn đồng bào Miền Nam mình phải chịu bao điều bất công áp bức khốn khổ trong chế độ cộng sản, đồng thời cô phải sống trong một gia đình cách mạng. Đáng lẽ ra cô chấp nhận cái lý lịch trong sạch có nhiều ưu thế để tiến thân như bao người trẻ khác mưu cầu cho lợi ích cá nhân, thì cô lại thấy mình bị đè nặng bởi sự xung đột về ý thức hệ, mặt trái của Xã Hội Chủ Nghĩa qua lối hành xử và quan điểm chính trị khác với những sự thật mà cô đã thấy trong cuộc sống hàng ngày. Từ đó tính phản kháng bộc phát khiến cô và gia đình có những khoảng cách không thể hàn gắn được khi cô tự nhận mình bơi “ngược dòng” trong dòng thác cách mạng đang tuôn trào và sẽ nhuộm đỏ tuổi trẻ của cô và bạn bè cô.

Với tinh thần quốc gia vững chắc, lòng bất khuất trước bạo lực, và nhất là sự can đảm dấn thân cho lý tưởng tự do, cô đã đánh đổi tuổi thanh xuân trong lao tù cộng sản với mức án khắc nghiệt nhất trong thời điểm đó, chỉ để đấu tranh giành Tự Do cho đất nước sớm thoát khỏi ách độc tài áp bức mà cộng sản đã và đang gieo rắc bao tang thương cho dân tộc chúng ta.

Tác giả đã ghi lại một cách trung thực những diễn biến trong bối cảnh xã hội sau ngày Miền Nam bị cưỡng chiếm trong cuốn “Nhật Ký Mực Tím” và nỗi đoạn trường của người phụ nữ trẻ trải qua trong những năm tháng lao tù đầy gian nan khốn khổ đã cho thấy lòng kiên cường và ý chí mạnh mẽ của cô học trò năm xưa dám xả thân vì đại cuộc, khiến chúng ta càng thêm cảm phục và tự hào khi tin tưởng rằng chế độ cộng sản chắc chắn sẽ bị tiêu diệt và Đất nước Việt Nam sẽ có ngày vươn lên hùng mạnh.

Cuốn nhật ký “
Ngày Tháng Buồn Hiu” của tác giả sẽ không còn buồn hiu khi được mọi người đọc và chia sẻ đến trang cuối cùng như một thông điệp nhắc chúng ta nhớ rằng “Chính nghĩa luôn thắng bạo tàn”.

Trần Cảnh Xuân
(Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Hoàng Diệu – Ba Xuyên)




– “
Ngày Tháng Buồn Hiu” là hoàn cảnh buồn đến thương tâm của một gia đình: nữ tù Ngọc Ánh, tử tù Trần Thắng Tài và cháu bé Vy Dân tội nghiệp.

Trần Thắng Tài là một người lính Việt Nam Cộng Hòa, anh đã không chấp nhận bại trận, sau 30/4/75 cùng đồng đội ở lại quê hương quyết tâm chống bạo quyền cộng sản. Mưu sự không thành và anh đã hy sinh cho chính nghĩa Tự Do.

Trần Ngọc Ánh anh dũng không kém chồng, chấp nhận một bản án dài hạn đầy khắc nghiệt với đứa con thơ vừa hơn một tuổi, người mẹ đau khổ đã vượt bao thử thách, thiếu thốn trong trại tù, mong bảo vệ sự sống của con nhưng rồi cũng hiu hắt nhìn mầm sống của mình héo úa dần.

Vy Dân bất hạnh không thể phát triển thành người bình thường, hậu quả của một chánh sách vô nhân trong chế độ ngục tù CS. Có người cha anh hùng vị quốc vong thân, có người mẹ vì chánh nghĩa mà bị vướng cảnh tù đày, cháu Vy Dân có thể được xem như là một thành viên của Quốc Gia Nghĩa Tử.

Nhân kỳ Đại Hội Quốc Gia Nghĩa Tử 2017 với chủ đề Mẹ, tôi xin trân trọng giới thiệu thiên hồi ký “Ngày Tháng Buồn Hiu” của Ngọc Ánh.

Nguyễn Văn Thơm
(thầy giáo trường QGNT từ 1963–1973)
















2. Ngược Dòng


Ba tôi là một người cộng sản, ông đã tham gia cách mạng suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp chống Mỹ, các chị em tôi lớn lên ở Sài Gòn, nằm trong lòng “địch” nhưng cả nhà đều là những chiến sĩ xung kích trên khắp các mặt trận ở miền Nam cho đến ngày “giải phóng”. Má thì nuôi dấu cán bộ Việt cộng, các chị em thì làm giao liên... Sau 30/4/75, ba và chị tôi được đón về từ nhà tù Côn Đảo như những người vinh quang nhất trong ngày vui đại thắng, gia đình tôi là một địa chỉ đỏ của thành phố với nhiều huân chương kháng chiến chống Mỹ được treo đầy tường. Còn tôi, tôi đã vào tù với cái tội “chống kháng–chiến–chống–Mỹ”, sự đời có những điều trớ trêu và đau lòng trong cảnh nồi da xáo thịt! Câu chuyện kể ra thì dài, nhưng đại để như lời khai trong tờ lý lịch của ba tôi “... Do thời buổi chiến tranh gia đình ly tán, ba tôi gởi tôi cho cô em nuôi ăn học, nay đất nước hoà bình, ba tôi mang tôi về xum họp...”

Nếu chiếc lá chỉ rụng về cội thì có lẽ không có gì để nói, nhưng đằng này tôi lại không giống như những đứa con trung hiếu của ông, mà lại giống ngụy (bởi lẽ gia đình cô tôi trước kia là sĩ quan trong chế độ cũ) như lời phê bình của chị tôi – một cán bộ tuyên truyền:

“Con Ánh nó quen thói tiểu tư sản, tại Cô Sáu cưng chiều nó quá nên tính nết nó ngoan cố bướng bỉnh như vậy.”

Và Ba tôi cũng nhận xét trong một buổi họp gia đình: “Tư tưởng còn lệch lạc, nặng về chủ nghĩa cá nhân, bản thân cần phải tích cực rèn luyện để phấn đấu tiến bộ, v.v. và v.v.”

Có lẽ chính vì vậy mà ba tôi đã cố gắng để cải tạo đứa con ngược dòng của mình bằng hình thức kiểm điểm, bất cứ một hành động gì sai trái ở gia đình hay trong cơ quan, nghe phản ảnh lại là ba tôi bắt làm tờ kiểm điểm, kể cả những lúc vô tình hát vu vơ một khúc “nhạc vàng”... Nên suốt thời gian đầu về đoàn tụ gia đình tôi không thấy có một ngày vui, chắc cũng không khác gì những binh lính chế độ cũ bị cưỡng bức trong lao tù cộng sản, ăn cơm bo bo và bị viết miệt mài để nộp cho ba tôi những bản kiểm điểm dài ngoằng, như luận văn để được tốt nghiệp vào trường “Cách Mạng”, dĩ nhiên mỗi lần như thế là tôi đã khổ sở đến độ nào!

Chỉ vài tháng công tác xã hội, sinh hoạt tập thể vớ vẩn, tôi đã được chọn để kết nạp vào Đoàn Thanh Niên Cộng sản Hồ Chí Minh, điều này lại khiến tôi phản ứng dữ dội, chi đoàn méc về ba tôi và ông đã nổi giận thực sự, ông hét lên: “Con có biết tại sao con được vào Đoàn không? Nhờ ba – nhờ lý lịch cách mạng của gia đình mình, con có biết mọi người vẫn mơ uớc được đứng vào hàng ngũ vẻ vang này không, có những anh bộ đội đi suốt từ Bắc vào Nam để chiến đấu, đã đổ biết bao xương máu mà vẫn chưa được kết nạp, còn con, tại sao con không thấy được cái vinh quang đó?”

Lúc ấy tôi đã cố bình tĩnh để nói với ba một câu khẳng khái:

– “Thưa ba, chính vì con chưa đổ một giọt mồ hôi nào cho chế độ này, nên con không muốn trở thành người cộng sản!”

Không khí gia đình như nặng nề hơn kể từ khi có tôi hiện diện. Cái khoảng cách mơ hồ nào đó giữa tôi và những người thân ngày thêm rộng dần ra, tôi càng chán nản hơn khi nhìn vào thực trạng xã hội của những năm đầu mới giải phóng, thành phố đầy những người thất nghiệp, hàng hoá khan hiếm, vật giá đắt đỏ, cuộc sống của từng gia đình bị đảo lộn bi thảm, tâm lý người dân luôn hoang mang giao động, có những sự mất mát không thể nào bù đắp được.

Tôi nhớ đoạn nhật ký của cô em mới 13 tuổi lúc ấy:

“Bây giờ đến lớp buồn quá, bạn bè đứa nào cũng đòi bỏ học vì nhà nó nghèo, ba nó đi cải tạo, mẹ nó tần tảo không đủ ăn, mỗi lần vào lớp cô giáo hỏi ai là gia đình cách mạng, chỉ có mình rụt rè đưa tay lên giữa bao ánh mắt nhìn, tự dưng mình thấy kỳ kỳ, đâu phải tại mình mà ba nó đi cải tạo đâu, tại giải phóng chớ bộ...”

Không riêng con bé thấy kỳ kỳ mà cả tôi, cả bạn bè tôi nữa, chúng nó vài đứa cũng có hoàn cảnh giống như tôi: Ba đi tập kết trở về, gia đình đoàn tụ, tờ khai lý lịch được mở ra trang mới đầy sáng sủa, đi thi – được cộng thêm điểm, đi làm – chỉ cần gởi gắm các đồng chí là yên tâm ngay, mọi việc trong nhà ngoài phố đều êm xuôi thuận lợi... Và cũng không ít những đứa khác lận đận đủ điều bởi cái tội có người thân là ngụy. Tờ lý lịch trích ngang như bản cáo trạng giáng xuống hàng triệu con người những mức án khác nhau tùy theo mức độ tội lỗi của cha, của chồng, của con em đã từng tham gia trong bộ máy ngụy quân ngụy quyền cũ.

Bạn bè họ hàng đang thân thiết với nhau, tự dưng cái rào cản lý lịch làm cho mặc cảm mâu thuẫn, thành kiến thế này thế khác, anh em bà con khác chiến tuyến, bất đồng quan điểm chính trị cũng lạnh lùng lướt qua nhau vì sợ dính líu phiền phức, chưa kể những người ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, lén lút cơm áo gạo tiền để gởi vô bưng tiếp tế cho cách mạng, khi xong chuyện, cách mạng đánh tư sản te tua sập tiệm, đang giàu có bỗng chốc thành kẻ khốn cùng, không một bàn tay nào dám đưa ra giúp đỡ sợ bị vạ lây.

Chủ nghĩa lý lịch nó khốn nạn thế đó!

Tôi lại nghĩ đến câu chuyện An Tiêm và những quả dưa đỏ (sự tích của thời còn nhỏ nghe Bà kể chuyện đời xưa) và bâng khuâng tự hỏi tại sao mình không thể có những vụ mùa bội thu mà không cần phép lạ, để chủ nghĩa lý lịch không còn cơ hội tồn tại, không là điều kiện tất yếu để quyết định công hầu khanh tướng cho bọn đương thời? Thực tế của cái thiên đường Xã hội chủ nghĩa đã làm tôi điên tiết chán chường, trong nỗi thất vọng phẫn nộ tôi không biết đặt niềm tin vào ai bây giờ ngoài cách viết nó ra cho đỡ ấm ức, thế là những trang “Nhật Ký Mực Tím” hình thành trong lao tù cách mạng, cái nhà tù lớn nhất của cả miền Nam từ sau tháng Tư đáng nguyền rủa ấy. Trong đôi mắt của một cô học trò tỉnh nhỏ như tôi lúc bấy giờ hoàn toàn không có một thế lực thù địch nào đứng sau lưng để xúi giục manh động, tôi viết ra tất cả những gì mà tôi biết, tôi thấy khi sống trong chế độ giả trá có quá nhiều bất công và nghèo khổ này, sự cảm nhận có thể chủ quan nhưng không có nghĩa là không trung thực, khi vẽ nên bức tranh xám xịt phô bày thực trạng tệ hại của xã hội mà tôi đang từng ngày đối đầu với nó. Tôi đã viết trong nỗi xót xa bất lực của chính mình.

Cuốn nhật ký được chuyển ra Mỹ năm 1979 và được in làm nhiều kỳ trong tạp chí “Việt Nam Hải Ngoại” tại San Diego, California cùng năm.

Cuối cùng thì tôi thoát ly cái gia đình cách mạng của mình để trở thành vợ tên phản động. Mọi việc xảy ra đều có nguyên nhân của nó. Thật ra tôi cũng chẳng có tham vọng gì về chính trị, chỉ muốn sự công bằng và bình đẳng, đòi hỏi niềm hạnh phúc ấm no thực sự đến với mọi người. Ngay từ đầu, cái lý tưởng cộng sản của Ba tôi đã làm tôi thất vọng, thực chất nó chỉ là những giáo điều rỗng tuếch gian dối, cộng sản đã lạm dụng cái từ lý tưởng để bơm căng bầu nhiệt huyết của chúng tôi khi họ nói “vận mệnh đất nước đang nằm trong tay các bạn trẻ hôm nay...” nhưng đằng sau đó là Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý và nhân dân làm chủ.

Ôi! Những ông chủ tội nghiệp! Họ đang bị phá sản vì một xã hội tồi tệ với những khó khăn nghèo đói hàng ngày.

Sự lừa bịp trắng trợn đã làm tôi chán ngấy, và tôi nghĩ đó là mục đích để tôi quyết định dấn thân khi cùng chồng “Âm mưu lật đổ chính quyền cộng sản”. Tổ chức của chúng tôi bị tan vỡ khi mọi việc chỉ mới bắt đầu và hai vợ chồng đều bị bắt...

Giai đoạn còn khai cung, tôi gặp một ông cán bộ già đã giảng cho tôi nghe bài học về luân lý khi ông ví tôi như công chúa Mỵ Châu, đã đem nỏ thần trao cho giặc, để nước phải mất, nhà phải tan, ngồi sau lưng An Dương Vương, bị Thần Kim Quy chỉ vào mặt “giặc ngồi sau lưng mi chứ giặc ở đâu.”

Nghịch cảnh nồi da xáo thịt quả là điều đau xót!

Ngay sau khi tôi bị bắt, Ba tôi đã nghiêm khắc từ con. Tôi không trách thái độ cứng rắn của ông bởi vì ông đã hành động đúng với tư cách một người cộng sản “Trung với Đảng, Hiếu với Dân, và chuyên chính với kẻ thù.”

Mặc dù tôi biết Ba tôi cũng rất thương tôi, ông có cái lý của ông và tôi thì không thể chọn con đường nào khác...

Tôi muốn có những quả dưa đỏ như An Tiêm!

Những năm tháng ở trong tù, tôi nghĩ nhiều về những câu chuyện đáng buồn đã qua, thấm thía nỗi đau của sự mất mát, chồng tôi bị tử hình và Ba tôi cũng qua đời sau cơn bệnh nặng. Người chết là hết, chẳng còn oán thù hay giận dữ...

Rồi trong một cõi vô hình nào đó, Ba tôi và anh ấy sẽ gặp nhau, hai người sẽ nói với nhau điều gì về tôi, liệu ba có nói được câu “Ba rất tiếc!” như một nhân vật trong “Love Story” khi mọi việc đã muộn màng.

Vâng, thưa Ba – con cũng rất tiếc, hãy tha lỗi cho con.
An Tiêm!
















3. Ngày tháng buồn hiu

Định vào nhà nhưng thoáng thấy bóng tên công an đứng đầu hẻm, tôi linh tính có gì đó bất thường, vội rẽ xe hướng khác đạp một mạch ra ngã bảy, quanh quẩn hàng giờ trên đường mà không biết đi đâu, lòng bồn chồn khó chịu khi nghĩ tới Vy Dân ở nhà một mình, chắc thằng bé đang đói sữa, trái tim tôi như nghẹn lại khi nghĩ đến những bất trắc sắp xảy ra, phải về thôi dù biết sẽ bị bắt với mớ tài liệu và cây AK dấu trong bếp, (trời dun đất rủi anh mới mang về tối hôm qua, chúng tôi chưa kịp đem đi). Căn nhà im lặng đến ngột ngạt, giọng Má Sáu khe khẽ “công an kêu nó lên phường có chuyện gì đó không biết”, Má không biết nhưng tôi biết, chấp nhận vào cuộc là đối đầu với rủi ro mà, tôi đưa Vy Dân cho Má và vội chạy lên lầu đốt tài liệu, không nhiều lắm nhưng có khói, đang tháo cuộn phim ra thì nghe tiếng chân chạy rầm rập lên cầu thang, bọn chúng đã tới, tôi đá cuộn phim vào gầm giường. Thế là hết!

Mọi chuyện có vẻ như bắt đầu hơn là kết thúc, không hiểu sao tôi lại nghĩ như vậy.

Căn phòng chật cứng người, công an phường, quận và cả công an ngoài Thuận Hải nữa, sao nhiều vậy ta? Tôi nháy mắt với anh “chỉ hai đứa mình thôi nhé”. Tài ngồi trên ghế, tay bị trói ra sau, gương mặt anh bình thản lạnh lùng, Vy Dân khóc, tôi bồng thằng bé dỗ ầu ơ, thấy mình kiên nhẫn hết sức, bọn chúng đọc lệnh bắt và tiến hành xét nhà, mọi thứ đều bị xới tung lên, tôi bâng quơ ngó về hướng bếp, tiếng nồi niêu khua leng keng, cái bao nilon bị lôi ra khỏi đống củi, tên công an rít lên giận dữ, nó thúc báng súng vào hông anh hầm hừ “mày nói nhà mày không có súng, thế cái này của ai hả, của ai?”

Sự phẫn nộ trào dâng khi thấy anh bị hành hung, tôi điên tiết hét lên “Của tao đấy”.

Nó quay qua tát tôi một cái đau điếng “Tao không hỏi mày!” (thằng Nghi, tôi nhớ chính xác tên nó khi còn làm trong phường), anh đứng bật dậy như một phản ứng bảo vệ, hai tên khác kéo ghì anh xuống, lúc đó tôi lồng lộn như con thú bị thương “Mày là thằng hèn khi đánh một phụ nữ như tao, cái tát của mày làm tao trở thành anh hùng đấy Nghi à!” Có ai đó lên tiếng can ngăn, và kéo nó ra sân, trong cơn giận sôi gan, tôi nghĩ lúc này mình có thể ăn được thịt người!

12 giờ đêm, mọi chuyện khám xét tạm xong, tôi quơ vội hộp sữa và mấy gói bột gạo lứt cho Vy Dân, vài bộ đồ cho anh... Giã từ căn phòng nhỏ chứa đầy kỷ niệm một thời của chúng tôi, giã từ Tình Yêu–Hạnh Phúc và cả Lý Tưởng ngập tràn, tôi tự hào đứng cạnh anh với mớ ngổn ngang “tang vật” để chụp một tấm hình duy nhất đầu tiên và cũng là cuối cùng, tôi gác tay trên vai anh, mắt nhìn thẳng mặt bọn công an thách thức, dù lòng tôi đau nhói khi biết mãi mãi chúng tôi không còn cơ hội nào khác để sống bên nhau.

Cả nhà lên xe về phòng tạm giam ở quận 10. Con đường Trần Quốc Toản trong ánh đèn vàng vọt hiu hắt lúc nửa đêm sao mà hoang vắng quá! Xe quẹo qua một khúc quanh và tôi nhận ra quán cà phê quen thuộc mà hai đứa đã từng đến đó sau khi nắm tay nhau đi lang thang khắp phố Sài Gòn. Ôi chút kỷ niệm ngọt ngào trong giờ phút bi thảm này!

Chấp nhận cuộc chơi mà, chuyện thua thắng cũng bình thường thôi, ít ra trong chuyến xe cuối cùng này mình cũng còn có nhau, “chúng ta đã đi, đã thấy và đã thắng (dù chết)” chỉ thương cho thằng bé, nó bị vạ lây vướng vào ngục tù theo ba mẹ vì không có sự chọn lựa nào khác, nó còn quá bé nhỏ để cảm nhận biến cố đau buồn này của gia đình, sợi dây dù quái ác xiết chặt tay anh ra sau, tôi đặt đầu Vy Dân ngã vào đùi anh, thằng bé ngủ say trong hơi ấm của ba mẹ, chiếc xe lao đi trong đêm khuya như mũi tên được bắn về phía trước... Cả ba chúng tôi đong đưa trong số phận kẻ lưu đày.

Ngày... tháng...

Cái phòng biệt giam nhỏ như cái nhà xí tanh tưởi bao đời, tôi may mắn (!?) có con nhỏ nên không bị cùm chân, cái cùm số bốn là nỗi kinh khiếp của tù biệt giam ở đây, nó chỉ dài 40cm khoảng cách đủ cho cả hai tay hai chân trong tư thế ngồi bó gối kẹt cứng suốt ngày đêm, hình như anh ở dãy cuối cùng trong khu nhà này, có lần tôi thoáng thấy bóng anh đi khai cung ngang qua, cái dáng cao gầy liêu xiêu khiến lòng tôi đau nhói, tôi đu lên ô cửa nhỏ bằng nắm tay và cố hét lên thật to để anh nghe tiếng, để anh yên tâm rằng tôi luôn ở bên cạnh anh trong lúc khốn khó này.

Phẫn uất khiến đôi lúc tôi giống như mụ điên, la hét khóc cười bất thường, lấy cớ ru con ngủ tôi tha hồ hát um sùm trong khu trại, “Việt nam quê hương ngạo nghễ, Dậy mà đi, Việt Nam Việt Nam...” những bản nhạc thật thấm thía xúc động trong trái tim tôi, khiến tôi như phấn khích hơn, lạ lùng là tôi không cảm thấy sợ hãi trong hoàn cảnh đáng sợ hôm nay. Ờ, mà có gì phải sợ chớ, đằng nào cũng vô tù rồi. Mắc cười nhất là khi đi chụp hình lăn tay để lưu hồ sơ, tôi bới lại mái tóc dài của mình và cố giữ vẻ bình thản trước ống kính pháp luật, nhưng khi thấy gương mặt căng thẳng của tên công an, tự dưng tôi phì cười khiến hắn khó chịu quát lên “Chị là tội phạm, chị không được quyền cười!”

À thì ra người ta sợ cả nụ cười của tên “phản động” như tôi, nhưng khổ nỗi nụ cười tắt ngấm nửa chừng đó khiến tôi trông tươi tỉnh hơn, tôi nghĩ chắc tấm ảnh để đời này không đến nỗi thảm hại.

Cộng sản kết tội chúng tôi là Âm mưu lật đổ chính quyền, anh cầm đầu một tổ chức phản động do hải ngoại yểm trợ tài vật, anh viết cương lĩnh, truyền đơn chống phá Nhà Nước, thành lập căn cứ trong rừng tụ tập tàn quân có võ trang, mưu đồ kháng chiến.

Tất cả việc làm của anh tôi đều biết rất rõ, nhưng bảo khai báo thành khẩn để được nhà nước khoan hồng thì tôi không biết gì để khai. Nghe có vẻ ngoan cố nhưng phải chịu thôi, gần như lần nào cũng bị mấy tên cán bộ đập bàn giận dữ đuổi về trại, tôi không hiểu là họ kiên nhẫn đối với một nữ tù nhân chính trị bướng bỉnh như tôi để mong có được những lời khai giá trị, hay là họ đánh giá thấp vị trí tôi trong ban tổ chức, họ gọi tôi là kẻ chỉ theo đóm ăn tàn, ngu xuẩn dại dột, họ miệt thị gọi tôi như ả giang hồ để mong khơi gợi tự ái trong tôi mà có lời khai báo trung thực. Có lần một tên công an còn rất trẻ sau khi lật tới lật lui tờ khai ngắn ngủn của tôi, hắn trầm ngâm và buột miệng “Tôi không hiểu sao một người vừa trẻ, vừa đẹp (!) vừa thông minh như chị lại lấy thằng cha vừa già vừa cận thị như tên Tài? Hay là chị mơ được làm bà Tổng Thống?” Quái! Việc này đâu có mắc mớ gì với nhau, tôi thấy hắn ngớ ngẩn cách gì, tôi nhìn thẳng vào mặt hắn cười khẩy “Bởi vậy bây giờ tôi mới ngồi ở đây để nghe ông kết tội vợ tên phản động”.

Lần khác có ông cán bộ già trạc tuổi ba tôi, ông coi qua lý lịch gia đình cách mạng của tôi mà đay nghiến “Tôi tiếc cho chị quá, mồ cha không khóc mà đi khóc đống gò mối, chị giống như Công Chúa Mỵ Châu đem nỏ thần cho giặc, để nước mất nhà tan, giết một người đã bị tội tử hình rồi, còn bọn chị âm mưu giết cả chế độ, nên có bắn cả trăm lần cũng không đủ”.

Từ dụ dỗ ngọt ngào đến quát tháo giận dữ, họ vẫn không moi được lời khai quan trọng nào ở tôi, họ gọi tôi là ả phạm nhân ngoan cố nhất trại. Có một tôi thôi mà sao nhiều ví von thế. Thật tình tôi không nghĩ là mình có lắm tội đến như vậy, chán ghét Xã hội chủ nghĩa, chống đối Đảng Cộng sản cai trị độc tài, đàn áp dã man quân dân miền Nam trong cái gọi là tù cải tạo, đẩy cuộc sống đồng bào, ép gia đình “ngụy quân ngụy quyền” vào chỗ đói khổ cùng cực khi đưa lên vùng Kinh Tế Mới rừng thiêng nước độc. Đấu tranh cho Tự do, công bằng, như vậy là có tội ư? Nghĩ cũng buồn cười những đao to búa lớn mà họ đã và đang gán lên số phận của chúng tôi, “Những kẻ ngu xuẩn mưu toan bẻ gậy chống trời, theo sự kích động của bọn lưu vong phản quốc muốn lật đổ chánh quyền cách mạng, v.v.”.

Ngày... tháng...

Trong thời điểm năm 1979 chiến tranh biên giới Tây Nam bùng nổ thì tình hình giặc ngoài thù trong như vụ án của chúng tôi được gọi là trọng án. Họ nghĩ chắc còn nhiều tổ chức phản động khác đã cấu kết với nhau để âm mưu lật đổ cách mạng, khi mà lòng dân bên ngoài ngày càng oán ghét bất mãn chế độ, cuộc sống khốn khổ với gạo phát từng cân, vải mua từng mét theo tem phiếu XHCN, đường sữa là nhu yếu phẩm, thịt cá thì thuộc tiêu chuẩn cấp cao... Dân tình chịu không thấu phải kéo nhau bỏ nước ra đi bất chấp nguy hiểm, rủi ro trên đường tìm Tự Do, hàng trăm hàng ngàn người vượt biên, lớp trôi trên sông, lớp chìm dưới biển, lớp sống sót vật vờ tang thương bị cộng sản bắt vô tù, hay qua được trại tị nạn thì cũng bầm dập với hải tặc... Vì ai nên nỗi? Oán hận này biết bao nhiêu mà kể. Là thành phố vùng biển nên trại lúc nào cũng nghẹt người, cứ nghe tiếng cửa sắt kéo rít lúc nửa đêm là hoang mang lo lắng, có thể đem người chuyển trại hoặc vừa bắt được một nhóm nào đó vượt biên, khi thì vài người, có lúc nguyên ghe gần trăm mạng, dưới ánh đèn vàng vọt của trại giam, bóng họ bước dật dờ như những bóng ma từ cõi chết hiện ra giữa tiếng trẻ con kêu khóc lao xao trong đêm tối tăm địa ngục.

Thời gian biệt giam của tôi quả là kinh khủng với thằng bé mới hơn một tuổi như Vy Dân, hết bột hết sữa, nó được “tiêu chuẩn cao” là cháo gạo loãng pha nước muối trong khi cơm tù chúng tôi là mấy lát khoai mì khô mốc với canh rau muống lõng bõng. Tắm rửa giặt giũ đều bị hạn chế tối đa. Khi đi vội vàng nên hai mẹ con chỉ mang vài bộ đồ, thằng bé quấn mỗi cái khăn lông nên lúc nào cũng ẩm ướt khai ngấy... Không người thăm nuôi, mọi thứ trở nên thiếu thốn đến cùng cực, những nhu cầu cá nhân như xà bông, kem đánh răng, thậm chí miếng băng vệ sinh cũng trở nên xa xỉ... có lẽ Vy Dân là tù nhân trẻ con duy nhất trong phòng biệt giam lạnh lẽo mùi tử khí này, hình như mọi người cũng biết có nó nên thỉnh thoảng ai đó đã lén nhét vào khe cửa mấy tán đường, nhúm thịt chà bông hay vài trái chanh giả bộ làm rớt ngoài giếng.

Ngày... tháng...

Sáng mở cửa ra kêu đi khai cung, tên cán bộ ngạc nhiên khi thấy tôi quấn khăn trắng trên đầu “Chị để tang ai thế, chồng chị chưa chết mà”. Tôi nhát gừng “Tang cho 30/4”. Hắn chợt lồng lên giận dữ “Chị đừng có bố láo nhé, đất nước giải phóng độc lập tự do hạnh phúc thế này mà tang chế gì” “Người ta chết như rạ trong ngày này mà không để tang à, nếu không có mấy ông vào đây thì làm sao nên nỗi”. Tôi bỗng nổi điên khi nghĩ đến điều này, tôi nhớ cái nghiến răng của anh chàng nào đó đứng cạnh tôi trên đường Nguyễn Tri Phương khi nhìn thấy mấy tên đeo băng đỏ kéo cờ vàng xuống và xé rách ném vào thùng rác trong buổi trưa cuối tháng 4/75 cay nghiệt đó, tôi nhớ đoàn người lầm lũi dưới mưa để đi khai hoang vùng đất heo hút đầy muỗi mòng đỉa vắt và những cơn sốt rét chết người. Toàn là phụ nữ trẻ con và người già yếu bị cưỡng bức lên vùng kinh tế mới, lớp cha anh trai tráng thì vào tù cải tạo hết rồi còn đâu, bạn bè người thân hàng xóm lén lút vượt biên, ngày nào cũng có ghe đi và tháng nào cũng nghe tin buồn mất mát. Người ta sợ sống chung với cộng sản còn hơn sợ cái chết ngoài biển khơi, một thứ sa tăng quỷ dữ hiện hình trong thời kỳ mạt vận của đất nước... Càng nghĩ càng căm gan, có lẽ hắn nhìn thấy ánh mắt trừng trừng đầy phẫn nộ của tôi trong ngày Quốc hận, biết chẳng hỏi cung được gì nên hắn vẫy tay cho tôi về lại phòng giam.

Ngày... tháng...

Trong tù vẫn có những tay gọi là “ăng ten” được tụi công an gài vào phòng giam để lân la làm quen thân tình với một số tù nhân chính trị và tìm cách hỏi dò thêm tin tức vụ án, hầu mong có dịp lập công về sớm. Tôi cũng không ngoại lệ trong trường hợp này, có cô nàng nào đó chắc cũng trạc tuổi tôi bị tống vào biệt giam 2 tuần, cô ta nhanh chóng gây cảm tình khi khai ra ở cùng quê với tôi, nay bị bắt về tội vượt biên... Lúc đầu tôi ngờ ngợ về sự trùng hợp ngẫu nhiên này, quê tôi xa lắc sao mà cô ta biết được, nhưng khi ra giếng giặt đồ, có anh chàng nào đó giả bộ làm bay cái nón sát hàng rào chỗ tôi ngồi, anh chạy lại nói nhỏ “chị đừng tin ai nhe, con nhỏ gài vô theo dõi chị đó” xong anh ta lủi mất. Thú thật là tôi bất ngờ khi biết tin này, có lẽ tôi chưa có “kinh nghiệm” trong tù. Ghê thật! Bọn chúng không chừa bất cứ thủ đoạn đê hèn nào để mong đạt được mục đích.

Ngày... tháng...

Cuộc điều tra kéo dài hơn hai năm, tôi thật sự mệt mỏi khi vài tháng phải di lý chỗ này chỗ kia để lấy lời khai, nhiều lúc nửa đêm nghe tiếng xích khóa leng keng ngoài hành lang khiến tôi rùng mình sợ hãi vu vơ, người đàn bà còn quá trẻ trong nơi tăm tối này thật đáng ngại, mấy “bạn tù” có vẻ tử tế hơn, họ dặn dò tôi những ám hiệu liên lạc khi cần thiết, dĩ nhiên là không ai thấy mặt ai bao giờ, tôi tả cho họ nghe hình ảnh của anh Tài, nên mỗi khi anh đi khai cung ngang qua, họ đều báo cho biết, và lần nào tôi cũng rống to bài “Việt Nam Quê Hương ngạo nghễ” chắc chắn anh ấy sẽ biết mẹ con tôi đang ở đây, chắc chắn anh hiểu tánh khí kiên cường của tôi trong cuộc chơi này, chúng tôi sẽ không đầu hàng, không khai ra những người liên quan, họ biết tới đâu thì khai tới đó, mặc dù họ dùng nhiều cách để ly gián chúng tôi bằng những đòn tâm lý hèn hạ “Anh Tài đã thành thật khai báo hết rồi, anh ta chỉ lợi dụng chị thôi, anh ta xem chị như một gái điếm khi cần thiết...” Tôi lạnh lùng trả treo “vậy thì mấy ông thả ngay con điếm này đi, nó đâu có dính vào tổ chức phản động đâu?”

Trước lúc bị bắt vài tháng họ cũng đã nghi ngờ theo dõi chúng tôi, cũng giả bộ xét hộ khẩu và bắt tôi về phường về tội không có giấy tạm trú, sống như vợ chồng với anh mà không có đăng ký kết hôn, v.v. Nhốt hai ngày điều tra không thấy gì mới thả ra với biên bản ghi tội danh “quan hệ bất chánh” như một gái mãi dâm. Ra về tôi vừa tức vừa xấu hổ khi bị họ gọi như vậy, may mà lúc đó anh vắng nhà, Vy Dân thì đang ở nhà cô Ly em họ của anh ấy. Bị nhốt hai ngày bầu sữa căng cứng đau nhức mà tôi không dám nhận là mình mới sanh con được mấy tháng, sợ bị hỏi cung rắc rối thêm. Nếu mang tiếng là một con điếm mà làm cho mọi việc của anh thuận tiện hơn thì tôi cũng chấp nhận. Nhưng không, họ vẫn cho tôi là cánh tay đắc lực của tổ chức “Lực lượng Việt Nam Tự do”. Có câu hỏi được lập lại hàng trăm lần “Sau lưng chị là ai?”

Trời ạ, các người không biết ai sao? Sau lưng tôi là con trai tôi nè, nó cũng bị bắt vô biệt giam, cũng chịu chung cảnh tù đày. Ôi! Tội nghiệp Vy Dân quá, thằng bé èo uột với rau cháo qua ngày, suy dinh dưỡng khiến cơ thể nó tong teo. Ngủ trên nền ciment ẩm thấp lạnh lẽo sợ con bệnh nên tôi luôn ôm nó trên ngực, điều kiện tắm rửa hạn chế khiến thằng bé mình nổi đầy ghẻ nhọt. “Phi ghẻ bất thành tù” câu nói mỉa mai này lại đúng với nó, những cơn sốt bất thường đã khiến Vy Dân héo rũ trên tay tôi, đêm khuya tiếng kêu cấp cứu vang vọng trong trại, tên công an cằn nhằn mở cửa ném vài viên hạ sốt.

Ngày... tháng...

Hình như họ bắt được vài người “đồng bọn” của chúng tôi trong Sài Gòn, công an thành phố ra dẫn độ tôi về Tổng Nha cảnh sát cũ để khai cung, trên đường đi họ không ngớt nói về chánh sách nhân đạo của Đảng Nhà Nước khi đưa Vy Dân về bịnh viện Nhi Đồng để chữa bệnh, họ hứa hẹn nếu thành khẩn khai báo tốt thì họ sẽ tha về, tôi ngồi im mệt mỏi nhìn con đường dài phía trước, “Liệu anh có về Sài Gòn cùng em không?”

Chiếc xe hơi màu đen chạy thẳng vào sân bệnh viện, tôi vội vã ôm thằng bé len lỏi vào trong đám đông hy vọng có thể trốn thoát được, nhưng tên công an đã nắm chặt cánh tay tôi đẩy lên cầu thang, giọng hắn rít khẽ “Chị đừng manh động”. Tôi biết lúc này có gào lên cũng không ai dám giúp một tù nhân như tôi, mạng sống của thằng bé quan trọng hơn, tôi nghĩ mình phải thật bình tĩnh, vậy mà khi đặt thằng bé xuống giường, nhìn gương mặt con ngơ ngác hoảng sợ, tôi đã nghẹn ngào khi hôn nó “Đừng sợ, mẹ sẽ trở lại với con”.

Quay lưng đi rồi mà lòng xót xa muốn khóc, có khi nào mẹ con mình mất nhau không? Thương con quá Vy Dân ơi! Hai mẹ con mình đều phải can đảm trong lúc giai đoạn này.

Ngày... tháng...

Linh cảm cho em biết là anh cũng đã có mặt ở đây, nhưng không chắc là họ nhốt chung dãy hành lang này, em nhớ hồi ở trại I, có lần tên cán bộ quên “cảnh giác” mở cửa cho em ra giếng giặt đồ trong lúc anh đi khai cung ngang qua, trời ơi khỏi nói là em mừng cỡ nào, em bồng Vy Dân đưa cao lên cho anh thấy nó, mắt thằng nhỏ sáng lên, em rưng rưng khi thấy anh gầy nhom xanh mét trong cái áo rộng thùng thình, qua làn kiếng cận lấp lánh anh nheo mắt như cười với hai mẹ con, dáng anh lúc nào cũng bình thản ung dung, anh khí phách lắm Tài à, em phải can đảm giống anh mới được, buồn khổ nhưng nhất định không than van khóc lóc... Em nhớ lúc mới bị bắt trong chuyến xe từ nhà đến công an quận, hai đứa mình ngồi cạnh nhau, em bồng con dựa sát vào vai anh, sự im lặng đã nói biết bao điều... Nên khi thấy anh sau cả năm trời biệt giam, em không dằn được sự vui mừng, em nhởn nhơ ngoài giếng để chờ anh khai cung về cho em gặp anh lần nữa, nhưng tên công an đã đuổi em vào phòng, em trở chứng ngang ngược nhất định ôm con ngồi lì xuống bậc thềm “Tôi chờ chồng tôi về, chỉ nhìn thôi mà, sao lại cấm?” hắn quát lên “Ai biết ánh mắt hai người thông cung nhau điều gì?” Trời đất, họ sợ cả cái nhìn của những tên phản động sao? Họ có thể trấn áp ngăn cản mọi hành động chống phá “cách mạng”, nhưng họ không thể ngăn được ý chí trong trái tim chúng ta với lòng mong muốn mãnh liệt là phải giải tán đảng cộng sản xảo trá, phải dẹp bỏ cái CNXH đã làm khổ đồng bào miền Bắc, gây nghèo đói cho dân chúng miền Nam với chiêu bài giải phóng. Dù chết em vẫn không tin cộng sản, đó là điều chắc chắn!

Em đang ở Sài Gòn, chỉ cách một bờ tường thôi là con đường quen thuộc cũ mà mình hay đạp xe ngang, vậy mà bây giờ thấy xa xôi làm sao, lâu rồi không có anh bên cạnh nhưng em còn có Vy Dân an ủi vỗ về, bây giờ em thui thủi một mình trong bốn bức tường mà lòng như lửa đốt, không biết thằng bé ra sao rồi, lạy trời cho nó khỏe mạnh, nó là hòn máu duy nhất của anh để lại cho em, một kỷ vật vô giá mà em phải sống để gìn giữ nó.

Vẫn những buổi khai cung hằn học, những ngọt ngào xảo trá “Chị là gia đình cách mạng, chị sẽ được khoan hồng nếu chị thành khẩn khai báo tốt, chị còn trẻ quá để làm lại cuộc đời, tội lỗi tên Tài đã rõ ràng, hắn sẽ đền tội, chị không cần bao che cho hắn, đây là tờ khai cuối cùng, là cơ hội của chị gặp lại con trai, gia đình đang chờ chị trở về”.

Không đâu anh à, em biết đây là đòn ly gián, họ tách Vy Dân ra khỏi em để làm trái tim em yếu mềm, để em khai ra những gì em biết về tổ chức, vì chỉ có em mới hiểu hết mọi việc anh làm, em không tin vào những lời hứa hẹn bâng quơ của họ, mấy năm sống chung với quỷ em biết quá mà. Còn gia đình ư? Cách đây vài tháng em cũng đã xót xa khi thấy con đau ốm hoài nên mới bấm bụng viết thư gởi về nhà xin Ba lãnh thằng bé ra ngoài chữa bệnh, nhưng có ai trả lời em đâu? Em nhớ khi “thoát ly” quyết chí theo anh “chống kháng chiến chống Mỹ” em đã nhủ lòng như trong Từ Thứ qui Tào “thà mất lòng Cha đặng bụng chồng”. Thôi thì cũng đành lòng thôi Tài ạ! em không có sự chọn lựa nào khác trên con đường đi của chúng ta, ai cũng một lần chết mà, em chẳng ân hận gì khi đánh đổi cuộc đời em để theo đuổi lý tưởng cùng anh và để nói yêu anh, yêu con cho tới hơi thở mỏi mòn.

Ngày... tháng...

Nghe bệnh viện Nhi Đồng báo cáo thằng bé bệnh nặng có thể không qua khỏi vì quá yếu, tụi công an Sài Gòn hối hả chở tôi vào nhận lại Vy Dân và chuyển gấp trả về Bình Thuận. Lần đầu tiên tôi bật khóc khi thấy con, nó nằm ở phòng cô nhi với những đứa trẻ mồ côi khác. Không thấy ai bên cạnh thằng bé. Vy Dân thở từng cơn mệt nhọc, nó không nhận ra tôi trong ánh mắt vô hồn, mặt mũi tèm lem, bọc tã dơ bẩn, tôi điên tiết chỉ vào mặt tên công an hét lên trong giận dữ “Mấy người giết con tôi rồi!” Vài người tò mò đứng xem xầm xì “Bả là tù đó, có công an theo giữ đó”, tôi ôm thằng bé phóng như bay xuống cầu thang, cứ nghĩ đến con sắp chết là lòng tôi như lửa cháy, lúc này không còn gì để sợ, tôi cắm đầu chạy mãi ra cổng, hai tên đứng dưới đường chận tôi lại đẩy vào xe, tôi vùng vẫy gào lên trước đám đông dân chúng tò mò “cộng sản mấy người là những tên giết người”... bọn chúng lầm lì hằn học đóng mạnh cánh cửa lại. Suốt đoạn đường dài tôi chỉ biết khóc và cầu nguyện, nước mắt rơi mãi trên cánh tay khẳng khiu tím bầm vết kim tiêm của thằng bé. Trái tim tôi như tan nát khi nhìn Vy Dân thoi thóp mỏi mòn, lần đầu tiên tôi biết ân hận về việc mình đã làm, đó là đưa Vy Dân vào cảnh khốn cùng này, nhưng tôi không còn lựa chọn nào khác khi phải mang nó vào tù, cô dượng tôi đã già lại nghèo khổ, gia đình ruột thịt của tôi từ bỏ không nhìn, bà con xa gần ai cũng ngán ngại khi dính líu tới tên phản động như chúng tôi, có thương cũng không giúp được gì vì ai cũng thiếu thốn trăm bề trong cuộc sống chật vật. Hơn hai năm nay nó đã cố gắng hết sức để cùng tôi chịu đựng vòng lao lý khắc nghiệt này. Mẹ xin lỗi con Vy Dân à, mẹ thật sự không biết phải làm sao trong lúc này, mẹ không thể đầu hàng bọn họ, chiến đấu là phải kiên cường, dù thất bại cũng không được hèn nhát. Hãy cố lên con dế mèn bé nhỏ của Mẹ, từ bây giờ mẹ hứa sẽ không rời xa con một bước.

Ngày... tháng...

Có lẽ họ cũng mệt mỏi khi vụ án kéo dài mà không tìm ra manh mối nào khác. Gần ba năm co cụm trong phòng biệt giam mù mịt, họ kết cung và cho tôi được ra nhà tập thể để chờ ngày đi tòa. Căn phòng không rộng lắm cho mấy chục tù nhân nữ nằm ngồi chen chúc như cá mòi, nhưng so ra vẫn đỡ hơn là biệt giam tanh nồng tử khí mà mỗi lần nghĩ tới đã rùng mình. Vì đây là trại tạm giam nên người ra kẻ vào cũng nhiều, thôi thì đủ thứ tội, nhưng đông nhất vẫn là vượt biên, vùng biển mà, cứ đêm nghe cửa sắt kéo rít là biết có thêm tù, tiếng người la khóc lao nhao, nguyên chiếc ghe chết máy ngay hải phận, lênh đênh đói khát mấy ngày thì gặp tụi biên phòng kéo vô giao cho trại, may là không có ai bỏ mạng ngoài biển, rủi là bị tù, người đi theo là đàn bà con nít nhẹ nhất cũng vài tuần, mấy người chủ ghe tổ chức thì tùy mức độ mà lãnh vài năm cải tạo hay bị ra tòa mút chỉ.

Thê thãm nhất là có chuyến tàu lớn chở cả trăm người, lớp bị giông bão mất phương hướng, lớp bị hải tặc cướp bóc mấy đợt tan hoang, gặp tàu Đông Đức chưa kịp mừng vì tưởng họ cứu, ai dè họ kéo tàu trả về Việt Nam, đoàn người vô trại thê thảm bơ phờ, ngẩn ngơ như ma ám, mấy em gái bị hải tặc hãm hiếp đêm nào cũng la hét hoảng loạn, làm xót xa thêm thân phận tù đày.

Nếu không có cộng sản vào cưỡng chiếm miền Nam, không có Ngày Quốc Hận 30 tháng 4 thì đâu xảy ra cảnh khổ nạn này. Chế độ khắc nghiệt đã dồn dân chúng đến bước đường cùng! Các em nhỏ qua cơn biến động kinh hoàng này mãi mãi sẽ không thể quên được nỗi đớn đau tủi nhục mà các em đã trải qua trong lần vượt biển tìm tự do. Bắt được người vượt biên là một thành tích tự hào, bọn chúng xỉa xói “Có biết bao người trên thế giới chỉ mong sáng ngủ dậy được trở thành người Việt Nam, còn chúng mày thì lại bỏ nước ra đi theo chân bọn đế quốc để sang đó ăn bơ thừa sữa cặn, làm tay sai cho chúng. Thật nhục nhã!”

Làn sóng vượt biên ngày càng nhiều, hải tặc lộng hành ngoài biển khơi. Có cả những “dịch vụ” lừa đảo của nhà nước cho phép đóng tiền đi vượt biên, nhưng khi xuống ghe thì bị bắt lại vào tù, mất tiền và đôi lúc mất cả mạng khi chúng bắn khơi khơi vào đám đông trên đường tháo chạy. Thật là một lũ ác độc chưa từng thấy.

Ngày...tháng...

Giống như có phép lạ, Vy Dân sau những cơn sốt mê man đã dần tỉnh lại trong tay tôi, nhờ phòng giam đông người, ai cũng xót thằng bé èo uột mà chia sẻ chút thức ăn thăm nuôi nên con có vẻ đỡ hơn, 3 tuổi rồi mà nó chỉ mới biết lật, chưa biết nói, cái đầu to mà tay chân tong teo, lưỡi như líu lại, ai đó đã nói với tôi là thằng bé suy dinh dưỡng nên chậm phát triển, thân hình co rút là di chứng của viêm não, nghe mà đau điếng trong lòng, “Trăm ngàn lần xin lỗi con trai, tại Ba Mẹ mà con ra nông nỗi này, con sanh không nhằm thời, đất nước đang gặp đại họa và Ba Mẹ không có sự chọn lựa nào khác, nếu an phận sống đời bình thường thì không đành lòng, nhưng chấp nhận dấn thân thì phải chịu tù đày gian khổ. Nghiệt ngã thay!”

Tôi cố gắng chăm sóc thằng bé tốt hơn trong hoàn cảnh này dù cơn bệnh đã làm nó kiệt sức không thể lớn nổi, nhưng được cái nó vui với hiện tại, cặp mắt sáng và nụ cười hóm hỉnh, thêm cặp kiếng cận nữa là nó giống y chang anh, mỗi ngày tôi nhìn con mà nguôi ngoai nỗi buồn hiu quạnh.

“Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”, dù tạm giam một buổi cũng thấy dài lê thê huống hồ chúng tôi đã sống ở đây ba năm rồi, cơm tù vẫn mấy lát khoai mì cộng vài hột gạo trắng, tôi vét cho Vy Dân mỗi bữa được vài muỗng cơm chấm với nước mắm Phan Thiết. Khi có người ra trại hay ai được gia đình thăm nuôi thì thế nào thằng bé cũng có chút quà. Khi thì chai nước tương nước mắm, lúc hũ thịt chà bông, lọ mắm ruốc, mấy tán đường... Sự chia sẻ trong cảnh khốn cùng này thật đáng quý, tôi lại dành dụm một ít, tìm cách lén gởi qua biệt giam cho anh, biết là không thấm vào đâu nhưng thương anh quá, Tài luôn đáng yêu trong trái tim tôi, anh là người đàn ông bản lãnh và kiên cường mà tôi tự hào khi được đứng bên cạnh anh trong cuộc đời này, dù khoảng thời gian hạnh phúc đó thật ngắn ngủi.

“Mỗi ngày qua đi trong lao tù sẽ đưa chúng ta đến gần nhau hơn, hãy can đảm lên, rồi con chúng ta cũng sẽ giống như vậy!” Hàng chữ anh viết trong cái ca nhựa được anh bạn tù kín đáo chuyển qua nhà nữ trong mỗi lần đưa cơm khiến tôi yên tâm biết rằng anh không bị buồn phiền làm gục ngã ý chí kiên cường.

Ngày... tháng...

Vụ án của chúng tôi đã kết thúc bằng phiên toà tháng 7/1981 với một số người liên can, hầu hết đều còn rất trẻ, ngày ra tòa họ không cho tôi mang thằng bé theo, mặc dù tôi rất muốn Vy Dân có dịp gặp ba nó một lần sau mấy năm xa vắng, nhưng tên nữ công an đã thô bạo giằng thằng bé trên tay tôi mang vào trong trại mặc cho nó khóc thét lên, “Mấy người sợ gì chứ? Sợ đồng bào thấy thằng nhỏ trơ xương trong tù rồi biết chế độ đàn áp kẻ phản động ra sao hả?”

Tôi hậm hực leo lên xe sau cùng, anh em đều nép qua để nhường chỗ cho tôi được ngồi xuống cạnh Tài, lúc này thì không còn gì phải sợ hãi, tôi trừng trừng nhìn mấy tên công an theo gác phiên tòa, số cán bộ còn đông hơn số tù, mọi người đều bị còng chung với nhau bằng thanh sắt dài dưới chân và còng số 8 trên tay, ai cũng lộ vẻ mệt mỏi xanh xao. Tháng bảy trời mưa lâm râm, buổi sáng sao mà âm u thế! Chúng tôi ngồi im lặng bên nhau, lòng rưng rưng xúc động, nhìn mắt anh tôi cảm nhận được điều đó, nhưng gương mặt anh vẫn bình thản muôn đời, tôi nắm bàn tay anh mân mê những ngón thuôn gầy như ngày nào, tự dưng một ý nghĩ thoáng qua khiến tôi hốt hoảng, có khi nào mình mất nhau không? “Anh đã đưa em ra khơi và nhất định không thể để em trở về một mình, Tài đã hứa với em như vậy mà!”

Chuyến xe khựng lại và lúc này anh mới nói với tôi bằng giọng trầm ấm dịu dàng như bao giờ “Hãy can đảm lên, rồi con chúng ta cũng sẽ giống như vậy, cố gắng chăm sóc cho Vy Dân, em còn trẻ nên đừng để phí tuổi trẻ của em, nếu không làm một khán giả vô tư thì cũng nên làm một nhà phê bình sắc bén, anh xin lỗi đã đưa em ra khơi và bây giờ phải bỏ em trở về một mình.” Anh cúi xuống hôn tôi vội vã, nụ hôn mong manh như sương khói mơ hồ, tôi dạ ngoan mà nước mắt trào ra tức tưởi nghẹn ngào.

Mọi người được tháo còng khi bước vào bên trong tòa án. Đó chỉ là một thị trấn nhỏ xa xôi hẻo lánh, dân chúng đâu không thấy để nhìn mặt “những kẻ phản động gây tội lỗi nợ máu với nhân dân”. Chỉ có bọn công an bảo vệ dầy đặc, căn phòng lành lạnh âm u của sự ma quái mà mấy tên thẩm phán giống như tụi quỷ dữ dưới âm tì địa ngục chui lên mặt đằng đằng sát khí trong ánh đèn nhợt nhạt.

Sau khi đọc bản cáo trạng dài ngoằng kết tội chúng tôi, họ gọi tên từng người lên đứng trước vành móng ngựa để nói lời cuối cùng. Tôi lạ lùng như thể người ta đang nói về một ai đó, một chuyện gì đó không dính líu gì đến mình, tôi cứ nắm chặt tay anh như thể buông ra thì anh tan biến đi mất.

Giây phút nghẹn thở đó rồi cũng đến, khi tên thẩm phán tuyên bố dõng dạc “Trần Thắng Tài, tử hình” chắc anh cũng biết trước mọi việc sẽ như vậy nên gương mặt anh vẫn thản nhiên đón nhận hung tin, chỉ có bàn tay anh chợt xô nhẹ tay tôi lúc đó như một thái độ dứt khoát, cố thoát khỏi mọi bịn rịn yếu đuối thường tình, chỉ có tôi hốt hoảng trong nỗi cảm xúc đau đớn tột cùng là tôi sẽ mất anh mãi mãi từ đây.

Tôi không bận tâm là mức án mình bao nhiêu năm, số phận hai mẹ con sẽ như thế nào trong những ngày tháng tới, tôi chỉ nghĩ đến anh thôi.

“Bị cáo có một tuần để làm đơn kháng cáo, xin ân giảm!”

Không đời nào Tài làm đơn, tôi biết chắc như vậy, nhưng tôi không thể ngồi im nhìn anh ấy chết, Trời ơi! tôi phải làm sao bây giờ để cứu anh ấy. Anh phải sống Tài ơi! Sống để chúng ta còn có cơ hội làm lại từ đầu. Lúc này tôi ao ước phép lạ xảy ra cho anh, biết là ảo tưởng mong manh như trẻ con, nhưng tôi thực sự yếu đuối khi nghĩ đến lúc anh đi về cõi chết và bỏ lại hai mẹ con bơ vơ trên cõi tù đày. Phiên tòa kết thúc trong lặng lẽ, 7 con người và 7 số phận đã được định đoạt bởi cái gọi là Tòa án nhân dân mà không có nhân dân nào tham dự, bọn chúng nhân danh công lý để trả thù một cách hèn hạ những ai chống đối lại chế độ cộng sản độc tài bất lương, đã và đang làm đất nước ngày càng đói nghèo suy sụp, khiến lòng dân phẫn nộ căm ghét.

Chúng tôi im lặng đi bên nhau ra xe, tôi lại vói nắm bàn tay anh tha thiết, cái còng sắt lạnh lẽo nhưng bàn tay anh chợt ấm áp diệu kỳ. Ôi bàn tay anh sẽ rời xa mẹ con tôi suốt cuộc đời còn lại, chỉ nghĩ thôi là thấy lòng đau đớn vô cùng.

Khi ra khỏi cửa Tòa án mới thấy dân chúng tụ tập khá đông hai bên đường, chắc có người nhà của anh em tại địa phương này, họ vẫy tay và ném đầy thức ăn vào khoang xe, nhưng bọn công an đã gạt chân đạp hết xuống đất trước khi đóng sập bửng lại.

Trời đổ mưa trên suốt đoạn đường về trại, chúng tôi lại ngồi bệt xuống sàn xe như lúc đầu. Trong bóng tối âm thầm buồn thảm, không gian như đọng lại nỗi niềm u uất riêng tư của từng con người trong giây phút đời nghiệt ngã này. Bây giờ tôi mới bật khóc tấm tức trên vai anh, cứ nghĩ tới lúc bọn chúng lôi Tài đem đi bắn, trời ơi kinh khủng biết bao nhiêu, tôi nghĩ mình sẽ không có đủ can đảm để chứng kiến sự dã man tàn độc đó, dĩ nhiên là bọn chúng không đời nào để cho tôi có cơ hội tiễn đưa anh lần cuối cùng, lũ vô thần này làm sao biết được thế nào là nghĩa tử nghĩa tận.

Tự dưng ngay lúc này tôi mong chiếc xe quay nhiều vòng rồi lật, cho chúng tôi được chết bên nhau, tôi có ích kỷ không khi để con phải mồ côi? Thương thằng bé quá khi biết trên đời này nó chỉ còn có tôi thôi. Tội nghiệp Vy Dân phải mất cha khi nó còn quá nhỏ, chưa biết cảm nhận đau buồn trong nỗi bất hạnh tang tóc của gia đình.

Dù lòng đang bão tố tơi bời nhưng tôi đã cố ghìm mình không khóc lúc đứng trước toà, khóc là hèn, van xin là nhục, tôi sẽ giống như anh giữ khí tiết kiêu hãnh của kẻ chiến bại, tôi nhớ mình đã nói như hét trong lời cuối cùng “Tôi yêu đất nước này như yêu chồng yêu con tôi, việc tôi làm là sai dưới chế độ của các ông cũng là chuyện bình thường như bao người yêu nước khác, án phạt như thế nào thì cũng vậy thôi, tôi chấp nhận nhưng không tâm phục”.

Tôi biết sự ngoan cố sẽ bị trả giá, nhưng tôi không thể nói khác đi được với bản chất bướng bỉnh của mình, đằng nào họ cũng đã sắp xếp sẵn bản án rồi, phiên toà chỉ là cách thể hiện luật pháp của chế độ, trừng trị và đàn áp không nương tay kẻ đối kháng như chúng tôi thôi, nên có dịp là nói cho... hả giận!

Ngày... tháng...

Mỗi ngày qua đi là nỗi lo sợ không nguôi, đã có bản án thì họ có thể đem bắn không biết lúc nào, tính mạng của anh được đếm ngược thời gian, trước đây còn biệt giam mong chờ thấy anh đi khai cung ngang qua để được nhìn anh, bây giờ tôi lại cầu xin cho anh ở yên trong đó để tin là anh còn sống, dù sống trong khắc khoải mỏi mòn.

Trại Nữ ở cạnh chuồng gà, cứ chiều tối nghe cán bộ quản giáo dặn người giữ kho xuất 2 quả trứng thì sáng mai thế nào cũng có người bị đưa đi tử hình. Đó là tiêu chuẩn cao của bữa ăn cuối cùng, gồm một chén cơm trắng, hai quả trứng luộc, chén nước mắm, ly nước trà và một điếu thuốc Hoa Mai (loại thuốc hàng xịn của thời Xã Hội Chủ Nghĩa).

Tôi đã từng thấy vài người đi ra từ góc trại tử thần đó, người xanh mét, dáng xiêu xiêu muốn ngã qụy, có kẻ ốm nhom tay vịn cái quần đứt dây thung, tay cầm cái ca dùng để đựng cơm, gia tài duy nhất khi có lệnh chuyển trại. Chắc họ không biết mình bị đưa đi đâu, nhưng chúng tôi nhìn riết rồi biết, một tù nhân trong nhà bếp kể cho chúng tôi nghe khi họ dọn phần cơm đặc biệt này, gần như không tử tù nào ăn nổi, có người vừa ăn vừa khóc, ngoài đời giết người cướp của, tội lỗi gian ác như thế nào không biết, nhưng là con người đứng trước cái chết của chính mình, ai mà chẳng run sợ. Tôi hình dung ra anh và bữa cơm cuối cùng mà rưng rưng nước mắt, “làm sao cứu sống chồng tôi?”. Tôi tuyệt vọng trong hoàn cảnh này.

Nhưng Tài thì không, anh vẫn nhởn nhơ làm thơ tặng cho tôi như hồi hai đứa mới yêu nhau, anh biết tánh cô vợ trẻ hay buồn hay khóc, hay hoang mang lo sợ những chuyện đâu đâu, (cái án tử mà anh coi như chuyện đâu đâu) ngày Tết anh lén gởi qua tặng tôi bài thơ con cóc khắc trên cái ca nhựa, do anh chàng tù nào đó thông cảm đưa tin:

Ta tập làm thơ để tặng nàng,
Ý tứ ngô nghê nghe phát chán
Nhưng cũng viết càn để em xem
Em xem em cười em hết buồn
Chỉ cần được thế là ta vui
Em vui, ta vui, đời vui khắp
Đời vui như pháo đón xuân sang!


Cái đáng yêu nhất của Tài là anh hay chọc cho tôi cười, quả thật đọc xong bài thơ này tôi đã cười phá lên như người điên, cười mà nước mắt ràn rụa. Anh làm thơ thể hiện khẩu khí rất anh hùng, nhưng làm thơ tình thì dở chưa từng thấy, tôi cười để anh vui mà thật tình em không thể hết buồn trong mùa Xuân tang tóc này Tài yêu ơi!

Ngày... tháng...

Nửa đêm nghe tiếng chạy rầm rập, tiếng súng nổ, tiếng la hét náo động phía sau hàng rào kẽm gai khiến cả trại nhốn nháo, hình như ở khu biệt giam có người trốn trại, tôi thảng thốt lo âu, vái trời nếu là anh thì cầu xin anh thoát được... Cả đêm thấp thỏm không ngủ chỉ mong trời sáng coi vụ việc ra sao. Một chị được ra cổng quét dọn nghe loáng thoáng tụi nó bàn tán với nhau tối qua có 3 người cưa cùm trốn, chỉ một người chạy thoát được, còn lại bị bắn trọng thương, lưỡi cưa được nhét trong đồ thăm nuôi. Tài không có ai thăm nuôi thì chắc không phải là anh ấy, tôi lại thở phào biết anh bình an. Vậy là từ đấy về sau đồ thăm nuôi xét gắt gao hơn, thức ăn bị băm vằm nát bấy, chúng nó còn muốn cắt tiếp tế cho biệt giam để tù nhân đói lả không có sức mà trốn. Thiệt là quân ác nhơn!

Ngày... tháng...

Sáng sớm họ gọi tên tôi trong danh sách chuyển trại, cả phòng nữ lao xao giúp tôi thu xếp hành lý ra đi, nào có gì đâu ngoài mấy bộ đồ cũ, một ít thức ăn khô cho thằng bé, thêm được cái nồi cái xô móp méo của ai đó nhét vào giỏ lác, tôi nôn nóng ôm Vy Dân đi thẳng ra cổng nói với tên quản giáo trại giam:

“Hãy cho chúng tôi được gặp anh Tài trước khi chuyển trại.

– Không được đâu
– vậy cho người bồng nó xuống biệt giam để anh ấy thăm con lần cuối cùng
– chúng tôi chưa được lịnh của thủ trưởng về trường hợp này.
– nhưng đây là lần cuối cùng mà, sao mấy ông ác quá vậy!?”

Tôi bỗng trở chứng ngang tàng:

“Vậy thì tôi không thể rời khỏi đây được nếu chưa gặp chồng tôi trước khi anh ấy bị tử hình”.

Một số người có tên trong danh sách thì khăn gói lên xe chuyển trại, kẻ đi người ở í ới nhắn gởi nhau, trong khi tôi ôm con cương quyết ngồi lỳ xuống bậc thềm, phải gặp anh ấy mới được, dầu sao đây cũng là giây phút sinh ly tử biệt mà mẹ con tôi mãi mãi mất chồng mất cha kể từ lần chia xa này. Đoàn xe nổ máy chờ đợi, có một bác lớn tuổi ở chung phòng nữ vẫy tay thân tình “thôi lên trại rán cải tạo rồi sớm về nuôi con, ở đây tao canh chừng cho, khi nào nó đi tao ghi ngày giờ cho biết mà giỗ quảy”. Tôi rưng rưng nhìn về góc cuối trại giam. Tài ơi! Em không biết phải làm sao bây giờ, em tuyệt vọng quá, em chỉ muốn ở lại và chết bên cạnh anh thôi...

Nước mắt tôi rớt xuống trán Vy Dân ướt đẫm, nó thức dậy ngọ ngoạy trong lòng tôi, đôi mắt to tròn trong sáng của con nai nhỏ ngơ ngác giữa dòng đời ngầu đục, thương con quá, gia đình mình đang trải qua biến cố đau buồn kinh khủng nhất mà con thì quá bé nhỏ để hứng chịu cơn giông bão khắc nghiệt này, thật lòng nếu không có Vy Dân chắc tôi đã ngã gục trong cuộc đời mênh mông, trống vắng này.

Hùm thiêng sa cơ
Ta nay thất thế bị giam cầm
Nghiến răng ngậm miệng nuốt hờn căm
Một lòng vì nước vì dân tộc
Sá chi tù ngục chốn ta nằm
Đêm nghe tiếng cuốc chiêu hồn nước
Ngày thấy hoàng hôn phủ núi sông
Miền Nam tan tác, đau lòng khóc
Án tử chung thân, gió thoảng lòng...


(Bài thơ của Anh Trần Thắng Tài viết trong tù năm 1980, và anh đã bị cộng sản tử hình ngày 14 tháng 6, năm 1982 tại Phan Thiết–Việt Nam)

Cảm khái

Anh hùng tử – khí hùng nào tử

Tổ quốc ghi công anh trong trang sử bi thương
Chúng tôi tiếc nhớ anh – chưa đi hết đoạn đường
Đã gục ngã cho Tự do đất nước
Anh Tài ơi, dũng khí anh khiến chúng tôi vững bước
Chờ ngày mai ta chiến thắng trở về...

Vì Sao?
Vì sao miếng cơm ăn bỗng nghẹn
Một nửa còn đau xót người ơi,
Vì sao bát canh rau bỗng mặn
Nước mắt nào thương nhớ không nguôi
Vì sao nụ cười tươi tắt vội
Nỗi tình nhà, nỗi hận nước đầy vơi
Vì sao đường đi không biết mỏi
Khi còn nghe tiếng khóc của dân tôi!

(Ngọc Ánh – biệt giam 1980)

 















4. Chặng đường đã qua

Mất ngủ, một triệu chứng suy nhược của cơ thể, một hiện tượng mệt mỏi của tuổi già – Ừ, chắc có lẽ vậy! khoảng thời gian gần đây người cứ trăn trở thế nào ấy, thức khuya dậy sớm, công việc vất vả trong cải tạo là chuyện đã đành, nhưng vấn đề vẫn là nỗi bâng khuâng ray rứt trong cuộc sống nội tâm qua từng ngày, từng tháng.

Mười năm trong tù!

Tôi rùng mình khi nhìn lại quá khứ, chặng đường đầy nước mắt, mồ hôi, đầy gian nan, khốn khó mà tôi đã từng bước vượt qua, kiên trì chịu đựng (cũng có lúc mỏi đuối và muốn buông xuôi).

Cuộc sống loi nhoi trong một tập thể đầy phức tạp, đủ dạng người, đủ thứ tội lỗi trên đời, cái tồn tại cặn bã của xã hội đã được người ta ném vào một xó, chất đống như kho phế liệu, cũng có những cây đinh đã rỉ sét và cũng có những trang giấy chỉ mới ngả màu.

Tôi sống ở đây hơn 7 năm và những trại giam khác gần 3 năm, đã va chạm hàng loạt người đủ loại thành phần, có người trở về và vào lại trại đôi ba lần, có kẻ đã chết tiệt ở đâu đó trong luật ân oán giang hồ, bệnh tật, tai nạn ở xó xỉnh nào không biết, và cũng có lắm người cố tìm cách ra đi bất chấp mọi hiểm nguy trước bao la sóng dữ, hoặc là chết giữa biển khơi hay là có cơ may sang tận bên ấy để thoát khỏi gông cùm của nhà tù cộng sản, cái nhà tù lớn nhất của cả nước đang giam hãm người dân trong cuộc sống nhọc nhằn đói kém và đầy dẫy bất công áp bức.

Đằng nào tôi cũng là kẻ ở lại, thầm lặng như một chiếc bóng trong bức tường loang lổ của trại giam, như con chim cô đơn đậu hoài trên cành cây khô sau hàng rào kẽm gai chằng chịt, để mỗi sáng mỗi chiều kêu lên những tiếng buồn áo não, gợi nhớ trong lòng kẻ xa nhà nỗi man mác, đìu hiu...

Mười năm trong tù!

Có hàng trăm chuyện đã xảy ra, buồn thảm đau thương nhiều hơn nụ cười tươi tỉnh. Tôi đã khóc suốt trong những năm tháng buồn tênh ở đây, nước mắt cứ chực chờ chảy quanh và khóc như một thói quen khó cưỡng, có lúc tôi cũng phải ngạc nhiên vì cá tính yếu mềm của mình, nhất là từ dạo anh ấy mất, bao nhiêu câu chuyện đáng buồn dồn dập xảy ra, Vy Dân èo uột bệnh hoạn, đói khổ, túng thiếu, cuộc sống vây quanh với bao điều bực mình, thất vọng... Và có những giây phút chán chường cùng cực nhất, tôi đã có ý định tự tử cả hai mẹ con, cái đập chân kêu thét đầy vẻ hoảng sợ của thằng bé đã làm tôi bật khóc. Tội nghiệp! Nó vẫn là thằng bé đáng thương vô tội kia mà, và tôi lại ôm nó vào lòng dỗ dành, xuýt xoa, cái bàn chân khẳng khiu đã “cầm” khăn lau nước mắt trên gương mặt bơ phờ của mẹ nó...

Mọi việc xảy ra như một dấu ấn đậm nét mà tôi không thể nào quên được, tất cả vẫn quay đều trong trí nhớ tưởng đã cùn mằn theo thời gian xa lắm, nhưng càng hồi tưởng, càng thấy rõ nét xót xa. Lâu rồi tôi vẫn nhớ câu nói dấm dẳng của mụ cán bộ y tế khi gọi cấp cứu cho Vy Dân:

“Mẹ con bà đó ở lâu quá rồi, tốn biết bao nhiêu là thuốc của nhà nước, cứ bệnh hoài, khỏi phát luôn”. Cái vẻ ái ngại, chắt lưỡi của gã cán bộ khi nhìn thằng bé đang thoi thóp “Nó què quặt tật nguyền như vậy, sống chẳng có ích lợi gì chẳng lẽ chị phải nuôi hoài vậy sao?” Những câu nói thật tàn nhẫn mà tôi đã gầm gừ lên như con thú bị thương lồng lộn điên tiết, ôi thằng khốn, nếu mày cũng có đứa con như vậy thì chắc mày giết nó ư?

Mười năm trong tù!

Tôi vẫn còn nghe được mùi thơm của quả cam bị bể khi được ném vội vàng qua ô cửa sổ biệt giam, tán đường nhỏ xíu được nhét vào khe cửa, cái áo trẻ con dính đầy mực cũ mèm của một người tốt bụng nào đó đã gởi cho Vy Dân, những dòng chữ viết bằng máu (mà tôi đã đâm kim vào ngón tay mình) để thông cung cho anh ấy, những nét khắc chằng chịt trên cái ca nhựa của anh đưa sang...

Cái giai đoạn khốn khó cùng cực mà tôi đã thấm thía trải qua, từ mái tóc đen mướt ngang vai “búi chưa đầy búi” của ngày mới nhập trại, 24 tuổi chưa tròn với gương mặt bình thản và nụ cười diễu cợt vô tư trước bản cáo trạng, trong ánh mắt của một số người thay mặt pháp luật để phán xét hành vi sai phạm “... Trẻ người non dạ, theo đóm ăn tàn, bị lợi dụng, lôi cuốn vào một trò chơi nguy hiểm, đầy ngu xuẩn dại dột, v.v. Nghị án từ 18 đến 20 năm, nhưng xét khoan hồng theo chính sách, phạt tù 14 năm để có cơ hội ăn năn giác ngộ...”

Không có một giọt nước mắt nào rơi ra trước vành móng ngựa, tôi lạ lùng như thể người ta đang gọi một cái tên nào đó xa lắc xa lơ, không dính líu đến mình. Lần gặp mặt cuối cùng ở toà án, và nụ hôn anh ấy nhẹ như sương khói mong manh...

“... Các bị cáo phải nộp 20 đồng tiền án phí, riêng bị cáo tử hình thì được miễn...”.

Tôi không hiểu mình nên cười hay nên khóc trong lời tuyên bố như đang đùa ấy, nhưng có điều đau nhói nhất là sự vĩnh biệt, hai đứa đã xa nhau từ đó...

Lên xe chuyển trại, đoạn đường nghiêng ngả với đám bụi đỏ cuốn mù đằng sau, hành trang nặng nề là đứa trẻ èo uột trên tay, kỷ vật duy nhất còn sót lại trong tình yêu tuyệt vời của hai đứa, tôi chỉ biết thở dài đau đớn, xót xa...

Dãy núi sừng sững chắn ngang tầm mắt, rừng rậm còn đầy vẻ hoang vu, bò cạp, rắn rết, đỉa vắt khiến tôi ngại ngùng với từng con vật hèn mọn trong mỗi bước chân đi... Cuộc sống ở trại cải tạo còn đầy bỡ ngỡ, một tập thể đông đảo phức tạp, đấm đá la hét, chửi rủa thô lỗ tục tằn. Sự tù túng bó buộc khiến người ta dễ nổi điên bởi những điều vặt vãnh trong cuộc sống va chạm hàng ngày, tôi cố thu mình như con ốc nhỏ để được yên thân, trong trại nữ này, tù chính trị không có ai ngoài mẹ con tôi, còn lại là tội tham ô, móc ngoặc, ăn cắp buôn lậu, trộm cướp giết người... và dĩ nhiên tôi cũng đã va chạm với lắm điều nhỏ nhen, ganh tỵ, cái thành kiến “ma mới ma cũ” hẹp hòi so đo, nỗi mặc cảm tội lỗi, nghi kỵ, rình mò chụp mũ, để chực chờ báo cáo lập công. Tôi vẫn nhớ vẻ hậm hực của ả toán trưởng có bộ mặt hung hăng như quỷ sứ “... làm trực sinh phải biết gánh nước, đừng quen thói tiểu tư sản, bóc lột công sức người khác gánh giùm...”.

Cái nguýt dài chua ngoa của con thư ký “vô cải tạo mà cứ ru rú ôm con, ngồi mát ăn bát vàng, còn lâu mới được giảm án...” Tủi nhục cay đắng, tôi chỉ biết khóc thầm, thấy thương thân phận hai mẹ con côi cút.

Trong đám đông hỗn loạn, thỉnh thoảng tôi vẫn bắt gặp những ánh mắt thông cảm, những nụ cười làm quen, những câu nói an ủi, những giúp đỡ nhiệt tình.

Chịu đựng cái khí hậu khắc nghiệt của vùng rừng núi heo hút ngày nắng cháy da, đêm sương lạnh buốt, tôi cứ ám ảnh những cơn sốt rét chết người, xa chợ, xa bệnh viện, lỡ thằng bé có bề gì...

Cũng may, hai mẹ con đều khoẻ, Vy Dân ít bệnh vặt hơn trước, thằng bé càng tươi tỉnh bao nhiêu thì tôi càng héo mòn bấy nhiêu, tôi phải bỏ hàng buổi trưa để tập đặt gánh nước trên vai, đi vòng quanh nhà cho chai dần đôi vai yếu ớt, cái công việc nhẹ nhàng nhứt của trại cải tạo là làm trực sinh, dọn dẹp nhà cửa, quán xuyến việc nhà... Đối với tôi lúc ấy sao mà gian nan thế không biết, dâu trăm họ thì lắm chuyện lôi thôi, bù vào đó tôi được ở cạnh chăm sóc thằng bé, loay hoay mất cả ngày, ăn muộn, ngủ muộn, tắm giặt muộn.

Thỉnh thoảng Ba Má Sáu cũng lần đường xa lên thăm, tuổi già lụm cụm, ông bà phải chạy ăn từng bữa vất vả nhưng cũng rán dành dụm tiền để mua cho con chút quà vặt, lọ mắm ruốc, bịch muối ớt, cái mền cũ cho thằng nhỏ.... Lần nào ba má về nước mắt cũng rưng rưng “Không biết lần sau có còn khỏe để lên thăm, biết ba má có còn sống để đợi con mãn án trở về...” Và lần nào tôi cũng khóc vì thương Ba Má, nuôi con lớn khôn, con chưa một ngày đền đáp công ơn dưỡng dục trời biển mà bây giờ lại làm ba má bận tâm lo lắng, tôi thấy lòng ray rứt không yên, thấy mình thêm nặng nề tội lỗi.

Buồn phiền trĩu nặng làm tôi trở nên cằn cỗi, khô khan. Tôi chẳng còn thời gian nào rảnh rỗi để nghĩ đến điều gì khác hơn nữa, ngoài công việc bận rộn hàng ngày.

“Phấn đấu”, cái từ như thôi thúc trong đầu, tôi chẳng biết phải làm thế nào để vừa lòng mọi người. Chăm sóc Vy Dân là cả một điều vất vả, bỏ thằng bé ở nhà, đi làm theo tập thể, sáng không kịp cho con ăn, trưa về muộn, thằng bé đói rã ruột, đành cố gắng vậy, để mẹ phấn đấu mau về, mọi khó khăn hai mẹ con đều phải khắc phục, dỗ dành mãi thằng bé mới chịu ở nhà. Vy Dân rất thông minh và hóm hỉnh, nó nghe và hiểu tất cả, có điều nó không nói được, nó trở thành kẻ tật nguyền từ sau cơn bệnh viêm não lạ lùng ở trại tạm giam, chân tay lỏng khỏng, không ngồi được, không nhai được, không cầm nắm được, chỉ có nằm ngửa suốt ngày với hai chân ngo ngoe mạnh mẽ để ra dấu thay cho ngôn ngữ bằng cái đập chân, chân đưa lên cao là “có” chân hạ xuống thấp là “không”, mọi người cứ đặt câu hỏi và nó sẽ trả lời thành thạo, nhưng tôi biết trái tim nó tràn đầy cảm xúc mà chỉ có Mẹ mới cảm nhận ra.

Trong trại tù không ai được mang con vào ngoài thằng nhóc bụng ỏng đít teo chừng 4–5 tuổi con của mụ y tá ngày nào cũng lang thang theo má nó lùng sục phá phách, có lần nó đã véo Vy Dân đau điếng vì nghịch, nhưng bị thằng bé đá vào mặt một cái nên thân, khiến nó khóc ỏm tỏi, lần đó hai bà mẹ bênh con cãi một trận um sùm. Không ai sợ mụ y tá dốt nát này vì mụ chỉ phát “xuyên tâm liên” cho đủ thứ bịnh, nhưng nhờ vậy mà từ đó về sau thằng nhóc không còn léng phéng xuống khu nhà nữ nữa.

Tôi nhớ có lần Vy Dân gặp đứa con gái đầu tiên trong cuộc đời khi nó lên 6 tuổi, con bé được ưu tiên vào tận khu nhà nữ thăm mẹ vì mẹ nó là cán bộ nhà nước mang tội tham ô gần mãn hạn tù. Con mắt thằng bé tròn xoe kinh ngạc nhìn mãi nhìn mãi, chưa bao giờ nó thấy một bóng hồng nào xinh xắn đến như vậy, nhưng khi con bé đưa cho nó cục kẹo, Vy Dân đã không thể cầm được, cánh tay nó co rút bất lực khiến con bé kêu lên “Mẹ ơi tay anh ấy bị sao vậy?” Tội nghiệp con trai tôi, nó rươm rướm nước mắt quay đi, lần đầu tiên nó biết mặc cảm vì sự khác thường của kẻ khuyết tật.

Có lần ngày Tết trại mổ trâu cho tù nhân được “bồi dưỡng” chút thịt tươi, con trâu được trói vào cột chuẩn bị để giết [lấy] thịt, nó đã vùng lên bứt dây chạy hoảng loạn trong trại, mọi người vây bắt con vật khốn khổ, nó lủi vào khu vực nhà nữ, chúng tôi đóng cửa lại cho an toàn, hai mẹ con ngồi trong cửa sổ nhìn ra, con vật đi loanh quoanh trong mấy luống rau sau hè, nhưng lạ một điều là nó không hề làm dập một cọng cỏ... Tên trưởng trại mang súng tới để bắn, tôi vội che mặt Vy Dân lại để nó không thấy những điều kinh khiếp. Tiếng nổ khô khốc khiến tôi thảng thốt nhớ tới anh ấy. Bọn chúng bắn vào người anh cũng giống như bắn con vật này, mọi sự tàn sát đều dã man, ghê rợn.

Tim tôi như nhói đau khi chứng kiến con vật đổ gục xuống.

Tết năm đó hai mẹ con từ chối phần thịt “bồi dưỡng”. Thằng bé nhất định không ăn dù ai cũng nài ép. Thương biết bao con trai tôi có một trái tim nhạy cảm và dễ xúc động!

Mười năm trong tù!

Lần đầu, cầm cây cuốc trên tay sao thấy nặng lạ lùng, lần đầu con đường đi xuống bãi làm chợt xa tắp, lần đầu bước chân vào đám cỏ rậm thấy rờn rợn ghê ghê, lần đầu cắm giây khoai chôn ngọn xuống đất, lần đầu nhổ cỏ lúa lẫn lộn lu bù, lần đầu cấy lối mạ nghiêng ngả rối tung, bổ nhát cuốc không đứt nổi gốc tranh bụi cỏ.

Ôi! Lần đầu với hàng đống công việc nhà nông mà người phụ nữ gốc thành phố như tôi chưa bao giờ trải qua kinh nghiệm, nếu không lọt vô hoàn cảnh tù tội này để bắt buộc phải “hoàn thành chỉ tiêu năng suất”. Cái vóc dáng nhỏ nhoi khoảng chừng 36kg yếu ớt gầy nhom như tôi đã không gánh đủ 25 đôi nước từ bờ sông về trại, trên đoạn đường dài hàng cây số trong trưa nắng chang chang trên cát nóng bỏng chân, đã không đội nổi ba thùng lúa đầy leo lên bậc tam cấp để nhập kho, lúc nào cũng văng vẳng bên tai cái từ “phấn đấu cải tạo”, về tới nhà ê ẩm mỏi đuối, bồng thằng bé nặng chình chịch như bao lúa trăm cân để hai mẹ con ngã sõng soài trên tấm ván giường thở dốc.

Ôi! Sao mà vất vả quá, liệu mình có đủ sức chịu đựng khi án tù còn thăm thẳm phía trước.

Mười năm trong tù!

Tôi nhìn từng khuôn mặt thân quen, đã sống ở đây và đã ra về họ là những tên cướp lừng danh đã từng giết người cướp của, những tên trộm chuyên nghiệp moi móc đồ người, những kẻ lừa đảo với đầy đủ mánh khoé gian manh. Họ là những thành phần đâm cha chém chú, quậy phá giang hồ, họ là những cô gái đi hoang từ năm mười mấy tuổi, sống lang thang ở công viên góc chợ, tụ tập những băng nhóm du đãng, bụi đời. Họ cũng có những người đàng hoàng – có vị trí đứng đắn ăn trên ngồi trước trong xã hội, vì tham ô thoái hoá, phản đảng lừa dân để sa cơ lỡ bước vào đây, ân hận nuối tiếc cho một thuở huy hoàng, họ là những người không chấp nhận gông cùm đàn áp trong chế độ cộng sản, không chịu được cuộc sống đói nghèo ở quê hương mình, nên kéo nhau bỏ nước ra đi, nhưng vượt biển bất thành vì không thuận buồm xuôi gió, và họ cũng có cả những người như tôi, mưu toan bẻ gậy chống trời, châu chấu đá voi...

Dưới áng nắng chói chang của sân trại trong giờ tập họp điểm danh, mọi tội lỗi đều được phơi bày, có thể bọn họ xem chúng tôi là tù nhân bị “mất quyền công dân” và mất luôn quyền con người với lòng tự trọng tối thiểu. Họ đọc ra rả tên và tội danh từng người như một điều sỉ nhục, Nguyễn văn A cướp 7 năm, Lê thị B ăn cắp 3 năm, Trần văn C giết người 15 năm... Bị “điểm danh” riết rồi quen nên đám tù nhân đều trơ mặt xem là chuyện bình thường, dĩ nhiên tội danh của tôi không có gì phải xấu hổ trước đám đông, nhưng người nào mà bị tội hiếp dâm thì họ ngượng ngùng cúi mặt khi nghe gọi tên, mặc cảm tội lỗi này khó mà xóa được nếu ai đó còn chút lòng tự trọng.

Cuộc sống phức tạp bước đầu có làm tôi khó chịu, nhưng lâu dần rồi cũng quen đi, tôi thấy hòa đồng và dễ dàng thông cảm hơn, dù sao thì cũng là tình đồng phạm, có những cái bộc trực đáng tha thứ, sự đánh đồng chung chạ giống như một cái thùng đựng đủ thứ hầm bà lằng phế thải, bị xóc lên xa cạ để rồi an ủi nhau “chúng ta sống chung một môi trường tù tội, đều là những kẻ xấu xa tệ hại rác rưởi của xã hội, cứ chấp nhận vậy đi!”

Những manh áo rách, những chén cơm lưng, những cơn mưa nắng nhọc nhằn, họ gào thét cấu xé nhau, nhưng sau đó họ lại ôm nhau cười đùa ầm ĩ, chia sẻ cho nhau bằng tất cả chân tình đùm bọc. Tôi thương họ nhiều hơn là phiền trách, những câu chuyện tâm tình vụn vặt. Họ kể về thân phận của mình, về quá khứ tội lỗi, về tất cả những chua xót bầm dập trong cuộc sống đã qua, tôi cố nghe và hình dung như một bức tranh sinh động của một tác giả đang say mèm, nét chấm phá tranh tối tranh sáng, nửa xám nửa nâu, cái màu nhợt nhạt buồn hiu, họ đổ thừa cho hoàn cảnh cho xã hội, hay chính sự yếu hèn ích kỷ của họ, đã tạo nên những hậu quả bi thương.

Có lúc tôi cũng chịu khó tò mò tìm hiểu nguyên nhân đã dẫn họ vào tù ra khám, mà không cảm thấy hối hận ray rứt cho việc làm quá đáng của mình, tiền án tiền sự dẫy đầy, thành kiến địa phương, cuộc sống túng cùng trong xã hội còn lắm rối ren phức tạp, gia đình không hẳn là nền tảng vững chắc để họ có thể ẩn nấp dung thân, những người thương yêu thì buông xuôi bất lực, họ như rong rêu trôi dạt giữa dòng đời hất hủi, đánh mất niềm tin, không tự chủ để dừng lại giới hạn giữa cái đúng sai phải quấy và cứ thế lao đầu vào sa ngã, tội lỗi chất chồng – trại giam như một chỗ dừng chân. Họ ngoan ngoãn khép mình cho qua ngày đoạn tháng, cải tạo chỉ là danh từ chứ không phải là động từ. Cuộc sống đáng sợ nhất là không có niềm tin, không có hy vọng. Họ chẳng biết bấu víu vào cái gì nữa, hoài bão, lý tưởng thì mơ hồ quá. Cuối cùng họ chẳng muốn cứu lấy mình nữa, họ đã–chết–không–nhắm–mắt, hủy hoại cuộc đời trong bốn bức tường trại giam... Và từ những suy nghĩ đó tôi đã có mơ ước thật tốt đẹp, khi nào được trở về, được có cơ hội làm ra nhiều tiền, lập cơ sở đồn điền nhà máy sản xuất chẳng hạn, kéo họ về làm công nhân, giúp họ có nghề nghiệp xứng đáng, ổn định đời sống để họ nguôi ngoai, để họ tìm lại niềm tin đã bị mất mát vùi dập. (Hay quá chị!)

Cái ước mơ dễ thương như ngày xưa còn là cô học trò nhỏ ngây thơ giữa mộng và thực, để mong xã hội tốt đẹp hơn, có những con người biết sống tử tế hơn, chẳng biết về sau, có bao giờ tôi sẽ buồn cười về tính bốc đồng này không? Bởi vì cuộc đời vốn không như là mơ kia mà, còn cộng sản là còn những thực tế phũ phàng, còn những gian trá lọc lừa do quái thai Xã hội chủ nghĩa tạo ra và cửa nhà tù lại mở để nhốt sự bất lực của chính họ.

Mười năm trong tù!

“... nhìn lại mình đời đã xanh rêu...” tôi chợt xót xa khi nhận ra điều đó, cả một thời tuổi trẻ phí phạm, lãng quên... Tôi chẳng tiếc rẻ gì, nếu sự đánh đổi đó là một điều hợp lý, có thiệt thòi chăng là sự nằm xuống của anh ấy, nỗi mất mát đau thương mà riêng tôi phải chịu đựng, can đảm và chấp nhận!...

“Em chợt lẻ loi trong sự bất hạnh, mọi người vẫn cho là em dũng cảm, và ngay cả em cũng ngạo mạn trong sự cứng rắn của chính mình, nhưng thật ra trong tận cùng của tâm hồn, em vẫn có những nỗi yếu đuối thật đàn bà, em vẫn có một trái tim lãng mạn và cuộc sống nội tâm sùng sục những bão ngầm.”

Tôi đã thú thật với anh ấy bằng những trang nhật ký đầy nước mắt. Mấy năm rồi, không phải không có những xao động trong cuộc sống đầy phức tạp ở đây, thân phận của một người đàn bà còn trẻ (quá trẻ trong cái nghĩa thiệt thòi của nó) chồng chết, con tật nguyền, hàng trăm nỗi khổ đau dồn dập, tôi đã cố gắng để khắc phục những khó khăn, cố gắng để nguôi ngoai quên lãng. Quá khứ thật đáng buồn! Tôi giả vờ bình thản, dửng dưng trước mọi lời tán tỉnh, thỉnh thoảng nhận được những lá thư làm quen, an ủi, khuyên nhủ, tỏ tình... đủ thứ đủ dạng, đọc rồi buồn buồn, cười cười lại đốt đi...

Có lúc nghe những lời thiết tha mật ngọt của các anh chàng cô đơn, họ động viên thông cảm, họ hứa hẹn vỗ về, họ chân tình thật sự hay chỉ thương hại vu vơ, đằng nào thì tôi cũng lo sợ, hoài nghi, qua một lần đổ vỡ tôi thật sự mệt mỏi, như con chim bị tên, thấy cành cong cũng lo âu, hốt hoảng. Quá khứ là kinh nghiệm, tôi thờ ơ khi nghĩ đến chuyện tình cảm yêu thương, mọi rung động xúc cảm trong tôi có lúc tưởng như bị xơ cứng, lạnh lùng, dù lòng lúc nào cũng mơ ước mộng bình thường như bao người phụ nữ khác được yên ấm trong vòng tay yêu thương của một gia đình hạnh phúc.

Ngày về – tìm một căn nhà nhỏ ở ngoại ô, bên mảnh vườn con, có dòng sông, có con đò, có hoa có nhạc, có sách có thơ... Có dăm ba bạn bè rù rì tâm sự, chủ yếu là thoải mái tâm hồn, nhưng liệu có thật sự tìm thấy hạnh phúc trong cuộc sống bình dị đơn sơ đó không, hay dòng đời cứ mãi nổi trôi, vùi dập?

“Hạnh phúc đâu chỉ có cơm ngon và áo đẹp, mùa xuân đâu chỉ có hoa thơm và nắng hồng, cuộc đời còn có những nụ hôn” bản nhạc tình duy nhất thời nay mà tôi nghe được trong tù qua cái radio cũ kỹ của tên cán bộ đem ra đồng ngồi canh chúng tôi lao động, bản nhạc nghe qua đã thấy nao lòng, Ừ! cuộc đời còn có những cái gì hơn thế nữa kia mà, trái tim tôi đâu hẳn là đã hóa thạch, không còn biết khao khát khi nhắc đến chuyện tình yêu?

Trong giọt nước mắt vẫn có thấp thoáng nụ cười, và trong nỗi đau thương vẫn có những phút giây xôn xao tươi tỉnh, tôi đã có lúc phải cúi mặt đỏ bừng, bối rối trước ánh mắt tha thiết của gã đàn ông xa lạ, tôi đã có lúc phải giấu đi nỗi rung động êm ái khi vô tình nghe được câu nói ngọt ngào từ bờ môi của kẻ đang yêu... Tôi đã có lúc phải ngẩn ngơ như thời mới lớn trước những bông cúc vàng cắm lặng lẽ trên cửa sổ đêm Noel của ai đó, quà tặng dịu dàng thay cho lời tỏ tình tế nhị hay sao? Tôi đã có lúc thấy lòng mềm ấm trước những xoa dịu chân thành của bạn bè cùng cảnh ngộ:

“Hãy cố gắng và đừng bao giờ bị đồng hóa”.

“Ở người đàn bà có 3 niềm hạnh phúc, được bên chồng, bên con và cuộc sống gia đình êm ấm, còn chị – cùng một lúc đã mất tất cả 3 điều đó... Chị là tấm gương can đảm mà anh em phải khâm phục quý mến, mức án dài và tấm lòng bền bỉ, cứ so sánh đến sự chịu đựng và hoàn cảnh của chị là chúng tôi thấy mình cần phải cố gắng thêm lên...”

“Hãy lấy sự khôn ngoan ra xử thế, chứ đừng để tính đàn bà chế ngự.”

Và trong mỗi lúc yếu lòng, chùn bước, tôi lại nghĩ đến những lời khuyên như vành đai cố thủ, cái thành trì vững chắc của tâm hồn, để ngăn tôi không chao đảo lung lay, tôi nghĩ người ta chỉ thương hại mình thì đúng hơn (mà tôi thì không cần thiết những điều đó) đàn ông họ vẫn thích làm Từ Hải, trước nàng Kiều gian nan, thế thôi!

Kiều có 15 năm lưu lạc, còn tôi – mức án cũng gần bằng như thế, liệu có Từ Hải nào thật lòng mang lại yêu thương cho tôi, sẵn sàng bao dung che chở mọi sóng gió muộn phiền trong cuộc đời góa phụ bơ vơ! Suốt những năm tháng trong tù cô đơn hiu quạnh, thỉnh thoảng tôi vẫn nghĩ về tương lai với bao điều ao ước vu vơ như thời còn trẻ, có một gia đình nhỏ ấm cúng hạnh phúc.

Thật tình cho mãi đến bây giờ – tôi vẫn còn yêu anh ấy thiết tha – tôi không muốn anh ấy phải thất vọng vì sự lầm lẫn của tôi trong việc bước thêm bước nữa, Vy Dân là thằng bé tật nguyền, bất hạnh nên lòng ích kỷ của nó cũng vô cùng. Nó mất cha khi mới 5 tuổi và nó cần mẹ hơn bất cứ một điều gì, sự cao quí thiêng liêng nhất trên đời, nó không cho mẹ lấy chồng, mặc dù nó rất thích có em bé để cùng chơi với nó.

Ôi! Con dế mèn bé bỏng tội nghiệp! Tôi đã hứa cho nó yên lòng vì tôi không muốn nó phải buồn tủi trong sự mất mát thiệt thòi bởi mồ côi cha quá sớm nhưng dù thế nào thì tôi vẫn biết, muôn đời anh ấy mãi là người chồng rộng lượng và mong muốn cho tôi được hạnh phúc trong bình yên, cũng như Vy Dân, nó cũng cần có một người cha để thương yêu, dìu dắt... Chính vì thế mà tôi cảm thấy khó khăn trong việc quyết định hạnh phúc tương lai, tôi sợ mình sẽ khổ sở, sẽ thiệt thòi như kẻ mắc lời nguyền độc ác của nốt ruồi trong khóe mắt “thương phu trích lệ” mà tôi cứ ám ảnh, lo âu...

Nhớ có lần buổi chiều tôi phải gánh nước đi ngang các dãy trại giam đông nghẹt người, những đôi mắt đàn ông hau háu nhìn chằm chằm từ đầu đến chân đã làm bước đi tôi luống cuống, ngại ngùng... Chợt lúc đó chiếc đòn gánh gãy đôi, cặp thùng đổ nước tung toé, vừa xấu hổ, vừa hốt hoảng tôi bối rối cuống cuồng, chợt có tiếng ai đó kêu lên: “Coi kìa! Tội nghiệp chưa? Chị ấy đã nửa chừng gãy gánh...” tự dưng tôi thấy tủi thân lạ lùng, rơm rớm nước mắt quay đi. Ừ! Tội nghiệp cho tôi thật! Câu nói đã bao gồm đầy đủ ý nghĩa của nó.

Rồi Vy Dân cũng rời trại bỏ tôi ra về, một tổ chức nhân đạo bên kia bờ đại dương xa xôi nghe gia đình anh ấy đưa tin có thằng bé tật nguyền trong trại giam, họ đã can thiệp với cộng sản mang nó ra khỏi nhà tù và đưa đi xa hơn nữa để đến một nơi an toàn cho tuổi thơ của nó.

Thời gian sau này khi Ba tôi đã mất thì gia đình chắc cũng nghĩ lại nên chị Hai tôi lên trại thăm được vài lần, mang theo những bức thư của các em với lời lẽ động viên an ủi “cố gắng cải tạo tốt để mau về” khiến tôi phì cười mỗi khi đọc, cố gắng thế nào bây giờ, tội hình sự giết người cướp của, tham ô hối lộ thì mỗi năm được giảm 2 năm, án tù càng cao thì càng giảm nhiều để rút ngắn thời gian ân xá, còn tôi thì 8 năm mới được giảm 6 tháng! Nghĩ cũng chẳng có gì lạ khi bọn họ căm thù những kẻ phản động như tôi.

Chuyện Vy Dân được ra khỏi trại là tôi yên tâm rồi, đối với tôi đó là một ước mơ mà tôi chưa bao giờ nghĩ đến, một thằng bé bệnh tật èo uột như nó mà phải chịu cảnh tù tội suốt 8 năm. Quả thật kinh khủng, đây là cơ hội tốt nhất để Vy Dân thoát khỏi nơi đày ải khắc nghiệt này, tôi nghĩ anh ấy đã phù hộ cho thằng bé, dù muộn vẫn còn hơn. Nhưng khi chị tôi mang hồ sơ xuất cảnh vào trại để làm thủ tục cho nó thì nó phản ứng dữ dội, những cái đập chân mạnh mẽ cương quyết, thằng bé chỉ muốn ở lại với Mẹ thôi, tôi cố thuyết phục dỗ dành “Chỉ vài năm thôi mà. Rồi Mẹ sẽ trở về với con, ở nhà Ngoại con sẽ được ăn uống đầy đủ, sẽ có nhiều đồ chơi, sẽ mau hết bệnh...” Cái môi nó mím lại như mếu, hai bàn chân kẹp chặt hông tôi không buông khiến tôi thêm thắt thẻo ruột gan. Nửa đêm hôm ấy chờ nó ngủ say chị tôi đã bồng nó ra về, đường mưa trơn trợt ướt dầm mà tôi nghe tim mình đau nhói, nước mắt như mưa.

Ôi con dế mèn bé bỏng, rồi con sẽ đi xa hơn nửa vòng trái đất để đến một đất nước tốt đẹp hơn, nơi đó không có hận thù như dã thú, không có những toan tính lọc lừa dối trá, không có những tên đồ tể chuyên giết người lương thiện như mụ phù thủy độc ác trong truyện cổ tích.

Vy Dân mang theo con két nhỏ tật nguyền cũng giống như nó. Đầu tiên con két được ai đó bắt được lúc đi lao động trong rừng, mụ y tá chặn lại đầu cổng để lấy cho thằng con chơi, con két bị bóp chặt trong bàn tay thô bạo của nhóc ta, nó mổ mấy cái khiến thằng nhóc nổi quạu bẻ luôn cái cánh rồi ném xuống đất. Chỉ chờ có vậy anh tù nhân lượm nhanh con két đem về chăm sóc, rồi cho lại Vy Dân, con két bị gãy cánh nên không bay được, chỉ quanh quẩn trong sân, nó trở thành người bạn thân thiết của thằng bé trong cuộc sống tẻ nhạt này. Khi Vy Dân nằm ngửa, nó leo lên chân để chuyền qua lại như trò xiếc, mỗi lần tôi cho con ăn, nó đều leo lên tay chờ đợi tôi đút cho nó chút cháo... Một hôm tôi đi làm về không thấy nó đâu, tôi bật kêu như con nít: “Két ơi két đâu rồi? – Két đây nè.

Tiếng nó cười hăng hắc trong bụi cây khiến tôi sững người bất ngờ, Ôi lần đầu tiên tôi nghe con vật biết nói, nó còn nói nhiều nữa, giả giọng ho, giọng cười, bắt chước tiếng la “cấp cứu”, và reo lên mỗi khi tôi bưng chén ra “két ăn cháo, két ăn cháo...” Mấy tên cán bộ hỏi mua nhưng không đời nào tôi bán, tôi mang ý nghĩ lạ lùng trong đầu là anh ấy đã hóa thân vào con két để an ủi Vy Dân, chắc thế, bởi vì nó thông minh và dễ thương như người. Sau này nghe chị tôi kể lại hôm đưa Vy Dân ra phi trường, không thể mang con két lên máy bay đi cùng được nên nó ở lại buồn bã bỏ ăn và chết sau đó mấy hôm. Tôi ngậm ngùi trong lòng, chắc nó nhớ thằng bé cũng như tôi thôi. Nhưng tôi không thể chết được, tôi phải “phấn đấu” để trở về, dù con dế mèn của tôi đang ở cùng trời cuối đất tôi cũng sẽ tìm ra nó để ôm nó vào lòng.

Mười năm trong tù!

Đã trải qua nhiều gian nan vất vả trong cải tạo, tôi nhớ tới câu nói nửa đùa nửa thật của người quen “... Khi nào thấy đỉnh núi thấp xuống trước mắt mình, thấy nắng ở đây không còn nóng lưng, thấy muối trại giam đã trở thành ngọt trong buổi cơm rau muống, thì lúc ấy mình sắp về...”

Có lẽ những điều ấy bây giờ đã đúng với tôi, con đường lầy bùn trơn trợt bên cánh đồng lớn đã trở nên quen thuộc trong mỗi bước chân đi, những gốc đào thân thiết trong mùa nhặt hạt, những ô ruộng cấy đã trở nên gần gũi để biết được độ cứng mềm của lớp đất lúc cắm mạ, lúc sục bùn... Vẫn còn sợ rắn, sợ đỉa nhưng đã có can đảm để bước tới mà không phải la hét xanh mặt như lúc đầu mới thấy. Tôi đã quen với khí hậu nắng gió khắc nghiệt ở đây, mưa dầm sương lạnh, mồ hôi luôn ướt đẫm, tay chân thô kệch cứng ngắt trong mỗi thao tác lao động, sự già nua khắc khổ vẫn hằn trên khóe mắt, nhưng chẳng thay đổi bao nhiêu nét mảnh khảnh ngày nào... Có vài lần tôi đã gặp lại tên cán bộ khai cung cũ, họ có vẻ phấn khởi khi thấy tôi “cải tạo tiến bộ” hơn (!)

Họ nhìn gương mặt sạm nắng của một phụ nữ thành phố đã quen với gió mưa lao động ở đây “Trông bây giờ chị khiêm tốn giản dị, cởi mở hơn nhiều, khác xa cái lần gặp gỡ với chị cách đây gần 10 năm, hồi ấy chị kiêu căng, bướng bỉnh làm sao, chị vặn vẹo chúng tôi cũng điên đầu ấy.”

Lời nhận xét của họ đã làm tôi cúi mặt dấu nụ cười chua xót. Hừ! 14 năm tù dành cho người đàn bà còn rất trẻ, không hiểu họ thú vị như thế nào trong lúc phán quyết số phận của người khác để nhân danh công lý đàn áp những kẻ bất đồng chính kiến bằng gông xiềng bạo lực và nhà tù. Cuộc gặp gỡ với những lời động viên sáo rỗng, họ khơi dậy trong tôi tình cảm gia đình, quê hương, họ nhắc cho tôi nhớ đến sự khoan hồng nhân đạo về chuyến đi xa của thằng bé tật nguyền...

Và mỗi lần như thế, tôi chỉ im lặng ngồi nghe, xoa hoài đôi tay chai cứng của mình khi chào đứng dậy. Cám ơn, tôi cũng hiểu rất rõ điều đó, kêu án thì phải ở tù thôi, chấp nhận cuộc chơi là có kẻ thua người thắng, nhưng đừng tưởng cải tạo là làm thay đổi được bản chất của những người như chúng tôi, đấu tranh với cái xấu cái ác với sự bất công áp bức cho tới cùng.

Trong cái đáng ghét cũng có những cái đáng thương, tôi thấy mình thanh thản khoan dung khi nghĩ về người khác, không hận thù hậm hực, không phẫn nộ đay nghiến, tôi vẫn thầm cám ơn mọi quan tâm giúp đỡ của những cán bộ đã đối xử tốt với mẹ con tôi trong suốt thời gian sống ở đây, dù sao bàn tay vẫn có ngón vắn ngón dài. Có lần đi lao động, một tên cán bộ nhìn tôi chăm chú và hắn chợt hạ giọng “có thể tôi đã bắn chồng chị đấy, trước kia tôi đã từng làm trong đội thi hành án” thoáng bất ngờ giận dữ, tôi nghĩ mình có thể vung cuốc vào đầu hắn, nhưng khi nhìn đôi mắt đỏ ngầu của hắn có gì đó bối rối ân hận, tôi lại thở hắt ra, lầm lũi tránh đi chỗ khác, hắn cũng đã cố hết sức để nói ra sự thật và tôi cũng cố hết sức để nén cơn đau uất nghẹn mà tha thứ cho hắn, dù sao hắn cũng chỉ là kẻ thừa hành cái mệnh lệnh tàn ác ghê tởm đó.

Tôi nhớ ánh mắt vui mừng của Vy Dân mỗi lần gặp “bác ba” trưởng trại giam, một người miền Nam đi tập kết về, chính ông ta đã cho thằng bé con gà mái để nuôi lấy trứng ăn, cho phép trồng cây đu đủ sau trại để có trái bồi dưỡng. Sự ưu ái đặc biệt với Vy Dân thôi, vì nội qui trại không được trồng cây cao sợ tù nhân leo trốn trại. Đôi khi tôi cũng thấy lòng chùng xuống khi nhìn cảnh cha già con muộn, sự đầm ấm bình yên của gia đình họ, thật tình có bao giờ mình muốn con bé phải mất cha, cô vợ trẻ phải mất chồng đâu! Thế mà họ lại làm con mình mồ côi cha, mình thành góa bụa bơ vơ...

Tôi vẫn nhớ một đoạn thư rất chân tình viết gởi về cho Ba sau khi anh ấy mất...

“Trong một cuộc chiến đấu dù chính đáng hay vô nghĩa, sự chết sống là lẽ thường tình, con sẽ dạy cho Vy Dân lòng thương yêu và sự công bằng, con không muốn nó phải xem kẻ đã giết cha nó là kẻ thù và những người thân đã bỏ rơi nó bằng ánh mắt thành kiến bất mãn... Quá khứ là một bài học đau thương mà con cần phải rút kinh nghiệm, chắc chắn cảnh nồi da xáo thịt sẽ không bao giờ tái diễn trong gia đình chúng ta, Ba đã có một đứa con hư với tất cả những đau đớn phẫn nộ, con nhớ tới câu nói ví von của ông cán bộ rất già ‘... chị giống như công chúa Mỵ Châu đã đem nỏ thần cho giặc, để nước phải mất, nhà phải tan, ngồi sau lưng An Dương Vương, bị thần Kim Qui chỉ vào mặt: giặc ngồi sau lưng mi chứ ở đâu’ đã làm con vừa buồn vừa cười. Nếu phải xóa đi một cái tên trong bản khai lý lịch gia đình, chặt đi một cành khô cho cây nảy lộc đâm chồi, con nghĩ cũng là điều hợp lý mà gia đình đừng nên nuối tiếc...”

Câu chuyện cũng lâu lắm rồi, đau thương rồi cũng nguôi ngoai dần theo năm tháng, máu chảy ruột mềm, có lẽ Ba tôi cũng nguôi đi cơn giận dữ, gia đình đã đến với tôi bằng tất cả những tình thương, khoảng cách còn lại được xóa dần đi trong những lần chị tôi lên thăm, trong những lá thư động viên thân thiết của các em tôi từ các nơi gởi về. Rồi ba tôi mất, trong cơn đau cuối đời, ông đã gọi tên tôi. Lòng tôi chợt se lại rưng buồn, người chết thì luôn được thanh thản, tôi không muốn nhắc lại quá khứ, dù tôi biết ông rất thương tôi, nhưng ông vẫn có cái lý của ông.

Mười năm trong tù!

Tôi sống khép mình trong cái vỏ khiêm tốn, giản dị, mọi nhu cầu vật chất được khắc phục tối đa, tôi đã biết ăn được tất cả những rau rừng lá núi, biết nấu được một số món ăn tạp nhạp nêm nếm bằng muối mà không phải theo khóa gia chánh nào. Tôi cũng biết cắt may khâu vá những kiểu quần áo đỡ tốn chỉ, tốn công, chủ yếu là ăn chắc mặc bền, không lãng phí. Tôi biết được tên nhiều chứng bệnh lạ lùng và cả cách trị liệu cấp thời mà không phải nhờ đến thầy thuốc mất thì giờ khám nghiệm, chạy chữa. Tôi cũng nghe được nhiều thành ngữ địa phương, biết được những tiếng lóng giang hồ, những xảo thuật ma quỷ trong cuộc sống của giới bụi đời, ăn chơi du đãng, những thủ đoạn lừa bịp mất dạy được mang vào từ xã hội bên ngoài. Nói chung là tôi cũng tiêm được nhiều cái hay, mà cũng nhiễm phải lắm tật xấu, đôi khi nổi nóng, bực dọc, bộc lộ hung hăng chẳng giống ai, nhưng điều mà tôi cảm thấy tự bằng lòng với chính mình đã học được trong cuộc sống hỗn độn ở đây là sự chịu đựng – Chắc vậy! Tôi đã chịu đựng bằng tất cả lòng kiên nhẫn, đầy vị tha, thông cảm. Môi trường phức tạp làm sao tránh khỏi sự va chạm bực mình, đôi lúc cái đáng ghét tưởng có thể đạp đổ hết tất cả, nhưng rồi mọi việc cũng lắng dịu qua đi, sống biết tha thứ, biết nhường nhịn, chưa bao giờ tôi sử dụng thủ đoạn để khiêu khích hơn thua bất cứ ai, chưa bao giờ tôi huênh hoang những điều mình trội hơn người khác hay mặc cảm về sự kém cỏi, thua thiệt của mình. Đằng nào thì cũng xuề xòa qua loa, điều mà tôi cho là tối kỵ nhất trong cuộc sống tập thể là ích kỷ, vụ lợi vật chất cá nhân, tính tham lam thói bần tiện. Điều may mắn cho tôi là đã không “gần mực thì đen” không bị lệ thuộc bận tâm vì cái vặt vãnh ấy, đói khổ túng thiếu cũng nhiều rồi nhưng vẫn thấy thoải mái hơn vì đã không bon chen, tranh giành quyền lợi với đồng phạm, có lúc thua thiệt nhiều quá cũng tự an ủi mình bằng câu triết lý vụn “Ở bầu thì tròn ở ống thì dài, miễn cái nước chứa trong ấy vẫn là nước hoa chứ không phải là nước cống”.

Tôi đã sống hòa đồng với tất cả, có điều tôi không giống như họ là được rồi! Tôi chấp nhận sự thật, cho dù sự thật có đáng buồn! Thời gian trôi qua có biết bao điều để suy gẫm, kể làm sao cho hết một khoảng đời sóng gió lao đao. Tất cả sẽ được ghi lại trong một thiên hồi ký, nhắc lại trong một bản trường ca diễn lại trong một vở bi kịch đầy nước mắt thảm não, mà mãi mãi tôi sẽ không bao giờ quên, không bao giờ xóa nhoà cái dấu ấn khắc nghiệt của cuộc đời, đau nhói trong mỗi lần hồi tưởng xót xa...

Mười năm trong tù!

Tôi còn cái gì và đã mất cái gì? Những sự mất mát thua thiệt của tuổi trẻ, cả một thời phí phạm trống rỗng, những cái tang lớn cứ chồng chất trên đầu, những người thân yêu cứ lần lượt bỏ đi, còn lại tôi một thân xác bơ phờ và cả tâm hồn chai lì cằn cỗi. Rời khỏi trại giam, ba mươi mấy tuổi, hai bàn tay trắng, không tài sản, không vốn liếng, không một nghề ngỗng gì ra hồn, chồng mất – con đi xa, tôi vẫn chưa nghĩ ra điều gì cần phải làm ngay.

Lập lại cuộc đời ư? Có lần tôi đã cười ra nước mắt khi người quen hỏi tôi về điều ấy, mọi việc sẽ không đơn giản như mình nghĩ, xã hội mỗi ngày mỗi đổi thay, cuộc sống cứ tiếp diễn. Tôi nhớ lời dặn đầy ý nghĩa của người thầy cũ “... Đừng để bánh xe lịch sử ấy nó nghiến lấy đời em, dù chỉ chạm vào một ngón chân thôi, cũng đủ đau điếng rồi...”

Mười năm trong tù!

Thấy mình quê mùa lạc hậu làm sao, tôi nghĩ đến ngày về rất xa lạ như cây đã hết nhựa sống, như con ngựa già đã mỏi gối chùn chân, tự dưng bi quan vô cùng khi nghĩ về tương lai phía trước! Ba mươi mấy tuổi vẫn thấy mình ngây ngô khờ khạo trong cuộc sống chung quanh, có thể mình tưởng như vậy, cái bệnh tưởng đôi khi cũng là điều thất bại.

Hết rồi cái tuổi tung tăng hồn nhiên, còn nhìn đời qua lăng kính màu xanh màu hồng, còn yêu đời, yêu người yêu cuộc sống thiết tha, tương lai sao mà mơ hồ quá! Niềm cô đơn hiện tại tưởng chừng như bất tận, tôi sẽ còn chịu đựng cho đến bao giờ? Nỗi lòng riêng tư thầm kín vẫn là điều ray rứt không nguôi. Cũng có lúc mơ một mái ấm gia đình, một hạnh phúc thật bình yên, một vòng tay nâng niu êm ái trong quãng đời còn lại, nhưng cảm thấy ngại ngùng thế nào, quá khứ đáng buồn vẫn là điều ám ảnh hoài nghi, cứ sợ vướng bận chồng con rồi khổ thân lận đận, rồi ngủ quên trong hạnh phúc khoanh tròn ích kỷ... Mọi việc bắt đầu đã muộn màng rồi hay sao? Cuộc sống thật tẻ nhạt, tầm thường nếu không có một mục đích gì cao đẹp hơn, ý nghĩa hơn... Tôi nhớ tới câu an ủi của người bạn tù “... Nếu không làm ngôi sao trên bầu trời rộng, thì hãy làm một ngọn đèn nhỏ trong căn phòng mờ...” Xã hội bên ngoài luôn xáo trộn, đầy biến động, đòi hỏi phải biết thích nghi, hòa hợp để chấp nhận nó, vẫn còn hàng loạt người không thể chịu đựng được và họ đã bỏ đi, đã bị cuốn hút theo cơn sóng thời cuộc không–thể–làm khác–hơn được.

Tôi thì chẳng có tham vọng xuất ngoại, cảnh tha phương cầu thực chắc cũng có lắm điều chua cay, hạnh phúc đâu chỉ có cơm ngon và áo đẹp, dù tôi biết sự ở lại cũng giống như nhập vào cuộc chiến đấu (nói theo thời đại bây giờ – mặt trận mới – chiến đấu chống tiêu cực) có thể tôi sẽ im lặng cầu an, hoặc tôi sẽ xông xáo vào cuộc, đằng nào thì cũng một lần chết, có điều tôi không thích làm kẻ yếu hèn, ích kỷ trong cuộc sống. Thế thôi! Nhưng có một điều trung thực nhất: Tôi không hề nuôi mộng làm kẻ phi thường để mưu đồ đại sự đội đá vá trời, tôi chỉ muốn làm người đàn bà với đầy đủ chức năng cao quý của nó, có trái tim biết yêu thương, giữ tâm hồn trong sáng, mang ý chí dũng cảm và tạo cuộc sống có mục đích cao đẹp không phải chỉ cho riêng mình!

Mười năm trong tù!

Không biết có phải là thời điểm để tôi tổng kết một chặng đường đã qua? Ừ! Thì cứ tạm coi như là đã tổng kết. Ngày về, có thể rất gần, tôi vẫn chưa hình dung ra giây phút bàng hoàng đó, tâm trạng buồn vui bất ngờ như thế nào nữa, có thể tôi sẽ tỉnh bơ như lúc người ta đọc bản cáo trạng có tên mình trước vành móng ngựa cách đây 10 năm, hoặc hơi choáng người một chút vì xúc động đột ngột, dù sao ở đâu thì quen đó, gần gũi như quê hương của mình, cho dù có lắm nhọc nhằn gian nan, có nhiều chua cay, tủi nhục, nhưng không thể nói là không bịn rịn ngập ngừng lúc chia tay.

Vẫn có những điều mà tôi phải thầm cám ơn cuộc sống, cám ơn con người đã ở quanh đây, chia sẻ cùng tôi mọi khốn khó trong những năm tháng đau thương cùng tận, mọi buồn phiền xin bỏ lại đằng sau cánh cổng sắt nặng nề đã nhốt một thời tươi trẻ của tôi, dù tôi biết vẫn có những điều rất nhỏ nhặt vu vơ như thoáng gió, nhưng tôi cảm thấy nhớ hoài, và có cả nỗi đau đớn xót xa mà tôi sẽ cố gắng để quên đi...

Mười năm trong tù!

Tôi không thể phủ nhận một sự thật “Quá khứ là kinh nghiệm – hiện tại là đấu tranh – tương lai là những trang sách mới”. Cứ cho là như vậy đi, bắt đầu từ con số không to tướng chẳng phải là chuyện dễ dàng, nếu không có tính kiên nhẫn và lòng can đảm sẵn sàng, tôi sẽ cố gắng để làm được điều đó, hy vọng mà nói như vậy.

Nhìn lại chặng đường gian khổ đã qua, tôi thật sự rùng mình như vừa qua cơn mộng dữ. Ngày về – tương lai đang chờ đợi, hy vọng hạnh phúc nhiều hơn là khổ đau, liệu tôi sẽ bắt đầu như thế nào đây với ngã ba, ngã tư của cuộc đời trước mặt?! Xúc động bồi hồi chen lẫn nỗi lo âu bối rối... Lúc đi có anh ấy, có Vy Dân, có nỗi lo âu nặng trĩu... Ngày về chỉ có túi xách nhẹ tênh với vài cuốn nhật ký, bộ áo tù, khung ảnh của thằng bé đã đi xa và cả những nếp nhăn đầy phiền muộn trên gương mặt mỏi mòn...

Còn lại một mình! Chắc vậy, hôm qua hôm kia có dịp nhìn thấy tập hồ sơ dầy cộm của tôi trên bàn làm việc, cái bìa đã ngả màu vàng cũ kỹ, nhàu nát, bên cạnh là tấm ảnh chụp lúc mới vào trại, nụ cười tươi tỉnh đến lạ lùng, lúc ấy sao mà ngổ ngáo thế không biết, tôi nhất định cười trong khi tên công an nhăn nhó cấm cười, bởi vì anh ta chưa hề thấy một bị can nào lại có thể hồn nhiên trước ống kính của pháp luật cả, nếu không muốn nói là những gương mặt lấm lét, hốt hoảng đầy tội lỗi, còn tôi thì khác hẳn, có lẽ lúc đó tôi chỉ mới hơn 23 tuổi, cái ngạo mạn quá quắt của tuổi trẻ là vậy.

Mười năm rồi còn gì, nhìn lại tấm bìa đã ngả màu làm tôi cứ ngẩn ngơ suốt buổi. Ghê thật! Cả một quãng đời thanh xuân của tôi đã chết dí trong những trang giấy nhòe nhoẹt đầy khắc nghiệt đó!

Ngày về!

Tôi sẽ cố đi thật chậm, thật thanh thản trên con đường đất đỏ quen thuộc mà tôi đã qua lại hàng trăm nghìn lần để xuống bãi làm từ bấy lâu nay, con đường mà cách đây gần 8 năm, lúc xe vừa lăn bánh chuyển từ trại tạm giam lên đây, tên trưởng trại chạy theo hỏi vói “Này, chị nhớ xem còn bỏ quên lại đây cái gì không?” Lúc ấy tôi đã mím chặt môi bướng bỉnh “còn bỏ quên cả một trại giam” – Hừ! Đằng sau khói xe mù mịt, tôi thấy ánh mắt khó chịu của hắn ta lúc đó, nhưng tôi vẫn không hề thấy ân hận. Bây giờ, ngày về – tôi sẽ nói câu gì trước mọi người thân quen, sự im lặng có lẽ hợp lý hơn là phải nói những lời sáo rỗng, ngoa ngữ...

Mười năm trong tù!

Tôi đã sống, và đã thấy đã hiểu tất cả, có chia sẻ thế mấy cũng không bù đắp được sự gian khổ, thiếu thốn trong hoàn cảnh này, thôi thì cố gắng khắc phục, “lâu rồi đời mình cũng qua mà.”

Mọi người sẽ có lúc “nghiêng vai trút nhẹ đời giam cấm...”, tôi không tin dị đoan vào những điều vớ vẩn, nếu lưu luyến thì sẽ còn quay lại lần nữa. Vô lý! Không cố tình vi phạm pháp luật thì chẳng bao giờ quay lại trại giam, cũng có lắm người đã nguyền rủa, ghê sợ, chán ghét cái cảnh tù đày, nhưng họ vẫn cứ quay lại, quay lại... Còn tôi, sự chịu đựng đã thành thói quen tốt, tôi vẫn thấy lòng thanh thản để tha thứ, để thông cảm cho tất cả, không hận thù, không oán trách, dù có những điều thật đáng căm ghét vô cùng!

Ngày về, chắc có buồn có nhớ và có thương thương, thấy tội nghiệp cho những người ở lại, tôi im lặng trong nỗi xót xa ray rứt, hình như mình vẫn còn thiếu sót điều gì đó không thể nói được, kỷ niệm đau buồn đã qua mà không thể nguôi ngoai được, có điều ràng buộc vô hình nhỏ nhoi nào mà tôi không thể dửng dưng khi phải bước quay lưng.

Mười năm trong tù!

Dĩ vãng đau thương rồi cũng phôi pha, như một khúc quanh nghiệt ngã trong cuộc đời, tôi nhủ thầm mình: “Hãy đứng dậy và lau khô những giọt nước mắt bi thảm, sau cơn mưa trời lại sáng kia mà! Cứ tin như vậy đi cho đời bớt khổ”. Tôi xoa hoài đôi tay chai cứng nhỏ nhoi của mình, chẳng biết phải chuẩn bị cho tương lai cái gì đó thật cần thiết, như vốn liếng tài sản chẳng hạn, lúc hai đứa bị bắt, người ta đã niêm phong nhà và toà án tuyên bố tịch thu toàn bộ tài sản, những đồ dùng gia đình, nữ trang, tiền bạc...

Tôi dửng dưng đến độ không cần biết mình đã bị mất những gì, tất cả đều trở thành vô nghĩa! Chỉ có sự nằm xuống của anh ấy là cả một gia tài vô giá, mà tôi đã không thể đánh đổi được bằng chính sinh mạng của mình. Tôi không hề tiếc những của cải đã bị lấy mất trong lúc vào tù, cũng như mãi đến bây giờ tôi không biết phải chuẩn bị như thế nào cho cái vỏ bọc vật chất trong tương lai, dù sao thì cũng quen rồi, khó khăn nghèo túng cũng đã chịu đựng được từ những năm tháng ở đây, hành trang là lòng can đảm còn lại, tôi mong rằng mình sẽ tự đứng dậy và vươn lên, cho dù có vấp ngã thật yếu đuối, nhưng không vì thế mà tôi lại bi quan để chấp nhận sự an bài của định mệnh.

Ngày về!

Có dịp soạn lại số đồ vật linh tinh trong ngăn kéo, mỗi thứ là một câu chuyện nho nhỏ, đầy vui buồn. Cả mười năm gom lại kia mà, tập thể thường hay gọi đùa tôi là kẻ giàu nhất ở đây, cũng có thể như vậy bởi vì tôi có những cái lặt vặt của người ra về trước cho lại và tôi cất đó để giúp kẻ khác khi họ cần, chia sẻ cho nhau trong cuộc sống tạm bợ nơi này cũng là biểu hiện tốt của tình người giữa cơn khốn khó.

Và bây giờ đến lượt tôi giao lại cái di sản nho nhỏ ấy cho người còn lại, bạn bè thân quen lần luợt họ sẽ nhận được tài sản của tôi với lời giã từ – không mong gặp lại ở nơi này hay bất cứ ở trại giam nào khác, nhất định là như thế!

Mười năm rồi còn gì! Rời khỏi đây, tôi cũng chưa biết mình sẽ ở địa chỉ nào thuận tiện nhất cho cuộc sống tương lai, bước đầu phải về Sài Gòn, tạm trú với chị em hàng họ, rồi về quê thăm má, thăm mộ ba, rồi trở ra Phan Thiết thăm mộ anh ấy, rồi có hàng đống dự kiến cho tương lai mai mốt...

Nhưng trong số đồ vật linh tinh, điều mà tôi cảm thấy đau lòng và thấm thía nhất khi tìm kiếm là chiếc chìa khóa cũ kỹ của má tôi, trong lần lên thăm bà đã cẩn thận nhét vào tay tôi với lời dặn dò giống như thời tôi còn bé “nhớ đừng làm mất nhe con, cất đó rồi chừng nào về mà mở rương ra, chớ lỡ má có bề gì...”.

Cầm chiếc chìa khóa mà tôi đã xúc động đến lặng người, cả một đời Má đã chiu chắt vì con. Chiếc rương chứa đầy những đồ kỷ niệm của thời đi học, từ cuốn tập dính nhòe mực tím, quyển sách giải thưởng cuối năm học, những tấm ảnh ngây ngô, thư từ, quà tặng sinh nhật của bạn bè, quần áo cũ, sau khi tôi lấy chồng, rồi có con, rồi vào tù.

Thời gian chồng chất biết bao là hoang phế, vậy mà Má tôi vẫn gìn giữ những kỷ niệm của cô con gái bé bỏng của bà, suốt đời Má đã khổ vì tôi! Trong mớ giấy tờ ố vàng mà tôi còn giữ được là “những bức thơ viết sai chánh tả” của Má gởi vào trại giam cho tôi, lá thơ nào cũng làm tôi khóc mướt vì thương Má một đời lận đận khổ đau, cho đến bây giờ mỗi lần đọc lại, tôi vẫn thấy lòng rưng rưng như Má đang quanh quẩn đâu đây “ba má nhớ con lấm, gán cải tạo tốt để nhà nước cú sét chở dề sống dới gia đình, chời chở dó, ba con bịnh quài, má còn khẻo nhưn bán buôn ế lấm”. Chiếc chìa khóa đã ám ảnh tôi suốt trong những năm tháng buồn tênh hiu quạnh, mà mỗi lần cầm nó trên tay, tôi lại rưng nước mắt vì nhớ Má “lỡ má có bề gì.” Trời ơi! Tôi cố không nghĩ đến những mất mát đáng buồn ấy nữa, vậy mà...

Ba Má Sáu đều lần lượt qua đời trong cô đơn nghèo khó ở quê nhà mà không kịp chờ tôi mãn án trở về. Tôi như hụt chân đuối sức khi nhận ra mình bỗng chốc bị mồ côi... Tôi nâng niu kỷ niệm của Má như một gia tài, tấm lòng Bà Mẹ nào cũng đáng được trân trọng tôn vinh. Những lá thơ của Má luôn là chỗ dựa yên ấm cho tôi trên bước đường đời mỏi mệt, ngả nghiêng phía trước.

Còn lại một mình!

Tôi xót xa khi nhận ra sự trống vắng đáng sợ, hơn nữa đời người chợt có lúc thấy bơ vơ làm sao, cuộc sống bên ngoài thay đổi nhiều quá. Ra khỏi tù tôi có cảm giác như mình vừa bị hụt chân, chới với. Lạc hậu lỗi thời cũng là chuyện đã đành, tôi chỉ sợ những mất mát mà mình không thể bù đắp được.

Ngày về – tôi cũng muốn ước mơ như trẻ con trong truyện cổ tích, được bà tiên cho ba điều ước: – Niềm tin – Hạnh phúc – Sự bình yên.

Ngôi mộ của anh được đắp sơ sài dưới chân núi Đất – Bình Thuận năm1982
Phía xa là cây cột mà bọn chúng đã trói anh trước khi bắn.



Trần Ngọc Ánh thương phu trích lệ
Trần thắng Tài vị quốc vong thân
Phút sanh ly tử biệt chẳng sờn lòng
Anh nằm xuống cho TỰ DO cả nước

 

Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)/a>

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.

 

Nguồn: Internet eMail by Tạp Chí Dân Văn chuyển

 

Đăng ngày Chúa Nhật, June 26, 2022
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH

 

GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang