Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Ngược dòng Thời gian
Chủ đề: Giải Oan
Tác giả: Bùi Anh Trinh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Ngày
29–9 năm là ngày giỗ thứ 14 của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Cho
tới trước khi chết Ông vẫn cúi đầu nhận chịu trách nhiệm đã làm
cho mất nước, một lỗi lầm quá to lớn mà cá nhân một người không
thể nào gánh vác. Nếu có một người nào đó đứng ra nhận chịu thì
quả là vô lý, thế nhưng Ông Nguyễn Văn Thiệu đã làm.
I. PHẢI CHĂNG MỸ BỎ RƠI?
Kể từ ngày lập quốc, nước Mỹ thực sự
sụp đổ vào năm 1975 với 3 triệu cựu chiến binh tại chiến trường
Việt Nam, 58 ngàn người đã chết, và 3,000 quân nhân còn mất tích.
Xã hội Mỹ phân hóa trầm trọng với tranh cãi đổ lỗi cho nhau.
Chính vì vậy mà những người quân nhân
VNCH không bao giờ động chạm tới nỗi đau của người bạn chiến đấu
Mỹ, họ đã làm hết sức của họ rồi, họ đã phải chết tới 58,000
người và đã hao tốn 300 tỷ USD, lại còn phải nuôi 3 triệu cựu
chiến binh Mỹ mà người nào cuộc đời cũng tan nát do bị khủng
hoảng, bị thất bại vì không thể trở lại trường để làm lại cuộc
đời.
Hai chữ
“Bỏ Rơi” là do BBC và RFI dùng để xoa dịu sự oán hận của người
Việt sau khi Mỹ cắt ống tiếp huyết cho VNCH. “Bỏ Rơi Đồng Minh”
khác với “Phản Bội Đồng Minh”. Bỏ Rơi có nghĩa là tôi thích thì
tôi giúp, khi thấy mệt mỏi quá thì tôi không giúp nữa. Còn Phản
Bội là phỉnh gạt, lừa đảo. Cho nên người Mỹ muốn nhận là họ Bỏ
Rơi VNCH còn hơn là nhận Phản Bội VNCH.
II. Frank Snepp, THÁNG 3 NĂM 1973.
Năm 1968 anh sinh viên Frank Snepp
quyết định làm đơn xin đầu quân vào CIA để tránh khỏi phải đi
lính và chiến đấu tại VN. Năm 1969 Snepp bắt đầu làm viêc tại chi
nhánh CIA tại Sài Gòn trong tư thế một nhân viên mới vào nghề.
Năm 1971 ông trở về Trung tâm CIA tại Mỹ với nhiệm vụ phân tích
những tin tức thu thập từ báo chí của Bắc Việt.
Đến năm 1972 ông bị đày đi VN vì tội đã
báo trực tiếp cho Tòa Bạch Ốc một thông tin ông đọc được trên báo
của Hà Nội mà không qua các xếp lớn của CIA. Nhiệm vụ lần thứ hai
của Frank Snepp tại Việt Nam là đọc báo và nghe đài phát thanh
của CSVN và VNCH để trình cho Polgar, trưởng CIA tại Sài Gòn,
những tin nào mà ông ta thấy đáng quan tâm.
Sau biến cố 1975 Frank Snepp quyết định
viết thành sách về những gì ông chứng kiến trong vai trò một nhân
viên CIA làm việc tại VN trong giai đoạn Hoa Kỳ cuốn cờ ra khỏi
Việt Nam. Nhờ đó ông nhanh chóng trở thành nhân chứng sống duy
nhất dám tiết lộ những bí mật mà một nhân viên CIA không được
phép tiết lộ. CIA đã đưa ông ra tòa vì ông đã hành động trái với
lời tuyên thệ khi ông bước chân vào tổ chức CIA. Tòa án đã phán
quyết Frank Snepp không bị tội tiết lộ bí mật nghiệp vụ nhưng
cũng quyết định cho thu hồi quyển sách “Decent Interval” của
Frank Snepp. Tuy nhiên phán quyết này chỉ có hiệu lực hình thức
bởi vì cả thế giới đều đã đọc Decent Interval...
Theo Frank Snepp thì mọi chuyện đều bắt
đầu từ khi ký kết Hiệp Định Paris. Rồi 3 tháng sau khi ký kết
Hiệp Định, Tổng Thống Nixon cử Martin làm đại sứ Mỹ tại VN thay
Bunker. Frank Snepp mô tả vai trò của Đại sứ Martin: “Mỹ buộc
phải bỏ khỏi Việt Nam trong tư thế đường hoàng, và muốn tạo được
ấn tượng như vậy thì cần phải có một chuyên gia về ảo thuật và
kịch nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư phụ. (Trang 75, nguyên văn:
“The United States was obliged to crawl out of Vietnam standing
up, and to foster that illusion required the kind of conjuring
and stagecraft at which Martin so adept”). Như vậy màn kịch bỏ
rơi Việt Nam đã được lên giàn từ tháng 4 năm 1973.
III. Nixon THẤT HỨA VỚI Liên Xô, THÁNG
8/1974
Năm
1974 giữa năm, Tổng Thống Mỹ Nixon đệ trình Quốc Hội Mỹ bản dự
thảo hiệp ước giao thương giữa Mỹ và Liên Xô. Đến lúc này Quốc
Hội Mỹ mới biết rằng đây là cái giá mà Nixon đã trả cho việc Liên
Xô ngưng cung cấp vũ khí cho Hà Nội và ép Hà Nội phải ký hiệp ước
ngưng bắn 1973. Dĩ nhiên khi đưa ra trước Quốc Hội, Nixon tin
rằng sẽ được thông qua dễ dàng vì lợi ích chung của cả hai nước,
nhất là từng bước giải quyết chiến tranh lạnh là điều mà dân
chúng Hoa Kỳ mong chờ. Tuy nhiên ông đã tính lầm, Quốc Hội Mỹ
đoán rằng còn nhiều cái giá khác nữa giữa Nixon và Liên Xô, Trung
cộng, Hà Nội vào năm 1972. Vì vậy Quốc Hội bác bỏ thẳng thừng
hiệp ước thương mại Xô–Mỹ để buộc Nixon phải lòi ra những thỏa
thuận khác. Dĩ nhiên là Nixon không đưa ra, ông dùng đặc quyền
hành pháp để từ chối. Vì vậy Quốc Hội có một cách khác để moi ra
những gì mà Nixon đã cam kết với LX, TC và Hà Nội vào năm 1972;
đó là cách lợi dụng vụ Watergate để triệu tập một Ủy Ban Điều Tra
đặc biệt về sai phạm của Nixon trong vụ nghe lén, nhờ đó công tố
viên của ủy ban điều tra có quyền bắt Nixon phải đưa ra tất cả
những cam kết ngầm với Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và cả Hà Nội. Nixon
chỉ còn có cách từ chức để né tránh Ủy Ban Điều Tra bởi vì ông và
Kissinger đã có những thỏa thuận mật với đối phương mà không xin
phép Quốc Hội. Một khi ông từ chức thì những cam kết của ông trở
thành vô hiệu lực. Quốc Hội sẽ không còn cớ để truy xét.
Sau khi Nixon từ chức thì Quốc Hội Hoa
Kỳ cho thông qua đạo luật cấm HK buôn bán với các nước cộng sản
vào cuối năm 1974 (Đạo luật Jackson–Vanik). Sự trở mặt của Quốc
Hội Mỹ đã khiến Liên Xô tức giận bởi vì những cam kết của Nixon
khi ông ta viếng thăm Liên xô vào năm 1972 đã không được thi
hành. Vì vậy, cuối năm 1974, Đại tướng Kulikov của Liên Xô đến Hà
Nội để xúi Hà Nội đưa quân đánh chiếm Miền Nam, Liên Xô sẽ cung
cấp vũ khí và chiến phí.
IV. HÀ NỘI CAY ĐẮNG.
Theo như 7 mục, 23 điều khoản của Hiệp
Định Paris thì Hà Nội ngưng bắn vô điều kiện, trao trả cho Mỹ 591
tù binh Mỹ vô điều kiện, trao trả tù binh VNCH để đổi lại VNCH
trao trả 28 ngàn tù binh Bắc Việt. Trong khi đó Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu không phải từ chức, 38 ngàn tù chính trị của mặt trận
GPMN vẫn tiếp tục bị giam giữ. Đặc biệt là “ngưng chiến da beo”,
nghĩa là quân đội CSVN vẫn ở trên rừng và quân đội VNCH kiểm soát
thành thị và thôn quê Nam Việt Nam. Biên giới hai miền Nam Bắc
vẫn được tôn trọng theo như Hiệp Định Genève 1954. Nhìn bề mặt
của Hiệp Định Paris quá vô lý cho nên giới quan sát quốc tế thừa
biết bên trong phải có một mật ước riêng. Quả nhiên sau này vào
năm 1977 Tổng Thống Jimmy Carter của Mỹ xác nhận có một mật ước
riêng đằng sau Hiệp Định Paris được Nixon ký với Hà Nội 4 ngày
sau khi ký kết Hiệp Định Paris 1973. Vào tháng 10 năm 1988 Hà Nội
cho công bố toàn văn bản mật ước Nixon & Phạm Văn Đồng. Theo đó
thì Nixon hứa sẽ viện trợ tái thiết cho Bắc Việt 3.25 tỷ USD và
viện trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội 1.5 tỷ USD. Trong vòng 30
ngày sau khi người tù binh HK cuối cùng rời khỏi VN thì hai bên
sẽ thiết lập xong hệ thống viện trợ tái thiết, và trong vòng 60
ngày sau đó thì lập xong hệ thống viện trợ phát triển kinh tế.
Bản mật ước do đích thân Kissinger mang tới Hà Nội cho Phạm Văn
Đồng ký nhận. Từ đó Lê Duẩn ngày đêm trông chờ món tiền của
Kissinger và đến cuối năm 1974, Liên Xô cử Tướng Kulikov sang Hà
Nội xúi Lê Duẩn đánh chiếm Miền Nam thì có nghĩa là Hiệp Định
Paris coi như tờ giấy lộn. Rốt cuộc Hà Nội biếu không 591 tù binh
Hoa Kỳ mà chẳng nhận được đồng nào, suốt 10 năm chiến đấu gian
khổ, hằng triệu người chết, hằng chục tỷ đô–la nợ chiến phí...
đến nay chỉ còn là con số không (sic).
Tướng Kulikov xúi Hà Nội phát động
chiến tranh trở lại nhưng Lê Duẩn và tập đoàn lãnh đạo CSVN thực
sự trắng mắt. Dân chúng Miền Bắc đã kiệt sức, trong 5 năm nhà
nước đã đóng cửa tất cả 18 trường đại học và cao đẳng, bòn vét
nhân lực đến độ phải gọi lính ở tuổi 16, tại Miền Bắc chỉ còn một
trời đàn bà góa... thì lấy đâu để gây chiến tranh trở lại.
*(Theo hồi ký của tướng CSVN Hoàng Văn
Thái thì cho tới năm 1974 Hà Nội đã động viên đến 16% dân số,
không thể nào động viên thêm được nữa. Trong khi Miền Nam là
5.88%)
V. HẾT
ĐẠN VÀ HẾT NHIÊN LIỆU.
Bắt đầu từ năm 1975 Đại tướng Cao Văn
Viên viết tường trình cho Ngũ Giác Đài về những ngày cuối cùng
của chiến tranh Việt Nam nhưng đến năm 1983 mới được in thành
sách với tựa đề “The Final Collapse” và hai mươi năm sau, 2003
The Final Collapse được nhà nghiên cứu sử Nguyễn Kỳ Phong dịch ra
tiếng Việt với tựa đề “Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa”.
Trong sách có kèm theo những chú giải mới nhất của Đại tướng Cao
Văn Viên. “Một sự thực không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết
đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975...” (Tài liệu của Ngũ Giác
Đài: Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ
Phong trang 136).
Năm 1974 tháng Giêng, theo tài liệu của
CIA: “Từ cuối tháng 12–1973 đến đầu tháng Giêng 1974 Tướng John
Murray và ban tham mưu của ông đã làm việc ngày đêm để cố gắng
tìm đáp số cho bài toán viện trợ quân sự. Nhưng mỗi lần họ tìm ra
một giải pháp để giải quyết vấn đề thì lại phát sinh một vấn đề
khác mà kết quả cũng chỉ đưa tới bí lối” (Frank Snepp, Decent
Interval, trang 95).
Tướng John Murray là Tư Lệnh cuối cùng
của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam. Ông đến Việt Nam sau Hiệp
Định Paris 1973, sang đầu năm 1974, ông và Bộ Tham Mưu Hoa Kỳ tại
Việt Nam phải tính toán sổ sách về viện trợ quân sự cho Nam Việt
Nam trong nửa cuối 1974 và đầu năm 1975. Tuy nhiên Ngũ Giác Đài
đã cho ông biết trước là có thể dưới 700 triệu đô–la nhưng theo
các chuyên viên tham mưu của John Murray thì 700 triệu chỉ đủ giữ
được Vùng 4.
Năm 1974 cũng theo Frank Snepp, ngày 16–8 John Murray họp buổi
họp chót với Đại tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng), Tướng
Đồng Văn Khuyên (Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận) và một số
tướng lãnh của Bộ TTM. John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm
gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2 và cả
Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng
Khuyên đều nói rằng lên kế hoạch về quân sự thì được, nhưng về
mặt chính trị thì không thể nào thi hành nổi”. Sau buổi họp này
thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
Năm 1974 tháng 5, theo Tiến sĩ Nguyễn
Tiến Hưng (Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch của VNCH) thì ông đã tình cờ
trông thấy bản kế hoạch “Cắt Đất Theo Lượng Viện Trợ” của Murray
nằm trên bàn của Tổng Thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974, nghĩa là
2 tháng trước khi Nixon từ chức. Như vậy Murray chính là tác giả
của kế hoạch bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào năm 1975, một kế hoạch mà cho
tới 40 năm sau người ta vẫn cho là sáng kiến (tối kiến) của Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sự thực Tổng Thống đã bị báo chí Mỹ cố
tình gieo tiếng oan mà lúc đó Ông không thể lên tiếng thanh minh.
Năm 1974, ngày 24–12: Theo hồi ký của
Đại tá Phạm Bá Hoa “Ngày 24–12–1974, lúc quân CSVN đang tấn công
Phước Long sang ngày thứ 10; một buổi tiệc mừng Giáng Sinh được
Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, tổ chức
trên lầu của Câu Lạc Bộ trong BTTM”. Khách tham dự gồm có Tướng
Smith (Chỉ Huy Trưởng cơ quan quân sự HK tại VN; Tướng Quân Y
Phạm Hà Thanh; Tướng Công Binh Nguyễn Văn Chức; Đại tá Phạm Kỳ
Loan (Tổng Cục Phó Tiếp Vận); Đại tá Phạm Bá Hoa (Tham Mưu Trưởng
Tổng Cục Tiếp Vận); Đại tá Pelosky (Phụ Tá của Tướng Smith);
Trung tá Nguyễn Đình Bá (Chánh Văn Phòng của Tướng Khuyên). Tướng
Smith tiết lộ rằng: “Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân
khoản dự trù hơn 300 triệu dollars để di tản sang Hoa Kỳ khoảng
40 ngàn sĩ quan và gia đình, nhưng thời gian thì chưa rõ” (Phạm
Bá Hoa, Đôi Dòng Ghi Nhớ, Bản in lần 4, trang 264). Khi sách của
Phạm Bá Hoa phát hành thì tất cả các nhân vật trong bữa tiệc đều
còn sống mạnh khỏe nhưng không ai phản đối, kể cả Tướng Smith;
chứng tỏ chuyện này hoàn toàn có thật.
Như vậy là kịch bản bỏ rơi Miền Nam đã
được lên giàn trước khi mất Phước Long chứ không phải là sau khi
mất Ban Mê Thuột. Người ta đã tính toán sẵn kế hoạch để cho VNCH
sụp đổ trước tháng 6 năm 1975, kể cả ước tính trước ngân sách chi
dụng cho kế hoạch.
Năm 1975, ngày 7–1: Phản ứng của Mỹ sau
khi mất Phước Long là: “Nhà Trắng nói rằng: Tổng Thống Ford không
có ý vi phạm những điều cấm chỉ (của Quốc Hội) về việc sử dụng
lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam” (Hồi ký của Tướng CSVN
Hoàng Văn Thái, trang 161). Khi vừa nghe tin này Phạm Văn Đồng
tuyên bố: “Cho kẹo quân Mỹ cũng không dám trở lại VN.” (trang
146).
Ngay sau
khi nhận được tin, Lê Duẩn chỉ thị cho Đại tướng Tổng Tham Mưu
Trưởng Hoàng Văn Thái lên kế hoạch tiến chiếm miền Nam: “Một
tháng sau chiến thắng Phước Long, ngày 5 tháng 2, anh Văn Tiến
Dũng lên đường vào Tây Nguyên” (Hoàng Văn Thái, trang 172).
Ngày đó cơ quan USIS của CIA tung tin
quân VNCH thua tại Phước Long là do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
cố tình bỏ Phước Long để thử xem phản ứng của Mỹ. Sở dĩ CIA đổ
cho Nguyễn Văn Thiệu là để Quốc Hội Mỹ có cớ biểu quyết ngưng
viện trợ quân sự cho VNCH.
VI. VÀ TÌNH HÌNH THỰC SỰ VÀO
THÁNG 3 NĂM 1975:
–Tuần đầu của tháng 3 năm 1975. Trong
một cuộc họp đầu tuần của Bộ Ngoại Giao HK, Kissinger đã giải
thích hành động viện trợ “Lấy Có” cho Cam Bốt: “Chính Phủ Lon Nol
đang trên đà sụp đổ, đây là nguyên do chính khiến chúng ta phải
tiếp tục viện trợ để cho sau này không ai có thể trách chúng ta
vô trách nhiệm”. (Frank Snepp, Decent Interval, trang 175).
*(Nguyên văn: “... he say, the Lon Nol Government was on the
brink of collapse, it was essential to keep open the aid pipeline
so no one could later blame the United States for the disaster”).
–Ngày 7–3–1975, Kissinger chỉ thị cho
các viên chức Ngoại Giao HK trước khi ông ta lên đường đi Trung
Đông: “Hãy làm mọi cách để Quốc Hội tiếp tục duy trì viện trợ
(lấy có) cho Cam Bốt và Việt Nam. Không phải để cứu vãn hai nước
đó, mà vì không thể nào cứu vãn được hai nước đó” (Frank Snepp,
Decent Interval trang 176). *(Nguyên Văn: Do every thing possible
to ensure that Congress lived up our aid commitments to Cambodia
and Vietnam– not because the two countries were necessarily
salvageable, but precisely because they might not be).
Hai ngày sau khi Kissinger nói câu này
thì Văn Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê Thuột. Kissinger không
muốn thiên hạ nghĩ rằng Việt Nam sụp đổ do không còn viện trợ.
Và với mức độ viện trợ nhỏ giọt thì đến
ngày 30–6–1975 quân đội VNCH sẽ không còn Gạo và không còn Đạn
(Tài Liệu The Final Collapse của Đại tướng Cao Văn Viên). Vì thế
Kissinger mong cho Quân đội VNCH tự tan rã trước khi hết Gạo và
Đạn trước tháng Sáu năm 1975. Lúc đó thiên hạ sẽ nghĩ rằng Quân
Đội Sài Gòn đã thua chạy trước sức tiến công vũ bão của quân Hà
Nội.
VII. THẾ BẮT BUỘC của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Năm 1975 ngày 11–3, một ngày sau khi
mất Ban Mê Thuộc. Theo Đại tướng Cao Văn Viên “Ngày 11–3 Tổng
Thống Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại Dinh Độc
Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ cho vừa
với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975”. Tướng Viên ghi lại
cảm nghĩ của ông lúc đó: “Quyết định của Tổng Thống Thiệu cho
chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng.
Hình như Tổng Thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây
giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng...”
* “... Tổng Thống Thiệu phác họa sơ:
...Một vài phần đất quan trọng đang bị cộng sản chiếm, chúng ta
sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi giá... Ban Mê Thuột quan trọng hơn
hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại...” (Cao Văn Viên, The Final
Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129–131).
“Ngay sau khi Phước Long bị tấn công,
Hoa Kỳ không có một phản ứng nào. Một thực tế gần như hiển nhiên
là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục và biểu quyết viện trợ
để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với Hoa Kỳ cuộc
chiến Việt Nam đã kết thúc” (trang 132). đoạn trích dẫn trên đây
đã giải thích vì sao Tổng Thống Thiệu phải bỏ Vùng 1 cũng như
Vùng 2. Và vì sao Tướng Viên không nhiệt tình tham gia kế hoạch
của Tướng Thiệu.
Cuối cùng, sau 30–4–1975 Mỹ mở chiến
dịch đổ tội làm mất nước cho Tổng Thống Thiệu để cho người ta
không oán hận Mỹ đã bỏ rơi VNCH. Giờ đây đã 40 năm trôi qua, nếu
người Mỹ không lên tiếng thì cũng nên trả lại sự thật cho lịch
sử...
Bùi Anh Trinh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những
bài liên hệ
Trang
chính
Bài 1:
Đại Cương Tiểu Sử & Vài Nét Hoạt Động
của Nha Kỹ Thuật/Bộ Tổng Tham Mưu–QLVNCH
Bài 2:
Huyền Thoại Nhưng Có Thật
Bài 3:
Vài nét về Biệt Kích Dù hoạt động ngoài Bắc Việt
Bài 4:
Sự Hình thành & Hoạt động của Sở Phòng Vệ Duyên Hải/Nha Kỹ Thuật, BTTM QLVNCH
Bài 5:
Mặt Trận Gươm Thiêng Ái Quốc & Thiên Ðàng Ðảo
Bài 6:
Phi Công Phan Thanh Vân
Bài 7:
Anh Hùng Biệt Hải
– Anh Là Ai?
Bài 8:
Tự Truyện một Phi Công
Bài 9:
Người Việt, Anh hay Chị ở vị trí nào?
Bài 10:
50 năm tưởng niệm Tết Mậu Thân
Bài 11:
Trả lại Sự Thật cho Lịch sử
Bài 12:
Bài thơ LÔI HỔ
Bài 13:
Tâm sự Người ở lại
Bài 14:
Hành quân phá hủy Mật khu Vũng Rô
– Hồi ký NN Lê Đình An
Bài 15:
Bài thơ CHIẾN THẮNG VŨNG RÔ
Bài 16:
Mình 3 đứa
Bài 17:
Sở Liên Lạc và Tôi
Bài 18:
Tóm lược sự Hình thành Nha Kỹ Thuật
Bài 19:
Phi Đoàn 219 KINGBEE
Bài 20:
Người Lính & những Người Lính
Bài 21:
Lính Biệt Kích
– Bóng Ma và Ma Ám
Bài 22:
Toán Chiêu Hồi
Bài 23:
Bóng Ma Biên Giới
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Đoàn Hữu Định chuyển
Đăng ngày Thứ Hai, June 11, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang