Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang
Lịch Sử
Chủ đề:
Tết Mậu Thân 1968 với bàn tay khát máu của CSBV
Tác giả: Tôn Thất Sang
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Kính
dâng hương hồn các vị Giáo sư Đức Quốc:
Giáo sư Gunther Krainick và Phu Nhân:
–Thạc sĩ Y Khoa Đại Học Greifswald 1943
–Thạc sĩ Y Khoa Đại Học Freiburg 1951
–Giáo sư Nhi Khoa Đại Học Freiburg 1954
–Giáo sư Nhi Khoa Đại Học Y Khoa Huế...
Giáo sư Raymund Discher:
–Giáo sư Bệnh Lý Nội Thương Đại Học Y
Khoa Huế
–Trưởng Khu Bệnh Lý Nội Thương
Đại Học Y Khoa Huế
Bác sĩ Alterkoster:
–Phụ tá Giáo sư Bệnh Lý Nội Thương
–Bác sĩ thường trú khu Truyền Nhiễm
... là những vị đã đóng góp công lao và tâm trí rất nhiều vào
việc khai sáng Đại Học Y Khoa Huế...
Những vị, với lương tâm chức nghiệp cao
quý và lòng vị tha vô bờ đối với bệnh nhân, đã mãi là gương sáng
của chúng tôi.
Những vị đã bỏ mình nơi quê người vì
tâm hồn bác ái và tình nhân loại (Tết
Mậu Thân 1968).
Lần
giở những trang trân trọng đầu tiên của cuốn luận án Y Khoa; nhìn
tên, tước vị của các Giáo sư người Đức, bỗng nhiên tôi thấy lòng bồi
hồi dâng lên niềm đau xót vô vàn với những tiếc nuối khôn nguôi.
Những thương yêu, kính mến, với biết bao kỷ niệm và lòng tri ân với
các vị; đã vì thiện tâm, chấp nhận hy sinh, xa gia đình, xa bạn bè,
xa tổ quốc thân yêu, để đem sở học và nguyện ước của mình, đi truyền
rao để khai hóa tận một xứ sở kém mở mang, xa xôi hẻo lánh, đầy dẫy
hiểm nguy, ở tận bên kia bờ Đại Dương. Ước nguyện của quý vị thật dễ
thương và hiền hòa là làm sao tạo dựng những Bác sĩ Y Khoa tài năng,
để đem sở học phục vụ bệnh nhân, phục vụ con người, phục vụ Y đạo ở
ngay xứ sở họ.
Thế nhưng, những hy sinh cao quý, từ những con người nhân ái đó, đã
bị trả một giá quá đắt – bằng chính mạng sống của họ – bởi một chính
quyền gọi là phát xuất từ nhân dân, vì hạnh phúc của nhân dân “chính
quyền cộng sản”; đã lạnh lùng ra lệnh thủ tiêu họ, không chút tiếc
thương, trong biến động do chúng gây ra, cái gọi là “Mặt trận Toàn
dân nổi dậy tổng công kích” vào cố đô Huế; trong dịp hưu chiến Tết
Mậu Thân!
Hạ tuần
tháng 4, năm 1968.
Khoảng gần hai tháng, sau Tết Mậu Thân, cố
đô Huế đã được Quân lực VNCH tái chiếm (25 tháng 2, 1968 dựng lại cờ
tại Kỳ đài chính của cố đô Huế; VC khai hỏa trong đêm Giao Thừa
29–1–68)
Huế, sau
những ngày bị bọn quỷ đỏ tràn ngập, đã nhuộm máu đào và nước mắt!
Không có phường nào, xã nào, không có xóm
nào, không có gia đình nào, là không có người thân ngã gục, cha xa
con, vợ mất chồng hoặc bằng viên đạn, hoặc bằng con dao, hoặc bằng
cán cuốc... Có hàng loạt ngưòi bị chôn sống, sau khi bị cột thành
từng “xâu người”, nối kết lại bằng dây dừa, dây điện thoại...
–Nào Phú Thứ oán khí ngất trời, với tiếng
khóc và màu tang phủ trắng cánh đồng!
–Nào chùa Áo Vàng (Tăng Quang Tự), nào
lăng Tự Đức.
–Nào
Trung Học Gia Hội, với hầm chôn tập thể, nơi mà trường học biến
thành lò sát sinh, nơi mà bọn “phản sư diệt tổ Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Nguyễn Đắc Xuân... và Lê Văn Hảo (Chủ Tịch Lực Lượng Dân Tộc, Dân
Chủ và Hòa Bình tại Huế)”, đã triệt để vâng lời bác Hồ dạy: “Trăm
năm trồng người” để chôn sống hàng loạt con người bằng xương bằng
thịt với nỗi đau kinh khiếp, rợn người mà oán khí chất ngất của họ
chắc sẽ đời đời theo níu chân bác và gia đình mà đòi nợ xưong máu!
–Nào Khe Đá Mài, Bãi Dâu, Tây Lộc... mà
mỗi địa danh là một âm vang của loài quỷ đỏ!
Huế tang thương lầy lội,
Huế rách như xơ mướp,
Huế tiêu điều với
tường xiêu, mái đổ,
Huế với thép gai giăng
mắc,
Huế như mặt kẻ bị đậu mùa,
Huế với B40, với AK47, với CKC báng đỏ,
Huế
đầy nước mắt với khăn tang,
Máu đỏ tanh hôi
chảy ngập đàng,
Hoa cúc, mai vàng sao chẳng
thấy?
Chỉ còn hoang lạnh với ly tan!
Trong cái cảnh hỗn mang ấy, tôi đi giữa
kinh thành Huế tang thương, đổ vỡ, lạc lõng, bơ vơ, không định hướng
như bị mộng du. Tôi đi mà lòng ngậm ngùi thương tiếc như lạc mất
người yêu xưa! Tôi đi, nhìn, nghe, phân vân, bồng bềnh như trong cơn
ác mộng!
Mậu Thân 1968:
“Huế đầy nước mắt với khăn tang”
Bỗng tôi hoảng hồn vì tiếng Vespa rít lên
bên cạnh, đồng thời với cái vỗ vai làm tôi giật bắn người:
–Đã biết tin gì chưa?
Tôi định thần nhìn lại, thì ra Đặng Ngọc
Hồ, tôi hỏi:
–Tin
gì mà có vẻ gấp rút thế?
–Tìm thấy xác của các thầy Krainick,
Discher, Alterkoster và cả xác bà Krainick nữa!
–Trời ơi, có chắc không, ở đâu?
–Nghe đâu gần chùa Tường Vân, phía trên
giốc Nam Giao. Rồi Hồ nói luôn:
–Ban đầu dân họ tưởng Mỹ, họ báo với tiểu
khu. Tiểu khu liên lạc với Lãnh sự Mỹ, thì biết Mỹ tuy có thiệt hại
khá nhiều, nhưng không có mất tích. Sau liên lạc với viện Đại Học
mình và với Lãnh Sự Quán Tây Đức thì biết Đức bị mất tích 4 công
dân: 3 nam và 1 nữ. Bây giờ thì trùng khớp.
Tôi chưa kịp đình thần, thì trong tiếng
còi inh ỏi, đã trông thấy Bùi Hữu Út xuất hiện như một cơn lốc trên
chiếc xe gắn máy, lạng và thắng nhanh như chớp! Tôi và Hồ vừa vội
vàng nhảy tránh cú lạng vừa nói cho Út biết... Đằng xa lại thấy Lê
Đình Thiềng, chở Nguyễn Quang trờ tới...
Bọn tôi, vội vàng làm cuộc họp “bỏ túi”
trên lề đường Trần Hưng Đạo, gần chi Thông Tin ở chân múi cầu Trường
Tiền, bây giờ đã gãy một nhịp – vết ô nhục do đoàn cán binh Bắc Việt
để lại, khắc một vết nhơ sâu đậm trong lòng người dân xứ Huế.
Khi đó vào khoảng mười giờ sáng, cái lạnh
của những ngày đầu Xuân len lén như dao cắt vào da thịt, lại thêm
cái nắng quái của ngày Xuân, sao hôm nay lại khác thường, nó nhợt
nhạt, vàng vàng, tai tái như da của một xác chết. Nó như bàng bạc
mùi tử khí của một thành phố đang ung mủ, đã có lắm người chết oan
khiên uất hận; chúng tôi chợt nghĩ đến các thầy và thương quá là
thương.
Tôi đề
nghị anh Hồ qua tiểu khu hỏi lại tình hình an ninh vùng đó đã ổn
chưa. Còn chúng tôi, lên xe, chở nhau, nhắm vùng Nam Giao trực chỉ.
Một hồi sau, Tiểu Khu cho một tiểu đội,
trên chiếc xe Dodge, với vũ khí đầy đủ đi mở đường, nhắm hướng vùng
chùa Tường Vân. Anh Thiếu úy bảo bọn tôi ngồi chờ ở ngã ba đường Nam
Giao, ngã rẽ vào chùa Tường Vân để chờ họ báo tin. Khoảng nửa giờ
sau, viên sĩ quan trở lại bảo tình hình an ninh an toàn, ụ không có
mìn bẫy và hiện tiểu đội ông vẫn bám sát địa hình.
Đột nhiên ông buồn bã, ngậm ngùi nói:
–Quân tôi, cùng một số dân trong xóm, đang
đào đất, thấy nhô lên bốn đầu tóc, trong đó có một đầu tóc màu bạch
kim, thật tội nghiệp quá!
Bọn tôi nhìn nhau thở dài:
–Chắc là thầy Discher rồi!
Mái tóc màu bạch kim, hơi dợn sóng của
người thầy tài ba thương mến học trò, xem học trò như con, không
ngừng ám ảnh tâm hồn chúng tôi đến xót xa.
Bọn tôi cám ơn viên sĩ quan và tất cả lên
xe, nhắm hướng chùa Tường Vân trực chỉ.
Chùa Tường Vân nằm về hướng tây nam núi
Ngự Bình (hướng Nam Giao, từ phố đi lên), đi quá chùa Sư Nữ một
quãng xa thì rẽ phải, con đường mòn đất đỏ, thoai thoải dốc với
nhiều ổ gà và nhiều bụi rậm.
Ngôi chùa với mái rêu phong, cổ kính,
chung quanh sân rộng là những ngọn trúc la đà. Ở giữa là ngọn giả
sơn Ngư Tiều Canh Độc. Xa xa, về phía dưới ruộng là hàng tre bao
phủ, xanh ngắt một màu, xen kẽ mấy cây lồ–ô, thân vàng có sọc xanh,
dịu dàng lay động trước gió. Cảnh chùa tuy đẹp, nhưng bọn tôi không
còn lòng dạ nào thưởng ngoạn khung cảnh nên thơ! Vừa xuống xe tại
sân chùa, đã nghe tiếng cuốc xẻng và thấy vài người dân địa phưong
tụm năm tụm ba, cùng một vài anh em quân nhân đang xúm xít đào bới
tận bờ hào tre, cách sân chùa khoảng 200 mét. Bọn tôi vội vàng chạy
lại:
–Tội quá các
anh ôi, 3 ông, 1 bà. Tất cả đều bị bắn giống nhau. Tụi VC thật quá
dã man, côn đồ! Tiếng một quân nhân phát biểu.
“... Trong chiếc hầm chật hẹp đó,
4 người ngoại quốc đều bị trói thúc ké,
hai
tay bị bẻ quặt ra sau lưng, bị siết chặt
bằng giây điện thoại truyền tin...”
Tôi vội vàng nhìn theo tay anh chỉ, thấy
ba quân nhân đang cùng một vài người dân, tay cuốc, tay xẻng, nhẹ
nhàng xúc đất và cát lên từ một chiếc hầm đào vội; bề dài khoảng 3m,
bề ngang khoảng 1m và bề cao khoảng 1m, vừa đủ cho thế quì thẳng
đứng của một người ngoại quốc! Trong chiếc hầm chật hẹp đó, 4 người
ngoại quốc đều bị trói thúc ké, hai tay bị bẻ quặt ra sau lưng, bị
siết chặt bằng giây điện thoại truyền tin. Nhìn mặt họ đều bị biến
đổi. Thái dương trái là lỗ đạn vào, thái dưong phải là lỗ đạn ra,
nên bị phá ra toang hoác; mắt lồi hẳn ra ngoài! Đường đi ngọt xớt
của viên dạn do chính kẻ luôn luôn rêu rao lấy lượng khoan hồng và
nhân đạo làm nền tảng để xử thế, đã làm méo mó, biến dạng những
khuôn mặt hiền hòa của các vị thầy chúng ta. Các Thầy đã “được giải
phóng” bởi cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của Bắc Bộ Phủ!
Chúng đã đang tâm đi “giải phóng” những con người chỉ biết đem tình
thương và lòng nhân ái ra cứu chữa cho mọi người bệnh tật, nghèo
đói.
Sau đó,
chúng tôi cùng nhau, người một tay phụ giúp anh em chuyển xác quý
thầy lên xe của tiểu khu và đưa vào nhà xác của Bệnh Viện Trung Ương
Huế.
“... Các Thầy đã
‘được giải phóng’ bởi cái gọi là
Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam của Bắc Bộ Phủ!”
Cả thành phố Huế xôn xao, cả bệnh viện xôn
xao! Nhiều người đã khóc nức nở. Có nhiều tiếng khóc thầm lặng ở khu
nội thương, phòng cấp cứu, khu truyền nhiễm, khu nhi đồng...
–Ôi, còn đâu nữa vị Bác sĩ trưởng đoàn,
luống tuổi, hồn nhiên, thương yêu sinh viên, đã luôn luôn tận tụy
trong bài giảng, trong lâm sàng, suốt đêm ngày khám bệnh ở khu Nhi
Đồng. Thân mật với sinh viên, vui đùa, xem như con; chúng tôi thường
gọi ông là Bon Papa.
Có lần, trong khi chuông reo, chờ Giáo sư
đổi giờ vào giảng, chúng tôi thuờng nghịch ngợm “câu giờ”; mặc dầu
chuông reo, nhưng chưa chịu vào lớp. Tôi cùng Lê văn Mộ, Trần Xuân
Thắng, Hoàng Thế Định... đứng cheo leo trên mép thành cửa sổ lầu
hai, nói chuyện phiếm. Ông đi lại nhắc nhở:
–C’est l’heure!
Chúng tôi giả bộ không nghe, ông vội trờ
tới, nheo mắt, lo lắng mỉm cười nói:
–N’avez vous pas peur de tomber du ciel?
Tôi làm bộ sắp rơi từ cửa sổ đáp:
–Si, mais je veux voler dans le ciel plein
de beaux nuages, mon bon papa.
Ông vội vàng chạy lại, hai tay nhẹ nhàng
nhấc bổng tôi lên, đặt xuống sàn nhà, hào hển nói:
–Oh, Il faut faire attention, mon pauvre
enfant!
Bọn chúng
tôi cười sảng khoái vì câu được giờ, ù chạy vào phòng học. Bon Papa
mệt nhọc theo sau!
Còn đâu những kỷ niệm êm đềm bên người
Thầy yêu quý, người đã đem hết cuộc đời tận tụy để phụng sự khoa
học. Lẽ ra Thầy phải về nước dưỡng bệnh một thời gian, sau khi bị
cơn bệnh “Japanese Encephalitis” vật vã một thời, tưởng như gần “đi
đứt”. Tuy nhiên ông đã ở lại vào dịp Tết Mậu Thân nghiệt ngã và bọn
quỷ đỏ đã bắt Thầy cùng vị phu nhân can đảm, yêu thương chồng, xin
được đi theo để chăm sóc chồng cho đến ngày cuối cuộc đời thì Bà
cũng bị xử bắn luôn!
Xin vĩnh biệt thầy cùng phu nhân.
Nguyện cầu Thầy cùng phu nhân thanh bình
trong cõi vĩnh hằng, ở nơi không còn hận thù, ở nơi mà bọn quỷ đỏ
phải lánh xa.
–Ôi, còn đâu nữa, Bác sĩ Raymund Discher – người BS trẻ tuổi, điềm
đạm và trầm tĩnh, vui tính và nhân hậu nhưng nghiêm khắc, ngày đêm ở
khu truyền nhiễm, với tương lai đang rực sáng, Nhớ lại những “Family
Party” thầy và cô thỉnh thoảng mở ra, mời sinh viên một vài lớp đến
dự trong căn apartment nhỏ ấm cúng, bên bờ sông Bến Ngự. Thầy và cô
hạnh phúc bên nhau như đôi vợ chồng mới cưới, thức ăn nhẹ, ruợu chát
đỏ, vừa chuyện trò với đám sinh viên và nghe những tấu khúc bất hũ
của Mozart trong không gian của buổi chiều đang tắt nắng, chỉ còn
lại ánh đèn vàng của gian phòng ấm cúng... Hạnh phúc của thầy cô
bình yên và miên viễn đến chừng nào.
Tuy nhiên định mệnh năm Mậu Thân đã khắc
nghiệt cướp đi mạng sống của người chồng tài hoa. Thầy vừa mới đưa
vợ về nước, và đáng lẽ thầy còn được nghỉ, mọi người đều khuyên nên
ở lại, nói tình hình ngoài Huế không an ninh, nhưng thầy lại tìm đủ
mọi cách ra Huế để giảng dạy sinh viên cho kịp thời khóa biểu riêng
mà thầy đã lập sẵn!
Bọn quỷ đỏ đã nhẫn tâm hành quyết thầy
bằng viên đạn xuyên thái dương đầy thù hận!
Nguyện cầu linh hồn Bác sĩ Raymund Discher
sẽ mãi mãi bình yên ở chốn vĩnh hằng.
–Ôi, còn đâu nữa Bác sĩ Alterkoster, người
Bác sĩ trẻ tuổi, đẹp trai, tận tâm ở khu truyền nhiễm. Alterkoster
với bộ râu quai nón đầy vẻ giang hồ của một tay hải tặc khí phách
“Le Viking”, đôi mắt xanh biếc ánh lên nét thông minh và nhân từ;
nhìn chung rất lôi cuốn và nhất định phải là một “good guy”.
Alterkoster rất thân mật và hòa đồng với sinh viên, ông thường rủ
sinh viên lên Kim Long, Thiên Mụ ăn chè, ăn bánh bèo... Tướng ông
rất tốt, xem qua không thể chết yểu được, ngờ đâu lại bại dưới tay
“sát thủ” của đảng và bác!
Nguyện cầu BS Alterkoster sẽ mãi mãi ở nơi
chốn Thiên Đàng.
Tối hôm đó, chúng tôi, hầu như tất cả các sinh viên Y khoa còn tại
Huế, đều tề tựu đến bệnh viện trung ương. Từ Đại Học Xá Nam Giao,
trung tâm Xavier, trường Nữ Hộ Sinh Quốc Gia, Cán Sự Y Tế... các bạn
ở mọi nơi trong thành phố, lần lượt biết tin, tập trung tại phòng
trực bệnh viện để phân chia công việc và trực xác quý thầy, đang tạm
quàn tại nhà xác bệnh viện.
Mờ sáng hôm sau, quan tài quý thầy được
đưa lên quàn tại Tòa Viện Trưởng Viện Đại Học Huế.
Sinh viên Y khoa chúng tôi, quần sẫm, áo
chemise trắng dài tay, cravat đen; nghiêm trang vòng tay đứng thành
hai hàng, trực bên quan tài quý thầy. Những tràng hoa phúng điếu rải
rác của các Tòa Lãnh Sự, các Trường, các Hội Đoàn, Đoàn Thể, các
Phân Khoa bạn...
Thầy Cô và
Sinh Viên Y Khoa Huế bên cạnh bia tưởng niệm
các GS, BS đã bị thảm sát trong biến cố Mậu Thân 1968
Đức Tổng Giám Mục Địa Phận Huế Nguyễn Kim
Điền chủ tế. Không khí lắng đọng, cảm xúc và trang nghiêm. Mắt mọi
người đều rưng rưng, tiếng máy quay phim đều đều, âm thanh trầm buồn
như lời nguyện cầu. Đột nhiên, có tiếng thổn thức ở phía cửa chính,
mọi người xôn xao nhìn ra; nhiều ống kính hưóng theo, ánh sáng máy
ảnh lập loè: Một thiếu nữ, trong bộ đồ đen tuyền, khăn tang trắng
bịt ngang đầu, nức nở lảo đảo tiến vào; hai tay ôm chặc vòng hoa tím
– Couronne Mortuaire – kết cườm đen có đính dải băng màu tím với
dòng chữ trắng “To You With All My Sacred And Humble Love.” Đức Tổng
Giám Mục lặng lẽ nhìn, nét mặt ngài dịu đi. Mọi người xúc động bàng
hoàng cùng với nhiều tiếng nức nở. Ai đây? Người thiếu nữ nhẹ đặt
vòng hoa trước linh cữu của BS Alterkoster rồi phủ phục xuống, ôm
quan tài khóc nức nở!
Mắt tôi mờ đi, cảm xúc đến lặng người;
nhìn người thiếu nữ, không còn trẻ lắm, với nét thùy mị, đoan trang
và kín đáo, kín đáo như trong tình yêu thiêng liêng của chị, thắm
thiết và buồn như màu tím của vành Couronne mortuaire. Những giọt
nước mắt xót thương chị đang gởi cho người mình yêu vừa ngã gục trên
mảnh đất của quê hương này. Máu đào của anh, vô tình đã tô thắm lên
quê hưong Việt Nam mến yêu của chị!
Tình yêu của hai người kín đáo và thầm
lặng như dòng sông xứ Huế, rất ít người được biết.
Ở đây, tôi xin phép chị Thảo – vâng, người
ấy chính là chị – cho tôi viết ra điều; phải chăng đó là những kỷ
niệm cao quý nhất và thiêng liêng nhất của cả cuộc đời chị; mà tôi
tin rằng, nếu mọi người biết đến, cũng sẽ làm tâm hồn họ thăng hoa,
bâng khuâng và xúc động, như khi họ khám phá ra một khu vườn hoa đầy
hương sắc, kỳ bí, mong manh, dễ vỡ. Họ sẽ ngạc nhiên thích thú và
trân trọng giữ gìn...
(Chị là chuyên viên phòng thí nghiệm
trường Y, nhưng chị thường lên thư viện để tìm sách đọc nghiên cứu,
và trò chuyện cùng chị Hường nên nhiều người cứ tưởng chị là quản
thủ thư viện – là chị Hường).
Sáng hôm sau, hai chiếc máy bay màu trắng
bạc “Air America” đưa bốn quan tài vào phi trường Tân Sơn Nhất. Ở
đó, ngoài phái đoàn Đại Học Y Khoa Huế, còn có phái đoàn của sinh
viên Đại Học Y Khoa Sài Gòn chờ đón với vòng hoa phân ưu và biểu ngữ
lên án bọn quỷ đỏ đã ra tay thảm sát những người làm công việc y tế,
chỉ biết phụng sự khoa học, phụng sự nhân loại.
(**) Linh cữu của bốn vị được đưa ra phi
cơ về cố quốc trên chiếc xe có bốn ngựa kéo, theo sau là 250 sinh
viên Y Khoa Huế và Sài Gòn, đội đưa tang và đội quân danh dự của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sinh viên cầm biểu ngữ nói lên lòng biết
ơn công lao của quý vị...
Bia
tưởng niệm các GS, BS Krainick, Raymund Disher và ALois
Altekoester như trong hình đã bị đập và vất xuống hồ rau muống
nằm giữa trường Y Khoa Huế và trường Cán sự Điều dưỡng sau ngày
đất nước thống nhất. “Quý Thầy đã bị chôn hai lần (1968 và 1975),
nhưng mãi mãi tập thể Y Khoa Huế không bao giờ quên ơn của quý
Thầy đã góp công xây dựng trường, đào tạo những Bác sĩ tài năng
và đã hy sinh đời mình cho lý tưởng phụng sự Y đạo ngay trên quê
hương chúng tôi.”
Một biểu ngữ ghi “Đại Học Huế
không quên các Giáo sư người Đức”. Trước khi linh cữu
được đưa lên máy bay, nghi lễ tiễn biệt diễn ra thật cảm động.
Ông Trân, thứ trưởng bộ giáo dục và kỹ thuật phát biểu: “Bao
nhiêu năm, tôi đã từng tham dự nhiều buổi lễ ghi nhớ các anh hùng
hy sinh cho Tổ quốc, nhưng chưa bao giờ cảm động như hôm nay, khi
tiễn biệt những người Bác sĩ dân sự này đã chết cho lý tưởng cao
cả vì tha nhân và nhân loại.”
(**) Trích “Cái chết của
Bác sĩ Krainick” của Elje Vannema, trang 98–99 (Cuốn
Thảm sát Mậu Thân ở Huế)
Máy bay rời phi đạo, cất cánh lên cao
dần và mất hút, mọi người vẫy tay tiễn biệt lần cuối, ánh mắt đỏ
hoe, mờ lệ...
Vĩnh biệt từ nay bóng dáng thầy
Tình sư nghĩa phụ sáng trời mây
Thương
người viễn xứ thân tan nát
Lưu lại danh
thơm với tháng ngày!
Tôn Thất Sang
Cali, ngày 22 tháng 3 năm 1991
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những
bài liên hệ
Từ Xuân Đó... Tết Mậu Thân 1968
Năm mươi năm hát trên những xác người
50 Năm cuộc Thảm Sát Mậu Thân (1968–2018)
Thư gửi Nguyễn Phú Trọng, Trần Đại Quang và Nguyễn Xuân Phúc
Những giờ phút Bình yên cuối cùng và Diễn tiến
Mặt trận Huế
Chiếm lại Con đường, Cửa Sập. Chiếm lại Kỳ Đài
Xuân Mậu Thân Đau Thương
Diễn tiến cuộc Thảm sát ở Giai đoạn II tại Huế vào Mậu Thân 1968
Hoàng Phủ Ngọc Tường sắp chết vẫn nói dối
Gởi Thầy Hoàng Phủ Ngọc Tường
Mồ tập thể đầu tiên bên Sông Hương 1968
Mậu Thân–Huế, anh Em Hoàng Phủ Ngọc Tường và Người vẽ đường hươu chạy...
Vì sao chính quyền cộng sản Việt Nam không muốn nhắc đến...
Đi Nhận Xác Thầy
Chiến thắng mùa Xuân Mậu Thân 1968 của ĐCSVN và Nguyễn Đắc Xuân
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh thiên nhiên đẹp hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by th chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, February 23, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang