Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Hồi ký Chiến trường
Các Đại Đội thuộc TĐ5ND/QLVNCH
ĐĐ50, 51, 52, 53, 54
“Chân
thành cổ chất đầy xương máu
Anh hùng ôm nỗi hận thiên thu.”
––ĐCV
Xin cùng tôi thắp nén hương lòng tưởng
niệm
các anh hùng tử sĩ của Tiểu đoàn 5 Nhảy dù QLVNCH
trên chiến
trường An Lộc và Quảng Trị 1972.
Tưởng nhớ đích thân “Minh Hiếu”.
–– Việt Long (GĐMĐ/D.C.)
Lời tác giả: Bài này được trình bày như một bút ký chiến tranh của một chiến binh Nhảy dù, QLVNCH, xoay quanh những kinh nghiệm cá nhân cùng những dữ kiện được tổng hợp, gạn lọc và tóm lược từ lời thuật của một số sĩ quan thực sự tham chiến. Thêm vào đó, chiếm một phần không nhỏ để trình bày bối cảnh của trang chiến sử, là phần tóm lược một tài liệu liên quan và một số hình ảnh trên website chính thức của Sư đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Hầu hết những tài liệu trên website này do hai cựu sĩ quan Nhảy Dù dày công thu thập và tổng hợp, biên soạn một cách nghiêm chỉnh và trung thực, Đại úy Võ Trung Tín, Tiểu đoàn truyền tin, và Đại úy Nguyễn Hữu Viên, Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù. Mong hai “đích thân” nhận nơi đây lời cám ơn chân thành của tác giả, người đang làm phụ công việc của hai anh, là ghi nhận để lưu giữ và phổ biến những dữ liệu chân thực của cuộc chiến đấu của đoàn quân Mũ Đỏ QLVNCH. ––VL.
Tái
chiếm Quảng Trị: Hành Quân Lam Sơn 72
28/6/1972 là ngày N của kế hoạch phản công tái
chiếm Quảng Trị do Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh QĐI, dày
công thiết kế, sau
khi
ông tổ chức xong một Trung tâm Phối hợp Hỏa lực có khả năng điều
động và phối hợp toàn bộ hỏa lực yểm trợ của các đơn vị Hoa Kỳ và
Việt Nam.
Lực lượng tham chiến gồm có SÐND làm nỗ lực chính,
SÐTQLC tấn công cánh phải, Thiết Ðoàn 7KB tăng phái, LÐ1BÐQ và SÐ1BB
trừ bị và bảo vệ hậu tuyến. SÐ1BB bung rộng sang vùng Tây Huế, tái
chiếm các căn cứ trong khu vực thung lũng Ashau. Trung Ðoàn 57BB
hành quân bảo vệ địa bàn Quảng Nam. SĐ3BB trấn ngự chung quanh Đà
Nẵng. Thành phần trừ bị gồm Trung Ðoàn 4/2BB, Trung Ðoàn 51 và Thiết
Ðoàn 17KB.
Sư Đoàn Nhảy Dù khởi động chiến dịch Lôi
Phong:
Ngày Ngày N–2 và N–1: không tập toàn diện bằng tất
cả hỏa lực của Việt Nam và đồng minh: B–52, hải pháo, hỏa lực không
quân chiến thuật của Việt Nam và Hạm Đội 7, toàn thể pháo binh của
ba sư đoàn tham chiến, nhắm vào các vị trí tập trung quân, kho tàng
cơ giới và vị trí Pháo binh địch.
Thêm vào đó là một kế hoạch
nghi binh bằng một lực lượng Nhảy Dù chuẩn bị nhảy xuống Cam Lộ,
cùng lúc TQLC đổ bộ vào cửa Việt để cắt đường tiếp vận của đối
phương. Kế hoạch này nhằm đánh lạc hướng chú tâm phòng thủ của địch.
Ngày N. Lấy QL–1 làm trục tiến quân, hai đơn vị Tổng Trừ Bị của
QLVNCH tiến song song: SÐND bên trái, SÐTQLC bên phải, TĐ7KB tăng
phái. Hằng vạn quân rải từ bờ biển đến tận chân dãy Trường Sơn. Mục
tiêu: Cổ thành Quảng Trị.
Theo kế hoạch, SĐND sẽ được trực
thăng vận qua sông Mỹ Chánh rồi dàn quân tấn công về hướng Bắc.
Nhưng 5.00 giờ chiều ngày N–1, Trung tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh
SĐND, bất ngờ thay đổi lệnh hành quân.
3.00 giờ sáng ngày N, 28/6,
3 Tiểu Ðoàn Nhảy Dù thuộc quyền BCH/Lữ Đoàn III âm thầm vượt sông Mỹ
Chánh. TÐ2ND do Thiếu tá Nguyễn Ðình Ngọc chỉ huy đi cánh trái,
TÐ1ND do tân Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu tá Lê Hồng chỉ huy đi giữa và
TÐ3ND do Thiếu tá Trần Văn Sơn làm Tiểu Ðoàn Trưởng đi cánh phải.
Tất cả súng phòng không của CSBV ở bên kia bờ sông sẵn sàng chĩa
mũi lên trời dàn chào các “Thiên Thần Sát Địch” bằng lửa địa ngục
của quỷ. Nhưng bất ngờ, hằng ngàn quân mũ đỏ nổ súng tấn công ngay
các vị trí chỉ huy và phòng ngự của VC. TÐ2ND đánh thẳng vào BCH
Trung Ðoàn 203 chiến xa của VC. TÐ1ND xung trận tiêu diệt hết các vị
trí phòng không, tịch thu 14 súng phòng không 12.7ly và 37ly, 2 đại
bác 57ly phòng không, bắt sống 5 tù binh.
TÐ3ND đi cánh phải
chiếm vùng Lương Ðiền, Tân Tường, Trường Vinh đến tận phía Nam sông
Ô–Khê để bảo vệ bãi đáp cho 2 TÐ9ND và TÐ11ND. Sau đó TÐ3ND tiến về
phía Bắc quét sạch các chốt địch dọc theo Quốc Lộ 1 (Ðại Lộ Kinh
Hoàng) rồi hướng mũi dùi qua phía Ðông tái chiếm Quận Hải Lăng.
Bản đồ chiến trường Quảng Trị (courtesy of NHAY DU VIETNAM web nhaydu.com)
Lữ Đoàn I Nhảy Dù
xung trận
Sáng ngày 2/7/1972, Trung tá Lê Văn Ngọc
tân LÐT/LÐIND chỉ huy 3 Tiểu Đoàn Nhảy Dù gồm:
TÐ9ND (Trung
tá Trần Hữu Phú TÐT), TÐ11ND (Thiếu tá Lê Văn Mễ) và TĐ7ND (Thiếu tá
Trần Đăng Khôi TĐT) giữ trách nhiệm lùng quét địch trên trục phía
Tây dưới chân dãy Trường Sơn, từ phía Bắc sông Mỹ Chánh qua sông
Nhung đến La Vang, quét dọc theo bờ sông Thạch Hãn rồi vào thị xã
Quảng Trị.
TÐ9ND và TÐ11ND được trực thăng vận đổ xuống phía
Bắc Sông Nhung, tiến song song diệt từng dãy chốt liên hoàn trên
những dãy đồi trọc không một bóng cây, dưới ánh nắng cháy da của mùa
hè đỏ lửa.
TÐ9ND chia quân thành 2 cánh tiến đánh vùng Tân Lê
Phước Môn, tất cả 4 ÐÐT đều bị thương vì pháo địch. Ðại úy Ngưu
ÐÐT94 tử thương tại Tân Téo.
TÐ11ND là trục chính của cuộc
tiến quân, từ Hải Lâm chia làm 2 cánh tiến chiếm mục tiêu nhà thờ La
Vang, “Song kiếm trấn ải” (hai con số 1 song song) dàn quân phục
kích một đoàn chiến xa BTR–85 và PT–76 chuyển quân của địch ngược
chiều trên QL–1. Sau 2 giờ quần thảo, chiến xa địch quay đầu bỏ
chạy, hoảng loạn khi qua cầu, dồn đè lên nhau lật xuống sông. Tiểu
Đoàn 7 Nhảy Dù do Thiếu tá Trần Đăng Khôi làm TĐT được trực thăng
vận xuống khu vực nhà thờ La Vang, lập tức tấn công bắn cháy 2 chiến
xa T–54 bố trí trước sân nhà thờ, làm chủ tình thế sau 3 giờ kịch
chiến.
Trưa 7/7, TÐ3ND tấn công vào quận đường Hải Lăng sau 5
ngày bứng chốt. ÐÐ33ND xung phong, địch tháo chạy về hướng Bắc, quận
đường Hải Lăng về tay ta lúc 4.00 giờ chiều.
Tiểu
Đoàn 5 Nhảy Dù giã từ An Lộc, hẹn với Cổ Thành
Ba
Tiểu đoàn Nhảy dù 5, 6, 8 thuộc BCH/Lữ Đoàn III dưới quyền Đại tá Lê
Quang Lưỡng tăng cường cho mặt trận Bình Long–An lộc, sát vai cùng
nhiều đơn vị bạn quần thảo với trên 3 sư đoàn cộng quân từ trung
tuần tháng 4 đến cuối tháng 6/1972. Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù dưới quyền
Trung tá Nguyễn Chí Hiếu, “Minh Hiếu”, từ An Lộc trở về căn cứ Ngô
Xuân Soạn ở Tam Hiệp lúc gần cuối tháng 6. Tôi, lúc đó là Trung úy
Nguyễn Tiến Việt, “Đại Cồ Việt”, lên làm đại đội trưởng đại đội 51
trong An Lộc từ khi Đại úy Trương đăng Sỹ “Sỹ Biên” bị thương, di
tản. Lúc lên đường hành quân, đại đội 51 chất đầy 5 chiếc GMC, anh
Sỹ và Truyền Tin đi xe Jeep. Cả tiểu đoàn hùng binh Mũ Đỏ, quân phục
láng o, súng sạch đẹp như ngày khám xét, ngồi chật 30 xe quân vận,
chưa nói đến xe tăng và pháo binh cùng cả một lữ đoàn hành quân bộ,
khí thế đổ thành nghiêng nước. Một lần xuống xe lúc nửa đường tới
Chơn Thành, một đợt tấn công, bóng dáng nhỏ thó của Thiếu tá Tiểu
đoàn Phó Lê Hồng đứng sừng sững trên mặt đường nhựa trong làn mưa
đạn địch phất bản đồ thúc xung phong, hai đại đội 53, 54 tung 200
quân hàng ngang tràn qua mặt đường như sóng vỡ bờ, diệt liên hoàn
chốt gần 100 VC đóng sát Quốc Lộ 13, đếm trên 40 xác cộng quân và vô
số vũ khí. Trực thăng võ trang UH–1B còn đuổi tàn quân VC tuốt trong
rừng sâu, rocket, đại liên bắn xoẹt đùng tắc tắc như trống múa lân.
Sau đó là trận phản phục kích bắc Chơn Thành trên QL–13, rồi gần
ba tháng trường đánh trộn trấu vùi dập với địch quân quanh An Lộc và
trong thành phố. Đổ trực thăng xuống chân đồi Gió hôm 17 tháng 4,
sáng hôm sau TĐ5ND nhắm hướng tây hành quân vào An Lộc. Địch phục
kích chặn đánh trong rừng cao su, bị đẩy lui lập tức. Tiểu đoàn chia
đôi đóng thế ỷ dốc trên hai đồi cách thành phố chừng 2km hướng Đông
Nam. Đêm xuống hai trung đoàn địch tấn công. Trung úy cố vấn Cover
gọi smart bomb 500 pound thả một trái một sát tuyến đại đội 51, dập
tắt ngầm đợt xung phong của tiểu đoàn địch. Sáng ra đếm 30 xác sát
tuyến và vô số súng ống. Vừa thu dọn rút về hướng tiểu đoàn, qua con
suối giữa, thì địch gom một đại đội quay lại bất ngờ quật một mũi vu
hồi. Khá khen cho địch quân thiện chiến, nhưng các con xung phong
đông như kiến vào vị trí trống, lãnh M–79 tơi bời, chạy ra không
kịp. Lực lượng chính xung phong vào tuyến tiểu đoàn. “Minh Hiếu”,
“Chí Bệu” (trưởng ban 3) đứng thẳng trên nóc hầm điều chỉnh air
show. Phản lực và Cobra Mỹ luân phiên từng pass một đánh bom và
rocket theo hướng thẳng góc với nhau block hai mặt tiểu đoàn, nhuyễn
chưa từng thấy. Quân ta đứng nhìn VC chạy bom xuống suối, thì Cobra
tọc tọc xịt rocket xoẹt đùng dọc lòng suối cạn. Quân ta ôm súng há
mỏ sau cây cao su nhìn VC sinh Bắc tử Nam không đếm kịp. Địch tung
xác đầy rừng, nhưng tiểu đoàn chưa lấy được bao nhiêu súng thì đã
vội rút chạy marathon vào An Lộc, bỏ cả nồi niêu xoong chảo: B–52
trên đường bay tới đánh mục tiêu. Đến cạnh nam thành phố nhìn sang
Xa Cam, chưa kịp đào hầm hố thì VC pháo kích, tấn công. Quân ta của
hai đại đội 53, 54 bám gốc cao su chống trả, may sao cối 82 pháo
trật, ta lấn ra và tung quân phản xung phong truy kích. Đại úy Dũng
54, “Dũng Sĩ” hy sinh ngay trận này.
Ba đại đội 50, 52, 53
tổn thất nặng trong rừng cao su Xa Cam Xa Cát trong vòng nửa tháng.
Tiểu đoàn Phó Lê Hồng đã trúng thương trong trận đoạn chiến ở QL–13
trên đường tới Tàu Ô. Năm đại đội trưởng, thì Dũng Sĩ 54 hy sinh, Từ
Khánh Sinh 50, “Sỹ biên” 51 và Hồ Tường 52 bị thương, đều bị ở Xa
Cam Xa Cát. ĐĐT53 Hải Thần cũng cùng số phận. 50, 52, 53 gom lại
chưa bằng một đại đội lúc nhập trận, phải ở cạnh BCH tiểu đoàn làm
trừ bị cuối.
Bồ Tát Quán Thế Âm, phải, chỉ có Ngài, đã ban
phép lạ cho tôi đứng đội trời tới phút chót, sau hơn chục lần rách
áo, thủng quần, đạn bứt quai nón sắt, mà chỉ xây sát chưa đủ báo cáo
chiến thương, trong khi đồng đội ngã như rạ ở xung quanh. Đại đội 51
của tôi và 54 của Trung úy Nguyễn Vũ Dương chỉ còn mỗi đơn vị từ 40
đến 60 quân khiển dụng, dựa nhau đội pháo đạp mìn đánh giặc, giải
tỏa và giữ vững phòng tuyến nhà thương An Lộc ở phía tây, đối diện
ty công chánh và tòa nhà cải huấn kiên cố cách đó chừng 500m, bẻ gãy
nhiều đợt tấn công của địch. Sau lúc trình diện Đại tá Lê Quang
Lưỡng trong compound của Tướng Nhựt, tôi và Dương dẫn đại đội đội
pháo chạy qua ty Cảnh Sát và nhiều dãy phố đổ nát còn dính đầy máu
vì pháo kích, vượt qua bộ tư lệnh chiến trường, nhắm tới nhà thương
và ty công chánh. Tôi được chọn vị trí, bèn chọn phòng thủ chính
diện hướng tây, làm tấm khiên thép cho bộ Tư Lệnh của Tướng Lê Văn
Hưng. Compound chỉ huy chiến trường của vị tướng anh hùng chỉ cách
một con phố nhỏ phía sau. Dương thủ vị trí trừ bị bên trái. Một đêm
700 trái 105mm và 155mm toàn đạn delay từ hướng Cần Lê phóng về, ù ù
vèo vèo sát mái tôn bệnh viện bên tôi tưởng chừng tốc mái, nhưng rớt
qua nổ chìm sập nhà tơi bời bên Dương, Dương bị đè vẹo xương sống,
không chịu knock–out, quỷ thần đếm chưa tới 10 đã lồm cồm bò dậy chỉ
huy, giữ vững vị trí và tải thương anh em ra phía sau.
Cộng
quân mở hai đợt tấn công đêm, dùng chiến thuật đặc công. Chúng chưa
biết đang đụng phải Nhảy Dù mới vào trám tuyến, từng nắm tẩy các
công trường cộng quân quá rõ. Anh em tôi thắp sáng đêm không ngủ
bằng lửa đỏ của 12 thùng lựu đạn, bò ra sát đường ném qua, không nổ
một tiếng súng, giết vô số địch bên kia đường, khu vực ty công
chánh, chỉ tức là không thể qua lấy súng. Không tên nào lọt qua tới
bên Dương 54. Gần sáng, C–130 bao vùng bắn spector và stinger. Từng
phát từng phát, tóc tóc bùng bùng, lửa tóe pháo bông đẹp như mơ.
Cộng quân định dở trò một đợt gần sáng, phải bung hàng chạy tán
loạn, làm mồi cho cây đại liên M–60 thiện xạ của Hạ sĩ Sơn và cây
M–79 bách phát bách trúng của Trung sĩ Đổng, tới lúc đó mới khai
hỏa. Đang vui nhộn um sùm thì spector tóc bùng một phát cuối trúng
ngay cái container chứa nước đặt trên bệ cao phía cạnh bắc của nhà
thương, ngay phòng tuyến của Chuẩn úy Ngưỡng. Hên quá, một em bị
thương nhẹ. Xạ thủ Mỹ từ cao độ 12,000 feet báo là thấy chiến xa
địch nằm ở đó!
Có đêm được lệnh chờ đánh xe tăng địch. Đại
đội xé lẻ đóng chốt rộng và sâu, theo binh thư Sư đoàn Dù vừa huấn
luyện. Ba toán chống tăng phục kích chân chim từ ngã tư trở vô.
XM–202 bắn được 4 hỏa tiễn liền nhau, cho lên tháp nước, nằm im chờ
nổ liền 4 phát mà không bắn cháy được nó là phải đu dây phóng xuống.
Sáu tổ hỏa lực sẵn sàng bọc lưng cho khinh binh vác M–72 đuổi bắn
vào đuôi xe tăng. Nhưng chưa tới 11 giờ đêm, C–130 lên vùng, dập tóc
tóc bùng bùng tưng bừng trong rừng cao su phía tây, minigun réo như
bò rống tới gần sáng. Các bạn bộ binh nói có thấy lửa bùng như xe
tăng cháy trong rừng. Sáng rõ, SA–7 từ mặt phía Bắc phóng lên. Làn
khói leo cao leo cao mãi. Hồi hộp sợ máy bay rớt, quân ta ngóng cổ
nhìn theo, thấy cục lửa bám vào hông chiếc C–130. Nó bay vòng lại,
xả mimigun “bò rống” xuống điểm phát pháo, rồi mang cả đốm lửa bay
về. Hên quá!
Hai bên đối diện cầm cự suồt gần hai tháng qua
con đường nhựa rộng chừng 5m. Địch đánh kiểu gì cũng bể gáo với Nhảy
dù. Tôi chưa là một đại đội trưởng đủ kinh nghiệm và tự tin để dám
tung hơn 50 sinh mạng anh em tấn công một lực lượng địch có trừ bị
mạnh, có ưu thế về hỏa lực và địa thế. Bên ta không có yểm trợ hỏa
lực Pháo Binh. Cả mặt trận An Lộc lúc đó chỉ có được đúng hai cây
súng cối 81ly, đạn dược hạn chế tối đa, nhưng hỏa lực Không yểm rất
mạnh, giúp đỡ rất lớn cho việc phòng thủ. Tất cả các căn cứ hỏa lực
Pháo Binh từ An Lộc sang hướng tây đều lọt vào tay địch, chúng sử
dụng để pháo bên ta suốt ngày đêm. Vậy mà mọi cuộc tấn công của địch
đều bị quân Dù bẻ gãy. Trung đoàn địch đóng bộ chỉ huy trong trại
cải huấn, điều động bổ sung quân số cho tuyến trước mặt tôi, nhưng
mon men đánh vô bao nhiêu là bị anh em mũ đỏ chúng tôi tôi hốt gọn
bấy nhiêu. Nhưng bên tôi bung ra cũng không được vì tòa nhà trại cải
huấn kiên cố với tường cao, hỏa lực yểm trợ trực tiếp cho quân địch
bằng súng không giật và B–41 trực xạ từ trên cao xuống khu vực nhà
đổ trống trải của ty Công Chánh, có lúc quân ta đã nhào qua chiếm
được nhưng không thể giữ được tới một ngày, phải rút về để tránh tổn
thất vô ích.
Skyraider đánh bom nhà cải huấn bị trúng SA–7,
phi công VN thiệt giỏi, còn xả bom và ngóc đầu máy bay lên, nhảy dù
ra, rớt qua phía bộ binh ta ở hướng nam. Đại đội bộ binh tăng cường
cho tôi, có được đâu hơn 20 quân, tôi nhờ đóng giữ sườn cánh phải,
hướng bắc, ít khi phải nổ súng. Ông Trung úy Đại đội Trưởng hơn tôi
10 tuổi, dong dỏng cao, có bộ râu đẹp, lúc nào cũng lạc quan và hài
hước, thích nói chuyện về phụ nữ, có hôm anh làm cả hầm chỉ huy cười
ầm ỹ giữa lúc đạn pháo kích bay ào ào qua mái tôn... Đại đội 51 của
tôi cũng bị tổn thất trung bình. Ngoài giao chiến, bắn sẻ, đại bác
và súng cối mỗi ngày pháo kích lai rai hằng trăm trái, không cách gì
thoát nổi. Trên hai tháng trời, tôi mất nhiều em út thân yêu. Nhớ
nhất là Binh nhất Hiền, người Quảng Trị, phụ xạ thủ đại liên, từng
bắn lui cả một đại đội địch đang lấp ló xung phong lúc Lữ đoàn đoạn
chiến ở QL–13 để lên trực thăng vào An Lộc, tôi dành cây M–60 bắn
tiếp, để chú kéo M–72 thảy tung một khẩu đội 75ly không giật đang
mon men đặt súng cách 200m để trực xạ trung đội tôi đang nằm lại
chống cự quân truy kích, bao chót cho cả Lữ đoàn. Sau khi phản lực
đánh tung lên trời đại đội địch trong đội hình tấn công từ bên kia
đường QL–13, chúng tôi mới khiêng được xác Trung úy Kiều Nại vừa
chết vì pháo cối ngay đó, còn nóng hổi, về tới căn cứ hỏa lực. Trong
An Lộc, Hiền còn bắn sẻ hạ 7 tên địch phía bên ty Công Chánh. Rồi em
bỏ mình vì một viên bắn sẻ.
... An lộc an bình, Lữ đoàn Dù
chúng tôi với ba tiểu đoàn 5, 6, 8 kéo ra, thay phiên nhau bứng chốt
dọc QL–13 tới căn cứ Tân Khai để về Sài Gòn... Đánh nhau trong rừng
cao su rất “sòng phẳng”. Bên nào thiện chiến hơn là thắng, dù trong
điều kiện yểm trợ tiếp vận chênh lệch. Trong số ba tiểu đoàn mũ đỏ
này chỉ có Tiểu đoàn 6 Nhảy dù là gần đủ quân số, vừa từ Tân khai
đánh ngược lên bắt tay với Lữ Đoàn. Hai Tiểu đoàn 5 và 8 chỉ còn
chừng ¼ quân số... Nhưng chốt kiềng dọc đường đều bị nhổ sạch, hoặc
địch buộc phải rút vào sâu tránh quân Dù, chờ Dù đi qua lại ra chặn
đường trở lại... Tướng Hollingsworth ra lệnh cho trực thăng Mỹ phải
bốc hết Lữ Đoàn trong ngày, ở cạnh phía Nam căn cứ Tân Khai. Tiểu
đoàn Trưởng TĐ5ND, “Minh Hiếu”, chấp thuận ý kiến của tôi đề nghị
bốc quân ngay trên quốc lộ, tránh được hỏa tiễn 107ly và 122ly bắn
qua đầu sang hết cánh rừng phía Đông...
Đoàn xe Tiểu đoàn 5
chạy chậm hẳn lại khi vào cổng xã Tam Hiệp. Hai bên đường đầy những
đồng bào và cả xứ đạo với ban nhạc kèn trống nghênh đón. Đại đội tôi
chỉ còn 3 xe ngồi còn trống gần một nửa. Tôi không ngăn được dòng
nước mắt tuôn trào. Tiếng hoan hô và quân nhạc đón chào như văng
vẳng bên tai. Hình ảnh đồng bào hân hoan nhòa nhạt như lẫn vào những
hình bóng chập chờn các anh em huynh đệ như thủ túc đã không còn
quay lại nơi chốn thân yêu này để về trại gia binh Tiểu đoàn với vợ
con được nữa.
Ngoài mặt trận không hề biết lo buồn, suy nghĩ,
nay lễ tuyên dương đang tưng bừng giữa sân cờ Tiểu đoàn, tim tôi
rướm máu. Anh em binh sĩ cũng đồng tâm trạng, lòng cứ hướng về phía
những chiếc khăn tang mới của các quả phụ cô nhi tử sĩ dựa nhau khóc
ngất dưới hàng phượng vĩ quanh sân cờ. Chồng và cha họ không bao giờ
còn trở về trại gia binh ấm êm hạnh phúc kia...
Rồi hình ảnh
mặt trận đầy chặt trong giấc ngủ chập chờn chờ sáng tung cánh về Sài
Gòn với gia đình, lúc đó Sài Gòn chưa biết tiểu đoàn đã về hậu cứ.
****** ||| ******
Lệnh Sư đoàn cho nghỉ ngơi bổ
sung quân số 1 tuần lễ trước khi đi Quảng Trị. Nghỉ phép 4 ngày chưa
hết thì hậu cứ phóng người về Sài Gòn triệu tập hết sĩ quan chúng
tôi lên doanh trại. Tiểu đoàn nhận lệnh không vận ra Huế vào đúng 4
ngày sau đêm từ An Lộc trở về. Hầu hết quân nhân cơ hữu ở bên ngoài
trại gia binh vẫn chưa trở về. Anh Sỹ bình phục, về nắm lại 51. Tôi
qua làm Đại đội Trưởng 54, đem đại đội ra phi trường chỉ có gần 30
quân, toàn Hạ sĩ quan và Binh sĩ của ĐĐ54 ở trong trại gia binh.
Tiểu đoàn chuẩn bị lên phi cơ với khoảng 25% quân số, gồm bộ chỉ
huy tiểu đoàn và các bộ chỉ huy của 5 đại đội cơ hữu, cộng thêm 52
tân binh bổ sung tại phi trường Tân Sơn Nhất. Nhưng đó lại là lúc
tôi phải luyến tiếc bàn giao Đại đội 54 cho Trung úy Dương vừa ra
phi trường trình diện hành quân; trước đó ai cũng tưởng sau gần ba
tháng An lộc anh chàng này phải trốn ở nhà với vợ thêm ít hôm rồi
mới lên đường ra trận. Té ra anh chàng cũng ghiền đánh giặc không
kém gì tôi.
Tôi trở về 51 với Đại úy Sỹ. ĐĐ51 dưới quyền tôi
sau hai tháng trong An Lộc chỉ còn hai sĩ quan khiển dụng: tôi với
thiếu úy Vũ Văn Hợi (các Trung đội Trưởng Trung, Ngưỡng, Lượm đều bị
thương, Trung úy Tuyết tử trận) tuy quân số lúc kéo từ An Lộc ra
đánh chốt dọc QL–13 về tới Tân Khai vẫn còn được đâu khoảng 52 quân,
nhiều nhất trong cả tiểu đoàn. Đại úy Trương Đăng Sỹ là Đại đội
Trưởng duy nhất trong hàng ngũ chỉ huy kỳ cựu của tiểu đoàn mà còn
sống sót sau An Lộc và trở lại hành quân. “Sỹ Biên” cùng Đại đội 51
là element de choc của “Minh Hiếu” trong nhiều năm nay, tôi là cánh
tay mặt của anh, nên anh lấy tôi về cho kỳ được.
Ra mặt trận
Huế, Quảng Trị, tiểu đoàn trú đóng tại một căn cứ cũ khoảng một tuần
lễ. Thành phần quân nhân cơ hữu đi phép về lần lượt ra hành quân từ
lúc đó đến lúc di hành đi Cổ Thành thì đã được 90% quân số. Đó là
tinh thần của nhảy dù: không bỏ đồng đội lúc gian nguy. Hai sĩ quan
bổ sung ĐĐ51 là một Chuẩn úy Địa phương Quân và một Trung úy từ
Không Quân đưa sang. Anh Trung úy cao nghều, đeo cặp kính cận dày
cộp, không biết về sau số phận ra sao trong cơn bão lửa. Tôi ngồi
suốt ngày trên nóc một căn hầm cao, trong nắng gắt, bên cạnh là hai
chiếc bi đông nước, gói thuốc lá Bastos de Luxe, máy truyền tin
PRC–25, dùng ống dòm theo dõi các Trung đội Trưởng tân đáo thực tập
điều động hành quân vùng làng mạc và đồi trọc, đánh trận giả với
nhau, thao dượt tác chiến trong làng mạc đông dân và thành phố. Tiểu
đoàn huấn luyện và thực tập bắn các loại hỏa tiễn TOW, M–72, XM–202
chống chiến xa.
Ngày 5/7/1972, TĐ5ND di chuyển bằng đường bộ
đến La Vang Tả rồi tiến về hướng Tây. Sau khi B–52 trải thảm dọc bờ
sông, TĐ5ND tung quân vào lục soát đến tận bờ sông Thạch Hãn, thấy
rất nhiều xác cộng quân, tịch thu 2 khẩu phòng không 37ly.
Ngày 9/7/1972, bàn giao khu vực lại cho TĐ7ND, TĐ5ND di chuyển về
hướng Đông, băng ngang QL–1, hôm sau dừng quân tại khu vực thôn An
Thái cách Cổ thành khoảng 3km về hướng Đông Nam. Tại đây BCH/TĐ lập
sa bàn chuẩn bị kế hoạch điều quân tấn công Cổ Thành.
Ngày
10/7/1972, “Minh Hiếu” ban lệnh hành quân. Di chuyển vòng xa lên
hướng đông bắc qua nhiều làng mạc nhiều cây cối để tiếp cận Cổ Thành
với yếu tố bất ngờ, TĐ5ND vây bọc diệt gọn những chốt lẻ tẻ nằm
trong các làng canh giữ đường về thành cổ, không một tên nào chạy
thoát về báo tin quân Dù đánh mặt đông bắc. Tôi dẫn quân đi, vừa
đánh vừa nhai cơm sấy thịt hộp trong nỗi hân hoan như một viên tiểu
tướng của vua Quang Trung vừa thần tốc diệt được chốt Hà hồi, Ngọc
Hồi, chuẩn bị gươm giáo ngựa voi giết hết những tên Tôn Sĩ Nghị của
giặc xâm lăng phương bắc mang tội tàn sát hằng ngàn đồng bào Huế
trong Tết Mậu Thân chưa xa.
Ngày 11/7/1972, bay qua đầu là
TÐ1TQLC được trực thăng vận đổ xuống thị xã Quảng Trị 2km về hướng
đông bắc để chận đường tiếp vận của địch cho Cổ Thành, và có thể
cũng để bảo mật cho đường tiến sát của quân Dù. Hai trực thăng
chuyển quân CH53 của Mỹ bị hỏa tiễn SA–7 bắn rơi, 30 quân nhân TQLC
và phi hành đoàn tử trận.
2 giờ sáng 14/7/1972, le Quatorze
de Juillet, TĐ5ND xuất phát, tiến về cổ thành. Pháo 130mm của địch
nổ lác đác cầm chừng về hướng quân ta. 51&52 “từng bước từng bước
thầm” tiến qua cánh đồng 2km quanh những ngôi mộ cao như đồi nhỏ,
nhắm hướng làng Tri Bưu sát cạnh đông bắc cổ thành Đinh Công Tráng.
Pháo thủ phòng không VC đang ngồi hút thuốc rê ngóng lên trời chờ
phi cơ ta tới. Đại đội 52 hí hửng lặng lẽ dàn quân, Hồ Từơng tung 2
trung đội xung phong, bợ ngay mấy cây phòng không và súng cối ngon
ơ, chiếm được bìa làng không tốn một giọt máu.
Đại đội 51
tiến vô theo, vượt qua 52 kiểu chân rết, bắt đầu đánh chốt. Tới đêm
đó tôi mới tiến được gần 100m. Anh Sỹ hỏi thăm liên tục. Chưa quen
địa thế, quân ta ăn đậm pháo, nhưng pháo trật chỉ trong vài chục một
trăm mét qua hướng nam, ta chỉ tổn thất nhẹ, phải nghỉ đêm chờ phi
pháo diệt địch. Sỹ Biên thức suốt đêm điều chỉnh phi pháo. Sáng hôm
sau, tôi xin lệnh anh giao cho tôi dẫn quân bung ra phía trước thật
nhanh để tránh cối 61ly cấp tập bảo vệ chốt, anh cứ lo theo dõi để
đánh phi pháo ở xa và phản pháo các vị trí cố. Tôi hô hào anh em
“bám thắt lưng địch mà đánh” để tránh pháo, chính là huấn lệnh chiến
trường của VC mà tôi bắt được trên xác cộng quân ở An lộc, mà chúng
không bao giờ làm được. Chốt địch trong làng thường đóng rải ngoài
sân, trong nhà; nằm quan sát thấy rõ cách bố trí, ta kín đáo dàn
quân, mở tối đa hỏa lực, VC chưa thò đầu khỏi hầm là xung phong
liền, như vậy mới vượt mau khỏi vùng hỏa tập dự phòng và địch không
kịp kéo hỏa lực cối về sát tuyến. Chiến thuật chốt kiềng của VC đã
bể từ lâu. Xông xáo tới xế trưa, tôi chỉ có hai ba em bị thương.
Cách đánh thật hiệu quả, thấy nguy hiểm nhưng lại ít tổn thất. Ai ai
cũng hăng hái. Cộng quân vừa nhác thấy bóng áo hoa dù thấp thoáng là
đã bị xung phong tràn ngập, tên nào sống sót chỉ kịp bương về hướng
Cổ Thành.
Đánh như quân Quang Trung diệt Tôn Sĩ Nghị, anh em
ơi! Dân ta đã chạy giặc hết. Quân ta quan sát không thấy hầm chốt
ngoài sân thì bắn M–72, M–79 vào cửa sổ những ngôi nhà chỉ cách nhau
mảnh vườn, nhảy tới tung lựu đạn rồi ria M–16 từ đất lên nóc. VC
trốn núp trong nhà chịu không nổi, bỏ chạy tán loạn, quân ta cứ thế
chiếm từng nhà, từng vườn. Đạn pháo lọt tọt rớt phía sau, rõ ràng nó
bắn không kịp. Đại đội 52 của Hồ Tường bên cánh trái kêu oai oái.
Thiếu úy Hợi đánh giặc rất hăng, tay trái móc lựu đạn, tay phải bắn
M–16 kẹp hông, nhảy ngang, ria sủi đất chém ngang miệng hầm (ông này
là thiện xạ của khóa 24 Đà lạt, với tôi thân hơn anh em ruột), miệng
chỉ huy hô hào như sấm, lăn bò và phóng qua rào lẹ hơn cả khinh
binh. Trung đội của anh đeo sát bên tôi không nhường nửa bước. Lính
Dù Tiểu đoàn 5 xung trận như xi–nê. Anh em tôi đánh giặc đẹp tuyệt
vời, nhất là trong thế chủ động tấn công, sở trường của đoàn quân
bách chiến. Nhưng... Một đợt xung phong nữa, một trái lựu đạn từ hầm
VC trong mảnh vườn lọt giữa hai trung đội, ngang hông trái, nhắm
ngay tôi thảy qua. Vừa nhác thấy cái gì lạ trên không thì nghe khinh
binh hét vang “lựu đạn, Trung úy!”. Bay đại vô một góc tường, mới
được nửa ngực, liền cảm thấy chân trái tung lên cao, lật ngửa cả
thân người, tưởng đâu nguyên cẳng trái đã đi chơi chỗ khác. Lính tôi
chĩa M–16 xả liên thanh hội đồng, nhào tới tông xuống hầm cái kẻ khờ
khạo đáng thương kia hai trái lựu đạn, lấy 2 cây AK xong mới cõng
tôi ra sau. Dọc đường tôi chợt thấy Thiếu tá Bùi Quyền “Tố Quyên”,
đã nghe danh từ lâu, vừa bổ sung làm Tiểu đoàn Phó, tay cầm combiné
nhảy từ hầm này qua hầm khác giữa trận pháo dữ, điều động hai đại
đội 51, 52. Lòng tôi đầy ấm ức, y như lúc cây fender đứt giây Mi
giữa đoạn solo nóng bỏng trên sân khấu hội quán trường Võ Bị vào đêm
có người yêu ở Nha Địa Dư vô coi. Anh Sỹ cầm tay tôi, không dấu được
vẻ lo âu. Tôi nói uổng quá không cùng anh zô Cổ thành rồi lên Ti–vi
được nữa rồi. “Sỹ Biên” biểu tôi “thôi mày lo về dưỡng thương rồi ra
sớm với tao”. Tôi chợt mỉm cười nhớ lại hồi trận Hạ Lào, anh Sỹ cũng
cầm tay tôi dưới giao thông hào trong tiếng Cobra vần vũ, nói “thôi
mày zìa zới con zợ mày cho rồi, bày đặt xin ở lại! Bị thương zô gân
tay đêm lạnh chịu không nổi đâu em!”
Tới lúc đó quân Cộng từ
bên kia sông Thạch hãn đã gấp rút ồ ạt bổ sung, đi ngờ ngờ giữa ban
ngày, bắt đầu phản kích dữ dội với hỏa lực yểm trợ tối đa. Quân ta
đã hết yếu tố bất ngờ để tốc chiến tốc thắng. Tôi rời mặt trận, đúng
lúc anh em tôi bắt đầu đổ đầy máu xương trên đoạn đường tiến vào cổ
thành Đinh Công Tráng, nơi quân Dù đã giữ cả thị xã Quảng Trị vững
như bàn thạch trong trận Mậu Thân choáng váng.
Ngày 17/7/1972
ba tiểu đoàn Dù đã vây kín ba phía Tây, Nam, Đông của cổ thành. Góc
chính bắc qua sông Thạch hãn vẫn là đường tiếp vận của địch. Hướng
đông bắc thì TĐ5ND dưới quyền “Minh Hiếu”, “Tố Quyên”, đánh rát qua
nhà thờ Tri Bưu nhắm bức tường thành. “Minh Hiếu” ban lệnh tái chiếm
thành Đinh Công Tráng với một toán tiền thám cảm tử xâm nhập vào
thành trong đêm 18 tháng 7, quan sát và lập đầu cầu cho tiểu đoàn
tung lực lượng tấn công, trong 2 ngày phải chiếm và cố thủ được ít
nhất phân nửa chu vi bờ thành và nội thành.
Một toán “thám
sát cảm tử” tình nguyện được thành lập, tuyển chọn ưu tiên các quân
nhân gốc người Quảng Trị. Trong số đâu chừng hơn 20 người, 8 anh em
được chọn đều thuộc đại đội 51. Hạ sĩ nhất Trần Tâm làm trưởng toán,
hai hiệu thính viên rất chăm chỉ của đại đội là Hạ sĩ Hậu, người
Nam, và Hạ sĩ nhất Lịch, người Quảng Trị, đều tình nguyện, Binh nhất
Hồ Khang đòi mang lá quốc kỳ, thêm nữa là Hạ sĩ Hồ Con, và ba binh
sĩ khác. (Danh sách này dựa theo lời kể của Đại úy Trương Đăng Sỹ).
Giờ G đêm 18. Từ điểm xuất phát đến mục tiêu cách hơn 200m,
toán quân dũng cảm tiến vào đêm tối, mong lách chốt nhập thành. Gần
sáng, Hậu thì thầm báo cáo đang lội qua hào nước sâu. 5 phút sau,
đột nhiên cả tiểu đoàn chợt thấy lá cờ vụt nhô lên tung bay trên nền
trời mờ tối, trên nền ánh hỏa châu lập lòe phía xa. Rồi lại giật
mình nghe tiếng Hồ Khang hô vang trong cái tĩnh lặng rợn người đúng
vào khi chiến địa chợt im tiếng súng: “Việt Nam Cộng Hòa muôn năm –
Nhảy Dù cố gắng – Nhảy Dù chiến thắng” Hậu hét luôn trong máy báo
cáo với Đại úy Sỹ: “Quốc kỳ dựng rồi, đích thân ơi!” Lập tức lửa đạn
vang ầm vĩnh viễn cắt đứt tiếng Hậu. Đạn lửa thượng liên xanh lè hội
tụ dập vùi toán anh hùng Mũ Đỏ, giữa những tảng lửa B–40, B–41 nổ
tập trung vào giữa chân cờ. Tiểu đội cảm tử quân hoàn toàn mất liên
lạc. Hai Đại đội 51, 52 rùng rùng xuất phát. Pháo binh Dù bắn hằng
trăm trái vào thành, yểm trợ và che chở cho lực lượng bạn. Ôi ván
bài lộ tẩy quá sớm mất rồi các em ơi. Trần Tâm, Hồ Khang, Hồ Con,
Hậu và Lịch vình viễn nằm lại trên mặt thành, chung quanh lá cờ tổ
quốc. Ba em còn lại trúng thương lăn xuống chân thành, được quân bạn
cứu sống. Quân ta đến nơi, không sao vượt được bức tường thành kiên
cố có hỏa lực bảo vệ vững chắc.
Ngày 21/7 lực lượng TĐ5ND
được lệnh dãn lui để Không Quân Mỹ đánh bom lớn phá thành. Địch phản
công hàng hàng lớp lớp, toàn tân binh mặc ka–ki còn mới. 51 và 52 bị
hai tiểu đoàn địch tấn công, cắt hậu, chơi sang toàn trực xạ không
giật 82ly. Quân Dù phải tử chiến và cứu ứng nhau, sử dụng phi pháo
tối đa, phối hợp thọc mũi phản kích vào sườn quân địch để hóa giải
sức tấn công, mới thoát khỏi vòng vây.
Ba ngày sau, 25/7, lực
lượng đặc nhiệm nhảy dù bất ngờ phản kích. Tiểu đoàn Phó TĐ5ND “Tố
Quyên” trực tiếp điều động, được tăng cường Đại Đội 111ND của Trung
úy Đinh Viết Trinh “Ba búa” đánh từ hướng Tây Bắc, đỡ đòn cánh trái.
Sườn cánh phải, hướng Bắc Cổ Thành, có hai Đại đội 81 Biệt Cách tăng
cường, đều sa lầy trong biển chốt. Đại Đội 2/Trinh sát ND của Đại úy
“Út Bạch Lan” cũng vướng chốt địch bố trí chiều sâu. Địch quyết
chiến, tăng cường đông như nêm, chốt dày như vỏ dừa, liều thân kháng
cự. Út Bạch Lan trúng B–40 “ép–phê một băng” qua cửa mả, may sao đạn
trúng lớp áo giáp mà không nổ. ĐĐ2TSND của đại ca Út bị hóc nặng,
không theo kịp đà tiến nỗ lực chính, theo lời thuật của “Sỹ Biên”.
Ngày 26, nỗ lực chính là hai ĐĐ51, 52 cũng tràn tới bờ hào, vì nỗi
uất ức mất nguyên toán cảm tử. Phải lui lại đào hầm hố tránh hỏa lực
từ mặt thành cao nã xuống, điều chỉnh phi pháo, chờ bom phá thành,
đánh đêm.
Tố Quyên thuật tiếp: “54 lo bảo vệ khu vực đông bắc
Tri Bưu và tải thương, 51 và 52 nhào vào Cổ thành sau khi smart bomb
của Mỹ đục một mảng tường lớn ở góc phía đông bắc để lấp đoạn hào
sâu ở đây và do đó mà con cái trúng miểng” (Email này từ San Jose
anh Quyền gửi tôi hôm mùng 9 tháng 9 năm 2009, quá sơ lược, vì anh
đang gom góp tài liệu, ký ức và nhân chứng sống để viết lại đầy đủ).
Trong email này Tố Quyên cũng xác nhận vài chuyện trước đó: “Tôi
theo Sỹ và Hồ Tường vào Tri Bưu ngay buổi sáng khi 2 ĐĐ từ làng Quy
Thiện tờ mờ sáng sang chiếm khu mả ở phía đầu làng rồi từ đó bám
được đầu cầu ven làng sau đó dánh dọc lên hướng nhà thờ Tri Bưu (đó
là lúc Đại Cồ Việt bị tản thương ra như đã kể: LTG) v.v. Khi Út Bạch
Lan bị một trái B–40 trúng vào thành mả rồi văng qua trúng áo giáp
nên ê ẩm cả ngực, tôi có gọi anh hỏi có cần tản thương không. Cả
Đinh Viết Trinh khi dẫn ĐĐ111 vào gặp tôi trong Tri Bưu đã xin lệnh
tôi cho ra trấn khúc làng sát ngay góc con đường Duy Tân và Lê văn
Duyệt ở ngay góc đông bắc Cổ Thành. Sau đó Đại tá Trần Quốc Lịch còn
cho tôi thêm 2 ĐĐ của 81 Biệt Cách do 2 Trung úy Châu Văn Tài và
Nguyễn Đắc Lực sang Tri Bưu để tìm cách đột kích vào thành. Những
người này còn sống và một ở Westminster, một ở Houston, Texas. Khi
đó (ngày 25: LTG) viên cố vấn Mỹ cho tôi biết là mờ sáng hôm sau sẽ
có phi cơ Mỹ dùng bom lớn do tia laser điều khiển để đánh từ trong
ra cho tường lở lấp cái hào ở gần sát góc đông bắc thành để quân ta
có thể xông vào. Nhờ thế 51 & 52 mới vào được. Sau đó phi tuần VN
(phải là A–37 của KQVN, đánh rất bạo và chính xác: LTG) đánh vào cái
cột cờ chỗ Kỳ đài rất tốt...”
Sỹ Biên, từ Australia, cách đây
mấy tháng, kể tiếp: Hai trung đội đầu của 51 vượt hào khá dễ, bám
được góc thành đã vỡ, lựa thế tiến vào trong, trong khi anh kêu pháo
binh Dù bắn đạn nổ và khói che phủ mục tiêu. Ta lên chiếm được mặt
thành, bèn cắm cờ lần nữa, chuẩn bị xung phong. Nhưng khói vừa tan
địch bắn trả dữ dội, nhất là từ hai lô cốt ở mặt tiền và giữa sân cờ
còn hầm hố kiên cố. L–19 bao vùng cho biết VC từ bên kia sông tràn
qua như kiến. Sỹ Biên đòi phi pháo yểm trợ chặn viện và tung thêm
một trung đội vào thành, nhất quyết xả láng đánh bứt sân cờ trước
khi viện binh địch ứng cứu. Một trái cối 82 nổ giữa Sỹ Biên và Hồ
Tường, hai vị anh hùng bị thương đẫm máu, nhưng quyết không rời trận
địa. Những ai từng xả thân cùng đồng ngũ anh em trên những chiến
trường một mất một còn vì màu cờ sắc áo mới hiểu tại sao có những
lúc người chiến sĩ coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, đặt danh dự trách
nhiệm lên trên hết. Nhưng, ai oán thay, ông trời cao kia chẳng chịu
chiều người.
Tố Quyên, từ San Jose, viết tiếp:... phi tuần VN
đánh vào cái cột cờ chỗ kỳ đài rất tốt, thì lúc đó tự nhiên có 2 phi
tuần Mỹ ở đâu vào vùng. Cố vấn hỏi tôi có muốn xài không thì tôi nói
cứ xài và bảo nó đánh ngay vào chỗ VN vừa đánh. Nhưng than ôi, trời
nỡ hại TĐ5ND mình, khói bụi từ chỗ mới đánh vừa tỏa ra bị gió đưa về
phía 2 ĐĐ51, 52. Trời ơi thế là bom bên mình giáng xuống quân ta....
Ôi... Ai hiểu được nỗi uất hận của những người chiến binh Nhảy
dù lúc ấy khi thành quả máu xương của cả đơn vị đã nằm trong tầm tay
toàn đội... Đại đội 51 máu thịt của tôi chỉ còn 38 quân nhân sống
sót; Đại đội 52 tất cả 5 sĩ quan đều bị thương, gần 50 thương vong.
TĐ5ND đã mất hết máu. Tố Quyên, Sỹ Biên, Hồ Tường, Ba búa, Út Bạch
Lan, Châu Văn Tài, Nguyễn Đắc Lực suy kiệt hết tâm lực, chỉ còn như
những xác không hồn. Trung tá Nguyễn Chí Hiếu lặng lẽ ôn tồn ban
lệnh trở về tuyến xuất phát.
Sau đó, cùng ngày, trên hệ thống
liên lạc siêu tần số cơ hữu của SĐND, sĩ quan truyền tin Võ Trung
Tín nghe cuộc điện đàm ngắn giữa Trung tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh
SĐND và Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I như sau:
– Trung tướng Đống:
Trưởng có thấy không, trước khi tấn công vào mục tiêu, Tổng Thống
Thiệu ra lịnh tuyệt đối không cho phá hủy cổ thành, đến khi vừa vào
được trong thành thì bom dội xuống trên đầu như thế này thì đánh
giặc cái gì đây. Đánh giặc như thế này thì tôi không đánh nữa,
Trưởng cứ cho ai vào đánh thì đánh đi.
–
Trung tướng Trưởng: Thưa Trung tướng được rồi, để sáng
ngày mai tôi bay ra Sally gặp Trung tướng sẽ bàn định lại...
Ngày 27/7/1972, ba Lữ đoàn hùng binh quân mũ đỏ đã tận sức lót
đường xương máu, bàn giao chiến trường cho Sư đoàn Thủy Quân Lục
Chiến. Những người anh hùng mũ xanh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
cũng hy sinh máu xương không kém, lập nên kỳ tích dựng lá cờ vàng tổ
quốc trên Cổ Thành Quảng Trị lần thứ ba và là lần sau cuối.
Việt Long, GĐMĐ/D.C.
Những trang liên quan
Mùa hè Đỏ lửa 1972: Trận Bình Long & Trận Quảng Trị; Trang nhà Tố Quyên
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: phong cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MĐ Trần Hồng Minh chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, August 4, 2016
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ11ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang