Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
bút
Chủ đề:
Trận An Lộc
Tác giả:
Phan Nhật Nam
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Trong qui ước truyền tin quân đội, chữ A được đánh vần
là “Alpha” hay là “Anh Dũng”. An Lộc cũng bắt đầu bằng chữ A, thế
nên tôi gọi An Lộc là Anh Dũng, tĩnh từ này đã được dùng quá
nhiều đến độ nhàm chán nhưng ngoài nó ra không còn một từ ngữ nào
xác thực và đúng đắn hơn.
Phải, An Lộc là Anh Dũng, chiến đấu ở
An Lộc, sống ở An Lộc và chết ở An Lộc – Tất cả đều trùng trùng
tràn ngập vây kín bởi Anh Dũng... Tôi không nói quá lời với sự
chân thật của người cầm bút và tấm lòng giản dị của một người
lính, xin xác nhận lại một điều: An Lộc là Anh Dũng, yếu tính của
thành phố, người và sự kiện của An Lộc là tĩnh từ giản dị đầy đủ
kia. Gần mười năm trận địa, bao nhiêu trang sách về binh sử đã
được đọc, tất cả đều bị An Lộc vượt xa, vượt một tầm quá lớn mà
không một trận chiến nào có thể bén gót được... Kiến thức về quân
sự ý niệm chiến tranh, tất cả bị đổ nhào phá nát bởi An Lộc, chắc
chắn như thế nếu ai đến và sống với nó một lần. Những “huyền
thoại” An Lộc đã được khai thác nhưng chưa hết, những anh hùng
của An Lộc đã được nhiều nhắc nhở nhưng chưa đủ. Tôi nối tiếp
công việc này vì An Lộc không những chỉ có Tướng Hưng với các
Trung đoàn 8, 9, 48, 52 bộ binh, Đại tá Huấn với Liên đoàn 81
Biệt Cách Dù Liên đoàn 3 BĐQ, và Đại tá Nhật với thành phần cơ
hữu của Tiểu khu Bình Long... Ngoài những lực lượng này còn có Lữ
Đoàn 1 Nhảy Dù đơn vị tham chiến từ ngày 7/4, bắt tay An Lộc lần
1 vào ngày 16/4 và lần thứ 2 sau trận đánh trên tất cả các trận
đánh, Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù “clear” 2 cây số còn lại vào đến Thanh
Bình (hay đồn điền Xa Cam trong 45 phút chiến trận. An Lộc được
“bắt tay” lần 2 lúc 17g15 ngày 8/6.
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù với “Lê Lợi” Lê Quang
Lưỡng, 55 Nguyễn Chí Hiếu, 64 Nguyễn Ngọc Đỉnh. Anh Dũng Văn Bá
Ninh, Bắc Bình Đào Thiện Tuyển, những người đã “nắm” An Lộc
trong cơn run của 8000 đạn đại pháo “nắm” và giữ thật vững ở Đông
Nam và chính Nam – Những người đã vào An Lộc từ ngã Đồi Gió đã
biến thành những kẻ “vô tư cách” vì thiếu điếu thuốc lá trên môi,
đã thèm một cây tăm xỉa răng, đã ao ước được cởi đôi giày trong
hằng ngàn chiến trận... Và họ cũng đã là “xếp” đàn anh, Liên đoàn
trưởng sinh viên sĩ quan của tôi trong một thời gian dài – Thời
gian dài như chiếc nón đỏ tôi đội trên đầu, bộ đồ hoa ngụy trang
tôi mặc – Tôi phải viết về cho họ – Cách trả ơn của người đã từng
hô “Nhảy Dù cố gắng”.
PNN
MỤC LỤC
1. Quê hương bình yên của loài nai
2. Vòng vây thật chặt
3.
Vạch một đường
đi
4. Nhảy trực thăng – Nghề của “Lê
Lợi”
5. Phương Tây đỏ lửa: An Lộc
6. Chiến trường quá “khổ”
7.
Tuyến “Hoả
Tiễn” và Tăng
8. Mong ngày đi qua mau
9. Đồi Gió, nút thoát hơi của An Lộc
10.
Đạp đổ định mệnh
11. Đồi Gió đổi tên
12. Sống như là chiến đấu
13.
Phục hận
Những bài liên quan đến
Chiến trường An Lộc
1. Quê hương bình yên của loài nai
Đường 13 chạy từ ngã ba Chơn Thành đến
An Lộc đo được 30 cây số, tiếp tục về hướng Bắc thêm 18 cây số
nữa là Lộc Ninh, bên kia biên giới là Snoul, qua Snoul con đường
ngã theo hướng Tây Bắc để tiến tới Kratié nằm cạnh bờ Cửu Long
nép bên bờ trái của con sông, con đường tiếp tục về phía Bắc để
gặp Stung Treng vị trí chiến thuật quan trọng của đường giây ông
Hồ từ Bắc vào... Đoạn này cũng được gọi là đường Sihanouk cho có
vẻ đại đồng nhưng thật ra cũng chỉ là của anh Hồ Cộng Sản... Khởi
đầu cuộc chiến “Đông Dương” đệ nhị. Những anh của Trung ương cục
miền Nam đã lần mò, tìm kiếm, ráp nối lại con đường, bắt đầu từ
dòng Suối Đá, Suối Chà Là, Suối Ma của vùng Bình Long, Phước Long
để lần qua biên giới đến những mật “khu” trong tương lai sẽ vang
danh theo cùng chiều rộng thế giới: Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt... Năm 1970
quân lực ta đã từ Bình Long, Tây Ninh đồng loạt xua quân qua biên
giới, cánh quân cực Bắc của lực lượng vượt biên đã có lần đi xa
Snoul để đến gần kề Kratié... Cộng quân tan nát và đổ vỡ toàn thể
hạ tầng cơ sở, kho tàng, trọng điểm tiếp liệu và căn cứ trung
ương. Hai năm sau những ngày đầu của 1972 một lực lượng Cộng
khác, thứ Cộng nguyên gốc, mới tính theo kế hoạch tinh vi yểm trợ
cho mục tiêu chiến lược chính trị từ Bắc vào, xuôi theo đường 13
vượt qua Snoul cùng ào vào Lộc Ninh với 3 sư đoàn chính qui
thượng thặng sau khi giàn đại pháo 130 dọn sẵn đường. Sau Lộc
Ninh là An Lộc – Và thị trấn nhỏ bé của miền cực đông Nam phần
bắt đầu co vào trong một thế gọi là “Tử Thủ”. Địa ngục bắt đầu từ
ngày đầu tháng 4/72.
An Lộc không phải là một thị trấn, một
thành phố, đúng ra là thị xã của tỉnh Bình Long, đồng thời cũng
là quận lỵ quận An Lộc, tức quận Châu Thành của tỉnh. Tỉnh gồm ba
quận: Lộc Ninh cực Bắc, An Lộc giữa và Chơn Thành ở phía Nam. Tất
cả cơ sở hành chánh đều nằm trên con đường 13, con đường lớn
phẳng phiu chạy thẳng theo hướng Bắc Nam vạch một đường đen thẫm
giữa hàng cao su xanh lá, đường nổi bật giữa lớp đất đỏ nâu mịn
màng đẹp đẽ... đỏ nâu cũng là mầu máu khô, đường 13, con số của
sự xấu – Định mệnh đã định rõ: Con lộ mang số tử thần và có mầu
máu thẫm – Hai cuộc chiến tranh chứng tỏ có một Thượng đế tàn ác
đã xếp đặt sẵn điêu linh cho người. An Lộc, tên nghe thật hiền,
hiền như hình ảnh của đàn nai chạy tung tăng trên đồng cỏ tranh
mượt sóng, đàn nai no đủ bình yên được che chở bởi tàng cao su im
bóng nắng và hàng trăm con suối mang đủ các thứ tên Việt, Miên,
Thượng... Những dòng suối đầu tiên ở sông Bé ở phía Đông và sông
Sài Gòn ở phía Tây. Nằm giữa hai con sông trải dài trên một bình
nguyên bao la – Bình Long quê hương của loài Nai, miền Đồng Nai
thượng không phải chỉ là một vị thế tốt, nhưng còn là chiếc nôi
nuôi dưỡng quốc gia với tiềm năng phong phú – Đầy và rộng trên
một chuỗi đồi chập chùng chạy dài đến Biên Hòa, Gia Định... Đất
giầu đẹp và uy nghi bát ngát như hãnh diện của quê hương.
Nhưng đúng là quê hương khốn nạn, quê
bương gắng chịu tai ương của nhân loại, quê hương nguy khốn, ngặt
nghèo... quê hương lửa dậy và đạn nổ chém gẫy cây rừng, khô lá
nõn. Lửa dậy và Bình Long hừng hực tro bay, sự sống không còn
trên trái đất.
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10
| 11 |
12 | 13 |
Mục lục
2. Vòng vây thật chặt
18 khẩu 105, 6 khẩu 155, một pháo đội
130, Đại đội súng cối từ 82 đến 120ly, rừng hỏa tiễn 107, 122 và
bao nhiêu vị trí phòng không từ 12.7ly đến 20ly, ba công trường
5, 7, 9 tăng cường thêm công trường Bình Long, được yểm trợ bởi
hai Trung đoàn 202 và 203 Thiết giáp, Cộng quân bọc một vòng đai
thép chung quanh An Lộc từ sân bay hay “Quán cà phê Hương giang”
đến Bãi trực thăng B15 “Khánh Ly” chiều dài đo đúng 1 cây số 800
thước và bề ngang từ cửa Phú Lỗ về cực đông tối đa được 700. Đó
là vòng đai lớn, những ngày nguy khốn vòng phòng thủ phía Bắc
cong xuống đến đường hoành độ 88: Chu vi phòng thủ không quá 400
thước vuông – An Lộc, vòng vây ngột ngạt nhất trong chiến sử nhân
loại.
Người
Pháp giữ Điện Biên Phủ trong 209 ngày với 56 ngày bị vây, vòng
đai phòng thủ của những ngày thất thủ cũng có được một chiều dài
800 thước. Người Đức bao vây Stalingrad 76 ngày. Người Anh và lực
lượng khối Thịnh Vượng Chung giữ Tobruk 241 ngày. Những cuộc bao
vây và tử thủ này được thực hiện bằng Tiểu liên Sten, đại bác
75ly và xe tăng Grant Sherman hoặc Panzer, mà vận tốc lý thuyết
là 23 dặm 1 giờ với vũ khí “ngoại hạng” là 1 khẩu đại bác 75ly.
An Lộc hơn hẳn các mặt trận, với 30
chiếc T–54 vững chãi, bề thế, nòng súng 85ly đầy ưu thế hỏa lực
đè bẹp bất kỳ vũ khí nào của bộ binh miền Nam... Và An Lộc bị bao
vây vào ngày thứ 68 với mực độ pháo kích có khi trên 8000 trái
như ngày 11 tháng 5 từ 1 giờ chấm dứt lúc 3 giờ để bộ binh tùng
thiết tấn công bằng ba mũi dùi chính, một mũi dùi là một Trung
đoàn. Trận địa pháo đã vượt hết ý niệm về hỏa lực và pháo binh
của tất cả mọi người lính dù trí não tối đa phong phú tưởng
tượng.
Vòng
vây siết quá chặt, “tăng” đã vào thành phố, thị xã mất trong từng
giờ trôi qua, Bộ Tư Lệnh Quân khu 3 quyết định xin tăng phái quân
trừ bị. Sư đoàn TQLC ở mặt trận Trị Thiên, Lữ Đoàn 2 và 3 Dù đang
hành quân Tam biên nên Lữ Đoàn 1 với 3 Tiểu Đoàn thực dụng hành
quân 5, 6, 8 cùng Tiểu Đoàn 3 Pháo nhận vùng trách nhiệm An Lộc
cùng 60 cây số đường dài Lai Khê – Chơn Thành – An Lộc – Thành
phố lửa nằm cuối con đường máu. Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù phải đi hết
đoạn đường này để đến địa ngục ở phía Bắc. Chiếc nón của binh
chủng thêm một lần thấm đỏ máu tươi, và chuỗi băng tang đằng sau
sẽ dài hơn trước – Vinh quang đầy cay nghiệt đang chờ, lính Nhảy
Dù nhập cuộc.
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10
| 11 |
12 | 13 |
Mục lục
3. Vạch một đường đi
Đến Lai Khê ngày 5–4, Lữ Đoàn 1 nhập
cuộc ngay ngày sau, 60 cây số đường hun hút trong rừng cây xanh
trải dài trước mặt, Đại tá Lê Quang Lưỡng con beo gấm chiến
trường “Lê Lợi” tân thời, ít nói, trầm tĩnh, nhiều cơ mưu đứng
nhìn con đường với cường độ hiểm nghèo đang cao ngất chờ đợi...
Nhưng nhiệm vụ đã được định đoạt: Mở vào An Lộc theo trục lộ 13.
Trán của người chỉ huy cau lại: Địch chiếm An Lộc và biết chắc
chắn ta sẽ điều quân trên trục lộ này. Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù dẫn vào
cái bẫy đang giăng! Bằng cách nào để tránh thiệt hại tối đa cho
đơn vị? “Lê Lợi” đi chân trên mặt đường để đo độ cứng của con
đường hay sự chịu đựng của lớp nhựa? Bao nhiêu mìn đã được chôn
dưới mặt đường này trong những cây số phía bắc, Bầu Bàng, Bầu
Lòng, Chơn Thành, Suối Tầu ô. Những địa danh nặng cứng như mỗi
tảng đá chồng thêm vào đỉnh đầu. Bao nhiêu “đứa con” sẽ mất để
bước chân vào đến mỗi địa điểm kia? Bao nhiêu pháo của “tụi nó”
đã lấy sẵn yếu tố trên những điểm địa hình, vị trí chiến thuật mà
đoàn quân “Bắc tiến” bắt buộc phải đi qua và dừng chân. Phải làm
gì? Bằng cách nào? Lấy gì để bảo vệ cạnh sườn? Làm sao để bung
rộng quân để tránh pháo và phục kích... 60 cây số – Đoạn đường
dài nhất trong binh nghiệp hai mươi năm lính. Nhiệm vụ quá lớn
vượt khỏi khả năng của một Lữ Đoàn gồm 3 Tiểu Đoàn Nhảy Dù bộ
chiến... Nhảy Dù cố gắng! Đại tá Lưỡng nhếch mép cười: “Cố gắng!
Mình cố gắng đến bao lâu và đâu là điểm dứt hơi??”
Buổi họp các Tiểu đoàn trưởng được
thành hình. “Lê Lợi” được Ngọc Long phụ tá (cựu Tiểu đoàn trưởng
TĐ7ND. Tiểu đoàn trưởng nặng ký tham mưu nhất giữa những người
đồng cấp bậc và chức vụ) thứ đến là, Tố Quyên – Tố Quyên, danh
hiệu nghe thì con gái, nhưng “người” đàn ông hơn hết mọi đàn ông.
“Người” lừng lững di động phì phà cái píp, chậm rãi khoan thai và
cứ “đường ta ta đi”... Cựu Thủ khoa khóa 16 Võ Bị đâu phải thứ
thường, khoá “thép” mở đầu kỷ nguyên Võ Bị Quốc Gia. Bộ tham mưu
Lữ Đoàn 1 không thể có những sĩ quan tham mưu nào hay ho hơn được
thành hình chớp nhoáng kế hoạch Bắc tiến. “Lê Lợi” luận:
– Con đường quá dài, tụi nó có đủ yếu
tố chiến thuật: Địa thế, nhân số, hỏa lực để chơi mình, chơi bất
cứ lúc nào, ở đâu nếu “nó” muốn. Mình có ba Tiểu Đoàn, nghe thì
nhiều nhưng không có được bao nhiêu, không thể tập trung lực
lượng được, mình phải phân tán, mục tiêu lại quá xa. Đây này –
“Lê Lợi” đo gang tay trên bản đồ – “Bốn gang, 60 cây số.” Di
chuyển trên một hành lang hẹp bề ngang không rộng đến 2 cây số
với chiều dài như thế cũng như đi vào vòng ghế điện... Nhưng
nhiệm vụ phải thi hành khẩn cấp, mình chỉ có được một đường, dọc
cái đường “khốn nạn” này, vậy mình đi kiểu chân chim: Thằng 8
(Tiểu Đoàn 8) đi trước, đóng quân ở chỗ này, xong thằng 5 sẽ vượt
theo đường cũ leo cao hơn... Thằng 6 sẽ đi sau hết. Pháo sẽ đi
theo thằng 5 ở bước đầu, 8 ở bước sau, giai đoạn 1 lấy mục tiêu
là Bầu Bàng, hai là Chơn Thành. Đến Chơn Thành lập được thêm đầu
cầu phía Bắc mình sẽ qua giai đoạn III.
Các Tiểu đoàn trưởng cùng gật đầu,
không còn chiến pháp nào hơn “bước chân chim” nữa được, ba Tiểu
Đoàn chỉ vừa đủ để lập một đầu cầu trong chiến tranh với đơn vị
căn bản là một Trung đoàn. Ba Tiểu Đoàn Dù phải “gồng” mình đến
giới hạn chót để chiến đấu. Châm ngôn của binh chủng thế mà hay
“cố gắng” làm được công việc khiêm nhường này cũng đủ đáng đồng
tiền phụ cấp. Tại sao binh chủng không lựa những châm ngôn “lớn”
như Tổ Quốc Không gian – Danh Dự Quân lực – Vinh Quang Biển cả,
v.v. Sao chỉ là “cố gắng”. Cố gắng hoài đến bao giờ mới hết?
Câu chuyện khôi hài chấm dứt buổi họp.
Các Tiểu đoàn trưởng bước về nơi đóng quân – Ba trung tá, không
thể có khuyết điểm nơi những người này trên phường vị Tiểu đoàn
trưởng.
Ngày 7
tháng 4, Tiểu Đoàn 8 vượt tuyến xuất phát, lấy con đường làm
chuẩn, hai cánh quân cùng tiến song song đội hình mở rộng không
quá 300 thước cho mỗi bên, đến ngang hoành độ 48 dừng lại. Tiểu
Đoàn 5 vượt qua mặt tiến lên, lục soát vừa phải, cố mở đội hình
rộng mấy trăm con người của Tiểu Đoàn chìm hẳn vào mầu xanh đậm
cứng của rừng. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Chí Hiếu kẹp sát ống liên
hợp vào mang tai, linh cảm có những trầm trọng sắp xảy đến? Mười
bốn năm chiến trận đã tạo thành những trực giác bén nhậy. Rừng
cao su im lìm – Địa thế quá lý tưởng cho một cuộc phục kích. Súng
nổ, thoạt đầu chỉ có tiếng AK ở hướng đầu hành quân, nhưng không
đầy 5 phút, 5 phút ngắn chưa đủ để xua người lính chạy quá một
gốc cao su, cối và pháo binh nổ... Hiếu đo lường thật nhanh hỏa
lực của địch: Phía trái, dọc đường rầy có nhiều tiếng súng cá
nhân, cánh quân trái phải đánh ngay vào để bám sát mới tránh được
pháo... Đúng như anh ước tính, tiểu đoàn Cộng nằm một hàng dọc
trên mô đất của đường xe lửa cũ đang thực tập tác xạ và lính Nhảy
Dù xung phong vào trái! chỉ còn một đường này. Cộng quân không bỏ
vị thế tốt, trận đánh dằng dai ngang ngửa, một nửa ngày qua, lính
Bắc rút đi... Thương binh nằm chật rừng cao su, dựa lưng vào thân
cây... Hiếu nhìn bản đồ: Bầu Hót, tọa độ 780510. Từ đây đến An
Lộc còn bao nhiêu cái bầu nữa... Chiến trường mới qua một ngày –
Món ăn chơi đầu tiên đã khó nuốt.
Từng cây số một bước lên, độ cao cứng
rắn của chiến trường càng rõ, gần đến Chơn Thành rồi, đã “ngửi”
được mùi địch, địch cùng pháo và cối, chắc sẽ đầy đủ và mãnh liệt
hơn Hạ Lào; và Hạ Lào, rừng phòng không nhân tạo tua tủa như cây
trời. “Lê Lợi” nặng mặt, khoảng trán cao nhăn nhăn mấy cái.
– Quyền, cố gắng xin mấy cái trực thăng
để ngày mai mình “thảy” thằng 6 lên Chơn Thành và cho lục soát
ngược về.
Hôm
nay là ngày thứ hai (8/4) của kiểu “chân chim”, nếu cứ tiếp tục
thêm một ngày nữa, Cộng quân không tiếc gì để “chặt chân”, phải
có một kế hoạch khác: lục soát ngược lại. Quyền nhìn “xếp” thán
phục. “Lê Lợi” quả là con beo thật, một con beo gấm già không
chút sơ hở.
Ngày 9, Tiểu Đoàn 6 nhảy cú bất thần lên phía Bắc Chơn Thành.
Không khai triển được chiều rộng thì biến chế theo chiều dài, có
luật nào bắt buộc tiến quân phải theo thứ tự Nam – Bắc? Xong thả
bộ quay lại Chơn Thành. Tiểu Đoàn 5 từ Bầu Bàng chạy vọt lên 2
giờ chiều “link–up” cái rụp ở Chơn Thành. Tốt, “Lê Lợi” gật gù:
Tụi nó không biết mình làm trò gì với cú nhảy của thằng 6, đi lên
hay xuống... Tiên sư nó cũng không biết được. Thừa đà đi, 5 Dù
lên thẳng phía Bắc cách hơn Chơn Thành 3 cây số hạ trại, Ngày
bình yên đi qua, Đại tá Lưỡng cởi đôi giày lần đầu kể từ ngày N,
bộ tham mưu bắt chước... Mỗi buổi chiều cởi được giày là hạnh
phúc rồi. Hạnh phúc, giá càng ngày càng rẻ.
Thêm 2 ngày đẹp đẽ đi qua, Lữ Đoàn đã
đi được trên dưới mươi cây số, ba cây số cho 6 ngày kể ra quá
chậm trên địa thế dễ di chuyển này. Nhưng làm thế nào để đi nhanh
hơn, Thiết đoàn 1/5 tăng phái tuy rất chịu khó cày và lội theo
cùng Nhảy Dù nhưng nhiệm vụ không cho mở vào sâu và vào sâu thì
lún lầy... Những con voi sắt dũng mãnh tới lui nặng nề chậm theo
bước tiến bộ binh. Ngày 12, kể từ Bắc xuống Nam theo thứ tự là
Tiểu Đoàn 5, 6 Chơn Thành 8 và pháo binh (TĐ3PB Dù) ở cực Nam,
lại theo chiến thuật “chân chim”, TĐ8, Pháo và Thiết kỵ nhảy bước
lớn từ cực Nam qua mặt Chơn Thành, đến ngang TĐ 5 bỏ pháo lại
tiếp tục lên hướng Bắc... “Lê Lợi” đóng ở Chơn Thành cùng Tiểu
Đoàn 6 theo dõi thằng con (TĐ8) tiến quân...
– Tốt, nó tới được suối Tàu Ô, tụi mình
chỉ còn cách An Lộc trên mười cây số, hy vọng tuần sau mình đang
“đụng” nó... Hy vọng như thế.
Nhưng hy vọng của “Lê Lợi” vỡ tung như
bong bóng nước dưới trời mưa nặng hạt. Tiểu Đoàn 8 vừa đặt chân
qua hoành độ 72 cách Tàu Ô 1 cây số 300 thước thì đụng. Cộng quân
không thèm ngụy trang, che dấu, ngồi sẵn trên đường tay ngoắt mõm
kêu “ngụy”. Nhưng lực lượng Cộng không phải chỉ là thành phần
ngồi trên đường đó, đấy là lực lượng biểu dương. “Tụi mất dạy”
chính cống nằm dọc bên tay trái, nằm đầy bên tay phải dưới giao
thông hào, dưới công sự có nắp ngụy trang kín mít. Nhưng nếu là
bộ binh không thì nói làm gì, kẻ “cừu nhân” độc địa hơn mới đáng
sợ: Pháo và cối. Thôi rồi, “Lê Lợi” run tay, chiếc combiné ép vào
tai nghe báo cáo:
– Tụi nó gom tôi và ông Đức (Thiết đoàn
trưởng 1/5 chiến xa) thành vòng tròn rồi.... Pháo quá dữ “đề lô”
tụi nó theo sát đây, nó bắn không phí một quả, nó “đi tiền” quá
nhiều nó “tapi” tôi.
“Bắc Bình” Đào Thiện Tuyển, Tiểu đoàn
phó Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù nói nhanh như khi bốc con bài thứ 5.
Tuyển cũng là Tuyển “Táp”. Hỗn danh nghe thì kinh, nhưng lại là
người nhỏ con, vui tính, nhanh như sóc, “táp” chỉ là một tĩnh từ
để mô tả chân dung người thêm xác đáng. Tuyển lại tiếp tục báo
cáo:
– Tụi nó
bâu như kiến... Đ.m. bắn quả M72 vào cây cao su kia... Trình “Lê
Lợi” cho gunship lên... C, bảo thằng Vân “mu” lên chút nữa bung
rộng ra mới được... Dạ, dạ, tôi nói thằng con tôi “cố gắng!”
Vừa báo cáo với Lữ đoàn trưởng vừa điều
động các đại đội, Tuyển nói như một cái dĩa chạy quá tour. Tuyển
“Hỏa Tiễn”, thêm một biệt hiệu khác theo với tên anh.
Sau Tiểu Đoàn 8 đến Tiểu Đoàn 5, 55
Nguyễn chí Hiếu, vẫn giữ giọng đĩnh đạc, chậm rãi gọn và sắc:
– Trình “Lê Lợi”, tôi chưa kịp có vị
trí, pháo binh cũng thế và tụi nó pháo quá dữ – Dạ, pháo từ xa,
cối gần hơn B40, 75 không giật thì chỉ cách tôi dưới 100 dứt.
“Lê Lợi” thả combiné xuống – Sự kiện
bắt buộc xảy ra, không thể tránh theo chiều nào được. Pháo không
phải từ một vị trí, pháo trận địa, pháo “vùng”, pháo TOT (Tác xạ
tập trung bắn từ nhiều nơi) và chính ngay tại Chơn Thành, PC của
“Lê Lợi” cũng bắt đầu “lo”. Lại pháo nổ xuống...
Ngày 13, tình hình như c... Thằng 8 bị
vây, thằng 5 bị pháo và Chơn Thành thì nhúc nhích không được. “Lê
Lợi” vất bỏ cái máy, ông không muốn nghe thêm một chữ nữa – Đại
tá Đức, Thiết đoàn trưởng phối hợp hành quân chết – chiếc trực
thăng vừa bốc lên khỏi cao độ hơn 10 thước, viên đạn oan nghiệt
kết thúc đời người anh, anh hùng mũ đen – Đại tá Đức, mắt sáng nụ
cười tươi, hàng ria mép đen nhẫy vừa mới phút trước đây còn anh
tôi hàn huyên thân ái, mới phút trước đây: Anh để tôi lên xem
“thằng con” như thế nào... Chết rồi, người bằng hữu lừng lững đi
vào như không. Đại tá Lưỡng cúi mặt xuống. Con beo gấm thất thủ
trước chiến trường vuột tầm tay.
Chiến trường trở nên xấu hơn khi Tiểu
Đoàn 5, nơi có vị trí pháo binh báo cáo hết đạn.
– Máy bay không thể vào vùng được – Đại
tá Quyền nhắc với “Lê Lợi” khi thiết kế tiếp đạn cho TĐ5.
– Vậy thì gọi về Lai Khê, bảo thằng Thu
(Ban 4 của Lữ Đoàn) qua nói với tiền trạm Tiểu Đoàn 5, cho người
hướng dẫn đem một xe đạn lên đây để tiếp cho “thằng cha” nó.
Trung sĩ Hoàng Thi, Thường vụ Tiểu Đoàn
lãnh nhiệm vụ áp ải xe đạn từ Lai Khê đến Chơn Thành và từ đây
một mình một súng, Thi làm “độc hành đại bảo tiêu” đi 4 cây số
hay đường hầm Tử thần để giao đạn cho đơn vị...
Đến Chơn Thành, Thi mượn máy Lữ Đoàn
liên lạc với Tiểu đoàn trưởng.
– Trình đích thân, em đã tới nơi của
“Lê Lợi”, bây giờ em đem kẹo lên.
– Không được, đang đánh nhau tùm lum ở
đây, dọc đường lại đầy tụi nó đi sao được...
– Dạ em nghĩ tụi nó có là để đợi phục
kích các đơn vị đâu phải phục kích một chiếc xe, em chạy cái ào
sức mấy nó bắn kịp...
55 Nguyễn Chí Hiếu đồng ý, hết đạn chỉ
còn trông vào sự may rủi đặt trên can đảm của người trung sĩ này.
Thi leo lên xe GMC, gã tài xế thuộc đại
đội quân vận tăng phái nhăn nhó:
– Trung sĩ, đường đang đánh nhau làm
sao mình đi được.
– Đồng ý là có đánh nhau, nhưng nó đâu
ngờ được có một chiếc xe GMC chạy lên trong giờ phút này, mầy xả
hết ga, xa lộ mà mầy, sợ gì tao cũng vợ ba con chứ đâu không sợ
chết.
– Lỡ có
mìn thì sao?
–
Có mìn thì mìn chống chiến xa ở vệ đường thôi, mầy cứ nghe lời
tao, ào một cái chẳng can chi... đ.m mầy không lái thì tao lái.
Chiếc xe GMC đội pháo rời khỏi Chơn
Thành với tốc độ 70 cây số một giờ. Người Kinh Kha tân thời mang
lon trung sĩ bỏ cần tác xạ khẩu đại liên 60 vào vị trí suto...
– Đấy cứ chạy như thế, mày có chết thì
cũng chết sau tao, sợ gì em...
Gã tài xế không nói một tiếng, chân ga
lút cán chiếc xe không phải chạy nhưng bay trên lớp nhựa đen, hai
bên đường đạn AK và B40 thổi tưng bừng. Trật hết cả, mầy thấy
chưa có thằng nào dám ra đường đón mình đâu. Thi bắn khẩu đại
liên theo hướng trước mặt, chiếc quan tài di động chứa đầy đạn
thoát đi như phép lạ... Nhưng Thi không bao giờ đến với “gia
đình” được, một toán Việt Cộng được báo máy chạy túa ra đường
chận chiếc xe.
– Làm sao Trung sĩ??
– Phóng thẳng đè qua tụi nó... hết ga
luôn.
Thi vẫn
bắn không ngừng vào những bóng lô nhô trên mặt đường... Đ... m
không xong rồi, mày ép bên mặt xuống dưới đường, coi chừng nó
thụt B40. Gã tài xế tay chân chuyển động như cái máy vô tri quẹo
trái lách phải mỗi tích tắc, mỗi giây phút qua nổ tan trong lồng
ngực... Quẹo lại, quẹo lách vào mấy cái cây. Lách vào, de lại.
De. Thi vừa bắn vừa la như quạ... Về. Về. Lút ga đi mầy. Lút ga.
Mau hơn nữa. Gã tài xế nhấn bàn chân phải hết độ cứng. Đạn rơi
trên thùng xe, đạn xoáy vào thùng đạn, đạn làm vỡ kính chiếu
hậu... Chiếc xe, người tài xế và Thi về lại được Chơn Thành trong
ngơ ngác của mọi người và của hai “đương sự”.
– Trình Đại bàng, em cố đưa đạn lên
nhưng không được...
– Thi nói trong tiếng thở khi đến Bộ
Chỉ huy Lữ Đoàn báo cáo với Tiểu đoàn trưởng.
– Ừ thôi vậy, anh đã làm hết sức rồi.
– Nguyễn Chí Hiếu trong lửa đạn không
khỏi cảm phục người thuộc hạ đã can đảm vượt khỏi sức của người.
8 bị vây kín, 5 bị pháo cô lập, Tiểu
Đoàn 3 Pháo binh tê liệt, vị trí dã chiến chưa có đủ thời gian để
chuẩn bị. Lữ Đoàn và TĐ 6 ở Chơn Thành kẹt cứng trong vòng đai
chi khu. “Lê Lợi” thiết kế cùng với Thiết đoàn 1/5 bung rộng qua
phía Đông để tấn công lên hướng Bắc. Hai chiến xa mở đường vừa
vào chưa được 3 cây số bị kẹt cứng bởi hệ thống đầm lầy, suối
con, bầu nước đan vào nhau chằng chịt... Hai ngày dậm chân tại
chỗ đi qua. Tàu Ô, con suối chỉ hơn 4 cây số sao quá khó khăn để
đến đôi mắt người chỉ huy chớp liên hồi. Tránh hết sức cũng không
được, mình vào bẫy của nó... Bộ óc chiến trận xoay hoài trên cái
trục mang số 13. Nếu mình đừng bị lệ thuộc vào con đường chắc sẽ
xoay trở được.
Rút tất cả về lại Chơn Thành giao vùng
trách nhiệm và con đường “khốn nạn” lại cho Sư đoàn 21. Lữ Đoàn
nhận nhiệm vụ mới. Đại tá Lưỡng thở hơi ngắn: Bỏ được đường 13
thì tốt rồi nhưng nhiệm vụ sắp tới sẽ như thế nào? Những đường
nhăn lại vạch thật đậm trên vầng trán. Ngày thứ 8 của chiến
trường khối óc chưa một giờ ngừng nghỉ, chưa một phút được nghỉ,
đúng chính xác như thế – giấc ngủ chập chờn những hình ảnh xô bồ,
náo động và đỏ cháy những lửa – Người Lữ đoàn trưởng đưa tay lên
bóp bóp hai thái dương – Ngày hôm kia “thằng Bảo” lại chết! Đại
tá Lưỡng “cứng óc” trong một khoảng thời gian. Cố Đại tá Nguyễn
Đình Bảo, người đàn em thân yêu của ông tử trận ngày 12–4 tại
Charlie, Kontum.
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10
| 11 |
12 | 13 |
Mục lục
4. Nhảy trực
thăng – Nghề của “Lê Lợi”
Buổi họp tại Trung Tâm Hành Quân căn cứ
Lê Khê đưa đến kết luận: Bằng tất cả mọi giá, phải đưa Lữ Đoàn 1
Nhảy Dù vào An Lộc. Sáng ngày 13 lúc 7g15, T–54 đã đến sát hầm
chỉ huy của Tướng Hưng. Vào An Lộc bằng đường bộ sẽ quá chậm
trễ... “Chính cá nhân Đại tá Tư lệnh phó Sư Đoàn 5 cũng phải thủ
một khẩu M72...” Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù phải vào An Lộc trong thời
gian ngắn nhất. Tướng Minh Tư Lệnh Quân Khu III đưa mắt hỏi ý
kiến Tướng Đống trong việc ném “thằng 1” vào An Lộc... E ngại,
điều này không phải cảm nghĩ riêng của mỗi người nhưng là tình
trạng chung của các cấp chỉ huy: Đưa một đơn vị vào trong rừng
phòng không, các bãi đáp đã có đủ yếu tố tác xạ, tối thiểu cũng
do một pháo đội đại bác trách nhiệm: Nhưng chỉ còn biện pháp này.
– Thế nào Lưỡng, nhảy không? Nghề của
ông mà!
– Nhảy
thì cũng nhảy Trung tướng, nhưng phải cho tôi đi một vòng để tìm
bãi đáp. Khó là lúc đáp xuống, nếu xuống được thì nhất định tôi
vào được.
Chiếc trực thăng chỉ huy ở một cao độ lạnh người lượn vòng thứ 5
trên An Lộc. Đại tá Lưỡng hỏi Thiếu tá Quyền (sĩ quan hành quân):
– Thấy cái đồi ở phía đông nam không?
– Thấy, Đại tá.
– Chỗ đó!
– Vâng, Đại tá, mình đi thêm một vòng
để thấy cho rõ...
Chiếc trực thăng lại chao đi thêm một
lần nữa, nhầm lẫn hớ hênh là mua đứt mạng sống của bao nhiêu
người và đổ vỡ hẳn kế hoạch tăng viện, tất cả đều do phút này
quyết định.
–
Đây tao sẽ cho xuống ở đây. Ấp tên gì lạ quá?
– Dạ ấp Srok Ton Cui, có lẽ là tên
Miên.
– Ừ, cái
ấp đó nó sẽ được dãy đồi ở Tây Bắc che dấu, trực thăng khi vào
vùng bay sát ở dưới lên, tránh được “đề lô” tụi nó quan sát. Hơn
nữa, không bao giờ tụi nó nghĩ mình dám đổ quân ở phía Đông. Nó
giữ chặt phía Nam vì phía đó cũng là đường về của mình. Mình nhảy
nơi cái ấp đó, xong chiếm ngay mấy ngọn đồi, vậy là giữ được đầu
cầu, phải cẩn thận trong thời gian đầu tiên...
– Vâng, Đại tá.
Quyền không bàn điều gì thêm. “Lê Lợi”
“đánh hơi” chiến trường không chút sơ hở...
Ngày 14 tháng 4, bãi đáp là một đoạn
đường nhựa ở ấp Srok Ton Cui, đường 245 nối từ Xa Trạch vào đồn
điền Quản Lợi, tây nam An Lộc cách nhau bởi hệ thống đồi với cao
độ 150 thước. 14g30 chiếc trực thăng đầu tiên đưa Đại đội
62/TĐ6ND thay vì xuống ấp lại đáp lộn xuống vùng ruộng của Suối
Rô dưới chân đồi không tên cao độ 176 thước. Ngô Xuân Vinh 23
tuổi đại đội trưởng nhỏ tuổi nhất của TĐ6 biệt danh “Vinh con” –
“con” không phải vì nhỏ người non dạ, trái lại bụng phệ, mặt mâm,
76 ký dềnh dàng nặng nề, nhưng “con” là vì tính khôn ngoan quá cỡ
so với số tuổi “tí xíu”. Vinh “con” có thể ở với những “xếp” nặng
nhất, của Sư Đoàn Nhảy Dù nhờ cú né tài tình mà không thể bậc
thầy nào qua mặt nó được... Vinh xuống lộn bãi nó loay hoay một
chút giữa đám ruộng trống trải... Bố trí lại hay tiến về phía
đồi? Nhưng Bộ Chỉ huy Tiểu Đoàn đã xuống kịp. Trung tá Nguyễn Văn
Đỉnh hay Đỉnh “Tây con” ba mươi ba tuổi, khuôn mặt tròn, da
trắng, lông mi cong.
– Anh Năm nếu không vì hàm râu quai nón
mang lon trung úy vẫn còn vừa! – Vinh đã nhiều lần đùa sếp như
vậy.
Nhưng
Đỉnh không “con” chút nào trong trận địa. Khoá 15 Đà lạt, từ đầu
cuộc chiến, lon lá lên toàn ở mặt trận, kinh nghiệm dày như khi
mới rút con “thứ ba” đã chịu quay vì biết nó có đôi xì “kít”
trong khi mình có đôi đầm mặt. Quan Năm Đỉnh không thua người một
chút nào dù với khuôn mặt quá trẻ. Các em mê ở chỗ này nhưng cũng
là “nhược điềm” đau khổ nhất của người. Chỉ có trời và vợ biết.
Đỉnh xua liền thằng Vinh lên đồi...
– Để em xin trong An Lộc bắn ra mấy
trái trên đó lên cho chắc ăn.
Vinh vào thẳng tần số An Lộc xin tác xạ
yểm trợ. Trong này pháo tiêu hết còn độc mỗi khẩu 105 “nhỏ” cho
Vinh ba quả đạn – Đúng ba quả. Thôi đành vậy. Vinh nhào lên đồi.
Chỉ có toán Cộng quân làm tiền đồn, đánh không khó. Vinh thanh
toán mục tiêu trong vòng 40 phút. Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn lên theo.
Đỉnh đặt tên cho đồi: cao độ “E”. E là Echo, chữ thứ 6 của 24 chữ
cái, Đỉnh bị ám ảnh bởi con số của đơn vị mình. (Sau khi Tiểu
Đoàn trở lại An Lộc lần thứ hai với Chiến đoàn đặc nhiệm 6, Đỉnh
cũng linh cảm sự linh thiêng của con số – Số 6 là số 9 đang thành
hình – Số đẹp nhất). Đại đội 61 xuống tiếp chiến ngay cao độ Đông
Bắc “E”, nhận danh hiệu E2. Hai Đại đội vừa chiếm xong cao độ để
giữ an ninh cho bãi đáp thì Cộng quân cũng phát hiện được cuộc
trực thăng vận. Pháo từ phía Bắc và 75ly không giật từ Tân Lợi
(cơ sở sản xuất cao su lớn của Pháp, 3 cây số đông bắc An Lộc)
bắn thẳng vào E và E2... Mặc, phải giữ E để làm an ninh cho bãi
đáp, không phải riêng cho đơn vị nhưng để Lữ Đoàn và quân bạn vào
ngày mai. Lính đào hố dưới mảnh đạn văng tung tóe, chiếc ba lô
làm vật tránh đạn tạm thời che vào độ cái đầu thụ động dưới mỗi
loạt pháo. Đỉnh, cố vấn Morgan, Nghiêm (ban 3) tất cả đều bị
thương;
– Đừng
để lính biết, bảo lính đào hầm nhanh lên, chiều rồi, xong mầy ở
luôn lại đây.
– Đỉnh bảo Vinh, tay đè lên miếng băng cứu thương, máu thấm đẫm
lớp băng dày.
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10
| 11 |
12 | 13 |
Mục lục
5. Phương Tây đỏ lửa: An Lộc
Tiểu Đoàn xuống đủ, E hay “Đồi Gió”
biệt danh được đặt cấp tốc, giờ đây là gió lửa, gió nhân tạo đầy
mảnh thép, ầm vang tiếng nổ.
– Gắng ở lại đây nghe em, tao xuống
dưới kia. Có cáỉ ấp dễ tải thương kín đáo hơn. Mầy thâm niên nên
coi thằng 1 (Đại đội 1) ở bên E2 luôn.
– Tôi nghe Trung tá.
Vinh ở E, hay Đồi Gió, cao độ 175 thước
nhìn chếch về An Lộc ở Phương Tây, 4 cây số đường chim bay. Vinh
thấy khói đen bốc lên nhiều nơi, thành phố đang bị pháo kích...
Từ khi mình xuống tới giờ chẳng thấy nó nghỉ pháo một chút nào
cả... Chịu làm sao như thế được? Vinh quên mất niềm hãnh diện:
Người đầu tiên trực diện với An Lộc, thành phố sau nửa tháng
nghẹt thở, nằm cứng trên giàn hỏa càng ngày càng tăng độ nóng. Có
tiếng người kêu ở Tây nam phía đồi 169, một toán lính mặc áo ngụy
trang đứng trên đỉnh ngoắt tay liên hồi... Lính Biệt Động Quân,
họ bị vây từ hơn mười ngày – Mười ngày không tiếp tế và nước
uống. Vinh nghe được giọng nói nghẹt khô của viên Đại đội trưởng
Đại đội này...
– Nón đỏ, nón nâu đây, đói, khát quá...
– Nghe rõ, bạn gắng đợi ngày mai, bây
giờ quá chiều tôi qua bạn không được.
Vinh nghe được một tiếng thở dài thật
mệt qua không gian truyền ngữ như vậy không hiểu mình sau này có
khá hơn được không?
Ngày 15–4 BCH/Lữ Đoàn, Tiểu Đoàn 5 và 8
cũng xuống bãi đáp cũ bình yên. “Lê Lợi” leo lên đỉnh Đồi Gió họp
2 Tiểu đoàn trưởng 5 và 8:
– Mình đi liền, anh Ninh (TĐ8) đưa
thằng con vào An Lộc, nhưng khoan vào hẳn, anh tới ngang chỗ con
suối thì ngưng đợi tôi. Tôi và Hiếu (TĐ5) vào ấp Sóc Gòn, mình
dọn đường vào cho thật sạch, có gì còn bung ra lại để đường đơn
vị khác sau này vào cho dễ dàng. Đồi Gió – An Lộc, 4 cây số trên
những cao độ thoai thoải, qua khu rừng cao su Phú Hòa, nếu muốn
đi chỉ mất khoảng 2 [?] giờ (?: chữ mờ, người đánh máy đoán không
được bao nhiêu giờ), đi với lục soát cẩn thận – Cẩn thận, “Lê
Lợi” vượt xa đức tính quí giá này hơn nữa – Ông thấy rõ cái
“chật” của chiến trường, trước khi vào cái bẫy bắt buộc, không
quên mở rộng tối đa không gian cho đơn vị – Muốn đánh nhau phải
có một chiến trường – An Lộc không phải là vị trí tốt để tác
chiến, cái túi thụ động ngột ngạt, ông muốn có trời xanh và
khoảng trống để các “đứa con” sẽ tung hoành hết kích thước của
lính Nhảy Dù. An Lộc là cái bẫy – Đại tá Lưỡng ngần ngại khi bước
chân vào thành phố này – Nhiệm vụ chiến thuật của một Lữ Đoàn đến
đây bị chặt hết khả năng vùng vẫy... Nhưng nhà binh và nhiệm vụ
là những điều bắt buộc, ông chỉ là một sĩ quan trung cấp. Chức vụ
đại tá một Lữ Đoàn có là bao so với cuộc chiến.
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10
| 11 |
12 | 13 |
Mục lục
6. Chiến trường quá “khổ”
Từ Đồi Gió, Lữ Đoàn chia làm hai cánh
quân chính do “Lê Lợi” chỉ huy “xấn” 2 đứa con 5, 8 vào với An
Lộc. Cánh thứ hai gồm Ngọc Long (Lữ đoàn phó), Tiểu Đoàn 6, một
pháo đội TĐ3PB... ở lại Đồi Gió. Toán quân này sẽ có vinh quang
và tàn khốc riêng. Tiểu Đoàn 6 Dù chỉ trong thời gian “chưa tàn
điếu thuốc” của cuộc chiến dằng dặc sẽ đi từ cực điểm này đến cực
điểm khác. Những điểm thấp và cao nhất của chiến sử đơn vị. Tiểu
Đoàn 6 hậu thân Đơn vị Nhảy Dù lừng danh nhất của Quân Đoàn viễn
chinh Pháp và cũng như định mệnh đặt để: Nó sẽ đến chót đỉnh Vinh
Quang như “số 9” tiềm ẩn trong nó hoặc đi sâu xuống hẳn vào kinh
hoàng khốc liệt mà không thể có đơn vị bộ chiến nào vượt nổi.
Chuyện Tiểu Đoàn số 6 sẽ được nói sau. Chúng ta đi theo cánh quân
của “Lê Lợi”. An Lộc một đoạn trường đang chờ đợi với tột đỉnh
khắc nghiệt. Điểm dứt hơi chiến tranh Việt Nam.
Ngày 16–4 Tiểu Đoàn 5 chia làm hai cánh
quân băng qua rừng cao su tấn công vào ấp Sóc Gòn, toán quân đang
tiến vào ngon trớn bỗng dừng lại: dân ùa ra, dân tràn ra như dòng
nước vượt qua bờ đất nhỏ.
– Để cho dân ra hết, mình chia hai cánh
quân gắng vào càng sát rồi nổ súng, sẽ còn nhiều đụng độ ở đây...
– Tiểu đoàn trưởng Hiếu dặn dò các Đại
đội trưởng trước khi xung trận ở lằn mức chót. Bìa làng chỉ cách
100 thước.
Một
lần, hai lần, không vào được – Rút quân ra, phải đánh bom mới
được, tụi nó tổ chức phòng thủ cả nửa tháng. Súng tay mình không
phá vỡ nổi. 20 phi tuần khu trục Việt Nam, chiến đấu cơ của Mỹ
cũng phụ lực tham chiến, bom đánh suốt ngày. Buổi chiều, Tiểu
Đoàn “dứt” mục tiêu. Ấp hình lục giác bây giờ biến thành thập,
thập nhị giác hay không còn một hình khối nào nữa... 300 thước
vuông nhận hơn 30 “pass” bom vừa tây và ta đã biến thành một đống
vỡ vụn, cây tróc gốc; nhà bốc cháy... Nhưng so với An Lộc bên
cạnh, ấp Sóc Gòn chỉ là lò than nhà.
Ngày 17–4, Tiểu Đoàn 8 qua suối Quản
Lợi, vượt đường xe lửa, trời chưa sáng, 4 giờ, ánh sáng tím của
đêm bước qua ngày nhập nhoè trên tàng cây. Lữ Đoàn cùng Tiểu Đoàn
5 cũng rời bỏ ấp Sóc Gòn tiến song song với 8 dọc theo đường 303
vào An Lộc.
8
Dù vào thẳng không trở ngại, đến ngay vòng đai An Lộc lúc 7 giờ
sáng.
– Nhảy
Dù! Nhảy Dù! – Người lính Địa phương quân gác ở vọng cạnh cực
Đông nhảy vọt lên khỏi hố, anh ta báo hiệu cho những người bạn
bên cạnh... Pháo địch rơi xuống 2 trái, một ở chi khu, một ở B15,
người lính liền xuống hầm. Trước mắt lính Tiểu Đoàn 8, An Lộc
không còn sự sống.
Cánh quân Tiểu Đoàn 5 khựng lại ở đường
rầy không thể dùng phi pháo, muốn dùng cũng không có... Tiểu Đoàn
ngừng lại đưa một Đại đội lên đánh, phải đánh theo lối đặc công,
địch ở hầm quá sâu.
13 giờ, Đại tá Lưỡng bước chân hẳn vào
vòng đai An Lộc.
– Không còn gì hết Quyền hả?
– Vâng, kinh thật, tôi không thể tưởng
tượng nổi.
Hai
người trao nhau câu nói ngắn, lính phải phân tán thành từng toán
nhỏ di chuyển từ hầm này sang hầm khác. Chỉ là một cách để gây tự
tin và khỏi thiệt hại vô ích. Địch có tiền sát viên ở các cao độ
phía Bắc điều chỉnh vào toán quân từng trái đạn chính xác như để
bi vào lỗ... Thêm một số bị thương, chẳng thấy được mặt cộng sản
như thế nào!
Đại tá Lưỡng mượn chiếc xe Jeep của Liên đoàn 3 Biệt Động Quân do
Quyền lái chạy như bay trên mặt đường lởm chởm hố và vương vãi
xác người... Tướng Hưng còn hai hộp bia và một chai bia lớn, mở
ra lập tức.
–
Mời anh Lưỡng... tốt quá, có được anh, tôi vững tâm.
Đại tá Lưỡng uống hớp bia cuối cùng của
Tướng Hưng. Ông Tướng mới nhất của quân lực cố nở nụ cười tươi
trên khuôn mặt tan nát vì lo âu “có anh, tôi mừng lắm”.
– Chào Chuẩn tướng, tôi về để lo điều
động mấy đứa con, tôi sẽ “clear” và giữ hướng Nam.
– Đúng vậy, anh gắng cẩn thận...
Trên xe đi đến BCH Tiểu khu nơi Đại tá
Nhật (Tỉnh trưởng Bình long) “Lê Lợi” hỏi Quyền:
– Mầy biết tao vào An Lộc bằng cách nào
không?
Quyền
không hiểu ý câu nói, anh đưa mắt hỏi thầm.
– Tao vào bằng lưng, chân bị vọp bẻ
quá, tao phải xoay lưng đi ngược vào An Lộc... Cái mặt mà sưng
bằng cái lưng là điềm không khá, khó lắm đó mầy.
Quả thật rất khó hơn mọi khó khăn mà Lữ
Đoàn đã gánh chịu từng bao nhiêu năm. Mậu Thân thành phố Huế bỏ
ngõ. Cộng quân vây chặt trùng trùng, điểm kháng cự chót là Mang
Cá với Tướng Trưởng lặng cứng âu lo... Đại tá Lưỡng đã một lần
vào thành phố cuối đáy tuyệt vọng như thế, nhưng dù với Tiểu Đoàn
7 Dù đã bị phục kích nát ngay tại cửa An Hòa, ông vẫn còn Tiểu
Đoàn 2 và 9 để nới rộng vòng đai chiến đấu của Sư đoàn 1 ra đến
Tây Lộc cửa chánh Tây, cửa Thượng Tứ. Mậu Thân cũng không phi
pháo chỉ với những đứa con bị thiệt hại trầm trọng ông vẫn vùng
vẫy, vẫn bung vẫn xấn tới vào mục tiêu. Và Hạ Lào ngày ngày bay
trên lưới đạn, không phải chỉ một tấm lưới nhưng hằng hằng lớp
lớp đạn phòng không đan chặt trời cùng đạn pháo binh với đầu nổ
cao gây những đóa hoa chết đầy không gian... Đại tá Lưỡng đã qua
những chiến trường nặng độ như thế nhưng vẫn trở tay được, vẫn
tìm được một đường chiến đấu. An Lộc điểm dứt hơi chật chội, lính
Nhảy Dù đang nằm dưới một vòm lưới khổng lồ. Ném thằng 8 qua phía
Tây thành phố xong băng xuống chính Nam...
– Anh cho tối thiểu cũng phải 3 Đại đội
ra khỏi hàng rào mới làm ăn được, giữ trong này thì bó tay mình,
vô ích.
Trung
tá Văn bá Ninh gật đầu nhận lệnh, ông cũng đồng quan niệm. An Lộc
quá chật và thụ động.
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10
| 11 |
12 | 13 |
Mục lục
7. Tuyến “Hoả Tiễn” và Tăng
Tiểu Đoàn 8 trừ gồm 3 Đại đội do Tiểu
đoàn phó Tuyển sau khi đến hàng rào cực Tây, trở hướng tiến về
phía Nam ra khỏi hàng rào An Lộc. Trước mắt đoàn quân, con đường
13 vắng lặng như khối vật chết, rừng cao su xanh thẫm, lớp đất đỏ
nâu sậm – cảnh vật hấp hối lặng lờ nặng trĩu – Tai ương đè lên
mỗi phân đất mà người lính bắt buộc phải dẵm lên – Di chuyển trên
một bãi mìn cũng căng cứng bằng thế này mà thôi... Lực lượng này
cũng đang di chuyển qua một bãi mìn di động: mìn không gian, mìn
được phóng từ nơi xa, nổ chụp lên đầu... Một ngàn hai trăm thước
ba Đại đội Tiểu Đoàn 8 đi mất buổi chiều... Không phải đi nhưng
di chuyển theo một chiến thuật quái dị, di chuyển từ một gốc cây,
di chuyển theo lối cóc nhảy, lối loài bò sát của côn trùng sâu
bọ; 1200 thước An Lộc – Ngã ba Xa Cam, 3 Đại đội đi trên một giây
tử thần đã bị cắt đứt ruột... Đóng quân, tung quân lục soát và
đụng... Mỗi lần đụng là một lần thiệt bại, Tiểu Đoàn 8 tưởng như
không có một đời sống nào khác hơn là sự chết đang bao trùm. Mỗi
cuộc tấn công địch dùng 2 trung đoàn, 2 trung đoàn bộ được yểm
trợ tối đa pháo binh – Pháo binh với 105, 155, 130 bắn tối thiểu
cũng từ 6 vị trí trở lên lên ụp xuống... làm sao để phản pháo và
lấy gì để phản pháo – khẩu cuối cùng của An Lộc đã bị phá hỏng,
chỉ còn ổ súng cối Nhảy Dù nhưng súng cối chỉ là để phòng thủ, tự
vệ đâu phải là pháo binh để dọn đường cho cuộc phản công.
Từ vị trí đóng quân, ngày 21/4 Tuyển
gom ba Đđại đội cố mở vòng đai phòng thủ. Đại đội 83 Vân đi bên
trái, 2 Đại đội 81 và 84 bên phải, lấy con lộ làm chuẩn. Mục tiêu
là ngã ba Xa Cam cách nơi đóng quân 500 thước. Đụng liền, trái,
phải, trên, dưới đều kẹt cứng. Hình như Cộng quân, không dùng
súng cá nhân, tối thiểu là cũng Trung liên rồi đệm vào bởi B40,
B41 và 75 bắn thẳng.
– Bắc Bình lên ngay dùm tôi, bên phải
tôi trống quá. Vân gọi máy nói với Tuyển như van xin.
– Tôi biết, bên này cũng bị kẹt, bây
giờ chỉ bắn che cho anh thôi...
– Vâng, Bắc Bình cứ bắn như thế...
Đó là những lời nói cuối của Vân, Trung
úy, thành phần “chóc” của TĐ8. Vân bị một trái 75 chém đứt cánh
tay, máu chảy từng đường lớn, sức lực nào để chống nổi với cái
chết đang ào xuống, máu chảy đến giọt cuối và Vân đi khuất.
Tiến không được thì rút về cố thủ.
Tuyển biến thành một hỏa tiễn liên lục địa, anh hét vang vang.
Anh nổ bùng, bốc lửa “... c... đ.m kẹt thì tung ra, đánh bỏ mẹ
tụi nó hết, bắn đợi thật gần mới bắn, 20 thước mới được bắn...”
Không đánh địch ở xa, Tuyển đánh ngay
vị trí, đánh tăng, thứ tăng liều lĩnh ngu ngốc tưởng chỉ với khối
thép bề thế áp đảo được lính Nhảy Dù. Vị trí phòng thủ không đầy
200 thước chu vi của Tuyển biến thành một cái đinh thu hút địch,
chúng bao quanh Tuyển như đàn kiến đói giành nhau hạt đường.
Đêm 22 rạng 23 tháng 5, Cộng quân dùng
hai công trường 7 và 9 “phối thuộc” Đại đội 5 Tiểu đoàn 107 Trung
đoàn 203 chiến xa từ xã Thanh Bình (hay đồn điền Xa Cam) kéo ra
quốc lộ chia làm 2 nhánh. Nhánh thứ nhất quẹo tay phải theo đường
về phương Nam đánh Trung đoàn 15 Bộ Binh. Thành phần thứ 2 gồm
trung đoàn 272 (nỗ lực chính) thuộc công trường 7 có 2 T–54, 2
BTB PK–50 dẫn đầu quẹo phía Bắc. Tiểu Đoàn 8, Tiểu Đoàn sẵn sàng,
hơn ai hết. Lính Nhảy Dù biết rõ thiết giáp Cộng quân chỉ là đồ
chơi, lính Thiết Kỵ của chúng chưa có đựợc kinh nghiệm và khả
năng để điều khiển chiếc xe, nói rõ hơn chúng chỉ biết lái đến
một vị trí đã được chỉ định... Và bộ binh tùng thiết (theo xe bọc
sắt) thì quá khờ khạo không biết phối hợp và điều động theo chiến
trường.
Ba
người lính của Đại đội 81 cùng đứng dậy một loạt khi chiếc T–54
ùn đi tới, bóng đen khối sắt lấp lánh dưới trăng non.
– Tao bắn trước!
– Không được, ba đứa cùng bắn, tao hô
1, 2, 3 rồi mình “phơ”.
– Bắn!
2 M72 biến cải, 2XM 202 cùng phun ra
một lượt. Mỗi quả M202 cháy nóng 36000 độ F, 4 quả là bao
nhiêu?... Chiếc T–54 nằm im bốc cháy không một bóng người nhảy
ra. Trò chơi máu được giành giựt mê mải, lính ta đánh giặc như
đùa, như giỡn với bọn trẻ con cuồng dại.
Chiếc T–54 thứ 2 tốt số hơn né được
trái M72 đầu tiên đâm vào bờ rừng nằm cứng. Hai người lính nhảy
ra... Để tôi ném lựu đạn, đừng bắn để ném lựu đạn...
Năm “con cua” bị rang muối trong 11
phút đầu tiên, cách phòng tuyến Tiểu Đoàn 8 dài nhất là 50 thước
và ngắn nhất là không có thước nào! Vì thiếu PK–50 cuối cùng thay
vì tấn công Tiểu Đoàn 8 ở phía Tây con đường lại tấn công về phía
đông nơi Trung đoàn 48 BB, bị đơn vị này bắt, chiếc PK–50 lùi dần
lùi qua đường và vào hẳn vòng đai phòng thủ của TĐ8. Lính ta quá
ngạc nhiên với hiện tượng một cái xe cứ đưa đít chạy ngược. Nên
khi nó vào trong vòng Tiểu Đoàn, không ai có thể bắn được (sợ
đụng đồng bạn). Chiếc xe lùi thêm nữa, đi lên nắp hầm Đại đội
trưởng 81, hai sợi giây xích hổng khỏi mặt đất quay tít, thân xe
ngúc ngoắc cựa quậy và máy tắt... Lính ta nhào tới, máy lại nổ.
Trò đùa chấm dứt khi anh Hạ sĩ Chút leo lên thảy một trái lựu
đạn. Hai mươi xác chết cháy đen được mang ra.
Tiểu Đoàn 8 không những “diệt gọn”
những tăng đánh phần đất mình, Tuyển liên lạc với C130 Spector
(Phi cơ 130 có gắn súng 105, bắn và nhận diện mục tiêu bằng
Radar) hạ luôn 5 chiếc chạy hướng Nam trước khi tấn công Trung
đoàn 15. Quá hăng hái và thích thú, Tuyển “vung tay quá trán”
không những quá trán mà còn quá cả đầu, vết thương cũ đứt tung
chỉ, máu thấm ướt qua hai lớp áo mới hay.
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10
| 11 |
12 | 13 |
Mục lục
8. Mong ngày đi qua mau
Nhưng những “ngày vui” đó quá ít và qua
quá mau, những ngày dài còn lại chỉ có việc nằm co chịu pháo. –
Đ.m. Nó lấy đạn đâu mà pháo lắm thế – nằm yên dưới hầm lâu lâu
Tuyển lại lẩm bẩm khi có những viên đạn nổ quá gần; lẩm bẩm như
khi ngồi chầu rìa thấy người ta tố mà mình đã biết rõ tẩy. Tuyển
cũng biết rõ tẩy của đối phương thứ tẩy sất hạng bét như lỡ tiền
nó mạnh quá... Đ.m... đạn đâu lắm thế nhỉ, Tuyển hỏi câu hỏi đó
hàng ngàn lần trong hai tháng hay 72 ngày...
Nhưng An Lộc địa ngục không phải chỉ ở
vòng ngoài nơi Tiểu Đoàn 8 Dù ở ngã ba và Xa Cam, An Lộc đúng
nghĩa, đúng là ở An Lộc Thị Xã từ phía Bắc Tòa Hành Chánh cho đến
B15 ám danh “Khánh Ly”. Từ nơi CTCT đến, Bộ chỉ huy Lữ Đoàn 1 hay
cũng là Bộ chỉ huy Tiểu Khu... Không ngừng nghỉ không ngắt
khoảng, pháo không phải vài trái không phải vài loạt, pháo TOT
(Tác xạ tập trung bắn từ nhiều vị trí), pháo ngày đêm, trưa,
chiều, hỏa tiễn súng cối điểm giọt đổi món và SA7 cầm tay là trò
chơi trên không khí dưới đất không còn mục tiêu để đùa. Một tiếng
động trực thăng ở trên cao, có thể chỉ là một trực thăng chỉ huy
đã ầm! ầm! Bãi đáp cạnh Tòa Hành Chánh, “Khánh Ly”, bãi pháo
ngoài ngã ba cùng nổ tung vật vã... Máy bay thả dù phải bay mãi
trên cao, trên các cụm mây, phải nối các tầng mây dày đặc mới hy
vọng tránh khỏi phòng không và hỏa tiễn tầm nhiệt – Thứ hỏa tiễn
nhỏ nhưng độc địa kinh tởm. Thả mười cái dù thì hết 8 cái rơi bên
ngoài, sân vận động dài chỉ 100 thước, tàu bay ở cao độ trên 8000
bộ, dù nào có thể rơi xuống được trong bãi thả bằng lỗ mũi... lại
phải biến chế thêm điều khiển, dù lái... Tiếp tế đồ ăn cũng là
một điều nguy nan.
Chịu pháo và thiếu thức ăn lâu lâu lại
có ngày đặc biệt như đêm 11 rạng 12 tháng 5. Ba mũi dùi mỗi mũi
dùi là một Trung đoàn đủ 3 Tiểu Đoàn bộ phối hợp với một Đại đội
chiến xa đánh theo ba hướng Đông Bắc, Tây Nam... Mỗi mũi dùi có
một nhiệm vụ riêng nhưng mục tiêu chính của dân cường tập là “Bắt
Chuẩn tướng Hưng đem về Snoul bằng xe 2 CV và san An Lộc thành
bình địa”. Mục tiêu đầu thì không đạt được nhưng phần sau thì
Cộng quân đã đạt đến toàn phần. Bình địa thì không thể nói được
vì cũng còn vài bức tường đứng được trên quả đất nhưng có thể nói
rằng: Không một vật thể nào còn nguyên hình thù đứng được trên
mặt đất. Chiếc xe Jeep, bánh xe bò, cột giây điện, ngay cả một
ống đạn đựng nước, cái nón sắt bỏ rơi... Tất cả đều có dấu vết
của cuộc đại pháo kích. Từ 1 giờ đến 3 giờ sáng, hơn 8000 quả đạn
rơi đầy trên 400 thước vuông, trung bình mỗi thước vuông nhận 20
trái đạn cực mạnh – loại “delay” loại đạn không cần rơi trúng
hầm, chỉ cần rơi bên cạnh xong xoáy một độ sâu và nổ bùng... Vách
hầm nào chịu đựng nổi loại đạn trên – Trong thị xã chỉ có được 2
cái hầm béton: một của Tướng Hưng, một của Đại tá Lưỡng và Nhật.
Danh tướng Mac Arthur đã dọa Bắc Cao “Nếu tràn qua sông áp lực
tôi sẽ cho mỗi khẩu 105ly giữ 1cs vuông.” Danh tướng lừng danh
quân sử Mỹ cũng không tiên đoán được trong tương lai ở một chiến
trường tầm thường nơi hóc hẻm của một quốc gia nghèo hèn có được
một trận địa pháo với 8000 quả đạn trong 2 giờ trên 400 thước
vuông.
Chỉ có
ở An Lộc, Tiểu Đoàn 5 Dù, Tiểu Đoàn ngoại hạng của binh chủng đơn
vị khai sinh ra Tướng Ân, Tướng Trưởng, Tướng Nam, Tướng Thi mới
bị tổn thất nặng. 4 Đại đội trưởng tác chiến, một Tiểu đoàn phó
bị thương mà không đụng được một trận ra hồn. Tiểu đoàn trưởng
Nguyễn chí Hiếu chỉ việc nằm im dưới 3 thước hầm để đợi ngày qua
và pháo dứt. Chỉ ở An Lộc mới có những bộ tham mưu làm việc 24/24
với một “tenu” độc nhất: áo thun, quần xà lỎn hay sang trọng hơn:
1 quần nhà binh cắt cụt ống...
Đại tá, trung tá Nhảy Dù ngồi mơ ước
những hạnh phúc “lớn”:
– Moa chỉ cần một cái đùi gà, một đùi
gà luộc, nhỏ chừng này cũng được. (Ngọc Long đưa 3 ngón tay) xong
bỏ ít lá rau răm, chút tiêu, muối và ớt thiệt cay... rồi bóc!
bóc! hai hộp bia thiệt lạnh. Xong rồi, cọc! cọc! Moa... ăn!
Trung tá Nhảy Dù, cựu tùy viên quân sự
– người đã đi hết nửa vòng thế giới, đã uống champagne ở Table
Mandarin – trong bóng tối của hầm chỉ huy ở An Lộc chỉ mơ ước
được một miếng thịt gà bằng 3 ngón tay.
Và cũng chỉ ở An Lộc mới có một thương
binh gẫy chân đến ngày thứ 31, thịt chỗ bị thương đã nặng mùi,
khi trực thăng mới chạm được càng trên lớp đường nhựa anh ta đã
“chạy” vọt lên – Chạy bằng hai chân nhanh như một gã lực sĩ điền
kinh.
Trên tàu
bay chiếc Slick chở con số làm chóng mặt nhân viên An Phi: 18
người. Gã thương binh nước mắt ràn rụa “sửa” lại vị trí của bàn
chân – Bàn chân quập vào phía trong khi ống chân chĩa thẳng ra
ngoài!!! Máy bay không có xác chết nhưng nặng mùi tử khí.
An Lộc ngột ngạt, chật chội, thụ động;
An Lộc là “Túi” mà kẻ vào trong đó chỉ có việc nằm co mình hứng
pháo và mất hết khả năng tung hoành vùng vẫy. Không phải đợi đến
ngày thứ 72, “Lê Lợi” mới biết được điều ấy, ông biết từ Ngày
N+10 của chiến trường lúc ông cùng Quyền lượn trên các cao độ của
Đồi Gió để tìm bãi đáp cho cuộc trực thăng vận ngày 14/7 và ông
đã thấy đúng kích thước của nó – Cao độ 75, điểm tựa để An Lộc có
thể thở, điểm thoát hơi tối cần thiết. Tiểu Đoàn 6 Dù cùng Bộ chỉ
huy nặng sẽ ở lại đồi này với pháo binh – ý định chiến thuật của
ông chính xác và tinh vi đã không thực hiện được... Trở lại Đồi
Gió, điểm “dứt hơi” hay nút an toàn độc nhất của An Lộc – chính
xác hơn của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù...
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10
| 11 |
12 | 13 |
Mục lục
9. Đồi Gió, nút thoát hơi của An Lộc
Đồi
Gió là gì? Ở đâu? Bên cạnh một An Lộc quá to lớn bởi sự tàn khốc
và bi tráng, Đồi Gió quả nhỏ bé và tội nghiệp như dãy cao độ
không tên mà Tiểu Đoàn 6 Dù đã xuống trong ngày 14/7. Nhưng thật
ra đây là điểm chiến thuật đầy tính chất sáng tạo mà chỉ có thể
một cấp chỉ huy như Đại tá Lưỡng mới cảm thấy được toàn bộ quan
trọng của một vị trí vô danh trong chiến địa trùng trùng... Nếu
những xã Tàu Ô, Tân Khai, Xa Trạch, Xa Cam là những nút chận dọc
đường 13 mà Cộng quân cố bám chặt theo tiêu chuẩn “chốt cứng chân
đứng, diệt gọn, cơ động nhanh. Vây ép bám chặt, đánh chậm, đánh
chắc...” Lữ Đoàn 1 Dù cũng đã thử lửa vượt qua những chốt cứng
này rồi. Không thể được, quân số Lữ Đoàn không thể mở rộng tối đa
được 1 cây số mỗi bên, và cuộc trực thăng vận là một điều bắt
buộc... Nhưng Đồi Gió không chỉ là một bãi đáp, Đại tá Lưỡng thấy
nó còn là một điểm tựa, điểm tựa thật nhỏ nhưng vô cùng cần
thiết. Giữ được nó, An Lộc có được một sườn phía Đông an toàn, từ
đó có thể làm bàn đạp tiến dễ dàng lên hướng Bắc hay rẽ xuống
hướng Nam. Dãy cao độ chạy theo hướng Đông Bắc Tây Nam với 3 cao
điểm 160, 185 và 140 đã được nhận định đúng kích thước... Tiểu
Đoàn 6 ND cùng một pháo đội 105 của TĐ3PB Dù có nhiệm vụ giữ điểm
tựa... Trong chiến sử có những đơn vị bất ngờ được chọn lựa thi
hành những nhiệm vụ quá khổ; bất ngờ không phải là ép buộc, nhưng
tình thế đưa đẩy đơn vị đó hoặc những biến cố ngặt nghèo... Và nó
đứng vững trong toàn thể kinh ngạc. Tiểu Đoàn 6 Dù, một trong
những đơn vị đó – như tiền thân của nó trước kia 6ème BEP đã
đương đầu với Sư đoàn nặng 320 Bắc Việt trong một cuộc chạy đua
trên trăm cây số núi rừng Việt Bắc.
Kể từ khi Đại Đội 62
bước lên Đồi Gió, 18g30 ngày 14/7, có thể nói rằng Tiểu Đoàn 6 đã
nhận được một số mệnh khắc nghiệt của các lực lượng bộ chiến ở An
Lộc. Khi Bộ Chỉ huy mặt trận Bình Long khám phá ra được cuộc trực
thăng vận thì tất cả hỏa lực của vùng Bắc và Tây Bắc An Lộc đều
hướng về Đồi Gió, ba cao độ rõ ràng như ba điểm chuẩn địa hình,
pháo binh địch rơi không chệch một quả xuống chân đồi... Bị
thương nhẹ là một điều hạnh phúc. Mong được sống và an toàn là
một chuyện quá vô lý... Tao bị thương chỉ mấy mảnh như thế này là
khá rồi! Trung tá Đỉnh, Tiểu đoàn trưởng ngày giờ đầu tiên đã
nhận hai mảnh 75 không giật bắn từ hướng Bắc xuống.
Ngày
15 khi Lữ Đoàn cùng 2 Tiểu Đoàn 5,8 bắt đầu rời đồi vào An Lộc,
Đỉnh ở lại cùng Bộ Chỉ huy nặng của Lữ Đoàn gồm Lữ đoàn phó, Đại
Đội Trinh Sát 3 Dù và Pháo đội 105... Bắt đầu giờ định mệnh của
Tiểu Đoàn 6, khi bức công điện của mặt trận Bình Long gởi về Bộ
Chỉ huy Trung ương cục “01 D Dù Ngụy (Tiểu Đoàn Dù) chiếm Đồi
Gió, gây khó khăn trong việc chiếm Bình Long phải ‘diệt gọn’ D
ngụy với tất cả phương tiện... Chuyển xong chữ chót”.
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10
| 11 |
12 | 13 |
Mục lục
10. Đạp đổ định mệnh
Đỉnh cũng không hoàn
toàn thụ động dưới cơn mưa đại pháo địch. “Nó phân tán pháo để
tập trung hỏa lực để bắn mình. Tại sao mình không phân tán các
đứa con cơ hữu để tránh pháo ngoài ra còn phòng thủ lưu động được
toàn miền?” Đồi E, Đồi Gió hay cao độ 175 cũng chỉ là một cao độ:
Một điểm địa hình quá dễ dàng để “chỉ định mục tiêu” cho pháo
binh địch thực hiện liền ý định. Đỉnh cho Đại Đội 63 do Hoàng chỉ
huy xuống núi đến trấn giữ ngã ba đường 245 Bắc của ấp Srok Ton
Cui 64 do Tuấn – Cao Hoàng Tuấn khóa 22 Đà lạt – giữa ấp Srok.
Như vậy một sườn phía Đông của đồi còn được bảo vệ thêm một hàng
rào... Đồi hy vọng đứng vững? Đỉnh tự hỏi khi còn một mình dưới
hầm trên “E”. Nhưng hy vọng không thể tồn tại lâu hơn được, bản
mật văn của Bộ Chỉ huy mặt trận đã có quyết định, Tiểu Đoàn 6 Dù
thực sự bắt tay với tàn khốc khi toán Tiền sát của Tiểu Đoàn Bộ
binh BV bắt đầu chạm nặng với 63. Lần mở một dấu ngoặc để nói rõ
ý định hành quân của địch: Viên Tư lệnh mặt trận Bình Long (xin
hiểu từ đây danh xưng này là của Bắc quân) tưởng rằng BCH/Tiểu
Đoàn 6 vẫn còn ở ấp Srok, sự suy đoán đây rất hợp lý, vì ấp đã là
bãi đáp của ngày 14/7 hai cánh quân 5, 8 đã vào An Lộc, thành
phần chịu pháo trên Đồi Gió chỉ là pháo binh và lực lượng bảo vệ
– Bắc quân rất dễ quan sát các hoạt động của ta vì chúng ở các
cao độ Bắc và Tây Bắc An Lộc.
13 giờ ngày 17, súng bắt đầu
nổ ở Đại Đội 63. Trận đánh tăng cường độ khi trời vào chiều và
Bắc quân từ phía Bắc con đường ùn ùn tiếp viện. 63 đánh chậm
nhưng chắc. Trời sắp tối, Đỉnh cho 64 lên “giải tỏa” 63. Tuấn dẫn
Đại Đội đi không chậm một giây, suốt buổi chiều theo dõi trận
đánh, Tuấn đã hiểu được việc mình sẽ làm. Ấp Srok – ĐĐ63 chỉ 600
thước nhưng Tuấn cũng phải mất 5 giờ! Công đồn để đả viện là
chuyện thường tình, nên 600 thước ngắn đó vượt qua được trong
bóng đêm là một nỗ lực quá lớn, chỉ những người dũng cảm mới làm
được. 10 giờ đêm Tuấn bắt tay được với 63; hai Đại Đội quây lấy
nhau thành vòng tròn.
– Một mình tao nó đánh chưa được,
bây giờ có thêm mầy sức mấy tụi mình thua... – Hoàng nói với
Tuấn.
– Bắt tay được với mầy là tao quá giỏi... Tụi nó nằm
chật đường như dân đi biểu tỉnh, nó không che dấu ý định phục
kích. Tao đoán mầy với tao đang bị với 2 Tiểu Đoàn.
– Nó
đánh xa luân chiến, nhiều đơn vị thay thế nhau “nhồi” mình. Mới
ba ngày vào đây đã thấy khó.
Đỉnh ngồi ở E thở được hơi
dài sau 9 giờ ngồi trực máy, khi nghe được hai Đại Đội bắt tay
được nhau.
Khổ hai thằng nhỏ đêm nay sức mấy ngủ được. Sẵn
có một phi tuần Daisy cutter (ngắt hoa cúc) thứ ngắt hoa bằng vũ
khí tinh độc CBU. Đỉnh hướng dẫn đánh ào xuống phía Bắc ĐĐ63.
Tiếng bom reo trong đêm nghe kinh dị nhưng cả Hoàng và Tuấn đều
đồng thanh báo cáo:
– Đúng rồi! Đúng rồi, xin 12 (Tiểu
đoàn trưởng Đỉnh) cứ tiếp tục gần hơn nữa mới bung tụi nó ra
được.
Lính của Đại Đội 63, 64 suốt đêm không ngủ được,
dựng đứng tròng hai mắt để chơi trò chuyền banh cùng Bắc quân qua
con đường đá 245 với bề ngang 6 thước. Banh của mỗi lần giao nhau
là một trái lựu đạn.
Ngày 18, 63 và 64 được lệnh trở về
đồi. Đỉnh bảo Hoàng và Tuấn báo cáo kết quả sơ khởi của đêm chạm
súng.
– Trình với 12, không thể đi đếm xác tụi nó được, nó
chết dài dài từ dưới ấp lên đây, hầm nào cũng có 2, 3 thằng, toàn
là trung liên nồi, có cả hai cây K54, như vậy chắc có 2 thằng Đại
đội trưởng hay Tiểu đoàn trưởng chết...
– Ừ, thôi vậy, các
toa về đi, moa cho thằng 1 (ĐĐ61) xuống thế vùng. Cố giữ được một
đêm là giỏi lắm. Quốc Tuấn gắng lên.
Ngày 18, ngày tương
đối bình yên; pháo hơi dứt, lính bắt đầu ra khỏi hầm để nhìn về
phía An Lộc.
– An Lộc đó hả?
– Ừ, cháy hoài, cháy
cả mấy ngày rồi!
– Mình ở đầy thế mà “sướng”!
Tiểu
Đoàn 6 ở Đồi Gió không “sướng” một chút nào hết vì những giờ ngắn
bình yên của ngày 18 qua quá mau. Ngày 19 tưởng cũng là ngày tốt,
ngày hên, sắp sửa “được” tải thương và tiếp tế thì pháo địch
xuống. Bắc quân phục hận trận đêm 17 và đã biết rõ Bộ Chỉ huy 6
Dù ở lại đồi chứ không phải dưới ấp Srok. Pháo mờ trời! Đỉnh cố
gắng dịch cho cố vấn Peyton cái thành ngữ đặc biệt để nói rõ
cường độ của cơn pháo. Peyton trước kia là cố vấn phó của TĐ5 Dù,
và Đỉnh cũng là Tiểu đoàn phó ở đây.
– Lúc trước tôi và
“Sir” đều thiếu tá và cùng chung chức vụ phó bây giờ “Sir” là
trung tá, tôi không thể mầy tao như kỳ Tiểu Đoàn 5 được. Peyton
đi đường giáo khoa thư dưới mặt đất rung rinh trong khi Đỉnh đang
cứ giật bắn ngưòi vì đạn pháo binh ta bị pháo kích chạm nổ. Tiếng
nổ phụ là gì nhỉ? Tiên sư lúc muốn nói thì nhớ không nổi! Nhớ làm
sao nổi được dưới cơn giông bão đại pháo đến từ nơi xa và “tiếng
nổ phụ” của hơn ngàn đạn 105 chỉ cách 50 thước đang nổ dây
chuyền.
– Cái gì nổ quá lớn vậy “Sir”.
– Tiếng nổ
phụ... mẹ, quên rồi, giờ này cứ “xơ” với “múi” đến khổ. Đạn pháo
binh mình đấy Peyton.
– Yes, sir. Đúng truyền thống
Ăng–lê, Peyton điềm nhiên tỉnh táo thưa gởi trước mỗi câu nói.
– Ầm! – một tiếng thật sát vào miệng hầm, Peyton bắn vào
vách, đúng hơn bị dán sát vào vách.
– Sir, tôi bị thương.
– Biết rồi, nói mãi.
Đỉnh lục túi lấy băng cứu thương
cá nhân mình băng cho Peyton, lòng thầm nói: Tiên sư, mình có số
“sát” cố vấn, chẳng thằng nào ở quá một tuần!
Tiếp tục,
tiếp tục, hột lạc E méo mó, nhăn nhúm và vỡ nát dần, 6 khẩu 105
chưa một lần khai hỏa bị bóc nát từng mảnh nhỏ; đạn nổ, đất
rung... Đồi E, Đồi Gió hay cao độ 175 nằm im dưới 1 ngày hay 24
giờ chịu pháo: Chỉ mới là pháo binh, một Tiểu Đoàn cùng một Pháo
đội bị trói cứng, mỗi giờ qua độ cứng càng cứng thêm chặt... 32
người bị thương! Đỉnh lẩm bẩm hoài trong miệng “Tiên sư có đánh
được gì đâu... Có đánh được gì đâu...” Đánh được, đụng với bộ
binh địch là ước vọng “cao đẹp hạnh phúc lớn” của Đỉnh.
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10
| 11 |
12 |
13 |
Mục lục
11. Đồi Gió đổi tên
Nhà văn gốc Quân Đội Phan Nhật Nam viết về “Một chiến trường
đẫm máu” có đoạn nói đến Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, “Đồi Gió đổi tên”,
như sau:
21:00g của ngày 19 được đánh dấu bởi quyết định
của “Lê Lợi”: Tiểu Đoàn 6 Dù không còn nhiệm vụ giữ pháo nữa, chỉ
còn nhiệm vụ giữ cao địa. Tiểu đoàn trưởng toàn quyền quyết định.
Pháo còn nữa đâu mà giữ, chưa đầy 48 giờ, đã mất 6 khẩu pháo với
ngàn quả đạn, bây giờ ở đây làm gì? Dọt! Đỉnh dẫn Đại Đội 60 và
Đại Đội 62 xuống đồi, hướng về phía Ấp Srok Ton Cui, nơi đang có
61 trấn thủ, để lại trên đồi 2 Đại Đội 63 và 64 cho Tiểu đoàn phó
Phạm Kim Bằng trấn giữ.
Vinh “con” ào xuống như núi lở,
Cộng quân bung ra khép lại. Vinh tiếp tục lấn... Chân Đồi Gió và
Ấp Srok Ton Cui lại kẹt thêm cái suối Rộ. Vinh cựa quậy khó khăn
dưới đám lau sậy, ruộng sũng nước. Nó bâu tôi như đỉa đói, dứt
không nổi Anh Năm. Vinh hét với Đỉnh trong máy... Tối quá chỉ còn
sờ ngực áo mà đánh lưỡi lê thôi... quên sờ nón sắt mà nhận Bạn.
Nhưng Cộng quân cố chận bằng mấy lớp hàng rào người. 23:00g
đêm, Vinh cũng sờ được cái Ấp... nơi đây Đại Đội 61 đang trông
chờ từ lúc chập tối, 400m từ chân đồi đến người lính gác của Đại
Đội 61, thành phần của Tiểu Đoàn 6 Dù đi mất 3 giờ, 3 giờ thêm
một số thương binh vì lưỡi lê và mảnh lựu đạn của 400m cận chiến.
Bây giờ là 00:00g của ngày 19 bước qua 20. Cộng quân không
phải chỉ có một thành phần, một cánh quân, nhưng mà là một lũ
người, một lớp sóng người chen vai thích cánh lố nhố đầy chân Đồi
Gió, chân đồi phía Tây lẫn phía Đông... Cộng quân tràn ngập đường
245 như trẩy hội. Cộng quân bao quanh Ấp Srok Ton Cui như đám
người đói vây quanh vị trí phát chẩn. Không phải là một cuộc điều
quân, nhưng là một chợ người, lộn xộn ồn ào, la hét tìm đơn vị,
chuyển lệnh – Ngày hôm nay sao máy bay “ngụy” nhiều quá! – Sao
mày không bắn! Tao chỉ có AK – AK thì AK, bắn cho “ngụy” sợ... Ở
trong này, Đỉnh thì thầm liên lạc với các Đại Đội 61, 62, và 60:
các Toa dặn lính đừng bắn phải tiết kiệm đạn tối đa, chỉ nổ súng
khi nào thấy chúng nó tấn công mình. Phải đợi trời sáng, khi xác
định được rõ mục tiêu, chúng ta sẽ đồng loạt nổ súng, cắt đứt
ngang đoàn quân của chúng, nhớ chuẩn bị các M–72 để hạ Tăng chúng
nó!
– Các Đại đội trưởng đáp, nhận rõ 5/5.
Dù vô
trật tự đến tới đâu, Cộng quân cũng tập họp lại được hàng ngũ. 3
giờ sáng, tiếng kèn thúc quân vang lên lồng lộng... xong rồi tụi
nó chuẩn bị dứt mình.
Tiếng kèn thúc quân xoáy trong đêm,
vang dọc theo đường 245... Bỏ mẹ, chúng nó bố quân cả 3 cây số
đường dài... đồng thời từ phía Bắc đầu đường 245, có tiếng động
cơ máy nổ, ánh sáng đèn pha quét ngang dọc trong bóng đêm của
tăng T–54.
3 giờ đúng, Đồi Gió bị tấn công trước, Tiểu
đoàn phó Phạm Kim Bằng, mặt đen xì, con người quá khổ, chậm rãi
điềm tĩnh và hùng tráng như một hiệp sĩ thời cổ, đứng ra khỏi
hầm, điều khiển hai Đại Đội 63, 64 phân công. 63 của Hoàng và 64
của Tuấn, 2 Đại Đội đã thử lửa với quân Cộng sản Bắc Việt từ ngày
17, hai Đại đội trưởng “tới” quá mức dũng cảm như những thiên
thần tung hoành trên đầu lũ quỷ say máu. Tất cả đều ở tuyến đầu
chiến đấu, không còn Khinh Binh, Tổ Trưởng, Trung đội trưởng,
Tiểu đoàn phó... chỉ còn một hàng ngang theo giao thông hào, điểm
phân biệt người chỉ huy là tay nói máy chuyền lệnh, tay ném lựu
đạn, 2 Đại Đội chỉ trừ những người chết hay bị thương mê man,
thương binh chỉ tạm băng bó sơ qua vết thương, đứng hoặc dựa lưng
vào thành giao thông hào để chiến đấu.
4 giờ trong bóng
tối ngả màu tím của ngày sắp đến, 6 chiếc T–54 chia từ hai hướng
Đông và Đông Bắc, bắt đầu lên đồi, lính tùng thiết Cộng sản Bắc
Việt chạy lố nhố theo sau để tính bề diệt gọn. Trăng thượng tuần
gần sáng rọi ánh sáng trắng lạnh xuống sườn đồi vằng vặc, khối
sắt đen lóng lánh tiến dần vào cùng động cơ vang ầm ì, ngọn đèn
vẫn giữ nguyên độ sáng, ở vị thế “pha”, luồng ánh sáng dọi thẳng
lên đồi hỗn xược thách thức... Hai chiếc T–54 đầu tiên bò lần lần
từng bước lên ngọn đồi dựng đứng.
Để tao thanh toán nó,
Tuấn đứng thẳng khỏi giao thông hào, kéo chiếc ống M–72 cơ hữu
(trên nguyên tắc chỉ khinh binh mới có M–72). Rút hết các chốt an
toàn. Tách! Sợi dây an toàn cũng đã bị đứt, Tuấn đưa chiếc hoả
tiễn lên vai nheo mắt... 100 thước, còn xa, 80 thước, hơi xa, 50
thước, đủ! Tuấn bị loá mắt bởi hai ngọn đèn dọi thẳng mặt... Ầm!
Quả hoả tiễn dập vào giữa hai điểm sáng, hơi chếch cao một chút,
trúng ngay pháo tháp... Chiếc thứ hai tăng tốc độ hú lớn nhấc một
cái lên tuyến phòng thủ, Hạ sĩ Nhu, Tiểu đội trưởng can trường
không kém Đại đội trưởng, nhảy vội lên pháo tháp, quả lựu đạn
phát nổ sau khi Nhu vừa kịp nhảy xuống. Chiếc thứ ba thì lãnh 1
quả M–72, nằm yên bất động.
Ba chiếc T–54 của phía Đông
thì do chính Hoàng và một vài binh sĩ khác hạ. Cộng quân lại lui
xuống chân đồi, để đại pháo rưới thêm một lớp, lớp thứ sáu kể từ
lúc khởi đầu trận đánh. Ngày tới với ánh sáng cùng cơn mưa pháo
thứ bảy, đỉnh đồi bây giờ tan hoang, điêu tàn và bốc khói, khói
của đạn địch và khói của đạn ta cháy dở “Hột Lạc” dài 30m ngang
70m, hứng khoảng trên 2000 quả đạn trong một đêm với vị trí dã
chiến, ngày chiếu ánh sáng rọi rõ cảnh vật tan nát...
Tiểu
đoàn phó Bằng bị “tung” một mắt. Tuấn hứng một quả 75ly, quả đạn
nổ ngay trên thân thể người sĩ quan trẻ mới 23 tuổi... số tuổi
quá nhỏ đem so với chiến trường nặng độ. Đồi Gió kể từ đó mang
tên mới: Đồi “Quốc Tuấn”, danh hiệu truyền tin của Tuấn, Cao Quốc
Tuấn.
Với một con mắt đẫm máu, Bằng nghiến răng, nhướng
mắt còn lại giữ vững đồi cho đến lượt tấn công thứ 16. 12 giờ
trưa ngày 20, Bằng kiệt lực suôi tay bỏ rơi chiếc combine, gọi
Hoàng đến: “Thay tôi đem hai Đại Đội về 169 (Tây Nam Đồi Quốc
Tuấn), với một cái yên ngựa chừng trên 2km đường rừng rậm. Nhớ
đem hết thương binh, kẻ chết phải chôn lại...”
(xem Bản Đồ số 9).
CÂU CHUYỆN TRẬN ĐỒI GIÓ
Do
một nhân chứng sống, Thiếu tá Ngô Xuân Vinh, Đại đội trưởng Đại
Đội 62 Dù (năm 1972).
Thiếu tá Ngô Xuân Vinh, xuất thân từ Trường Thiếu
Sinh Quân Việt Nam, được xem là người “HÙNG” của trận chiến An
Lộc 1972. Khi còn mang cấp bậc đại úy, Vinh giữ chức vụ Đại đội
trưởng Đại Đội 62 Nhảy Dù. Trong trận Đồi Gió, Vinh là vị Đại đội
trưởng được Tiểu đoàn trưởng chỉ định theo sát bên Bộ Chỉ Huy
Tiểu Đoàn chiến đấu, là Đại Đội sau cùng có trách nhiệm chận địch
để cho Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 6 Dù cùng hai Đại Đội 60 và 61 vượt
thoát vòng vây ra khỏi Ấp Srok Ton Cui vào sáng ngày 20 tháng 4,
về phía Nam con đường 245, và cũng là vị Đại đội trưởng đầu tiên
bứng được “chốt” quân Cộng sản tại vùng Xa Cam và bắt tay được
với Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù ở phía Nam An Lộc (ngày 08 tháng 06 năm
1972).
(Vào trung tuần tháng 5 năm 2007, Vinh gọi điện
thoại cho cá nhân tôi, để cám ơn đã nhận được quyển Chiến Thắng
An Lộc 72 (Ấn Bản lần đầu), nhân tiện Vinh có thổ lộ một vài chi
tiết về Trận Đồi Gió và Trận “nhổ” chốt Xa Cam).
Nội dung
cuộc điện đàm được tóm lược như sau:
“Thưa Niên
Trưởng, Vinh rất cám ơn Niên Trưởng đả gửi tặng quyển sách Chiến
Thắng An Lộc 72. Lật ngay tờ đầu, Niên Trưởng có ghi ‘Thân Tặng
cho Người Hùng An Lộc Ngô Xuân Vinh’, Vinh cảm thấy thẹn lòng, vì
thật sự trong cuộc phá vòng vây của Tiểu Đoàn 6 Dù, vào sáng ngày
20 tháng 04 năm 1972, Đại Đội của Vinh được chỉ định đánh chận
đoạn hậu, và quăng trái khói để các trực thăng võ trang và không
quân của Hoa Kỳ nhận biết lằn ranh giới giữa Bạn và Địch (thông
thường khi mở cuộc xuất phát hay tấn công vào quân địch thì Đại
Đội 62 lãnh ‘ấn tiên phong’, còn khi rút lui, muốn chận được địch
không đuổi kịp theo đơn vị, thì cũng Đại Đội 62. Thật sự toàn thể
Đại Đội 62 của Vinh rất lấy làm hãnh diện nhận lãnh trách nhiệm
‘Đi đầu! Chận đuôi’ do Tiểu đoàn trưởng giao phó.
Như Niên
Trưởng đã biết, từ lúc vượt được con suối Rộ đầy lau sậy, Đại Đội
62 dẫn đầu, đã nhiểu lần đánh cận chiến với quân địch, có một số
binh sĩ thương vong. Đến khi bắt tay được với Đại Đội 61, chưa
kịp nghỉ ngơi, lại gặp Tăng và Bộ Binh địch ùn ùn kéo đến, di
chuyển vòng quanh Ấp Srok bọc vòng xuống phía Nam từ con đường
đất 245. Từ lúc 3 giờ sáng, Trung tá Đỉnh đã lên tần số căn dặn
các Đại Đội một vài điều quan trọng, nhất là phải tiết kiệm tối
đa đạn dược, đồng thời chỉ định cho Đại Đội 62 ‘bao chót’, có
nhiệm vụ chận địch và ném trái khói.
Khi Bộ Chỉ Huy Tiểu
Đoàn và hai Đại Đội 60 và 61 bắn hạ hai T–54 của quân địch trên
đường 245 và vượt qua về phía Nam, đến phiên Đại Đội 62 chuẩn bị
vượt qua con lộ đất đỏ đó, thì hai T–54 khác trờ tới chận cắt
ngang lối tiến của Đại Đội 62, Bộ Binh địch bu như kiến, tràn
đến, buộc lòng Đại Đội 62 phải nghênh chiến, các chiến binh Dù
của hai Trung đội đi đầu nhanh chóng bắn hạ 2 T–54 và một số cán
binh tùng thiết, Vinh và Trung đội còn lại đi đoạn hậu, thì vẫn
còn kẹt lại phía bờ rừng bên kia đường 245, buộc phải dừng lại
cản bước tiến của Cộng quân, lại một trận xáp chiến, một số chiến
sĩ Dù bị thương vong, trong đó có Hạ sĩ Nhất Bùi Hân và Binh Nhì
Nguyễn Đình Huy (chiến binh mang hành trang cho Vinh) bị trúng
đạn, thương tích khá trầm trọng, Vinh vội đưa vai lên cõng người
đã cùng mình vào sinh ra tử, thì Huy vội nói: Đại úy cứ để tụi em
ở lại đây để chận tụi nó. Đại úy mau chỉ huy anh em còn lại vượt
qua khỏi con đường này đi. Hãy dồn cho chúng Em vài khẩu M–72 và
vài băng đạn M–16 và mấy quả đạn M–79; quăng trái khói liền lên
kẻo không còn kịp nữa!!! Tôi đành phải cắn răng nhìn lại hai
chiến binh của mình, thấy mình mẩy đẫm đầy máu, liệu bề thương
tich khá nặng, nên đành phải làm theo lời yêu cầu cương quyết của
họ, vội gọi hai khinh binh đang cầm 2 khẩu M–72, và 2 binh sĩ kế
cận đang cầm súng phóng lựu M–79 cùng một số băng đạn M–16 để lại
dưới gốc cây (nơi hai chiến binh tử chiến), và vội rút chốt trái
khói ‘đỏ’ bật lên như lời căn dặn của Tiểu đoàn truởng, đánh dấu
lằn ranh giữa Địch và Bạn.
... Vinh tiếp tục chỉ huy Đại
Đội 62 còn lại khoảng ½, tiếp tục theo hướng đoàn quân đi trước,
khoảng 2 phút sau, từ lúc vượt qua con đường 245, Vinh nghe nhiều
tiếng súng trường M–16 và AK nổ ran, tiếng phóng lựu và 2 tiếng
nổ bùng của M–72, sau đó thì tiếng súng im bặt... Có lẽ Hân và
Huy đã làm tròn nghĩa vụ của người chiến binh Dù ‘đền xong nợ
nước!!! Lòng đau như cắt, thêm niềm hối hận... Vinh nghĩ Hạ sĩ
Nhất Hân và Binh nhì Huy mới đúng là người Anh Hùng thật sự trên
trận mạc!!!!
Kế đến Tiểu Đoàn 6 (–) được trực thăng bốc về
căn cứ Lai Khê để chỉnh đốn lại hàng ngũ, và bổ sung quân số, lên
được gần 600.
Khi về đến căn cứ Lai Khê, kiểm điểm lại
quân số cả 3 Đại Đội và Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, chỉ còn chưa đầy
150, như vậy còn thất lạc khá nhiềụ. Vinh lãnh lệnh Trung tá
Đỉnh, và được Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 cung cấp cho 2 trực thăng đổ
quân và 2 Gunship, bay trở lại tìm kiếm, trực thăng bay rà sát
ngọn cây, nhận thấy trái khói ‘vàng’ từ dưới đất bốc lên, rà một
vòng để xác định rõ, thấy mặc đồ Dù, Vinh vội ra hiệu cho trực
thăng đáp xuống, bốc lên từng đợt 10 chiến sĩ Dù cho mỗi chiếc,
cùng lượt đổ xuống, một số đạn dược và lương khô cũng như nước
uống cần thiết tiếp tế, cho toán còn lại, chờ đợi đợt thứ hai...
Cuộc tìm kiếm liên tiếp 2 ngày, gom lại được cũng trên 200.
Cuối cùng rồi Tiểu Đoàn 6 lại được lệnh lên trực thăng đổ vào
chiến trường An Lộc. Lần này Đại Đội 62 được hãnh diện dẫn đầu
đoàn quân đi công phá ‘chốt Xa Cam’ do một lực lượng cấp 2 Trung
Đoàn của Cộng quân án ngữ ‘Đóng chốt’.
Khi Đại Đội 62 tiến
đến vị trí cố thủ trên trận địa chốt Xa Cam thì đã thấy ngổn
ngang xác chết và súng đạn trong các hầm hố kiên cố cũng như giao
thông hào. Có một hầm rộng lớn, được tìm thấy dưới đường rầy xe
lửa, nhiều xác chết vẫn còn nguyên vẹn trong vị thế như người còn
sống. Vì bị trúng ‘BOM CBU’ của Không Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Đại Đội 62 dẫn đầu đoàn quân trên 2000 chiến sĩ (một số là
của các đơn vị Bộ Binh của Sư Đoàn 5 và Biệt Động Quân...), tiến
dần lên phía Bắc, vẫn còn một số chốt kháng cự, hạ thêm được vài
chục tên trong vùng càn quét... Đến khi nhận được lệnh của Tiểu
đoàn trưởng Nguyễn Văn Đỉnh, cho bắn lên 3 phát súng để làm hiệu
cho Tiểu Đoàn 8 Dù đang trú đóng vùng phía Nam An Lộc.... Có 3
tiếng súng hiệu đáp trở lại, với khoảng cách ước chừng 500 thước
phía trước, Đại Đội 62 cẩn thận tiến lần lên. Khinh binh đi đầu
đã nhìn thấy được các chiến binh Dù của Tiểu Đoàn 8 đang vẫy tay
ra hiệu... Vinh liền báo ngay cho Trung tá Đỉnh là đã nhìn thấy
rõ quân Bạn (Dù) ở phía trước rồi... Độ 10 phút sau, Trung tá
Đỉnh di chuyển lên tuyến đầu của Đại Đội 62... và hân hoan ôm
chầm Thiếu tá Tuyển, Tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 8 Dù. Cùng lúc tiếng
reo mừng vang dậy giữa hai cánh quân (Tiểu Đoàn 8 và Tiểu Đoàn 6
Nhảy Dù), cũng như những chiến binh được bổ sung cho các đơn vị
đang tử thủ An Lộc.
Kể như Đại Đội 62 đã hoàn thành nhiệm
vụ cấp trên ‘kỳ vọng’ giao phó... Đoạn đường tuy không dài, nhưng
đầy máu xương của trên 300 chiến sĩ cùa Tiểu Đoàn 6 Dù trong trận
Đồi Gió, và gần chục chiến binh trong trận ‘bứng chốt Xa Cam!
Vinh ngồi bệt dưới chân một gốc cây cao su của đồn điền Xa
Cam, lòng vẫn không vui, mặc dù đã trả được mối hận ‘Trận Đồi
Gió’, nhưng hình ảnh và vong linh của Hai Chiến Binh Anh Hùng Bùi
Hân và Nguyễn Đình Huy cùng những chiến sĩ can trường khác dường
như vẫn còn phảng phất đâu đây!!!”
Sau đôi giây, Vinh
ngập ngừng dường như bị xúc động... Tôi hỏi thêm Vinh, “có đọc
đoạn văn của Phan Nhật Nam, Tựa Đề ‘Đồi Gió Đổi Tên’ hay không?
nhận định như thế nào về bài viết đó?”
Vinh cười khẽ!
–
Anh đó là một nhà Văn, nên lời lẽ đượm mùi Văn Chương chữ nghĩa,
bài viết khá trung thực. Vinh đọc thấy Ông ta viết câu “Vinh con
ào xuống như núi lở”. Thật sự thì khi tuột dốc để xuống chân đồi,
thì ai ai cũng tuột mau, còn chữ “VINH CON”, e có người ngộ nhận
“em” là đứa nhỏ con! Thật sự em cao 1.72m, cân nặng khoảng 100 kí
lô (vào lúc đó 1972).
– Anh xin phép Vinh để tóm lược ý
chánh của cuộc điện đàm hôm nay, viết gọn lại, và sẽ được đăng
trong ấn bản lần nhì! Vậy Vinh có muốn nhắn gửi cho Anh cần phải
ghi thêm những gì, để cho độc giả tường tận hơn trong trận Đồi
Gíó và trận “bứng chốt” Xa Cam này hay không?
– Nếu có thể
được, thì Vinh nhờ Anh, ghi thêm TÊN của Hạ sĩ Nhất Bùi Hân và
Binh Nhì Nguyễn Đình Huy vào đề mục “Danh Sách Những Vị Anh Hùng
có liên quan đến trận chiến An Lộc đã hy sinh vì Đại Nghĩa Quốc
Gia Dân Tộc trong lần tái bản thứ nhì là đủ rồi. Thành thật cám
ơn Niên Trưởng.”
KHÔNG QUÂN YỂM TRỢ TRONG ĐỢT TẤN CÔNG LẦN THỨ BA
Trong suốt đêm 18 tháng 04, những chiếc AC–130 (Spectre của
Không Lực Hoa Kỳ), loại phi cơ có thiết trí đại bác 105ly, và
nhiều khẩu đại liên đủ cỡ, được điều khiển bằng “Radar = Hệ thống
mắt thần”, bay ở cao độ, ngoài tầm sát hại của các loại phòng
không địch, thay phiên nhau yểm trợ quân Bạn tại các tuyến đầu
xung quanh thành phố An Lộc, đặc biệt là mặt phía Bắc và Đông,
nhất là tại căn cứ Đồi Gió và Đồi 169. Do sự phối hợp điều khiển
của các Cố Vấn Mỹ đang có mặt trong các đơn vị Bộ Binh Việt Nam
Cộng Hoà, sự yểm trợ rất đắc lực của các trực thăng võ trang và
Không Quân Chiến thuật cũng như Chiến Lược Hoa Kỳ gần như chính
xác này, đã gây rất nhiều thương vong cho các cán binh Cộng sản
Bắc Việt đang áp dụng chiến thuật xung phong “Biển Người”, cũng
như các chiến xa địch bị bắn cháy, hầu như không thoát được chiếc
nào, dù trong đêm tối. Sự yểm trợ được tiếp diễn qua suốt ngày
hôm sau, cho Lực Lượng Dù tại Đồi Gió. Còn về các phi vụ B–52,
cũng được Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 hoạch định cho oanh tạc 3 Box
B–52 tại các vị trí của Cộng quân (xung quanh khu vực Đồi Gió và
Đồi 169) ngoại trừ mục tiêu Phi Trường Quản Lợi, nơi đặt bản
doanh đầu não của Cục R Cộng sản Bắc Việt vì Không Lực Hoa Kỳ âm
thầm từ chối.
Kết luận: Sau 3 lần
tấn công đều bị thất bại và thiệt hại quá nặng nề, Công trường 5
Cộng sản Bắc Việt được lệnh rút ra khỏi vòng chiến, thực lực còn
khoảng một Trung Đoàn, được gom để lại tăng cường cho Công Trường
9, rút về điểm tập trung vùng phía Tây Nam An Lộc giáp ranh
Việt–Cambodia (vùng đồng bằng Sông Cửu Long, thuộc Quân Khu 4
Việt Nam Cộng Hoà, để bổ sung quân số và chấn chỉnh lại đội ngũ)
(1).
(1) Hồi ký
“Chặn đường 10,000 ngày” của Tướng Cộng sản Bắc Việt, Hoàng Cầm,
trang 278.
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10
| 11 |
12 |
13 | Mục lục
12. Sống như là chiến đấu
Trở lại ấp Srok Ton Cui, Tiểu Đoàn 6 hay đúng nghĩa hơn 3 Đại
Đội 60, 61, 62 lính pháo binh với 70 thương binh nặng nhẹ. Đỉnh
vuốt mặt, những sợi râu tua tủa từ ngày 11 đến bây giờ – 11 giờ
đêm của tối 20 – chạm vào tay nhắc nhở đến một điều: mình phải
sống và chiến đấu để bảo tồn đơn vị... Nhưng đánh bằng cách nào?
Và lấy gì để đánh? Đạn đại liên, M–72, lựu đạn hết. XM–16 chỉ còn
20 viên của những người ít “đụng” nhất. Kể từ khi cánh quân của
Bằng và Lữ Đoàn bỏ đồi “Quốc Tuấn” cùng đỉnh 169 thì mặt Tây của
Đỉnh lạnh, lạnh cứng, như cái kềm ép chặt gọng. Bắc quân chiếm 2
cao địa, trí một giàn 75 sơn pháo và cứ “một yếu tố” với một mục
tiêu: ấp Srok Ton Cui.
– Nghiêm à, không lẽ đời mình tàn ở
đây sao? Đỉnh thì thào với Nghiêm khi thấy “tên” này đang nhồi
nhồi trái lựu đạn ở tay. Đỉnh để tay lên trái đạn của mình, hơi
thép lạnh làm nhói cơn đau trong tim.
11 giờ đêm, trăng
lại quá sáng, rừng cây thưa lóng lánh ánh trăng. Đỉnh tìm đủ cách
để liên lạc cùng “Lê Lợi”. Sau một hồi lần mò, Đỉnh vào được một
tần số – hệ thống tiếp vận của Mỹ ở núi Bà Đen. Lại phải thêm một
màn thông dịch đến “mờ người” Đỉnh mới “chớp” được tần số của “Lê
Lợi”. Hai người cách nhau 5 cây số đường chim bay nói chuyện được
qua đài trung gian, cách hơn 100 cây số.
– Sẽ có 3 “line”
B–52 đánh xuống chỗ anh, cách anh 500 thước thôi, ở ba hướng Bắc,
Đông và Nam, xong theo hướng Đông Nam đến bờ sông Bé có trực
thăng về. Gắng lên đời anh và tôi chỉ có một lần.
– Tôi
nghe rõ “Lê Lợi”, tuy nhiên chỉ cho xin một điều: Sau khi B–52
đánh xong thì tôi dọt. “Lê Lợi” cho bắn khoảng 8 quả khói ở phía
Đông Nam để tụi tôi biến đi, trăng quá sáng và tụi “Hải Tặc” (Bắc
quân) vây tôi không hở một kẽ.
– Nghe rõ anh, nhưng chưa
chắc có cái màn khói đó cho anh, pháo ở đây tiêu hết rồi.
– Tôi nghe rõ.
Đỉnh bỏ máy, dọi ánh đèn hạt đổ xuống tấm
bản đồ nhàu nát. Các Đại đội trưởng và Nghiêm cùng chúi đầu vào.
Đỉnh run run bàn tay đặt ngón tay út xuống chỗ chữ “Srok Ton
Cui”, ngón tay hướng về phiá Đông Nam... hướng Sông Bé. Không có
sông Bé ở tờ bản đồ này, nó ở tờ bên cạnh! Nghiêm lẹ tay lật thêm
tấm bản đồ. Một, hai, ba gang tay đi trên miếng giấy mầu xanh
ngoằn ngoèo những vòng cao độ vàng... rừng và đồi. Hai gang, ngón
tay cái mới chạm phải vạch xanh xanh: Sông Bé – 30 cây số đường
thẳng, bao nhiêu cây số trên mặt đất? Đỉnh mở to hai mắt, đôi mắt
thường ngày long lanh đẹp đẽ nay nóng đỏ khô khan lướt qua khuôn
mặt những người thân tình... những khuôn mặt phờ phạc dưới trăng
lóng lánh những đồng tử toé lửa. 30 cây số đường rừng, đi được
đến không? Bờ sông Bé, nghìn trùng nơi cuối trời!
– Các
toa về bảo lính chia đạn cho nhau, mang theo hết thương binh, đi
hàng một, mgười này theo lưng người kia, 62 đi trước đến 60 và
Pháo binh. 61 đi cuối. Vinh lựa thằng dẫn đường phải thật giỏi.
Hướng Đông Nam, lấy phương giác cho chính xác.
– Như vậy
để em đi khinh binh luôn Trung tá, tụi nó đi lạng quạng là bỏ mẹ.
Ba “line” B–52 đánh ập xuống như cơn địa chấn. 200 thước đối
với bom chiến lược là không có thước an toàn nào cả.
–
Xong rồi, xin “Lê Lợi” màn khói. Đỉnh liên lạc lại một lần nữa
với Lữ Đoàn.
– Khói không có, thôi anh dọt đi.
–
Tôi nghe.
Đất còn nồng mùi lửa, rừng còn nóng mùi bom,
khói trộn tro than bốc lên ngùn ngụt trên nền trời trong xanh.
Tiên sư sao trời sáng quá! Sao trời không có mây che mặt trăng
nhỉ? Lần đầu tiên trong lịch sử binh chủng: Đại úy Đại đội trưởng
làm khinh binh số 1, Thiếu tá sĩ quan hành quân làm khinh binh số
2 và Trung tá Tiểu đoàn trưởng làm khinh binh số 3.
Vinh,
Nghiêm, Đỉnh theo thứ tự dẫn đầu hàng quân, một hàng dọc hướng về
Đông Nam. Mười phút sau khi binh sĩ cuối cùng của Đại Đội 62 rời
khỏi ấp, một trận bão pháo từ 10 vị trí cùng tập trung xuống Srok
Ton Cui và một đoàn tăng từ phía Đông để đèn pha dọi sáng rực, đè
bẹp lên cây rừng dàn hàng ngang đâm vào ấp.
Khởi đi từ
0lg42 phút, cánh quân của Đỉnh liên tiếp bị phục kích thêm 2 lần
nữa, đi theo suối thì bị Bắc quân, đi trên cao độ thì sợ bại lộ,
từng người một nối đuôi dìu nhau đi trong cuối đáy tuyệt vọng...
17:00g ngay tại một trảng trống để đợi trực thăng móc về Tiểu
Đoàn bị thêm một cú “dứt” thứ 3... Hướng Đông Nam: An toàn khu
nơi đặt Bộ Chỉ huy tiền phương của mặt trận Bình Long.
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10
| 11 |
12 |
13 | Mục lục
13. Phục hận
Tan hàng, 17g ngày 21 tháng 4, lần tan hàng đầu tiên của Tiểu
Đoàn 6 Dù sau 18 năm thành lập nhưng sau khi tan hàng thì phải
“cố gắng”... châm ngôn binh chủng bảo thế. Nên Đỉnh và các Đại
đội trưởng đã cố gắng hết mình, cố gắng quá cỡ, cố gắng dạy tân
binh vừa được bổ sung, tháo ráp và tác xạ XM–16, cố gắng dạy cách
ném lựu đạn, cố gắng dạy di chuyển và ngụy trang... Một tháng ở
Lai Khê, Tiểu Đoàn cắn răng, ngậm miệng xây dựng lại mỗi người
lính, cấu tạo lại từng Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng, một
tháng giữ đường, giữ căn cứ. Ở đâu đâu cũng huấn luyện, đâu đâu
tập cũng “điều động dưới hỏa lực”.
Ngày 3 tháng 6, Đỉnh
đứng chào Trung tướng Minh tại trung tâm hành quân Lai Khê xác
định lại ý định của đơn vị: “Thưa Trung tướng chúng tôi sẽ cố
gắng”. Tiểu Đoàn 6 “cố” thêm một lần chót và chớp lấy vinh quang
bốc lửa: “giải tỏa An Lộc”. Ba ngày, 6 cây số đường từ Xa Trạch
đến Xa Cam. 6 cây số “chốt cứng” kẹp chặt An Lộc hơn 2 tháng,
Tiểu Đoàn 6 “ào” mà đi trong 3 ngày, “ào mà đi, vừa đi vừa bắn,
đừng cho tụi nó ngóc đầu, thanh toán hầm bằng lựu đạn”. Tiểu Đoàn
trưởng, Đại đội trưởng, khinh binh dàn thành một hàng ngang quét
một nhát qua 6 cây số đường rừng bắn tung 300 công sự phòng thủ
của 2 Tiểu Đoàn thuộc trung đoàn 275, CT17, 90% lính Bắc chết tại
hầm, không có dịp nhìn đựợc mặt “lính Nhảy Dù” trước khi đi hết
đường “Sinh Bắc Tử Nam”.
Về 45 phút chót của chiến trường,
Đại Đội 62 của Vinh “con”, lại Vinh con “dứt nọc” hết 65 tên của
2 Đại Đội C7, C8 đúng chữ “dứt nọc” với một người được sống sót.
Tù binh Nguyễn văn Tiền.
Đúng 17:15g ngày 8/6 Vinh đứng
lên mặt đường nhựa, ngã ba vào Xã Thanh Bình (đồn điền Xa Cam)
bắt tay Ni (Tiểu Đoàn 8 Dù) đơn vị cực Nam của An Lộc.
–
Xong rồi, mày và tao xong việc, ai về nhà nấy!
Viên cố vấn
Mỹ nước mắt đầy má vì hãnh diện run tay khi chụp tấm hình lịch sử
của An Lộc...
“Tôi chỉ xin có một điều báo với quí vị:
Tiểu Đoàn 6 Dù đã bắt tay với An Lộc”. Chuẩn tướng Hậu Tư Lệnh
SĐ21BB, kiêm Tư lệnh lực lượng giải tỏa An Lộc, trong đó Tiểu
Đoàn 6 là thành phần tăng phái đã nói câu trên để mở đầu và kết
thúc buổi họp tại Lai Khê lúc 16 giờ cùng ngày.
Chiến sử
An Lộc còn nhiều. Rất nhiều, không phải mỗi cá nhân nói hết được,
phải có một ủy ban, phải viết ngàn ngàn trang giấy... Trong cấp
thời, chỉ với một đơn vị tăng phái, viết về An Lộc đã thấy đủ hết
cay đắng cũng như hùng tráng ngập trời... Chỉ mới một đơn vị.
Tương lai gần khi tiếng súng dứt chúng ta trở lại An Lộc nơi lịch
sử sẽ phải nhớ và ngậm ngùi. Đất cao cả vinh quang không phải cho
một người, một đơn vị, một quân lực... An Lộc là của chúng ta,
của quê hương bi tráng anh hùng.
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10
| 11 |
12 |
13 | Mục lục
(Nguồn:
Lê Thy trích từ Bút ký chiến
trường NHỮNG NGÀY DÀI TRÊN QUÊ HƯƠNG, bản PDF của
tusachtiengviet.com)
Phan
Nhật Nam
Những
bài liên quan đến Chiến trường An Lộc
Hồi ký về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc
An Lộc, chiến trường đi không hẹn
Ngày ghi dấu 44 năm Chiến thắng An Lộc
An Lộc Mộ Chí
Lễ Tưởng nhớ Anh Hùng Quân-Dân-Cán-Chính VNCH đã Hy Sinh Tại Mặt
Trận An Lộc
Trên
đây là Huy hiệu của những Đơn vị QLVNCH tham chiến Mặt trận AN LỘC
Mùa hè đỏ lửa–1972
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Văn Chương Vũ chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, March 9,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang