Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Hồi ký chiến trường VN
Chủ đề:
Tướng Lê Văn Hưng&MT An Lộc
Tác giả:
Văn Nguyên Dưỡng
Huy hiệu những Đơn vị QLVNCH & quân Đồng Minh tham chiến tại Mặt trận AN LỘC
Lời giới thiệu:
Kính thưa Độc giả các Diễn Đàn, trong ngày 30/04/2012, Tòa soạn
TCDV nhận được bài viết: “TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG VÀ NHỮNG SỰ THỰC Ở
CHIẾN TRƯỜNG AN LỘC TRONG MÙA HÈ 1972”
• Tác giả là một
Huynh Trưởng của chúng tôi, Trung tá Nguyễn Văn Dưỡng (xin xem
Tiểu sử bên dưới), qua Mỹ Ông đã trở lại trường và tốt nghiệp Cao
học Chính trị học về “Ngoại giao & Giao tế Quốc tế”, Hoa Kỳ.
• Trung tá Dưỡng hay Văn Nguyên Dưỡng là người đã “tử thủ” An
Lộc cùng với Chuẩn tướng ANH HÙNG Lê Văn Hưng.
Bổn báo chủ
nhiệm đã mất một người bạn đồng khóa 25SQTĐ tại trận chiến này,
cố Đại úy Lê Văn Hiếu, TĐ52BĐQ, đã nằm lại nơi đây, năm ngoái,
một người bạn cùng binh chủng, nguyên Đại úy Đoàn Trọng Hiếu đã
lo việc “cải táng” cho hơn 60 anh em đồng đội đã hy sinh tại Bình
Long An Lộc, trong đó có cố Đại úy Lê văn Hiếu.
Bài viết
của HT Dưỡng rất chi tiết và tỉ mỉ, ông đã mô tả các trận tấn
công của VC như thế nào và quân dân ta đã giữ vững An Lộc ra sao,
xin mời quý vị theo dõi.
Như thường lệ, vì hai bài viết
rất dài nên Tòa Soạn cũng chia ra nhiều kỳ (KỲ–1,
2,
3,
4,
5,
6,
7,
8,
9,
10,
11 &
KỲ–12) để các DĐ đăng được
đầy đủ. Quý vị nào cần ngay cả bài, liên lạc với TCDV, chúng tôi
sẽ gởi đến hầu quý vị.
Germany, ngày 01–05–2012
– Điều
Hợp Viên DĐ Ngôn Ngữ Việt,
– Chủ Nhiệm TCDV.
LÝ TRUNG TÍN
(Kỷ niệm ngày GĐ chúng tôi được chiếc tàu CAP ANAMUR vớt
ngoài biển đông hồi 10 giờ 47 phút NGÀY 01/05/1980)
Book marks: LGT | TSTG | KỲ–1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | KỲ–12 | PL | Đầu trang
Sơ lược Tiểu sử Tác giả
VĂN NGUYÊN DƯỠNG & VĨNH ĐỊNH NVD
BÚT DANH CỦA NGUYỄN VĂN
DƯỠNG
Trung tá NGÀNH QUÂN BÁO QLVNCH
KHÓA 5 – VÌ DÂN
THỦ
ĐỨC
Tác phẩm
*War studies:
–The
Tragedy of the Vietnam War (McFarland 2008).
–Lessons of the
VietnamWar (S.A.C.E.I.Forum # 6, 2009).
–The Death of
Historian Pham van Son (S.A.C.E.I. Forum # 7, 2010).
Thi ca:
VÙNG ĐÊM SƯƠNG
MÙ,
TUYỂN TẬP THƠ VND,
TRƯỜNG CA TRÊN BÃI CHIẾN.
VĂN NGUYÊN DƯỠNG hay VĨNH ĐỊNH NGUYỄN
VĂN DƯỠNG
Sinh tháng 1, năm 1934, Thị xã Cà mau,
Tỉnh Bạc liêu, Nam Việt.
Động viên Khóa 5 SQTB tháng 5, năm
1954.
Tốt nghiệp Thiếu úy ngày 1 tháng 2, năm 1955
*BINH NGHIỆP
Trung đội
trưởng & Đại đội trưởng, TĐ1/43, Sư đoàn 15 Khinh Chiến,
1955–1957,
Huấn luyện viên Trường Quân Báo & CTTL/QLVNCH,
1958–1963,
Sĩ Quan Tham Mưu, Phòng II/BTTM/QLVNCH, 1964–1966,
Chỉ huy phó & Q.Chỉ huy trưởng TTQB, 1966–1968,
Trưởng Phòng
2, BTL/SĐ22BB, 1969–1970,
Trưởng Phòng 2, BTL/SĐ5BB,
1971–1974. Tham dự Trận chiến An Lộc mùa Hè 1972,
Sĩ quan Tham
mưu, Phòng II/BTTM/QLVNCH, 1974–30/4/1975.
*HUẤN LUYỆN QUÂN SỰ
Tốt nghiệp:
• Khóa ANQĐ, Trường
Quân Báo QLVNCH, Sài Gòn, 1958,
• Khóa Tình Báo Lãnh thổ,
Bộ Tư lệnh Lực lượng Hoàng gia Anh ở Viễn Đông, Singapore, 1961,
• Khóa An ninh & Phản tình báo, 1962,
• Khóa Tình báo
Chiến trường (Field Operations Intelligence),1965, Trường Tình
báo Lục quân Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, Okinawa,
• Khóa
Tình báo Cao cấp, Trường Tình báo Lục quân Hoa Kỳ, Maryland,
1968.
*HỌC VẤN
–Cao học Chính trị học về “Ngoại giao & Giao tế Quốc tế”, Hoa Kỳ.
*TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ
Sau ngày 30, tháng 4, 1975, bị tập trung cải tạo –hay đi ở tù
CSVN– cùng với hàng trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH, CSQG, Công chức Cao
cấp, các lãnh tụ tôn giáo và các đảng phái chính trị Quốc Gia, ở
các vùng Thượng du, Trung du Bắc Việt và miền Nam. Ra tù năm
1988. Định cư ở Hoa Kỳ tháng 9, năm 1991.
–Tập thơ “VÙNG
ĐÊM SƯƠNG MÙ” làm từ năm 1965 và được Nhà XB Mai Lĩnh xuất bản
năm 1966 ở Sài Gòn.
–Tập thơ “TRƯỜNG CA TRÊN BÃI CHIẾN” và
nhiều bài thơ ngắn khác làm trong 13 năm ở các Trại Tù CSVN.
–Sang Hoa Kỳ, sau khi tốt nghiệp Cao học, chuyển Luận án
thành sách. Nhà XB McFarland North Carolina xuất bản tháng 9, năm
2008, tựa đề “The Tragedy of the Vietnam War”. Cung Trầm Tưởng
viết bài góp ý và giới thiệu, được đăng nhiều lần trên báo chí
Việt ngữ. Văn Nguyên Dưỡng viết cho vài tạp chí văn học ở Hoa Kỳ
và Canada.
TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG
VÀ NHỮNG SỰ THỰC Ở CHIẾN
TRƯỜNG AN LỘC
TRONG MÙA HÈ 1972
VĂN NGUYÊN DƯỠNG
Book marks: LGT | TSTG | KỲ–1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | KỲ–12 | PL | Đầu trang
KỲ–1
Tướng
LÊ VĂN HƯNG &
Những sự thực ở Chiến trường AN LỘC
trong Mùa Hè Đỏ
Lửa 1972
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Kỳ–1
1. QUÂN ĐOÀN III
& VÙNG 3 CHIẾN THUẬT VỚI TƯỚNG ĐỖ CAO TRÍ VÀ TƯỚNG
NGUYỄN VĂN MINH
Trung tướng Nguyễn văn
Minh nhận chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III và Vùng 3 Chiến
Thuật (QĐIII & V3CT) sau khi vị tướng lãnh lỗi lạc nhất
của Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) Trung tướng Đỗ
Cao Trí, tử nạn trực thăng trên không phận tỉnh lỵ Tây
Ninh vào ngày 23 tháng 2, năm 1971.
Trước đó ở cả
bốn Vùng Chiến Thuật, QLVNCH đã mở những cuộc hành quân
sâu vào căn cứ địa của lực lượng Cộng Sản Bắc Việt
(CSBV) dọc theo biên giới Việt–Miên–Lào và truy diệt
chúng xa hơn vào lãnh thổ Miên và Lào. (Về lý do vì sao
QLVNCH tổ chức các cuộc hành quân vượt biên sang Cao
Miên và Lào, sẽ trình bày trong một dịp khác, hoặc xin
mời đọc “The Tragedy of The Vietnam War” của tác giả, ở
tiểu mục “A Controversal Escalation of the War in
Indochina”, do McFarland xuất bản tháng 9, 2008, từ
trang 135 đến 141).
Lực lượng hành quân QĐIII &
V3CT của Tướng Đỗ Cao Trí đạt thành quả lớn lao nhất. Từ
tháng 4, 1970, đã đánh bạt Sư đoàn Công trường 7 CSBV
(SĐ–7/CSBV) và Sư đoàn Công Trường 9 Cộng Sản của TWC/MN
(SĐ–9/CS) ra khỏi các căn cứ địa quan trọng Lưỡi Câu, ở
biên giới tây bắc Bình Long và Mỏ Vẹt ở biên giới tây
nam Tây Ninh, đồng thời phá tan các căn cứ hậu cần lớn,
nhỏ, của Trung Ương Cục Miền Nam (TWC/MN) cơ quan chính
trị và quân sự đầu não của CSBV ở Nam Việt Nam; hạ hơn
11,000 quân CSBV, bắt hơn 2,200 tù binh và thu hoặc phá
hủy hàng trăm tấn vũ khí, đạn dược, trang bị và hậu cần
của chúng. Sư đoàn Công trường 5 Cộng Sản của TWC/MN
(SĐ–5/CS) lúc đó đã rút sang Cao Miên hoạt động bên
ngoài biên giới Kiến Phong và đang là mục tiêu của QĐIV
& V4CT.
Ở mặt trận phía bắc, dọc Liên Quốc lộ 7,
các Chiến đoàn QĐIII & V3CT vượt qua các đồn điền cao su
Mimot, Krek và Chup, đến tận Tonle–Bet đông ngạn Sông
Mékong ngang thành phố Kampong–Cham –nơi trú đóng Bộ
Tham Mưu Quân Khu I của Tướng Fan Muong thuộc Quân lực
Quốc gia Cao Miên (Forces Armées Nationales Khmères
–FANK). Ở mặt trận phía nam, trên Liên Quốc lộ 1, các
Chiến đoàn khác của Tướng Trí cũng tiến đến bên ngoài
thành phố Sway–Riêng yểm trợ cho các đơn vị của Đại tá
Dap Duon, Tỉnh trưởng của tỉnh phía đông Cao Miên này,
giáp với tỉnh Tây Ninh của Việt Nam.
Suốt trong
gần một năm hiện diện trên lãnh thổ Miên, QLVNCH
đã liên lạc với chính quyền quân sự Cao Miên, đưa
khoảng trên dưới vài chục nghìn đồng bào Việt
Nam ở đó trở về nước. Chính Tướng Đỗ Cao Trí
đã làm việc này. Nỗi bận tâm của Trung tướng
trong các cuộc Hành quân Toàn Thắng trên lãnh thổ
Miên không chỉ nhằm tiêu diệt lực lượng CSBV và
các căn cứ hậu cần quan trọng của chúng ở biên
giới Miên, hay chỉ để yểm trợ cho lực lượng quân
đội non yếu của Tướng Lon Nol (Ông này là Tổng
Tham Mưu Trưởng Quân Đội Miên, vừa làm cuộc đảo
chính lật đổ Norodom Sihanouk trong tháng 3, 1970,
khi Sihanouk công du nước ngoài) nhưng còn để giải
thoát hàng chục nghìn Việt kiều bị chính quyền
địa phương của chính phủ Lon Nol nghi ngờ là Việt
Cộng, bắt giam giữ. Trung tuần tháng 4, 1970, tôi
được Trung tướng Trí cử sang làm Sĩ quan Liên lạc
ở Tỉnh Sway–Riêng thay thế Đại tá Lê Đạt Công lúc
đó là Trưởng Phòng 2 QĐIII & V3CT. Tôi nhận rõ
chỉ thị và hiểu rõ mối quan tâm của Trung tướng
Trí về vấn đề Việt kiều ở Miên. Vì vậy, khi
biết nhu cầu cần được yểm trợ của Đại tá Đap
Duon, Tỉnh trưởng Sway–Riêng, và sau khi thoả mãn
được vài điều khá quan trọng, việc đầu tiên của
tôi là yêu cầu Đại tá Đap Duon đưa đến thăm viếng
số đồng bào chừng hai nghìn người bị chính
quyền Miên tập trung giam giữ ở Trường Tiểu học
tỉnh lỵ. Trước cổng Trường này, tôi hứa với đại
diện Việt kiều nạn nhân ở đó là sẽ trình
nguyện vọng muốn về nước của đồng bào lên Tướng
Trí, Tư lệnh QĐIII & V3CT. Tôi đã làm như đã hứa.
Trong tháng 5, 1970, khi được Tướng Trí uỷ
thác sang Kompong–Cham làm Sĩ quan Liên lạc ở Bộ
Tư lệnh Quân khu I Cao Miên của Tướng Fan Muong, với
một toán trên mười sĩ quan, hạ sĩ quan Phòng 2,
Phòng 3, và Truyền tin của QĐIII & V3CT. Ở
Komgpong–Cham, tôi cũng yều cầu Trung tá Ly Tai Sun,
Tư lệnh phó của Fan Muong, nhất định phải đưa tôi
đi xem nơi đồng bào Việt Nam bị họ bắt giam giữ.
Hơn vài nghìn Việt kiều, kể cả đàn bà và trẻ
con, chen chúc dưới các đường giao thông hào khá
sâu và rộng –mà người Pháp gọi là tranchées–
trong khuôn viên chiếc sân rộng lớn của Bộ Tư lệnh
Quân Khu trong thành phố. Việc này chỉ diễn ra vào
buổi sáng sau khi tôi đã yêu cầu Tướng Trí cho
Không Quân Việt Nam (KQVN), đánh giải tỏa Bộ Tư
lệnh Quân Khu I, bị Tiểu đoàn J–16 Đặc công và các
đơn vị chính qui của CSVN tấn công và bao vây từ
đêm trước. Khi chỉ vào nhóm Việt kiều bị giam
giữ dưới các giao thông hào đó, Ly Tai Sun nói
với tôi bằng tiếng Việt: –”Nếu hôm nay Ông không
gọi được KQVN đánh giải cứu chúng tôi, thì số
người này sẽ bị bắn hết.” Đó là nguyên văn câu
nói của tên Trung tá này. Từ ngày toán Liên lạc
của chúng tôi đến Kompong–Cham, tôi tiếp xúc với
Thiếu tá John Fernandez Tham Mưu trưởng, Ly Tai Sun Tư
lệnh phó và Tướng Tư lệnh Fan Muong bằng tiếng
Pháp, vì tôi không biết tiếng Miên, tôi chưa hề
nghe các Sĩ quan Miên này nói một câu tiếng Việt
nào. Đột nhiên nghe Ly Tai Sun bật lên câu nói ghê
tởm đó, tôi nói với hắn, “Thì ra Ông là người
Việt Nam, họ Lý. Ông nói vậy có nghĩa là các
Ông sẽ giết hết số Việt kiều này và cả toán
Liên lạc của chúng tôi, đúng không? Hắn cười. Tôi
nói tiếp: –”Chắc là Ông chưa lường được hậu quả
lớn lao sau này.” Lý Tài Sun, hay Lý Đại Sơn –tên
thật của Sun– không nói gì thêm. Tức tốc, tôi
vào gặp Tướng Fan Muong nói việc Ly Tai Sun và tôi
gửi mật điện trình mọi việc với Tướng Trí. Ngay
buổi trưa đó, Trung tướng cho trực thăng, kèm theo
quân Nhảy Dù, đón toán Liên lạc chúng tôi về Biên
Hòa. Có lẽ sau đó Tướng Fan Muong điện xin lỗi
Trung tướng Trí. Dĩ nhiên vấn đề chính phải là
chuyện giải quyết số phận của hàng chục ngàn
Việt kiều bị chính quyền Miên giam giữ từ mấy
tháng trước đó khi quân CSBV phối hợp với các đơn
vị Cộng sản Miên tấn công các thành phố Miên và
tạo vòng đai bao vây Thủ đô Phnom Penh của Chính
quyền Lon Nol. Mấy ngày sau, Thiếu tá Nguyễn văn Lý
của Phòng 2/BTL/ QĐIII & V3CT và một toán Liên lạc
khác được đưa trở lại Kompong–Cham. Không lâu sau
đó Đại tá Trần văn Tư thay thế Thiếu tá Lý.
Trong tháng 5 đó, vấn đề nội bộ ở cấp cao giữa
Trung tướng Đỗ Cao Trí và Tổng thống Nguyễn văn
Thiệu hay Chính phủ VNCH, hay vấn đề ngoại giao
giữa Việt Nam và Cao Miên diễn ra thế nào tôi không
được biết, nhưng các cuộc hành quân thủy, bộ, của
QĐIII và QĐIV đã diễn ra, đón đưa nhiều chục
nghìn Việt kiều ở Miên về nước trong các tháng
5, 6 và 7, 1970. Lúc đó tôi tiếp tục phục vụ ở
Phòng 2 QĐIII & V3CT, dưới quyền Đại tá Lê Đạt Công,
khi ở Biên hòa, khi ở Hiếu Thiện, rồi Tây ninh,
luân phiên thay thế ông về tình báo chiển trường
cho đến ngày Trung tướng Đỗ Cao Trí tử nạn.
Từ ngày Trung tướng Nguyễn văn Minh về thay thế
nắm quyền Tư lệnh, nhất là sau tang lễ trọng thể
của cố Đại tướng Đỗ Cao Trí, tình hình ngoại biên
và trong nội địa Quân đoàn III & V3CT có nhiều
thay đổi lớn vì hai lý do:
Thứ nhất, CSBV
tăng cường đáng kể lực lượng của họ ở các mặt
trận Lào và Miên với những cuộc phản công dữ
dội ở Tchépone và suốt dọc Đường 9 đến biên
giới Khe Sanh, cũng như các cuộc phản công ở
Đường 7, từ các đồn điền cao su Chup, Mimot đến
biên giới Việt–Miên, vùng Lưỡi Câu và Mỏ Vẹt.
Chiến đoàn 8 của Sư đoàn 5 Bộ binh (SĐ5BB) cũng
tổn thất nặng và rút khỏi Thị trấn Snoul của
Miên trong cuối tháng 5, 1971. Địa điểm duy nhất
của Quân đoàn III còn duy trì trên lãnh thổ Miên
là căn cứ hỗn hợp Việt–Mỹ ở Thị trấn Krek, giao
điểm giữa đường 7 và đường 22 đổ vào nội địa
tỉnh Tây Ninh và cách biên giới chừng 12 km.
Thứ hai, Trung tướng Nguyễn văn Minh tánh người
ôn nhu, chuộng phòng thủ hơn tấn công. Ông không
phải là một hổ tướng như Đại tướng Trí, nhưng là
một túc tướng (tôi sẽ trình bày ở phần sau). Hơn
nữa, cục diện chiến trường đã thay đổi sau cuộc
Hành quân Lam sơn 719 ở Hạ Lào. Tướng Minh lâm vào
tình trạng bất cập, khó khăn trong vấn đề chỉ
huy. Ông xuất thân Khóa IV Trường Võ bị Liên quân
Đà Lạt, trong khi hai vị tư lệnh Sư đoàn dưới quyền
đều thuộc khóa đàn anh. Thiếu tướng Nguyễn văn
Hiếu, Tư lệnh SĐ5BB và Thiếu tướng Lâm Quang Thơ, Tư
lệnh SĐ18BB, cùng xuất thân Khóa III. Sau trận rút
lui khỏi Snoul của Chiến đoàn 8, SĐ5BB, Tướng Hiếu
được trao phó trọng trách khác. Đại tá Lê văn Hưng,
Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Cần Thơ, được
Tướng Minh đề nghị thay thế Tướng Hiếu làm Tư
lệnh SĐ5BB. Ít lâu sau, Tướng Lâm Quang Thơ cũng
được Đại tá Lê Minh Đảo thay thế.
Tuần lễ
đầu tháng 6, 1971, tôi được lệnh thuyết trình
tình hình các đại đơn vị địch trong lãnh thổ và
ngoại biên –mà QĐIII & V3CT phải đương đầu– cho Đại
tá Lê văn Hưng, tân Tư lệnh SĐ5BB. Nội dung bài
thuyết trình không khác gì nhiều so với những gì
tôi viết trên đây. Dĩ nhiên là không có phần nói
về các vị Tướng Tư lệnh Trí, Minh, Hiếu và Thơ.
Tôi nóí về tình hình của các đại đơn vị CSBV
và TWC/MN đang hoạt động ở biên giới Việt–Miên sau
khi QLVNCH rút ra gần hết khỏi lãnh thổ Miên, chỉ
còn duy trì cứ điểm cuối cùng ở Krek. Tôi trình
bày rõ về qui luật tác chiến, quân số, trang bị,
vùng hoạt động của từng đại đơn vị CSBV & TWC/MN
theo trận liệt và tin tức mới nhất mà chúng tôi
có được. Sau cùng là phần ước tính về hoạt
động của các đại đơn vị này và chủ trương của
TWC/MN trong thời gian tới. Tôi cho rằng nên giải
tỏa áp lực địch có khuynh hướng tập trung để
dứt điểm căn cứ Krek vì lúc đó chúng tôi ghi
nhận TWC/MN đang hiện diện trong vùng Snoul, và
các căn cứ hậu cần của chúng đang hoạt động trở
lại ở vùng biên giới Bình Long và Tây Ninh. Đây
là bài thuyết trình thường lệ ở cấp Vùng Chiết
Thuật (là cấp Quân Khu cũ) về “tình hình địch”.
Hình như Đại tá Hưng nghe rất rõ, không hỏi một câu
nào. Ngược lại, khi bài thuyết trình vừa chấm
dứt, Đại tá Hưng quay sang Trung tướng Minh, và nói:
–”Thưa Trung tướng, Dưỡng là bạn cùng Khóa, cùng
Trung đội với tôi.” Sau đó, ông đứng lên và bước
thẳng đến bục thuyết trình bắt tay, ôm lấy tôi.
Đó là dấu hiệu thân thiện đầu tiên khi gặp lại
sau hơn 15 năm kể từ khi tốt nghiệp và rời Quân
trường Thủ Đức vào tháng 1, năm 1955. Ngày ra
trường, chúng tôi đều mang cấp bậc Thiếu úy. Ở
buổi thuyết trình này, tôi chỉ là một Thiếu tá,
nhân viên của một Phòng 2 Quân đoàn, còn ông là
Đại tá, tân Tư lệnh của một Sư đoàn. Địa vị trong
quân đội cách xa nhau nhiều lắm!
2.
TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG VÀ TÔI
Tổng số
Sinh viên Sĩ quan Khóa V, Vì Dân, trên 1,300 người,
kể cả hai Đại đội bộ binh gửi thụ huấn ở Liên
trường Võ bị Liên Quân Đà Lạt. Đại đa số SVSQ được
gọi nhâp ngũ và đưa đến Trường SQTB Thủ Đức trong
tháng 5, năm 1954. Ông Hưng và tôi được xếp vào
Trung đội 8 của Thiếu úy Nguyễn Hưng Chiêu, thuộc
Đại đội 2 Bộ binh, cùng ở chung phòng hỗn hợp
(salle mixe) với Trung đội 7 của Trung úy Lê văn Sỹ.
Ở phòng chung này, Trung đội 7 có 12 sinh viên và
Trung đội 8 cũng có một số sinh viên như vậy. Còn
phòng chính của mỗi Trung đội gồm 24 sinh viên
nằm kế cận hai bên phòng mixe này.
Khóa này,
tại Thủ Đức có hai Đại đội bộ binh và sáu Đại
đội chuyên ngành như Pháo binh, Trọng pháo, Thiết
giáp, Công binh, Truyền tin, Hành Chánh Quân Nhu
v.v. Đại đội I Bộ binh gồm các Trung đội 1, 2, 3
và 4; Đại đội II Bộ binh gồm các Trung đội 5, 6,
7 và 8. Trung đội 8 của chúng tôi có 36 sinh viên,
mà ngày nay tôi còn nhớ tên trên hơn ba mươi bạn.
Trung đội 8, Đại đội II Bộ binh của Thiếu úy
Nguyễn Hưng Chiêu có thể là Trung đội SVSQ tạo
được hai kỳ tích là đã cho ra trường một Thủ
khoa và một sĩ quan sau đó trở thành Tướng lãnh
duy nhất cho toàn khóa, danh tiếng lẫy lừng. Vị
tướng lãnh này là Lê văn Hưng, người Quận Hóc
Môn, Tỉnh Gia Định. Ông là một trong 5 vị Tướng
tuẫn tiết ngày 30, tháng 4 đen, năm 1975.
SVSQ Lê văn Hưng lúc đó thỉnh thoảng đôi mắt thoáng
nháy nhẹ một lần như khi đã làm tướng. Thường
ngày, lúc nghỉ ngơi trong phòng, Hưng thường mặc
chiếc sa–rong của người Miên, màu đỏ sọc xanh đen,
ở trần không mặc áo, cổ đeo một giây chuyền vàng
mang một nanh heo rừng nhỏ. Hưng rất ít nói, nhưng
dễ mến vì lúc nào gặp ai cũng cười; nụ cười
dễ gây thiện cảm và theo tôi nghĩ, dễ làm xiêu
lòng các người đẹp. Nước da ngâm, nhưng cao lớn
và đẹp trai theo lối một người hùng hơn là một
thư sinh. Lúc đó anh đã lập gia đình. Khi gần hết
giai đoạn I, nhất là sau khi đã được mang Alpha
–biểu trưng của SVSQ– cứ mỗi hai tuần sinh viên
được đi phép 24 giờ về thăm gia đình. Như vậy mỗi
Trung đội 36 sinh viên, thì một nửa đi phép, một
nửa khác lưu trại. Tôi thuộc toán được đi phép
hay lưu trại chung với anh Hưng.
Trong đời,
đôi khi ta gặp những hoàn cảnh chạnh lòng. Khi
bước chân vào Quân trường Thủ Đức tôi đã mang nỗi
buồn riêng, tủi cho thân phận mình. Không biết nói
cùng ai. Lúc đó tôi là một cậu học trò, độc
thân, gia đình nghèo. Tôi nhập trường vào tháng 5,
đến tháng 7, 1954, sau Hiệp định Genève, đất nước
chia đôi. Thị trấn Cà mau nhỏ bé thân thương của
tôi biến thành nơi tập trung của các lực lượng
vũ trang bộ đội và du kích Việt Minh trong nhiều
tháng, trước khi họ tập kết ra miền Bắc. Cha và
anh tôi là tiểu công chức phải rời Cà mau lên
tỉnh lỵ Bạc liêu làm việc; gia đình ăn ở tạm
bợ, nghèo khó. Với số lương tháng ít oi của một
SVSQ tôi phải gởi bớt về giúp thêm cho cha mẹ,
đứa em gái còn đi học, và người chị quả phụ và
hai đứa cháu cô nhi. Ngày thường, nhất là khi tập
ở ngoài bãi, tôi lấy thêm phần ăn sáng mà các
bạn cùng bàn không đến ăn, thường là bánh mì
với mấy thỏi chocolate hoặc fromage đầu bò –ở
Nhà Ăn Sinh viên– mang theo để ăn trong buổi giải
lao, trong khi các bạn sinh viên khác bao quanh các
gánh bán thức ăn hàng rong ở các bãi tập đó.
Buổi chiều, khi ăn cơm xong, tôi thường mang về một
ga–men (gamelle) cơm trắng để đến tối trong khi các
bạn đi ăn uống ở các Câu lạc bộ Sinh viên hay ở
những gánh hàng rong đủ loại thức ăn mà vợ con
binh sĩ ở trại gia binh mang đến tận hành lang
ngoài phòng ngủ của sinh viên, tôi lặng lẽ đem
phần cơm đó và một chai xi dầu, ra ngồi ở bậc
xi–măng đầu chiếc cống xây trên lạch nước gần dãy
trại của Đại đội chảy ra bãi tập thể dục quân
sự, ăn dưới ánh trăng, hay trong bóng tối bao
quanh. Tôi đã nuốt những hạt cơm nguội lạnh đó
trong nhiều đêm cùng với nỗi tủi thân của mình.
Rồi một đêm nào đó, tôi không nhớ rõ, Thiếu úy
Nguyễn Hưng Chiêu, Trung đội trưởng của tôi, trong
buổi trực đêm của ông, bắt gặp tôi đang ngồi ăn
cơm đêm trong bóng tối như vậy. Khi ông rọi đèn
pile thấy rõ ga–men cơm đang ăn dang dở và chai
xì–dầu, trong khi tôi đứng thẳng ở tư thế nghiêm
của một sinh viên trước thượng cấp của mình. Ông
không nói gì, để tôi đứng đó và đi vào dãy
phòng ngủ của Đại đội. Tôi âm thầm trở về phòng
với nỗi lo sợ lớn lao trong lòng. Tôi sợ mình đã
vi phạm một lỗi lầm quân kỷ nào đó của Trường.
Mấy ngày sau tôi chờ đợi nhận phần phạt. Nhưng
không, ngược lại, tôi nhận được tờ giấy bạc 100
Đồng, một số tiền khá nhiều lúc đó, xếp giữa
hai trang giấy trong tập bài học của tôi sau khi
Thầy khám duyệt và hoàn trả các tập vở đó lại
cho các sinh viên Trung đội. Thầy đã kín đáo cho
tôi tiền như đã hiểu rõ hoàn cảnh của tôi. Đã
gần sáu mươi năm rồi, tôi mang ơn Thầy Chiêu đã
đào tạo tôi trở thành một sĩ quan QLVNCH và về
đức độ và lòng nhân hậu của Thầy. Tôi không mong
trả được ơn Thầy trong cuộc đời này vì tôi biết
không có gì quí giá xứng với tấm lòng bao dung
rộng lớn của Thầy. Ngược lại, rõ ràng người đã
đền đáp ơn Thầy nhiều nhất là Tướng Lê văn Hưng
vì những chiến công rực rỡ và sự tuẫn tiết cao
đẹp của vị Tướng này, người anh hùng mà Thầy
một thời đã tạo dựng nên.
Lúc đó tôi rất
ít xuất trại nghỉ phép. Họa hoằn có đi phép
thì cũng chỉ xuất trại vào sáng ngày Chúa
nhật, đi dạo vòng vòng các khu phố lớn Sài Gòn,
xem chớp bóng ở các rạp chiếu bóng thường trực
để đợi đến chiều ra Đường Hai Bà Trưng, sau Trụ
sở Quốc hội, đợi đoàn xe GMC đưa đón SVSQ của
Trường rước về. Những tuần không đi phép tôi mặc
quân phục chỉnh tề, cùng các bạn trong Trung đội
người miền Bắc, cũng “mồ côi” như tôi sau khi Hiệp
định Genève–1954 chia đôi đất nước, đi dạo ở khu
chung quanh sân cờ lớn của Trường, nơi có những
hàng cây tỏa bóng mát, dù ít oi, xuống thảm cỏ
dưới gốc, mà các SVSQ lưu trại thường đón tiếp
và vui vầy với gia đình hay người yêu đến thăm
viếng trong ngày Chúa nhật.
Cảnh đầm ấm,
hạnh phúc và sinh động hực hỡ màu sắc này cũng
diễn ra trong Câu lạc bộ Sinh viên và trong các
lều mát hay quán ăn chung quanh đó. Dĩ nhiên trong
số những thân nhân đến thăm viếng sinh viên hàng
tuần không thiếu những bóng hồng tươi đẹp, xinh
xắn, là chị, là em, là bạn, là người yêu, hay
vợ của sinh viên lưu trại. Một trong những người
đẹp đó là vợ của anh Hưng. Nhìn từ xa xa cũng
biết chị đẹp. Dáng người cao thon thả nhưng cân
đối khoẻ mạnh như một thiếu nữ phương Tây. Mặt
sáng, nước da trắng. Cách ăn mặc và dáng điệu
tạo vẻ thuộc gia đình trung lưu, khá giả. Mỗi
lần thăm anh, chị thường dẫn theo đứa con gái nhỏ
chừng hơn một tuổi. Họ quây quần bên nhau rất
hạnh phúc. Thế nhưng, trong đời người ta không thể
ngờ được những bất cập, tan vỡ, chia ly diễn ra
mà hậu quả là ưu phiền và oán hận.
Chín
năm sau ngày ra trường, mỗi người đi một nơi, không
biết tin tức gì của nhau, bỗng nhiên vào giữa
tháng 1 năm 1964, tôi được biết tin về anh Lê văn
Hưng. Sau ngày đảo chánh 1 tháng 11, 1963, Tổng
thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu bị thảm
sát, Đại tá Nguyễn văn Phước Trưởng Phòng 2 Bộ
Tổng Tham mưu (P2/BTTM) bị mấy ông Tướng đảo chính
bắt giam giữ ở Cục An ninh Quân đội, Trung tá Hồ
văn Lời, Chỉ huy trưởng Trường Quân báo Cây Mai,
được đưa lên BTTM thay thế. Tôi cũng được thuyên
chuyển theo ông và giữ chức vụ Trưởng ban Hành
chánh của P2/BTTM.
Một hôm tôi đọc được
trong xấp hồ sơ “Công văn Đến” lệnh thuyên chuyển
của Nha Nhân viên Bộ Quốc Phòng ban hành hoàn trả
Trung úy Lê văn Hưng về ngành Quân Báo và đặt
thuộc quyền sử dụng của P2/BTTM. Trước cuộc đảo
chính Trung úy Hưng là Quận trưởng Trà Ôn ở miền
Tây. Có lẽ những năm trước nữa ông Hưng có học
qua một khóa Quân Báo hay giữ chức vụ nào đó
cùng ngành với tôi mà tôi không biết. Sau đó ít
lâu, khi hồ sơ cá nhân của Hưng gửi về P2/BTTM mới
được biết là sau khi tốt nghiệp ở Thủ Đức nhờ
đậu cao nên anh được chọn về Quân Khu I –lúc đó
bao gồm cả lãnh địa của Vùng 3 và Vùng 4 Chiến
thuật sau này– và thuyên chuyển về Bộ Chỉ Huy
Trung đoàn 15 đóng tại Gia Định. Thiếu tá Lê Thọ
Trung là Trung đoàn trưởng. Sau này, khi ông Hưng
đã lên Tướng và làm Tư lệnh SĐ5BB, ông Trung, chỉ
mang cấp bậc Trung tá, là Tham Mưu trưởng cho ông
Hưng.
Không đầy một tuần sau khi P2/BTTM nhận
được lệnh thuyên chuyển của Trung úy Hưng, cũng
trong tháng giêng đó, một người đàn bà đến xin
gặp Trung tá Trưởng P2/BTTM. Với tư cách là người
phụ trách về hành chánh và quản trị nhân viên,
tôi tiếp bà khách. Bà tự xưng là người phối
ngẫu chính thức và đã ly dị của ông Hưng. Tôi
hình dung được ngay đó là người vợ của SVSQ Hưng
của gần mười năm trước. Tuy bà đã bớt vẻ thon
thả, khá người hơn, mà vẫn còn đẹp ở độ tuổi
trung niên. Bà mang theo một lá đơn xin gửi lương
tháng, mà bà nói là do Tòa án phán quyết khi ly
dị, ̣đến thẳng địa chỉ của bà ở Gia Định. Tôi
chỉ ghi nhận sự kiện, nhận đơn, mà chưa giải
quyết được vì Trung úy Hưng chưa trình diện
P2/BTTM.
Sau đó không lâu, tôi nhận tiếp một
lệnh khác của Nha Nhân viên Bộ Quốc Phòng thuyên
chuyển Trung úy Lê văn Hưng về SĐ21BB. Như vậy đến
năm đó tôi vẫn chưa gặp lại Hưng cho đến đầu
tháng 6, năm 1971. Vì ông Hưng trình diện thẳng
SĐ21BB mà không trình diện P2/BTTM. Cuối năm 1967,
vào một buổi chiều, tôi vô tình gặp lại người
vợ đã ly dị đó của ông Hưng trong Dancing Club
Victoria ở Tân Định, gần Bộ Tổng Tham Mưu. Bà là
vũ nữ ở đó. Tôi nhận ra bà nhưng bà không nhớ
có lần đã gặp tôi ở P2/BTTM gần bốn năm trước.
Lúc đó tôi mang cấp bậc Thiếu tá và được biết ông
Hưng mang cấp Trung tá, Trung đoàn trưởng Trung đoàn
31 thuộc SĐ21BB và là một trong năm ngũ kiệt nổi
tiếng ở miền Tây. Ít lâu sau nghe ông Hưng thăng
cấp Đại tá và làm Tỉnh trưởng Cần Thơ. Từ cuối
năm 1967, sau buổi khiêu vũ “matinée” ở Victoria,
tôi không gặp bà vợ đã ly dị của ông Hưng lần
nào nữa. Đến nay đã gần nửa thế kỷ.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Book marks: LGT | TSTG | KỲ–1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | KỲ–12 | PL | Đầu trang
KỲ–2
Tướng
LÊ VĂN HƯNG &
Những sự thực ở Chiến trường AN LỘC
trong Mùa Hè Đỏ
Lửa 1972; cont'd...
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Kỳ–2
Sau buổi thuyết
trình đầu tháng 6, năm 1971 đó, Trung tướng Minh
mời Đại tá Hưng và tôi ăn cơm trưa trong chiếc
“trailer” đặt ở sân trước Tư dinh Tướng Minh ở Biên
Hòa. Đáng lẽ tôi không hân hạnh được mời tham dự
bữa cơm của hai ông tư lệnh này đâu, nhưng tôi nghĩ
Tướng Minh mời tôi là vì Đại tá Lê văn Hưng nói tôi
là bạn đồng môn. Lý do thứ hai là vì khi ra
trường tôi thuyên chuyển về Tiểu đoàn 61 VN đầu năm
1955, làm Trưởng Ban Quân số (Chef Bureau Effectif),
đến khoảng tháng 8 năm 1955, ông Nguyễn văn Minh,
lúc đó mang cấp bậc Thiếu tá được bổ nhậm Tiểu
đoàn trưởng Tiểu đoàn 61 VN, kiêm Quận trưởng Quận
Đức Hòa, thuộc tỉnh Chợ Lớn, chỉ định tôi làm
Văn phòng trưởng Tiểu đoàn (Chef Bureau Secretariat),
đồng thời là Chánh văn phòng Quận Đức Hòa cho
ông. Sau cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến và Tổng
thống Đệ nhất Cộng Hòa cuối năm 1955, Thiếu tá
Minh được đề cử chức Tỉnh trưởng Sa Đéc, thăng
cấp Trung tá. Tôi xin thuyên chuyển ra Tiểu đoàn 1/43
Sư đoàn 15 Khinh Chiến, đóng ở Dục Mỹ, Nha Trang.
Trong Đệ Nhị Cộng Hòa ông Minh thăng cấp nhanh
chóng, Đại tá Tư lệnh SĐ21BB, rồi Chuẩn tướng, rồi
Thiếu tướng, rồi Trung tướng làm Tư lệnh Biệt Khu
Thủ Đô, rồi Tư lệnh QĐIII & V3CT. Ông chưa quên tôi
đã từng giúp việc cho ông từ 15 năm trước. Còn
lý do thứ ba nữa, đến khi ngồi vào bàn cơm tôi
mới được biết là Đại tá Hưng xin Tướng Nguyễn văn
Minh cho tôi về giúp ông làm Trưởng Phòng 2 SĐ5BB.
Điều này làm tôi bất ngờ. Tôi xin để được suy
nghĩ lại. Tướng Minh cũng chưa quyết định ngay.
Sau buổi cơm Đại tá Hưng lên Lai Khê, tôi được Tướng
Minh cho nghỉ phép một tuần về Sài Gòn, nói là
để ông sẽ sắp xếp lại nhân sự.
Lúc đó,
Trưởng Phòng 2 QĐIII & V3CT là Đại tá Lê Đạt Công
không được Tướng Nguyễn văn Minh tín nhiệm đã cho
thuyên chuyển xuống SĐ21BB. Phòng 2 tuy còn mấy sĩ
quan cấp tá khác nhưng công việc do tôi quán xuyến
mặc dù tôi không giữ một chức vụ nào ở đó. Tôi
nghĩ Trung tá Mạch văn Trường, vừa rời chức vụ
Quận trưởng Thủ Đức về QĐIII & V3CT, đệ tử thân
nhất của Tướng Minh, trước đó là Trưởng Phòng 2
SĐ21BB của Tướng Minh, sẽ được chỉ định làm
Trưởng Phòng 2 Quân đoàn. Nhưng không phải, khi hết
phép trình diện Tướng Minh, tôi được ông cho biết
Đại tá Hưng đã gởi hai công điện chính thức xin tôi
về SĐ5BB. Tướng Minh nói với tôi là nên lên Lai Khê
giúp ông Hưng và Trung tá Mạch văn Trường cũng đã
được đưa lên đó giữ chức vụ Trung đoàn trưởng
Trung đoàn 8. Trung tá Trần văn Bình, Trưởng Phòng
2 SĐ18BB sẽ được chỉ định làm Trưởng Phòng 2
QĐIII & V3CT. Điều này cũng hợp lý, vì Trung tá
Bình là một sĩ quan Quân báo nhiều kinh nghiệm
đã từng là Trưởng Khối Tình Báo của P2/BTTM.
Tôi rất buồn khi nghe quyết định của Tướng
Minh. Không phải tôi muốn thối thoát trách nhiệm
làm trưởng phòng tình báo chiến trường cấp Sư
đoàn mà tôi cho là quan trọng. Nhưng tôi tủi thân
khi phải phục vụ người bạn cùng khóa. Biết đâu
việc làm của tôi không tránh khỏi những sơ suất,
chết quân mất đồn, lúc đó sẽ khó cho ông mà khó
cho tôi biết mấy. Thà làm việc cho vị tư lệnh
nào khác, không giữ một chút tình riêng trong
lòng, tôi sẽ an tâm hơn. Thưởng phạt sẽ nhận và
chịu một cách vô tư, thảnh thơi hơn, nếu mình hữu
công hay mình bất lực. Nhưng là một quân nhân, tôi
phải chấp hành lệnh của thượng cấp. Tôi điện
thoại cho Đại tá Hưng và xin cho tôi thu xếp và
trình diện SĐ5BB ngày 16 tháng 6. Quá trưa ngày
đó, khoảng 2 giờ, Đại tá Hưng cho trực thăng chỉ
huy của ông đón tôi ở Biên Hòa lên Lai Khê. Trong
văn phòng Tư lệnh, ông Hưng bắt tay và ôm vai tôi
lộ vẻ vui mừng. Sau đó, tôi nhận nhiệm sở mà
không có bàn giao vì người tiền nhiệm của tôi là
Trung tá Nguyễn Công Ninh đã rời Sư đoàn từ tuần
trước. Khi tôi đang họp với các sĩ quan Phòng 2
Bộ Tham mưu và Biệt đội Quân báo Sư đoàn, thì
Chánh văn phòng Tư lệnh, Đại úy Nguyễn Đức
Phương, gọi điện thoại nói là Đại tá Tư lệnh mời
tôi dùng cơm tối tại tư dinh, sau buổi họp 5 giờ
chiều hằng ngày ở Trung tâm Hành quân Sư đoàn.
Trên chiếc trailler được che chắn bằng nhiều
bao cát xung quanh, đặt ở sân sau tư dinh Tư lệnh,
song song với dãy nhà văn phòng của Phòng 2 Sư
đoàn, nơi làm việc của tôi từ buổi trưa đó, cách
một lớp rào lưới chống đạn B–40, lần đầu tiên
tôi gặp người phối ngẫu chính thức của Đại tá Lê
văn Hưng, chính do ông giới thiệu, mà sau đó không
lâu tôi được biết nhũ danh của bà là Phạm Kim
Hoàng. Tôi nghĩ bà là người xứng với ông Hưng.
Nước da trắng, gương mặt đẹp sáng, dáng người
mảnh mai thanh tú, giọng nói dịu dàng. Bà tỏ ra
thân thiện với người đồng môn của chồng. Ông Hưng
cũng không hỏi một câu nào về gia đình hay bản
thân tôi từ ngày ra trường. Ông và tôi bàn về các
vấn đề thời sự ở phạm trù lớn hơn phạm trù
QĐIII & V3CT, bình đẳng, không gò bó như thường khi
tôi tiếp xúc với bất cứ một thượng cấp nào của
tôi trước đó. Sau buổi cơm tối ngày tôi trình
diện Sư đoàn, tôi nghĩ rằng tôi có thể yên tâm
làm việc với Đại tá Hưng, không còn mặc cảm. Trái
lại, tôi nghĩ là phải cố gắng, bỏ tâm cơ nhiều
hơn trong việc làm để thực sự giúp người bạn
hiểu biết mình và cũng để chứng tỏ mình có đủ
kiến thức và khả năng chuyên môn không làm phụ
lòng ông.
Đó không phải là buổi duy nhất
ông bà Hưng đãi cơm tôi trên chiếc trailer ở tư dinh
của tư lệnh trong căn cứ Lai Khê, mà rất nhiều
lần trong suốt thời gian tôi phục vụ ở SĐ5BB dưới
quyền chỉ huy của ông Hưng. Mỗi khi ông bà tổ
chức các buổi ăn gia đình có tính kỷ niệm,
người bạn duy nhất được mời là tôi. Thêm nữa,
mỗi lần khi mà buổi sáng tôi bị gạch tên trong
các lần đề nghị thăng cấp đặc cách, hay trong
danh sách đề nghị thưởng huy chương Anh dũng Bội
tinh, dù ở cấp Sư đoàn mà ông Hưng, với thẩm
quyền tư lệnh, có thể ký ban cho. Trong ngày nào
đó, nếu ông từ chối đề nghị của Trung tá Tham mưu
trưởng Lê Thọ Trung, thì buổi chiều bà Hưng gọi
điện thoại mời tôi ăn cơm tối với ông, bà. Trong
buổi cơm, dù tôi tỏ ra bình thường bà Hưng vẫn
nói như an ủi tôi “ảnh luôn như vậy đó, anh đừng
buồn”, trong khi ông Hưng ngồi đó, nghe và cười.
Nụ cười vừa an ủi vừa như bảo với tôi rằng ông
không muốn để người khác dị nghị và Anh dũng
Bội tinh không thể cấp cho sĩ quan tham mưu. Người
hiểu rõ các điều trên đây lúc đó là Trung tá Lê
Thọ Trung, vị chỉ huy trưởng cũ của Ông Hưng. Tôi
nghĩ rằng Trung tá Trung nhiều lần cũng được gia
đình ông Hưng mời ăn những buổi cơm riêng như vậy,
vì ông Hưng chắc không quên người đã từng là
thượng cấp của ông khi vừa bước ra khỏi cổng Quân
trường Thủ Đức. Dĩ nhiên người hiểu rõ nhất
những mối liên lạc thân thiện giữa Tướng Hưng và
tôi là bà Hưng. Những buổi cơm có tính cách gia
đình này không chỉ diễn ra trong thời gian tôi phục
vụ ở SĐ5BB mà còn như hằng ngày ở những tháng
sau cùng của chiến cuộc Việt Nam, tại tư dinh
Tướng Hưng ở Cần Thơ.
3. TƯỚNG LÊ VĂN
HƯNG VÀ SƯ ĐOÀN 5 BỘ BINH
Chỉ một
thời gian làm việc với Đại tá Lê văn Hưng, tôi hiểu
rõ khả năng của ông hơn và thành thực khen ngợi
ông là người chí công vô tư. Về khả năng, tôi có
thể nói ông quyết đoán chính xác và nhanh chóng.
Tôi sẽ đề cập đến sau. Trước tiên, xin nói về
bản tính và cách cư xử của ông đối với mọi
người. Ông rất thẳng thắn, cương nghị, nhưng là
người mang trong lòng thứ tình cảm đậm đà –với
hai thí dụ điển hình là sự đối xử của ông với
Trung tá Lê Thọ Trung và với tôi.
Nhìn dáng
dấp bên ngoài, thuộc cấp có thể nghĩ ông là
người khó đến gần hoặc nghiêm khắc, vì tướng
người cao, rắn rỏi, nghiêm nghị, nhất là ít nói.
Kỳ thực ông rất thương yêu binh sĩ, hạ sĩ quan và
sĩ quan cấp úy. Ông chọn rất kỹ hạ sĩ quan và
sĩ quan cấp thiếu úy và trung úy để đặt vào
các chức vụ Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng
và Đại đội trưởng. Ở cấp Tiểu đoàn trưởng, ông
thường chọn những Đại úy hay Thiếu tá trẻ dày dạn
trận mạc, can trường, đánh trận hay và nhất là
biết suy nghĩ, lo lắng và thương yêu binh sĩ. Ông
thường nói với tôi rằng các cấp chỉ huy này biết
thương yêu, lo lắng cho binh sĩ thì mình sẽ đỡ lo
hơn và an tâm hơn. Vì vậy ông tỏ ra thân mật với
cấp chỉ huy ở cấp tiểu, trung, Đại đội, và các
Tiểu đoàn. Đôi khi ông nhớ rõ tên một hạ sĩ quan
Tiểu đội trưởng hay Trung đội trưởng của một Đại
đội hay Tiểu đoàn nào đó mà tôi nghĩ là ít vị
tư lệnh Sư đoàn nào để ý đến. Tuy nhiên ở cấp
Trung đoàn trưởng, Tư lệnh Sư đoàn không quyết
định được, thường là do Tư lệnh Quân đoàn hoặc
cấp cao hơn bổ nhậm.
SĐ5BB có 3 Trung đoàn
Bộ binh 7, 8, và 9, Thiết đoàn 1 Kỵ binh, 4 Tiểu
đoàn Pháo binh gồm Tiểu đoàn 50 đại bác 155 ly,
các Tiểu đoàn 51, 52, và 53 đại bác 105 ly. Ngoài
ra còn các Tiểu đoàn chuyên biệt khác như Công
binh, Truyền tin, Tiếp vận và Quân y. Tổng cộng
quân số trên 11,000 người. Trung đoàn 7 Bộ binh do
Trung tá Lý Đức Quân chỉ huy (sau đó thăng Đại tá
và tử trận thăng cố Chuẩn tướng). Ông Quân gốc dân
tộc Nùng cũng như đại đa số sĩ quan, hạ sĩ quan
và binh sĩ đều thuộc sắc tộc này từ khi được
thành lập với danh hiệu là Sư đoàn 4 Dã chiến.
Sau chuyển thành SĐ5BB. Dần dà khi QLVNCH phát
triển thì số binh sĩ sắc tộc Nùng gần như hoàn
toàn tập trung vào Trung đoàn 7. Trung tá Quân là
một sĩ quan mẫu mực, đạo đức, khả năng và kinh
nghiệm tác chiến cao nên Đại tá Hưng rất hài lòng.
Trung đoàn 8 Bộ binh được Tướng Minh giao cho Trung
tá Mạch văn Trường chỉ huy (Ông Trường xuất thân
Khóa 12 Võ bị Đà Lạt. Khi tốt nghiệp, toàn khóa
được đưa sang một Trường Bộ binh Hoa Kỳ để học
chỉ huy cấp Đại đội bộ binh. Nhưng chính bản thân
ông chưa hề chỉ huy một Đại đội bộ binh trong
QLVNCH, mà là một sĩ quan Quân Báo. Làm Trung
đoàn trưởng nghĩa là sẽ thăng cấp Đại tá). Biết
Trung tá MVT chưa từng cầm quân nên Tướng Hưng đưa
Thiếu tá Huỳnh văn Tâm là một sĩ quan rất trẻ
nhưng đã từng là Tiểu đoàn trưởng cừ khôi, làm
Trung đoàn phó. Trung đoàn trưởng Trung đoàn 9 là
Đại tá Nguyễn Công Vĩnh, lớn tuổi, ốm yếu, mà
lần đầu gặp lại sau nhiều năm, tôi tự nghĩ là
ông nên xin về làm việc ở một nha sở nào ở Trung
ương hơn là đi đánh giặc. Tuy nhiên dưới quyền ông
có hai sĩ quan lỗi lạc là Thiếu tá Trần Đăng Khoa
Trung đoàn phó và Thiếu tá Võ Trung Thứ, Tiểu đoàn
trưởng Tiểu đoàn 1/9, xuất thân Thủ khoa Khóa 15
Võ bị Đà Lạt. Thiết đoàn trưởng Thiết đoàn 1 Kỵ
binh là Trung tá Nguyễn Đức Dương.
Đầu tháng
3, 1972 nhân ngày kỷ niệm thành lập Sư đoàn, Đại
tá Lê văn Hưng thăng Chuẩn tướng nhiệm chức và Trung
tá Mạch văn Trường, với chức vụ Trung đoàn
trưởng, cũng thăng Đại tá nhiệm chức. Người bị
Tướng Nguyễn văn Minh bỏ quên, không đề nghị thăng
cấp, là Trung tá Lê Thọ Trung, Tham mưu trưởng Sư
đoàn, rất thâm niên trong cấp bậc.
Đối với
các sĩ quan cấp tá thì Tướng Hưng rất nghiêm
minh, nhất là các sĩ quan tham mưu. Đó là lý do
tại sao Đại tá Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh phó Sư đoàn
và các sĩ quan cấp tá khác thường bị ông Hưng
“nẹt” khá nhiều lần ngay trong các buổi họp ở
Trung tâm Hành quân. Và một buổi chiều, sau khi ông
V. bị nự, không nhớ lần thứ mấy, hết buổi họp,
tôi theo Tướng Hưng vào văn phòng tư lệnh. Lúc ông
đang chưa hết cơn giận, thấy tôi bước vào, ông
ngạc nhiên nhưng không nói gì thì chính tôi nói:
–”Xin... cho tôi được trình bày.” Tướng Hưng chưa
kịp nói gì thì tôi đã tiếp. –”Tôi nghĩ là anh
xử sự quá đáng với Đại tá V. Ông ta cứ bị “nự”
hoài, làm sao chịu nổi. Đại tá V., hay chúng tôi
cấp trưởng phòng, đều có trách nhiệm trình bày
ý kiến của mình, dù đúng hay sai.... Bị nự hoài
ai dám nói nữa... nhất là trước mặt thuộc cấp.”
Tướng Hưng nổi cáu, lớn tiếng: –”Không phải việc
của mày!” Tôi nói một câu trước khi chào và bước
ra: –”Xin lỗi Thiếu tướng, nếu không phải thì... tôi
đi.” Đó là lần đầu tiên và cuối cùng Tướng Hưng
gọi tôi bằng “mày”, mà tôi nghĩ là xuất phát từ
thâm tâm ông coi tôi là một bạn đồng khóa ngày xưa
hơn là một thuộc cấp. Từ đó chữ này biến mất.
Và chắc chắn ông hiểu rõ chữ “Thiếu tướng” mà tôi
dùng trong buổi chiều đó là mang theo sự bất
bình của tôi. Thường nhật trước mặt mọi người
tôi gọi ông là Thiếu tướng, vào những lúc khác
chỉ riêng có hai người, hoặc trước mặt vợ ông,
tôi gọi là “anh”, vì ông Hưng lớn hơn tôi. Ông sinh
tháng 3, năm 1933. Tôi sinh tháng 1, năm 1934, mặc
dù cùng năm Quí Dậu. Ông thường gọi tôi bằng tên:
“Dưỡng à”, hoặc “này Dưỡng”, không thêm một chữ
nào nữa. Không “toi”, không “cậu”, không “mày”....
Sáng hôm sau, tôi tạt qua văn phòng Tham mưu
trưởng, nạp lá đơn xin thuyên chuyển, trước khi ra
sân bay trực thăng chờ tháp tùng Tướng Hưng đi thăm
các đơn vị. Khi bước xuống xe jeep, trước khi lên
trực thăng chỉ huy của mình, Tướng Hưng bắt tay
Trung tá Trịnh Đình Đăng, Trưởng Phòng 3, và tôi.
Đến khi bắt tay tôi, ông Hưng cười, không nói gì.
Buổi trưa, trở về Lai Khê, khoảng chừng 2 giờ
chiều Trung tá Trung, Tham Mưu Trưởng, gọi tôi lên
văn phòng cho biết là ông đã gặp Tướng Hưng về
việc của tôi và lập lại lời Tướng Hưng nói với
ông: “Dưỡng nó làm nư, bỏ lá đơn đi.” Tôi thực
tình không làm nư với ông Hưng, mà định xin thuyên
chuyển thật. Tôi cũng không ngượng ngùng gì khi
gặp ông buổi chiều trước giờ họp. Tuy nhiên mấy
ngày sau, Tướng Hưng khi gặp riêng tôi, nói rằng
Đại tá Lê Nguyên Vỹ và ông không hợp tính với nhau.
Chỉ một tuần sau Tướng Nguyễn văn Minh điều Đại tá
V. về làm Phụ tá Hành quân ở Bộ Tư lệnh QĐIII &
V3CT. Chức vụ Tư lệnh phó SĐ5BB không có người
thay thế. Có một Đại tá khác thuyên chuyển về Sư
đoàn là Đại tá Bùi Đức Điềm, nguyên Tỉnh trưởng
Long Khánh, Tướng Minh không tín nhiệm, bãi chức.
Khi về Sư đoàn Đại tá Điềm cũng chỉ giữ chức Tham
mưu trưởng Hành quân mà không phải là tư lệnh phó
hay phụ tá hành quân cho Tướng Hưng. Ông Điềm là
một Đại tá kỳ cựu, người có công rất lớn trong
cuộc chiến An Lộc diễn ra một tháng sau đó. Ông
ta bị bỏ quên như một gốc cổ thụ già cằn cỗi
trong một xó rừng nào đó của Bình Long. Mãi đến
gần cuối năm 1972 Sư đoàn mới có vị tư lệnh phó
là Đại tá Nguyễn Bá Long, tự Thìn, nguyên Tỉnh
trưởng Kontum, và là người có công rất lớn trong
việc giữ vững thành phố tỉnh lỵ này; ở đó
hình như cũng có... bất công diễn ra liên quan đến
vị Đại tá này.
Tôi sẽ nói riêng về những
sự bất công của cuộc chiến An Lộc đúng như sự
thực, khác hơn nhiều người viết thêm bớt, dù tôi
biết là những gì tôi đề cập đến sẽ làm nhiều
người không hài lòng và sẽ đem đến cho tôi những
̣điều không tốt lành nào đó. Tôi chấp nhận, khi
tôi nói sự thực, và chỉ là sự thực, trước đây
có rất nhiều người biết mà không thể nói. Tôi
cũng muốn quên đi từ hơn mấy chục năm qua. Nhưng
không thể quên được. Nhiều lần tôi tự hỏi phải
chăng hào quang của những vị anh hùng trong QLVNCH
đã bị số ít người lãnh đạo bất xứng với những
vầng mây u ám, nhưng quá to lớn của họ, che lấp
mất rồi chăng? Tôi đã đắn đo nhiều lắm. Tôi đã
câm nín quá lâu khi không nói nỗi oan mà Tướng
Hưng hay Đại tá Bùi Đức Điềm, hoặc ai đó nữa, bị
trù dập bởi thượng cấp. Đến nay một vài vị còn
bị những người ngoại cuộc, không hiểu tường tận,
bôi biếm. Nay nghĩ lại, nếu tôi biết mà không nói
thì ai sẽ nói.... Tôi là chứng nhân, là người
trong cuộc, dù sự hiểu biết của tôi chỉ cho phép
tôi nói lên những gì ít nhất và lễ độ nhất. Hôm
nay, tôi viết vì những người còn sống nhất là
hai cháu Hải và Hà, con của Tướng Hưng, lúc đó
mới chỉ là hai đứa trẻ thơ đã mồ côi cha. Nay đã
lớn, các cháu cần biết rõ hơn về cuộc đời
nhiều sóng gió và khổ tâm của người cha anh hùng
của các cháu. Tôi cũng viết gửi về chị Hưng,
PKH, hiện cư ngụ ở đâu đó trên đất nước Hoa Kỳ,
là tôi hãnh diện có những thời kỳ sống và chịu
nhiều gian khổ, hiểm nguy, với một vị Thần mà
lúc đó chúng tôi không hề biết. Thần và người
chỉ khác nhau ở mực thước làm người. Những con
người tham quyền, cố vị, vinh quang thì muốn
hưởng, khi hiểm nguy thì tránh né, vận nước đảo
điên thì trốn chạy, buông quân, bỏ cờ, dù là
tướng, thì cũng chỉ là những con người tầm
thường như mọi người tầm thường khác. Tướng mà
coi mạng sống của bản thân và của gia đình mình
quá nặng thì làm sao có thể thành anh hùng hay
thành Thần được. Còn làm Tướng mang sinh mệnh
đền ơn tổ quốc, chết theo thành, thì thiên cổ đã
ghi “Sinh vi Tướng, tử vi Thần.” Lịch sử Việt Nam
còn đó, gương kim cổ mãi mãi sẽ còn được rọi
soi. Năm vị tướng lãnh của miền Nam Việt Nam tuẫn
tiết trong ngày cuối “Tháng Tư Đen” sẽ lưu danh
thiên cổ.
4. CHIẾN CUỘC Ở BÌNH LONG
MÙA HÈ NĂM 1972: TIN TỨC VÀ CÁC ƯỚC TÍNH TÌNH
BÁO
Sau khi nhận chức Tư lệnh SĐ5BB
thay Thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu đầu tháng 6, năm
1971, Tướng Lê văn Hưng củng cố lại các đơn vị
trực thuộc và mở những cuộc hành quân cấp Chiến
đoàn (thường là một Trung đoàn Bộ binh cộng thêm
Thiết kỵ và Pháo binh) vào các mật khu Việt
Cộng trong khu vực trách nhiệm của Sư đoàn gồm
các tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long như
các mật khu Tam giác Sắt, Long Nguyên, Bến Than
cặp theo sông Sài Gòn và Chiến khu D vùng hữu
ngạn Sông Bé, phía nam Đồng Xoài, là những địa
danh nổi tiếng với những trận đánh đẫm máu giữa
liên quân Hoa Kỳ & QLVNCH và quân xâm nhập CSBV & VC
giữa thập niên 1960. Bộ Tư lệnh SĐ5BB đóng tại
đồn điền cao su Lai Khê, quận Bến Cát, tỉnh Bình
Dương.
Hai Sư đoàn khác của QĐIII & V3CT là
SĐ18BB và SĐ25BB. Ngoài ra Quân đoàn còn một Lữ
đoàn Thiết kỵ và một Liên đoàn Biệt Động quân
là lực lượng trừ bị và xung kích trong các cuộc
hành quân ngoại biên trong thời kỳ của Tướng Đỗ
Cao Trí, chưa kể đến các đơn vị Pháo binh, Công
binh, Biệt Động quân Biên phòng và Địa phương quân,
một Sư đoàn Không quân và các đơn vị Hải quân.
Riêng các đại đơn vị cấp Sư đoàn bộ binh thì
SĐ18BB phụ trách khu vực hành quân chiến thuât gồm
4 tỉnh Biên Hòa, Long Khánh, Phước Tuy, Bình Tuy
và Thị xã Vũng Tàu. Bộ Tư lệnh đóng ở Thị
trấn Xuân Lộc, Tỉnh Long Khánh. SĐ25BB phụ trách
khu vực hành quân chiến thuật gồm 3 tỉnh Tây Ninh,
Hậu Nghĩa, và Long An. Bộ Tư lệnh đóng ở Củ Chi.
Biệt khu Thủ đô –sau đó đổi danh thành Quân khu
Thủ đô gồm Đô thành Sài Gòn, Chợ Lớn, tỉnh Gia
Định cũng thuộc lãnh thổ và trách nhiệm bảo vệ
của BTL/ĐQIII & V3CT.
Khi Trung tướng Nguyễn văn
Minh thay thế Tướng Đỗ Cao Trí –tử nạn trực
thăng tháng 2, 1971– không hiểu vì lý do gì không
sử dụng nhân tài mà Tướng Trí đã rất tin tưởng
như trường hợp thuyên chuyển Đại tá Lê Đạt Công,
Trưởng Phòng 2 QĐIII & V3CT về SĐ21BB, và không sử
dụng Chuẩn tướng Trần Quang Khôi, Tư lệnh Lữ đoàn 3
Thiết kỵ (the 3rd Armored Cavalry Brigade) vừa mới
ở Hoa Kỳ về sau khi học một khóa quân sự cao
cấp. Tướng Minh đã giải thể và phân tán Lữ đoàn
Thiết kỵ và Lực lượng Xung Kích của Quân Đoàn
(III Corps Assault Force –IIICAF) trước đó do Tướng
Trí thành lập và Tướng Khôi là tư lệnh. Quan
niệm hành quân của Tướng Minh cũng thay đổi theo
cục diện chiến trường. Tướng Minh lần lượt rút
hết các cánh quân ở Miên về phòng thủ vùng lãnh
thổ trách nhiệm. QĐIII & V3CT lâm vào thế bị
động. Tuy vậy, trong ba tháng cuối năm 1971, với
sự tăng viện của các đơn vị cấp Lữ đoàn Dù và
Thủy quân Lục chiến, Tướng Minh đã tổ chức những
cuộc hành quân sâu vào lãnh thổ Miên trên trục lộ
7 để giải tỏa áp lực của các Sư đoàn CSBV đang
bao vây và có ý định dứt điểm cứ điểm hỗn hợp
cuối cùng cấp Chiến đoàn Việt–Mỹ ở Krek trên
đất Miên, phía bắc biên giới Tây Ninh, gây thiệt
hại nặng cho các đơn vị địch. Đó là lần cuối
cùng chiến thắng trên đất Miên. Sau đó, đến cuối
năm, ông ra lệnh triệt thoái bỏ luôn căn cứ này rút
lực lượng về tăng cường các căn cứ trên trục lộ
22, phía bắc tỉnh lỵ Tây Ninh và tái phối trí
lại lực lượng Quân đoàn III trong Vùng Chiết
Thuật trách nhiệm.
Khu vực lãnh thổ trách
nhiệm hành quân chiến thuật của SĐ5BB gồm ba tỉnh
Bình Dương, Tỉnh trưởng là Đại tá Nguyễn văn Của;
Bình Long, Tỉnh trưởng Đại tá Trần văn Nhật; Phước
Long, Tỉnh trưởng Đại tá Lưu Yểm. Lực lượng của Sư
đoàn được tái phối trí như sau: Chiến đoàn 9, do
Đại tá Nguyễn Công Vĩnh chỉ huy, gồm Trung đoàn 9
Bộ binh với Tiểu đoàn 1/9, 2/9 và 3/9, Tiểu đoàn 53
Pháo binh gồm 14 khẩu đại bác 105 ly được tăng
cường 4 khẩu 155 ly (của Tiểu đoàn 50 Pháo binh),
và Thiết đoàn 1 Kỵ binh (–), phụ trách hành quân
ở vùng tây bắc biên giới tỉnh Bình Long từ căn
cứ Alpha ở biên giới Việt–Miên trên Quốc lộ 13,
về hướng đông qua Ngã ba Lộc Tấn, giao điểm của
Quốc lộ 13 và Liên tỉnh lộ 14, đến Quận Bố Đức
thuộc Tỉnh Phước Long.
Bộ Chỉ huy Chiến
đoàn 9 đóng tại căn cứ chính của Tiểu đoàn 74
Biệt động quân Biên phòng (TĐ74/BĐQ/BP) nằm cuối
sân bay Quận Lộc Ninh, phía tây con đường từ Chợ
chạy cặp theo sân bay đến ven rừng cao su phía tây
thị xã. TĐ74/BĐQ/BP lúc đó trấn giữ Căn cứ Alpha
ở biên giới Việt–Miên, với 4 khẩu đại bác 105 ly
cơ hữu, được đặt dưới quyền phối hợp chỉ huy
hành quân của Trung tá Nguyễn Đức Dương, Thiết
đoàn trưởng Thiết đoàn 1 Kỵ binh (TĐ1KB). Bộ Chỉ
huy Thiết đoàn đóng ở Ngã ba Lộc Tấn, giao điểm
của hai trục lộ 13 và 14, được tăng cường 4 khẩu
đại bác 105 ly, với Chi đoàn 3/1 Thiết kỵ và Chi
đoàn 1/1 Chiến xa; tính chung 40 chiến xa, trong đó
có 14 M–41, 26 Thiết quân vận đủ loại, chưa kể
các xe kéo pháo, GMC và Jeep. Hai chi đoàn này
hoạt động trên các trục lộ 13 và 14 bắc Lộc
Ninh. Toàn bộ Tiểu đoàn 1/9 đóng ở Quận Bố Đức
trên lộ 13, tả ngạn Sông Bé thuộc Tỉnh Phước
Long, giáp ranh với Tỉnh Bình Long. Tiểu đoàn 2/9
(–) hoạt động trong vùng tây bắc Lộc Tấn, phối
hợp và yểm trợ cho TĐ74/BĐQ/BP và TĐ1KB. Tiểu đoàn
3/9 (–) hoạt động lưu động trong vùng từ 3 đến 5
cây số tây nam Thị xã Lộc Ninh. Mỗi Tiểu đoàn để
lại một Đại đội bảo vệ Bộ Chỉ huy Chiến đoàn
9, trong khi Đại đội Trinh sát 9 hoạt động vùng
ranh giới Bình Long–Tây Ninh, phía bắc Căn cứ Tống
Lê Chân, do Tiểu đoàn 92 BĐQ/BP trấn đóng trên Sông
Sài Gòn vùng phía bắc Bến Than, tây bắc Quận Chơn
Thành, Tỉnh Bình Long. Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn 53
Pháo binh của Trung tá Hòang ... Thông ̣̣(chữ lót
không nhớ) và các vị trí pháo đóng trong một căn
cứ cũng nằm trên con đường chạy cặp theo sân bay,
cách Bộ Chỉ huy Chiến đoàn chừng 400 thước và
cách Bộ Chỉ huy Quận và Chi Khu Lộc Ninh chừng
200 thước. Thiếu tá Nguyễn văn Thịnh, Quận trưởng
kiêm Chi khu trưởng có hai Đại đội Địa Phương quân
và hai Trung đội Nghĩa quân để lo an ninh cho Bộ
chỉ huy của mình, không kể 4 Đại đội Địa phương
quân và các Trung đội Dân vệ khác trong toàn quận
và chừng một Trung đội cảnh sát của Chi Cảnh
sát Quận đóng ở khu vực Chợ Lộc Ninh.
Xa
hơn về phía nam Lộc Ninh, khoảng 15 cây số là Sông
Cần Lê nối liền Sông Sài Gòn và Sông Bé, với
chiếc cầu Cần Lê béton cốt sắt vững chãi. Tại
đây được phối trí một Đại đội của Tiểu đoàn 2/9,
một Pháo đội hỗn hợp 155 ly và 105 ly, một Đại
đội Công binh Chiến đấu và hai Đại đội Địa Phương
quân. Tất cả do Trung tá Nguyễn văn Hòa chỉ huy.
Phía bắc cầu Cần Lê, chừng bốn cây số, bên trái
Quốc lộ 13 là Tỉnh lộ 17, bắt đầu từ Quốc lộ
13 chạy về hướng tây vào lãnh thổ Tây Ninh. Con
đường này dài chừng 20 cây số. Khoảng hơn hai cây
số từ lộ 13 đi về hướng Tây Ninh là Căn cứ Hùng
Tâm gồm hai căn cứ nhỏ cấp Tiếu đoàn nằm ở hai
bên lề bắc và nam của Tỉnh lộ 17. Theo tin tức
và theo yêu cầu của Tướng Hưng. Trung tướng Minh
tăng phái cho SĐ5BB Chiến đoàn 52 của SĐ18BB trong
ngày 28 tháng 3, 1972, đóng ở hai căn cứ Hùng Tâm
này. Chiến đoàn này gồm Tiểu đoàn 2 của Trung
đoàn 52, Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 48 thuộc
SĐ18BB, Đại đội Trinh sát của Sư đoàn với bốn
khẩu pháo 105 ly, hai khẩu 155 ly, và một Đại đội
Công binh.
Phía nam Cầu Cần Lê chừng 9 cây
số là Thị xã An Lộc, tỉnh lỵ của Tỉnh và Tiểu
khu Bình Long. Đại tá Trần văn Nhật, Tỉnh trưởng
kiêm Tiểu khu trưởng, là một cấp chỉ huy giàu
kinh nghiệm tác chiến của Thủy quân Lục chiến,
từng là Trung đoàn trưởng các Trung đoàn 43 và 48
của SĐ18BB. Cá nhân ông là một sĩ quan can trường,
nhưng khiêm tốn, tế nhị, rất khéo xử thế và
được sự mến chuộng của thượng cấp và thuộc
cấp. Cố vấn Hoa Kỳ rất khen ngợi ông, có lẽ
cũng vì sự khéo léo của ông. Tại An Lộc, Đại tá
Nhật có khoảng hai Tiểu đoàn Địa phương quân và
nhiều Trung đội Nghĩa quân và Dân vệ. Quân số
tổng cộng dưới 2,000 người nhưng chia đóng ở
nhiều nơi trong tỉnh. Tại tỉnh lỵ và vùng xã ấp
phụ cận, vùng Đồi Gió và Đồi 169 ở đông nam
tỉnh lỵ, chỉ có chừng 800 người, với vài chiếc
thiết giáp cũ loại V–100 và mấy Pháo đội hỗn
hợ̣p đại bác 105 ly và 155 ly.
Tướng Hưng
đặt Bộ Tư lệnh Hành quân nhẹ của SĐ5BB trong thị
xã. Bên ngoài, cách thị xã về hướng tây bắc là
căn cứ Charlie, nơi đóng Bộ chỉ huy Trung đoàn 7
của Sư đoàn. Hai Tiểu đoàn 2/7 và 3/7 với Đại đội
Trinh sát 7 hoạt động xung quanh thị xã và khu
vực tây bắc. Hai Đại đội của Tiểu đoàn 1/7 hoạt
động hướng đông bắc và hai Đại đội khác của Tiểu
đoàn này đóng ở căn cứ Quản Lợi, cách thị xã An
Lộc chừng 7 cây số về hướng đông bắc. Tại đây
còn có một Đại đội Địa Phương quân và một đơn
vị Lôi Hổ cấp Đại đội. Căn cứ chính của Trung
đoàn 7 vẫn còn ở Quận Phú Giáo, Tỉnh Bình Dương
với một số ít binh sĩ bảo vệ. Quận và Chi Khu
Chơn Thành của Tỉnh Bình Long, ở phía nam An Lộc,
chừng 30 cây số có hai Đại đội Địa phương quân
bảo vệ. Nam Chơn Thành chừng 30 cây số là Căn cứ
Lai Khê, nơi đặt Bộ Tư lệnh chính của SĐ5BB, trong
địa phận Quận Bến Cát của Tỉnh Bình Dương, cách
tỉnh lỵ Bình Dương chừng 20 cây số.
Trung
đoàn khác của SĐ5BB là Trung đoàn 8, với Bộ Chỉ
huy Trung đoàn, một Tiểu đoàn và Đại đội Trinh
sát bảo vệ Căn cứ Lai Khê. Một Tiểu đoàn đang thụ
huấn tại Trung tâm Huấn luyện của Sư đoàn ở Bình
Dương và một Tiểu đoàn thứ ba đang hành quân ở
Quận Dầu Tiếng, Tỉnh Bình Dương, nằm ở tả ngạn
Sông Sài Gòn.
Từ đầu tháng 2, 1972, trong khu
vực trách nhiệm của Chiến đoàn 9, các đơn vị
của Chiến đoàn nhiều lần chạm súng với cấp
Tiểu đội hay Trung đội quân CSBV ở vùng biên giới
tây bắc, gần các mật khu của chúng vùng Lưỡi Câu
ở vùng biên giới, hoặc dọc theo hành lang Sông Sài
Gòn –ranh giới giữa Bình Long và Tây Ninh– và bên
ngoài mật khu Bến Than phía tây Chơn Thành, đã hạ
một số cán binh của chúng, phần lớn là thành
phần cán binh trinh sát của hầu hết các Sư đoàn
chính qui CSBV & TWC/MN 5, 7, 9. Một số tài liệu
tịch thu được trên các xác chết là các tài liệu
học tập về “tấn công hợp đồng bộ binh, pháo binh
và chiến xa vào thành phố”. Chúng tôi cũng phát
hiện được một đơn vị cấp Sư đoàn do Trung Ương
Cục Miền Nam –TWC/MN (Bộ Tư lệnh MACV Hoa Kỳ
thường gọi tổ chức này là COSVN, Central Office of
South Vietnam) mới thành lập cho chiến trường Tây
Ninh và Bình Long, đó là Sư đoàn Bình Long hay Sư
đoàn C30B gồm Trung đoàn 271 –lấy cán bộ khung
của Trung đoàn 271 Sư đoàn 9 chuyển qua– và các
Trung đoàn 24, 205 và 207, hầu hết là cán binh từ
Tây nguyên và miền Trung đưa vào. Từ các tin tức
ở các tài liệu này, tôi trình Tướng Hưng trước
tiên nên mở một cuộc hành quân vào Mật khu Bến
Than, vùng phía bắc Liên Tỉnh lộ 13, nối Chơn
Thành và Tây Ninh, cách Quận lỵ Chơn Thành về
hướng tây chừng hơn 15 cây số. Lữ đoàn 1 Nhảy Dù
được tăng phái cho SĐ5BB mở cuộc hành quân vào
Bến Than trong tuần lễ thứ hai tháng 2, 1972. Kết
quả tịch thu và phá hủy hơn 100 tấn g̣ạo và
lương thực, tịch thu hơn 1,000 vũ khí cá nhân và
phá hủy nhiều tấn đạn dược của CSBV mới được
chuyển từ các mật khu biên giới Miên vào tồn trữ
ở đó.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Book marks: LGT | TSTG | KỲ–1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | KỲ–12 | PL | Đầu trang
KỲ–3
Tướng
LÊ VĂN HƯNG &
Những sự thực ở Chiến trường AN LỘC
trong Mùa Hè Đỏ
Lửa 1972; cont'd...
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Kỳ–3
Vào trung tuần
tháng hai năm 1972, trong một cuộc hành quân thám
sát ở vùng đồi thấp cách phía bắc Lộc Ninh
chừng 5 cây số và ở hướng tây Quốc lộ 13 chừng
hơn 3 cây số, Đại đội Trinh sát của Chiến đoàn 9
chạm súng với một Tiểu đội quân Công sản Bắc
Việt, bắn hạ 4 tên và bắt một cán binh mang súng
ngắn và hai cán binh khác. Các cán binh này được
đưa về Biệt đội Quân báo Sư đoàn thẩm vấn. Chính
tôi, lúc đó là Trưởng Phòng 2 Sư đoàn cũng trực
tiếp tiếp xúc với các cán binh này. Được biết
người cán binh mang súng ngắn là một sĩ quan của
Bộ đội Bắc Việt, đã xâm nhập vào miền Nam trong
hai năm trước, đầu tiên được bổ sung cho Sư đoàn
Công trường 7 Bắc Việt, sau cùng được chuyển sang
Tiểu đoàn Trinh Sát của Sư đoàn 69 hay 70 Pháo,
trực thuộc TWC/MN.
Người sĩ quan trinh sát
pháo binh Cộng sản này, cấp bậc Trung úy, khai
rằng anh tháp tùng tên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn
Trinh Sát Sư đoàn 69 Pháo của TWC/MN và hai sĩ
quan khác với một Tiểu đội cận vệ hôm đó đến
vùng đồi phía tây lộ 13 là để điều nghiên các
vị trí đặt pháo tiêu diệt căn cứ của Bộ Chỉ huy
Chiến đoàn 9 Bộ binh đóng ở cuối sân bay Lộc
Ninh, Bộ Chỉ huy Chi Khu Quận Lộc Ninh gần đó, và
tiêu diệt căn cứ của Thiết đoàn I Kỵ binh thuộc
Sư đoàn 5 Bộ binh và Tiểu đoàn 74 Biệt Động Quân
biên phòng ở Ngã ba Lộc Tấn, và Căn cứ A, hay
Alpha, trên Quốc lộ 13, nối liền với Quốc lộ 14A
ở phía bắc Lộc Ninh, trong trận Tổng Công Kích
sắp diễn ra. Trận Tổng Công Kích này sẽ lớn lao
vì đơn vị của anh được học tập là sẽ hợp đồng
tác chiến giữa “bộ binh, pháo binh và chiến xa
vào thành phố.”
Người tù binh trinh sát
này tỏ ra thành khẩn trong những lần tiếp xúc
với tôi và khai báo cặn kẽ về những gì tôi hỏi
nhờ ở sự đối đãi nhẹ nhàng, cho ăn ngon, cà phê
thuốc lá, và nhất là để ý thăm hỏi gia đình anh
ở miền Bắc. Anh cho biết là Sư đoàn 69 Pháo
TWC/MN đổi danh thành Sư đoàn 70 Pháo và từ cuối
năm 1971 đã tiếp nhận thêm rất nhiều loại đại
bác lớn với khối đạn dược lớn lao được chuyển
từ Bắc Việt vào. Tuy nhiên, có hai câu hỏi quan
trọng mà anh không thể trả lời là ngày khai diễn
chiến dịch qui mô của TWC/MN và các đơn vị chiến
xa Bắc Việt sẽ tham chiến. Anh nói rằng theo kinh
nghiệm thì sau khi đơn vị Trinh sát Pháo điều
nghiên xong trận địa, thiết lập xong sa–bàn và
nếu sa–bàn phối trí pháo được thông qua thì trận
chiến sẽ khai diễn độ một tuần sau đó. Nhưng nay
Tiểu đoàn trưởng Trinh sát Pháo của anh vừa chết
và anh bị bắt nên không rõ TWC/MN sẽ có thay đổi
gì hay không. Còn về các đơn vị chiến xa, thì anh
không được biết và không nhìn thấy trong khu vực
đóng quân của đơn vị anh hay vùng phụ cận, mà
chỉ được biết qua học tập.
Không thể khai
thác gì hơn và theo lệnh, tôi cho chuyển anh này
về Trung tâm Thẩm vấn Tù binh Vùng III Chiến
thuật. Sau đó anh này được đổi sang diện “hồi
chánh”. Khi trận chiến An Lộc khai diễn được một
tuần, anh Trung úy Trinh sát Pháo này mặc quân
phục binh sĩ VNCH, mang súng lục, theo một cố vấn
Hoa Kỳ từ Biên Hòa đến gặp thăm tôi ở Bộ Chi huy
Hành quân của Sư đoàn tại An Lộc. Tôi kể rõ
chuyện trên đây để chứng minh rằng chúng tôi không
hề bị bất ngờ về cuộc Tổng Công Kích Mùa Hè
của lực lượng CSBV. Sự thực thì sự hiểu biết
của người tù binh thành hồi chánh này rất hạn
hẹp so với cục diện chiến trường diễn ra ở miền
Nam trong “Mùa Hè Đỏ Lửa” 1972, vì tri quyền của
một sĩ quan cấp nhỏ như anh không thể biết nhiều
hơn.
Với vai trò phụ trách tình báo chiến
trường của một đại đơn vị cấp Sư đoàn, chẳng
phải riêng tôi mà tất cả các Trưởng Phòng 2 các
Sư đoàn Bộ binh của QLVNCH có trách nhiệm rất
lớn đối với đơn vị và vị tư lệnh của mình.
Riêng trách nhiệm của tôi đối với Tướng Hưng có
phần nặng nề hơn, nhưng sự liên hệ gắn bó hơn,
vì lý do ông vừa là một thượng cấp đối xử với
tôi nghiêm minh nhưng không thiếu thân thiện như một
người bạn. Từ sau cuộc hành quân của Lữ đoàn 1
Nhảy Dù vào Bến Than phá hủy các kho hậu cần
quan trọng của TUW/MN trong nội địa tỉnh Bình
Long, căn cứ vào lời khai của anh Trung úy kể trên
và hai tù binh khác của Sư đoàn 69 Pháo, cộng với
những tài liệu tịch thu trước đó, trong tuần lễ
thứ ba của tháng 3, tôi đã trình Tướng Hưng bản
ước tính về chủ trương và khả năng của TUW/MN
trong thời gian sắp tới của CSVN nhắm vào lãnh
thổ trách nhiệm chiến thuật của SĐ5BB và QĐIII &
V3CT. Về chủ trương, có 3 điểm cần được đặc biệt
lưu ý:
1. Chắc chắn CSBV sẽ mở chiến dịch
rất lớn vào QĐIII & V3CT, không rõ ngày giờ chính
xác nhưng ước tính là đầu mùa hè. Đây là yếu
tố quan trọng cần nỗ lực tìm hiểu thêm.
2.
Cung từ của các tù binh Trinh sát Pháo của SĐ 69
Pháo TWC/MN và tài liệu học tập của các đại đơn
vị CSBV thu được trên xác cán binh của chúng, đều
nói rõ chiến dịch mới của TWC/MN là sẽ tấn công
vào thành phố với lực lượng phối hợp bộ binh,
pháo binh và chiến xa. Chúng tôi biết rõ về các
đơn vị bộ binh của CSVN, trừ đơn vị mới thành
lập là Sư đoàn Bình Long. Sư đoàn 69 Pháo đổi
danh thành SĐ70 Pháo, được tăng cường trọng pháo
và phòng không, tiếp nhận thêm đạn dược từ miền
Bắc chuyển vào theo lộ trình đường thủy từ phía
nam Thác Khone trên Sông Mékong thuộc Tỉnh Stung
Treng và chuyển vào Sông Chllong thuộc Tỉnh Kratié
trên lãnh thổ Miên. Đặc biệt về các đơn vị chiến
xa thì chúng tôi hoàn toàn không biết gì. Tù binh
bắt được cũng không khai báo một chi tiết nào
đáng kể, ngoài việc TWC/MN ra lệnh nghiêm nhặt cho
tất cả đơn vị CSBV phải giữ đúng qui luật và
giờ giấc tiếp nhận thiết bị, quân dụng và đạn
dược được chở bằng các loại phà di chuyển theo
sông Mékong trên lãnh thổ Miên đến các bến đổ
hàng trên con sông Chllong này. Tất cả đại pháo,
đạn dược và quân dụng pháo binh của Sư đoàn 69
Pháo binh TWC/MN đều nhận ở các bến đổ hàng trên
bờ Sông Chllong vào giờ giấc được ấn định cho
mỗi đêm. Ban ngày tuyệt đối không có bất cứ hoạt
động nào ở các bến đổ hàng đó và cũng không
lưu lại dấu tích nào của hoạt động trong đêm
trước. Với chi tiết này tôi nghĩ có lẽ CSBV đưa
chiến xa từ Bắc vào Nam theo Đường mòn Hồ Chí
Minh qua Thác Khone rồi mới dùng phà ngụy trang,
từng chiếc một, theo Sông Mékong vào cập ở các
bến trên Sông Chllong mỗi đêm trong một thời gian
ít nhất là hai ba tháng trước “ngày D” của chúng
và ém giấu trong các hầm đào dọc theo con sông
này. Vì vậy, nên trong suốt thời gian hơn một
tháng sau khi thẩm vấn các tù binh SĐ 69 Pháo, tôi
đã vận dụng tất cả phương tiện sưu tầm để tìm
chiến xa của CSVN, hay ít nhất những chỉ dấu nào
đó về sư hiện của chiến xa, như ống dẫn dầu, hay
vết xe lăn, trên lãnh thổ Miên gần biên giới, như
không thám, không ảnh, hoặc thả các toán viễn
thám ngụy trang như cán binh trinh sát địch nhiều
lần trên bờ Sông Chllong, kể cả sử dụng nhân viên
mật và mật báo viên theo các xe be khai thác các
gỗ quí ở các khu rừng trên lãnh thổ Tỉnh Kratié
của Miên để sưu tập các loại tin tức đó, nhưng
đều vô ích. Không tìm được dấu vết nào. Biên
giới Việt–Miên trong vùng rừng núi cuối dãy
Trường Sơn phía bắc hai tỉnh Phước Long và Bình
Long thông lên Kratié có rất nhiều đường rừng và
nhiều chiếc cầu do các chủ xe be kéo gỗ bắc qua
ngạch, ngòi, suối nhỏ trong rừng. Xe be kéo gỗ
súc qua lại được thì chiến xa loại nặng cũng di
chuyển được. Điều này làm tôi rất bận tâm, nhưng
tôi không còn cách nào hơn. Tuy vậy, tôi vẫn tin
vào giả thuyết của tôi là chiến xa CSBV được chở
bằng phà từng chiếc trong nhiều đêm và đổ vào
vùng Sông Chllong trong lãnh thổ Tỉnh Kratié và
ém quân cất giấu trong vùng này. Lúc đó, chúng
tôi không còn được sử dụng Không quân đánh bom trên
lãnh thổ Miên. Tuy nhiên tôi đánh dấu tất cả các
cầu xe be bắc qua suối, rạch, ngòi trong rừng từ
biên giới đổ lên Kratié để khi cần sẽ đánh bom
triệt cầu khi cuộc chiến diễn ra.
3. Tuy
không rõ ngày giờ CSVN khai diễn chiến dịch rộng
lớn vào lãnh thổ QĐIII & V3CT và không tìm được
dấu vết chiến xa, nhưng tôi vẫn tin tưởng một
chiến dịch như vậy sẽ cỏ thể bắt đầu vào cuối
mùa xuân đầu mùa hè, 1972. Phòng 2 QĐIII cũng ước
tính như vậy. Phòng II/BTTM cũng cho biết ở khắp
cả bốn Vùng Chiến Thuật đều có những chỉ dấu
của một cuộc tấn công toàn diện và cũng không
rõ ngày N, giờ G, tức là ngày giờ chính xác
của chiến dịch rộng lớn sắp diễn ra. Riêng tại
QĐIII & V3CT, tôi trình Tướng Hưng là CSVN sẽ mở
chiến dịch qui mô với ý định chiếm một trong hai
tỉnh Bình Long hoặc Tây Ninh để ra mắt Chính Phủ
Lâm Thời Miền Nam Việt Nam –CPLT/MN/VN (Provisional
Revolutionary Government of South Vietnam –PRG hoặc
PRGSV)– của nhóm Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình
Thảo, Huỳnh Tấn Phát v.v...) do Hồ Chí Minh và
Đảng CSVN dựng lên ở miền Nam trước đây. Sự ra
mắ́t của CPLT/MNVN là cần thiết cho CSVN trong Hội
Nghị giải quyết chiến cuộc Việt Nam và cuộc
“mật đàm” giữa Kissinger và Lê Đức Thọ, đang diễn
ra ở Paris. Về vấn đề này, câu hỏi được đặt ra
là giữa hai tỉnh Bình Long và Tây Ninh, tỉnh nào
là “điểm” và tỉnh nào là “diện” trong chiến
dịch sắp tới của chúng?
Theo ước tính của
tôi, căn cứ trên các yếu tố địa lý nhân văn, Bình
Long sẽ là mục tiêu chính mà CSVN muốn chiếm để
cho ra mắt CPLT/MN/VN. Vì vậy Bình Long sẽ là
“điểm” của trận chiến sẽ diễn ra. Tây Ninh sẽ
chỉ là “diện”. Lý do chính là thành phần quần
chúng, tức cư dân của mỗi tỉnh có sự chênh lệch
rõ rệt về văn hóa và tôn giáo. Tỉnh Bình Long
là tỉnh mới được thành lập sau này dưới thời
Đệ Nhất Cộng Hòa. Tỉnh gồm có 3 quận: Lộc Ninh
ở phía bắc, An Lộc ở giữa và Chơn Thành ở phía
nam. Tổng số cư dân chừng trên dưới 60,000 người,
đa số là dân từ tứ phương đến, trừ một số chừng
4%, hay 5,000 người, thuộc sắc tộc thiểu số
Stiêng. Hơn 75% là công nhân làm cho các đồn điền
cao su của người Pháp ở Lộc Ninh, Quản Lợi, Xa
Cam, Xa Cát, và Xa Trạch. Chừng 10% là dân buôn
bán. Số còn lại là quân nhân, công chức chính
phủ và gia đình họ. Về địa thế, tỉnh Bình Long
nằm trên trục lộ giao thông chính là Quốc lộ 13.
Trên lãnh thổ Miên, QL–13 giao điểm với lộ 7 ở
Snoul, từ đó trổ về hướng nam qua biên giới, đổ
vào thị trấn Lộc Ninh, qua thành phố tỉnh lỵ An
Lộc, xuống thị trấn Chơn Thành, kéo dài qua quận
lỵ Bến Cát của tỉnh Bình Dương và chấm dứt ở
thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh lỵ của tỉnh này.
Trong lãnh thổ Việt Nam, QL–13 nằm giữa hai dòng
sông khá rộng là Sông Sài Gòn ở hướng tây và Sông
Bé ở hướng đông; cách khoảng chừng 15 đến 18 cây
số ở mỗi hướng, xuyên suốt từ biên giới đến
lãnh thổ Bình Dương. Những đồn điền lớn kể trên
nằm giữa hai dòng sông và trên trục lộ giao thông
chính này. Phía tây bắc và đông bắc thị trấn Lộc
Ninh là vùng rừng có nhiều loại gỗ quí, thân cây
gốc khá to và mọc cách khoảng nhau từ 4, 5
thước. Như vậy, chiến xa cũng di chuyển dễ dàng
và cũng dễ ẩn nấp tránh được quan sát không
thám. Kratié, một tỉnh Miên nằm ở phía bắc hai
tỉnh Phước Long và Bình Long là sào huyệt chính
của TWC/MN sẽ đặc biệt trực tiếp chỉ huy chiến
dịch sắp đến. Nếu CSBV chọn Bình Long làm “điểm”
thì sự chỉ huy và yểm trợ hậu cần cho chiến
trường của TWC/MN sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn.
Ngược lại, Tây Ninh cùng biên giới với tỉnh
Sway–Riêng của Miên ở khu Mỏ Vẹt, trước tháng 4,
năm 1970, là vùng căn cứ địa quan trọng của CSBV,
nơi tồn trữ hậu cần với các kho tàng tiếp liệu
vũ khí của CSBV chuyển từ miền Bắc vào trong
nhiều năm trước, nhưng sau những cuộc hành quân
ngoại biên qui mô thời Trung tướng Đỗ Cao Trí làm
Tư lênh QĐIII & V3CT cho đến tháng 2, 1971, những căn
cứ địa này đã bị hoàn toàn phá hủy, chúng chưa
đủ thời gian tái lập ngoại trừ những căn cứ trên
lộ 7, vùng ngoài biên giới trên lãnh thổ Miên,
phía bắc xa tỉnh lỵ Tây Ninh. Nếu tấn công lớn
với chiến xa thì quân CSBV chỉ tiến từ hướng này
đến trên trục lộ 22 vào tỉnh lỵ, còn hướng tây
và tây nam vào mùa hè đồng cỏ khô, hoặc đầm
lầy, địa thế trống trải khó tránh tổn thất lớn
bởi các cuộc không tập của KQVN. Nhưng quan trọng
nhất là yếu tố nhân văn với thành phần quần
chúng đông gấp bốn lần so với Bình Long, với hơn
70% cư dân là tín đồ Cao Đài đã từng có một lực
lượng võ trang lớn chống Cộng Sản từ những thập
niên 1940 và 1950. Quần chúng ở đây, theo truyền
thống, vẫn còn chống CS mạnh mẽ. Vả lại, cư dân
lập nghiệp và sinh sống ở vùng đất lịch sử này
từ nhiều thế hệ trước, khi Tây Ninh còn là vùng
đất Trấn Biên từ thời Chúa Nguyễn khai phá đất
đai miền Nam và bình phục đất Chùa Tháp. Giả sử
CSBV đánh chiếm được Tây Ninh thì cũng không chiếm
được lòng người dân. Hơn nữa, nếu đánh nhau lớn
sẽ không tránh khỏi sự tàn phá Thánh thất Cao
Đài, sẽ gieo niềm oán hận lớn trong đa số quần
chúng tín đồ Cao Đài. Vậy, trong chiến dịch lớn
tới của CSBV, Tây Ninh chỉ là “diện”. Bình Long
sẽ là “điểm”, là mục tiêu chính mà CSVN sẽ tấn
chiếm.
Trung tướng Nguyễn văn Minh, Tư lệnh
QĐIII & V3CT, tin tưởng và dựa trên ước tính này
phối trí lại lực lượng, chú trọng vào việc tăng
cường lực lượng cho SĐ5BB của Tướng Lê văn Hưng. Lữ
đoàn 1 Nhảy Dù được tăng phái phối trí ở Quận
Chơn Thành và mở cuộc hành quân vào mật khu Bến
Than. Chiến đoàn 52 của SĐ18BB tăng cường và phối
trí ở hai căn cứ Hùng Tâm, tây bắc cầu Cần Lê ở
An Lộc, như trình bày ở phần trên.
Một
nhầm lẫn mà đến nay còn chưa giải tỏa là khi
trận chiến An Lộc diễn ra, tác giả của một số
tài liệu báo chí, tập san Việt ngữ ở Hoa Kỳ
đều cho rằng Đại tá Lê Nguyên Vỹ là Tư lệnh phó
của Tướng Lê văn Hưng. Điều này không đúng. Thực
ra Đại tá LNV (sau này lên cấp Chuẩn tướng, Tư lệnh
SĐ5BB, tuẫn tiết ngày 30/4/1975) lúc đó là Phụ
tá Hành quân của Trung tướng Nguyễn văn Minh. Như
tôi đã trình bày, vì không hợp tính với Tướng
Hưng nên Đại tá V. đã được Tướng Minh đưa về Bộ Tư
lệnh QĐIII & V3CT từ mấy tháng trước. Đến khi
chấp nhận ước tính của Trung tá Trần văn Bình,
Trưởng Phòng 2 QĐIII & V3CT và của tôi là CSBV sẽ
chọn Bình Long làm “điểm” tấn chiếm trong chiến
dịch lớn sắp diễn ra, Trung tướng Nguyễn văn Minh
dự định dời Bộ Tư lệnh Hành Quân (hay Bộ Tư lệnh
Tiền phương) của Quân Đoàn, lúc đó đang đóng ở
tỉnh lỵ Tây Ninh lên An Lộc, nên đưa Đại tá LNV và
toán tiền thám –quân đội Pháp thường gọi là
“élément précurseur”– và một Trung đội Công binh
lên thị xã An Lộc để chuẩn bị cơ sở chỉ huy,
tức Bộ Tư lệnh Tiền phương của Tướng Minh sẽ dời
từ thị xã Tây Ninh sang thị xã An Lộc, Bình Long.
Nơi mà Đại tá V. cho tu bổ và chỉnh đốn trong
thị xã tỉnh lỵ An Lộc là một dãy nhà ngói
tường đúc xoay mặt ra đại lộ Nguyễn Huệ, một
biệt thự nhỏ nằm phía sau dãy nhà này và một
địa đạo ngầm, khá rộng, bên dưới sân sau biệt
thự. Kiến trúc nổi và khu hầm ngầm này nằm
trong khuôn viên của mảnh đất rộng rào kẽm gai,
trong khu vực hành chánh của thị xã, sát cạnh
Tòa Hành Chánh của Tỉnh Bình Long. Cơ sở này
trước đó là nơi trú đóng bộ chỉ huy của một đơn
vị Lưc lượng Đặc biệt.
Khi trận An Lộc
diễn ra thì Bộ Tư lệnh Hành Quân của Tướng Minh
chưa dời vào An Lộc. Đại tá LNV còn bị kẹt ở lại
đó. (Và khi Bộ Tư lệnh Hành Quân nhẹ của SĐ5BB,
ở một địa điểm khác trong thị xã, bị pháo kích
dồn dập trong ngày khởi đầu của trận chiến, thì
chính Đại tá V. và Bộ Tham mưu của Sư đoàn đề
nghị với Tướng Hưng dời Bộ Tư lệnh của ông sang
địa đạo ngầm nói trên. Và vì vậy, suốt trận
chiến, CSBV không biết được Bộ Tham mưu của Tướng
Hưng ở đâu trong thị xã. Có lần cả một Tiểu đoàn
quân của chúng chỉ cách bộ chỉ huy mới này có
một con đường, tấn công dữ dội, nhưng chúng không
biết đã tấn công vào đơn vị nào của quân phòng
thủ. Hai xe tăng loại T–54 cũng chạy qua Bộ Tư
lệnh Hành Quân mới và khi quay trở ra, bị Đại tá
Vỹ bắn một chiếc. Pháo thì suốt ba tháng phá
nát cơ sở của bộ tư lệnh hành quân cũ, ngang dinh
Tỉnh trưởng, và gần như san bằng thành phố nhưng
không một quả nào rót đúng hầm ngầm cơ sở chỉ
huy mới của Tướng Hưng.)
Cũng trong ước
tính trình Tướng Hưng, sau khi biết rõ trận liệt
về lực lượng CSBV ở bên ngoài biên giới có thể
sử dụng trong chiến dịch sắp đến gồm các đại
đơn vị cũ như Sư đoàn 5, 7, và 9, kể cả Trung
đoàn 429 Đặc công, cũng như sự cải biến của Sư
đoàn 69 Pháo và sự thành lập Sư đoàn Bình Long.
Mặc dù không tìm được dấu vết về các đơn vị
chiến xa, tôi cho rằng TWC/MN có hai khả năng chiến
thuật tấn công tỉnh Bình Long vì tổng số lực
lượng của chúng ước lượng từ 40,000 đến 45,000
quân tác chiến, cả bộ lẫn pháo.
Giả
thuyết về khả năng thứ nhất là chiến thuật “Tập
Tấn”, có nghĩa là tập trung lực lượng lớn đánh
chiếm tuần tự các trọng điểm nằm trên trục lộ
13 ở phía bắc tỉnh Bình Long trước, sau đó sẽ
tập trung lực lượng dứt điểm chiếm tỉnh lỵ hay
thành phố An Lộc. Nếu áp dụng chiến thuật này,
CSBV sẽ dùng một Sư đoàn bộ binh tấn công các
lực lượng của SĐ5BB trên đoạn phía bắc trục lộ
13 như Tiểu đoàn 74 Biệt động quân Biên phòng và
Thiết đoàn 1 Kỵ binh ở căn cứ A, hay Alpha, và
Ngã ba Lộc Tấn đồng thời tấn công Tiểu đoàn 1/9
ở Quận lỵ Bố Đức trên trục lộ 14A. Trong lúc
đó, dùng một Sư đoàn bộ binh và chiến xa tấn
công Bộ Chỉ huy Chiến đoàn 9, Tiểu đoàn 53 Pháo
binh và Bộ Chi huy Chi khu Lộc Ninh đóng dọc treo
con đường cặp theo sân bay trong quận lỵ Lộc Ninh.
Các đơn vị CSBV này sẽ được Sư đoàn 70 Pháo cải
danh yểm trợ dập pháo vào các đơn vị của SĐ5BB
nói trên trước khi tấn công như lối đánh sở
trường “tiền pháo hậu xung” của chúng. Một Sư
đoàn bộ binh thứ ba sẽ phục kích chận viện trên
trục lộ 13, đoạn phía bắc Cầu Cần Lê và phía
nam thị xã Lộc Ninh, và một Trung đoàn khác phục
trên trục lộ 14A giữa Ngã ba Lộc Tấn và quận lỵ
Bố Đức, đồng thời kềm chế bằng pháo binh hay tấn
công bằng đặc công vào sân bay Quản Lợi để cắt
tuyệt đường tiếp viện không vận từ Sài Gòn lên
Bình Long. Sư đoàn 70 Pháo cũng sẽ yểm trợ các
đơn vị pháo phòng không cho các đại đơn vị bộ
binh của chúng và bắn pháo vào An Lộc để kềm
chế hoạt động của SĐ5BB. Việc tấn công có phối
hợp chiến xa không đủ yếu tố xác định nhưng có
thể có vì tất cả tài liệu của chúng bắt được
và cung từ tù binh đều nói đến. Sau khi dứt điểm
xong quận Lộc Ninh, TWC/MN sẽ dồn hai Sư đoàn bộ
binh, đơn vị Đặc Công và Sư đoàn Pháo tấn công
chiếm An Lộc trong khi một Sư đoàn khác sẽ phục
kích chận viện trên trục lộ 13, phía nam đồn
điền cao su Xa Trạch và bắc Chơn Thành. Lai Khê
cũng sẽ bị tấn công đặc công và pháo kích.
Giả thuyết về khả năng thứ hai là, TWC/MN có
thể áp dụng chiến thuật “Tản Tấn”, hoặc phân
tán lực lượng tấn công cùng một lúc ba nơi chính
là Lộc Ninh, An Lộc và Lai Khê. Mũi tấn công thứ
nhất vào Lộc Ninh gồm một Sư đoàn bộ binh tăng
cường pháo binh nặng, phòng không và một Tiểu
đoàn đặc công chia làm hai cánh quân, một tấn công
Bộ Chỉ huy Chiến đoàn 9, Tiểu đoàn 53 Pháo binh
và Bộ Chi huy Chi Khu và chiếm thị trấn Lộc Ninh.
Cánh thứ hai tấn công Thiết đoàn 1 Kỵ binh và
Tiểu đoàn 74 Biệt Động quân Biên phòng ở Căn cứ A
và Ngã ba Lộc Tấn. Các căn cứ này, kể cả Tiểu
đoàn 1/9 ở quận lỵ Bố Đức sẽ bị pháo giập nát
trước khi bị tấn công bằng bộ binh. Mũi tấn công
thứ hai vào thị xã An Lộc, cũng là tỉnh lỵ
Bình Long, lúc đó chỉ có hai Tiểu đoàn của Trung
đoàn 7 của SĐ5BB hành quân bên ngoài thị xã. Lực
lượng Tiểu khu chỉ có hai Đại đội Địa phương quân
trấn đóng trên Đồi Gió và Đồi 169 ở đông nam thị
xã và chừng hai Đại đội khác ở bên trong thị
xã, giữ Bộ Chi huy Tiểu khu. Mũi tấn công này của
quân CSBV có thể gồm một Sư đoàn bộ binh tăng
cường thêm một Trung đoàn của Sư đoàn bộ binh
khác, hai Trung đoàn pháo nặng, phòng không và hai
Tiểu đoàn đặc công. Một cánh quân nhỏ chừng cấp
Tiểu đoàn tấn công hay phục kích các đơn vị VNCH
đóng ở sân bay và đồn điền Quản Lợ̣i. Thị xã An
Lộc có thể bị pháo giập nát trước khi bị tấn
công bằng bộ binh. Mũi tấn công thứ ba nhắm vào
căn cứ chính của SĐ5BB ở Lai Khê. CSBV chỉ cần
một Tiểu đoàn đặc công đánh phá hủy các kho tàng
tiếp liệu và đạn dược đồng thời một đơn vị
Pháo tấn kích dữ dội vào căn cứ. Một đơn vị
cấp Trung đoàn bộ binh tăng cường pháo phòng không
đóng chốt chận viện ở trên trục lộ 13, đoạn
phía bắc Chơn Thành. Pháo kích vào Bộ Tư lệnh
QĐIII & V3CT ở Biên Hòa và phi trường chiến lược
Biên Hòa.
May mắn là khi chiến dịch Nguyễn
Huệ của CSBV khai triển vào lãnh thổ QĐIII & V3CT
với mục đích đánh chiếm Bình Long chúng đã không
dùng chiến thuật “Tản Tấn” trái lại chúng chọn
chiến thuật “Tập Tấn” vào Lộc Ninh trước rồi
mới tập trung bôn tập xuống tấn công An Lộc, thị
xã tỉnh lỵ của Bình Long.
Nếu chúng chọn
khả năng thứ hai, hay chiến thuật “đánh tản” phối
hợp chiến thuật “dương đông kích tây”(tức là tấn
công với cường độ vừa phải vào Tây Ninh và cùng
một lúc tấn công dứt điểm vào An Lộc) liên tục
trong ba ngày đêm liền, nhất là khi chúng có thêm
chiến xa, chắc chắn lực lượng VNCH ở QĐIII & V3CT
sẽ rối loạn, không điều quân kịp, đến ngày thứ
ba chúng sẽ chiếm được An Lộc như mong muốn. Lúc
đó ván đã đóng thuyền, QLVNCH muốn tái chiếm
cũng không còn đủ lực lượng, và nếu kéo tất cả
đại đơn vị trừ bị Dù, Thủy quân Lục chiến và
Biệt Động Quân từ các nơi khác về để bảo vệ
Thủ đô Sài Gòn đang rúng động, thì sẽ mất luôn
Kontum và Quảng Trị. Nếu QLVNCH đem hai Sư đoàn từ
miền đồng bằng Sông Cửu Long lên, miền Tây sẽ rối
loạn. Yếu tố “tốc chiến tốc thắng”, lúc đó,
các tướng lãnh CSBV đã không nghĩ đến, dù là Võ
Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng hay Trần văn Trà kể cả
Quân Uỷ Trung ương hay Bộ Chính Trị của Đảng Cộng
Sản Việt Nam (Đảng Lao Động). Lý do duy nhất để
giải thích có lẽ vì các tướng Bắc Việt quá tin
tưởng vào khả năng phòng không với các loại hỏa
tiễn mang vai SA–7 và các loại súng phòng không
tối tân, sự tàn phá kinh khủng của đại pháo hủy
diệt tầm xa và di động và sự xung kích dữ dội
của chiến xa tối tân như T–54 và PT–76 của Liên xô
nên bỏ lối “đánh tản” sở trường mà xoay ra dùng
chiến thuật “đánh tập”, như lối đánh thí quân
“biển người” của Trung Cộng, nên đã chuốc lấy
thất bại ở An Lộc. Từ đó chúng đã hoàn toàn
thất bại trong chiến dịch mùa Hè năm 1972. Đáng
lẽ các tướng Bắc Việt phải biết hỏa lực của
Không Quân Hoa Kỳ rất hùng hậu và QLVNCH đã
trưởng thành, rất kiên cường. Dùng chiến thuật
đánh “thí thân” là thua....
5. THẤT
THỦ LỘC NINH: SƯ ĐOÀN 5 BỘ BINH MẤT THIẾT ĐOÀN 1
KỴ BINH VÀ CHIẾN ĐOÀN 9
Những gì
mà chúng tôi ước tính về trận TCK của CSBV vào
lãnh thổ QĐ/III & V3/CT trong mùa Hè này, nhất là
về mặt trận chính sẽ diễn ra ở đâu, Tây Ninh hay
Bình Long, tôi trình Tướng Hưng và cũng được Trung
tá Trần văn Bình, Trưởng Phòng 2 QDIII & V3/CT
trình lên Trung tướng Nguyễn văn Minh. Dĩ nhiên đã
có những buổi thuyết trình riêng của Trung tá
Bình và của tôi lên hai vị tư lệnh này. Các vị
tướng và Bộ Tham mưu của Quân Đoàn cũng có những
cuộc thảo luận, trước khi chiến dịch của CSBV
diễn ra. Do đó nên mới có quyết định của Tướng
Minh về việc phối trí lực lượng trình bày ở
trên. Như vậy có thể nói rằng lực lượng QLVNCH
của QĐIII & V3CT đã ở trong tư thế sẵn sàng chống
trả chiến dịch TCK mới của CSBV trong mùa Hè năm
đó. Chỉ một việc chưa hoàn tất được là Bộ Tư
lệnh Tiền phương của Quân Đoàn III chưa kịp lên
Thị xã An Lộc mà thôi. Lúc đó, Tướng Minh còn ở
Biên Hòa và sau đó đưa Bộ Tư lệnh Tiền phương từ
Thị xã Tây Ninh lên Lai Khê –căn cứ chính của
SĐ5BB– từ đó điều khiển cuộc chiến thắng lợi
trong lãnh thổ trách nhiệm của ông trong mấy
tháng sau đó. Nên lưu ý rằng nếu để mất một
tỉnh của Vùng 3 Chiến Thuật, Thủ đô Sài Gòn sẽ
rúng động và Washington sẽ đảo điên vì sách lược
Việt Nam Hóa Chiến Tranh chưa hoàn tất. Chính trị
nội bộ Hoa Kỳ sẽ lên cơn sốt khi mà cuộc bầu cử
tổng quát ở Hoa Kỳ sắp diễn ra trong những tháng
cuối năm 1972 đó. Xét trên khía cạnh này, Tướng
Nguyễn văn Minh là một anh hùng đã cứu nguy cho An
Lộc, nói riêng, và cho Sài Gòn lẫn Washington. Nixon
và Kissinger phải mang ơn Tướng Minh.
Tuy
nhiên khi trận Tồng Công Kích [TCK] của Cộng Sản
Bắc Việt diễn ra thì có dư luận kể ở Sài Gòn
lẫn Washington cho rằng, cũng như trận TCK Tết Mậu
Thân, là QLVNCH bị bất ngờ. Sở dĩ có dư luận
này có thể vì lý do sau đây. Từ 2 giờ sáng ngày
31 tháng 3, lực lượng CSBV pháo kích và tấn công
dữ dội tất cả các căn cứ đóng quân của Chiến
đoàn 49, SĐ18BB, suốt trục lộ 22 từ tiền đồn Xa
Mát ở biên giới Việt–Miên dẫn vào đến Thiện Ngôn
phía bắc tỉnh lỵ Tây Ninh. Quan trọng nhất là...
Căn cứ Lạc Long, vì không chịu nổi cường lực tấn
công của địch nên toàn bộ đơn vị hơn cấp Tiểu
đoàn, gồm bộ binh, pháo và quân xa rút khỏi căn
cứ định về thị xã Tây Ninh, lọt vào ổ phục kích
cấp Trung đoàn của chúng buổi sáng sớm hôm đó,
bị tổn thất rất nặng. Ngay trong buổi sáng đó,
Tướng Minh chỉ thị cho Tướng Hưng và tôi bay lên
Bộ Tư lệnh Tiền phương QĐIII ở Tây Ninh gặp ông.
Khi Tướng Hưng và tôi đến đã thấy Trung tá Bình,
Trưởng Phòng 2 QĐIII & V3CT chờ Trung tướng Minh ở
phòng khách trước văn phòng Tư lệnh. Tướng Minh
từ Biên Hòa đến, đi thẳng vào phòng không bắt tay
ai, kể cả Tướng Hưng. Chúng tôi theo vào. Tướng
Minh nhìn thẳng vào Trung tá Bình và tôi, xát
muối: “Mấy người làm tình báo như vậy đó. Nó
đánh tan Trung đoàn 49 rồi! Tính sao đây? Tình
hình sẽ ra sao?” Trung tá Bình (hiện ở Nam
California) trước năm 1971 là Trưởng Khối Tình báo
Quốc Nội của Phòng II/BTTM, là một sĩ quan Quân
Báo lỗi lạc, nắm vững tình hình CSBV trên toàn
quốc cả miền Bắc lẫn miền Nam, bình tĩnh trình
Trung tướng Minh rằng ông tin chắc chắn CSBV và
TWC/MN vẫn nhắm tấn công vào Bình Long và chiếm
An Lộc. Trận đánh trong đêm và sáng đó trên trục
lộ 22, ở Tây Ninh, chỉ là “hư chiêu”.
May
thay, đang khi đó thì một sĩ quan của Phòng 2/BTL
Tiền phương Quân đoàn vào trình cho Trung tá Bình
một số tài liệu mà một đơn vị của Chiến đoàn
49 ở Căn cứ Thiện Ngôn tìm thấy trong xác chết
của một số cán binh CSBV bị hạ khi chúng tấn công
căn cứ này trong đêm. Đơn vị này thuộc Sư đoàn C30B
của TWC/MN mới thành lập ở Tây Nguyên, sau này gọi
là Sư đoàn Bình Long. Không thấy sự hiện diện
của các Sư đoàn chủ lực của chúng là 5, 7, và 9
trong trận đánh trên trục lộ 22. Như vậy chúng
giữ các đại đơn vị này cho trận đánh quyết định
sắp tới. Đọc xong mấy tài liệu đó, Tướng Minh
tỏ vẻ tin vào lời trình bày của Trung tá Bình.
Tuy nhiên Ông ra lệnh cho Tướng Hưng ngay trong ngày
phải trả Lữ đoàn 1 Nhảy Dù tăng phái cho SĐ5BB,
lúc đó đang còn tiếp tục hành quân ở Bến Than,
phía tây Quận Chơn Thành. Trực thăng bốc Lữ đoàn
này vào buổi trưa, đưa vào hành quân giải tỏa
trục lộ 22. Một Chiến đoàn khác của SĐ18BB và
một Chiến đoàn Biệt Động Quân cũng được đưa vào
vùng này ngay trong buổi sáng đó. Tướng Hưng cũng
nhận thêm lệnh sẽ sẵn sàng trả Chiến đoàn 52 ở
Căn cứ Hùng Tâm và chuẩn bị Trung đoàn 7 của
SĐ5BB đang hành quân bên ngoài An Lộc, nếu cần, sẽ
được bốc vào Tây Ninh trong ngày hôm sau tùy theo
diễn biến tình hình trên trục lộ 22.
Nhưng
tình hình đã diễn ra khá kỳ lạ là, ngay trong
buổi sáng ngày đó, sau khi tấn công các căn cứ
của Chiến đoàn 49, toàn bộ các đơn vị CSBV cấp
tốc rút ra khỏi vùng này không thu chiến lợi phẩm
và cũng không kịp mang xác chết của đồng bọn đi.
Các đơn vị của Tướng Minh đưa vào vùng hành quân,
không chạm súng và cũng không tìm thấy chúng, mà
chỉ thu dọn chiến trường nhầy nhụa ở đó. Đến
ngày 2 tháng 4, coi như trục lộ 22 ở Tây Ninh hoàn
toàn được giải tỏa. Từ ngày đó cho đến hết ngày
3, tháng 4, trong toàn thể lãnh thổ QĐIII & V3CT
không có một tiếng súng nổ. Tình trạng im ắng
rờn rợn này như báo hiệu một cơn bão lớn sắp
kéo đến.
Rồi chuyện gì phải đến đã đến.
Chiến dịch Nguyễn Huệ của CSBV ở QĐIII & V3CT
thực sự mở màn. Đêm 4 rạng ngày 5, tháng 4, vào
khoảng 3 giờ khuya, tôi bị đánh thức bởi tiếng
điện thoại reo vang. Bên kia đầu giây là tiếng của
Tướng Hưng. Ông cho biết, Đại tá Nguyễn Công Vĩnh,
Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 9, vừa báo cáo là
căn cứ của Bộ Chỉ huy Trung đoàn 9, Tiểu đoàn 53
Pháo binh và Bộ Chỉ huy Chi Khu Lộc Ninh ở cuối
và cặp theo sân bay Lộc Ninh đang bị pháo kích dữ
dội và chắc chắn sẽ bị tấn công. Tiểu đoàn 3/9
(–) hành quân ở tây nam thị trấn Lộc Ninh, được
lệnh rút về căn cứ của Chiến đoàn, đang bị địch
bám sát tấn công liên tục. Đơn vị Thiết kỵ 1 của
Trung tá Nguyễn Đức Dương và Tiểu đoàn 74 BĐQ/BP ở
Ngã ba Lộc Tấn và Căn cứ A cũng đang bị pháo
kích nặng. Ông ra lệnh cho tôi lên ngay Trung tâm
Hành quân Sư đoàn (TTHQ/SĐ). Ông cũng nóí thêm là:
Tụi nó đánh lớn rồi. Chiến dịch của tụi nó mở
màn...”
Book marks: LGT | TSTG | KỲ–1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | KỲ–12 | PL | Đầu trang
KỲ–4
Tướng
LÊ VĂN HƯNG &
Những sự thực ở Chiến trường AN LỘC
trong Mùa Hè Đỏ
Lửa 1972; cont'd...
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Kỳ–4
Tôi đến TTHQ/SĐ thì
Trung tá Trịnh Đình Đăng, Trưởng Phòng 3 Sư đoàn,
đã ở đó rồi. Mấy phút sau Tướng Hưng đến. Tại
đây tôi được biết, trước đó, khi được lệnh rời
vùng hành quân, Tiểu đoàn 3/9 (–) báo cáo nghe
tiếng chiến xa di chuyển rầm rộ ở hướng tây trên
trục lộ 137, là con đường xuyên rừng nối liền
Quốc lộ 13 và Liên quốc lộ 7, ở hướng tây, từ
biên giới dẫn vào Lộc Ninh. Trung tá Nguyễn Đức
Dương, Thiết đoàn 1 Kỵ binh, xác nhận vào giờ đó
không có một chiến xa nào của ông nổ máy. Như
vậy, rõ ràng chiến xa CSBV đã hiện diện ở chiến
trường Lộc Ninh. Sự kiện này làm tôi bàng hoàng
và cảm thấy xấu hổ về sự bất lực của mình,
trong khi Tướng Hưng đang tiếp tục nghe Trung tá D.
báo cáo tiếp nơi đóng quân của Thiết đoàn và
Tiểu đoàn 74 BĐQ/BP đang bị pháo kích khủng khiếp.
Nếu tiếp tục đóng tại chỗ sẽ bị tổn thất nặng
nề hay bị tiêu diệt. Trung tá Dương nhận được lệnh
điều động Tiểu đoàn BĐQ/BP rời bỏ khỏi căn cứ A
và Ngã ba Lộc Tấn đồng thời chỉ huy Tiểu đoàn
2/9 (–) tùng thiết cho Thiết đoàn 1 Kỵ binh, đang
hành quân ở vùng đông bắc Ngã ba Lộc Tấn, rút
về tăng cường cho Bộ Chỉ huy Chiến đoàn 9 ở thị
trấn Lộc Ninh. Tuy nhiên, lúc đó Trung tá Dương chưa
thể thi hành được vì trời còn chưa sáng và đơn
vị Thiết kỵ, TĐ74/BĐQ/BP và TĐ2/9 còn đang bị
pháo dữ dội. Tiểu đoàn 1/9 ở Chi khu Bố Đức trên
trục lộ 14A, cũng bị pháo kích nặng. Tất cả
những chi tiết trên đây được báo cáo ngay cho Trung
tâm Hành quân Quân đoàn. Chính Tướng Hưng cũng
muốn trực tiếp trình báo cho Tướng Minh, Tư lệnh
QĐIII & V3CT, nhưng không thể liên lạc được với
Tướng Minh trên mọi hệ thống điện thoại hay vô
tuyến suốt từ giờ phút đó cho mãi đến gần 9
giờ sáng hôm sau, ngày 5 tháng 4. Dĩ nhiên, các
tướng lãnh khác và các giới chức trách nhiệm
khác của QĐIII & V3CT cũng không liên lạc để trình
báo tình hình ở Lộc Ninh cho Tướng Minh.
Khi Tướng Hưng tiếp xúc được với Tướng Minh là
khi ông Hưng đang ở trên trực thăng chỉ huy bay trên
không phận Lộc Ninh. Trên chiếc trực thăng này,
lúc đó ngoài Tướng Hưng còn có Đại tá Hoa Kỳ
William Miller, Cố vấn trưởng Sư đoàn, Trung tá
Trịnh Đình Đăng, Trưởng Phòng 3 Sư đoàn (Khóa 5
Thủ Đức, như Tướng Hưng và tôi, nhưng thuộc Đai
đội 2 SVSQ; sau trận An Lộc thăng cấp Đại tá, hiện
đang ở Hoa Kỳ), và tôi, Trưởng Phòng 2. Tất cả
đều đội mũ sắt trang bị hệ thống dẫn–hợp
truyền tin, nên có thể nghe rõ đối thoại giữa
Tướng Hưng với các cấp chỉ huy đơn vị của Sư đoàn
dưới đất và với Tướng Minh, Tư lệnh Quân đoàn III
& V3 CT và các giới chức khác.
Trước đó,
khi trực thăng chỉ huy của Tướng Hưng đang bay trên
vùng không phận Lộc Ninh, Tướng Hưng nhận được
báo cáo của Trung tá Nguyễn Đức Dương là đơn vị
Thiết kỵ của ông đang di chuyển trên QL–13 bị phục
kích ở phía nam ấp Lộc Thạnh nên xin hủy bỏ “mấy
con gà cồ” –tức 4 khẩu pháo 105 ly và 2 khẩu 155
ly được tăng phái cho Thiết đoàn 1 Kỵ binh trước
đó– để được nhẹ nhàng và di chuyển nhanh hơn.
Câu trả lời cũng là lệnh của Tướng Hưng cho Trung
tá Dương nghe rõ trong máy dẫn hợp, cho phép ông
này phá hủy các khẩu pháo đó sau khi hạ thấp
bắn trực xạ vào toán quân CS phục kích hai bên
đường. Dĩ nhiên khẩu lệnh được mã hóa bằng các
ám hiệu truyền tin. Một chập sau nghe Trung tá
Dương báo cáo đã thi hành xong, tuy nhiên không thể
tiếp tục tiến về thị xã Lộc Ninh vì CS phục
kích với đơn vị lớn. Tướng Hưng ra lệnh cho Trung
tá Dương đưa thiết kỵ trở lại Ngã ba Lộc Tấn chờ
đón Tiểu đoàn 74 BĐQ/BP, sau đó sẽ tập trung lực
lượng, trở lại giải tỏa Lộc Ninh. Đại đội Trinh
Sát của Trung đoàn 9, đang hoạt động ở tây bắc
–cũng được đặt dưới sự chỉ huy của Trung tá
Dương– được lệnh về Ngã ba Lộc Tấn. Các đơn vị
thi hành lệnh. Tuy nhiên, lúc đó, chừng hơn 12 giờ
trưa, Chi Đoàn 3/1 Thiết kỵ với một Đại đội tùng
thiết của Tiểu đoàn 2/9 đã vượt qua được đoạn
đường bị phục kích và tiến được đến cua Chùm
Bao gần Đồi 177 phía tây QL–13, chỉ cách Căn cứ
Lộc Ninh chừng hơn 1 cây số, nhưng không thể di
chuyển được nữa vì bị bao vây và tấn công dữ
dội. Trung tá Dương chỉ tiếp xúc được với đơn vị
này qua hệ thống vô tuyến.
Khi tiếp xúc
được với Tướng Minh, trên trực thăng chỉ huy,
Tướng Hưng báo cáo việc này cho Tướng Minh. Tức
khắc, Hưng bị xát muối lần đầu tiên trong chiến
trường An Lộc 1972. Tiếng nói của Tướng Minh, Tư
lệnh Quân đoàn, nghe rất rõ: “Đánh đấm gì lạ
vậy! Chưa có gì mà đã bỏ của…”. Máy bị cúp.
Tướng Hưng ngỡ ngàng. Mọi người trên trực thăng
buồn bã và yên lặng chỉ nghe tiếng mấy cánh
quạt và tiếng máy nổ phành phạch. Trực thăng
phải rời vùng để KQVN vào đánh yểm trợ cho căn
cứ chỉ huy của Chiến đoàn 9 đang bị tấn công bộ
binh. Sau các oanh tạc cơ của KQVN rời vùng, trực
thăng chỉ huy của Tướng Hưng cũng quay về Lai Khê
vì sắp cạn nhiên liệu. Một chập sau nghe tiếng
Đại tá Miller hỏi: “What did Gen. Minh say, 45?” Không
có tiếng trả lời. “Forty–five, hay 45”, là danh
hiệu chỉ huy trong hệ thống truyền tin của Tướng
Hưng. Miller hỏi Tướng Minh đã nói gì. Không ai
còn đủ sức trả lời cho ông ta. Vả lại có những
điều một tư lệnh Việt Nam không thể nói cho cố
vấn Hoa Kỳ của mình biết. Và nhiều điều ở
chiến trường An Lộc, Tướng Hưng không thể nói cho
Đại tá William Miller cố vấn trưởng Sư đoàn biết,
nên sinh ra sự hiểu lầm lớn sau đó trong trận
chiến quan trọng này.
Sau khi trực thăng chỉ
huy đổ đầy xăng, Tướng Hưng và chúng tôi lại bay
trở lên vùng trời An Lộc, ở độ cao trên 3,500 bộ,
vì phòng không của địch bắn rất rát. Trong suốt
buổi chiều chính Tướng Hưng một mặt liên lạc
trực tiếp với các cấp chỉ huy quân trên mặt đất
để nghe báo cáo và điều động họ đồng thời trực
tiếp xin KQVN đánh yểm trợ. Tướng Hưng có biệt
tài về sử dụng không yểm dù điều động các
chiến đấu cơ xạ kích vào địch quân chỉ cách quân
bạn một con đường hay đánh bom với các tọa độ
chính xác mà không cần nhìn vào bản đồ khi ngồi
trên trực thăng. Sở dĩ được như vậy là vì trên
bản đồ mà ông sử dụng hằng ngày ông ghi tọa độ
tất cả các ngã ba, ngã tư của các con đường,
các ngã ba sông, các thị trấn, thị xã, các cao
điểm, và các điểm–nhớ quan trọng. Gần như ông
thuộc lòng tọa độ địa hình các nơi đó trong toàn
lãnh thổ trách nhiệm. Ngày thường, khi thuyết
trình tình hình cho ông nên thận trọng về địa
điểm và tọa độ. Cách “đọc bản đồ trong trí nhớ
dựa trên các điểm chuẩn” này rất khoa học và
cần thiết cho mọi cấp chỉ huy. Đó là ưu điểm để
nhanh chóng đánh trả đũa quân địch bằng pháo binh
hay không quân, hoặc hướng dẫn điều động quân nhanh
chóng và chính xác, nhất là khi chỉ huy trên
trực thăng, từ khi ông còn làm Trung đoàn trưởng
ở SĐ21BB. Làm việc với ông, tôi đã cố gắng học
nghệ thuật tác chiến này.
Thế nhưng, với
trận đánh buổi chiều đó của CSBV trên khắp nơi
mà chúng bao vây hay bám đánh các cánh quân của
Chiến đoàn 9, từ căn cứ của Chiến đoàn, căn cứ
của Tiểu đoàn 53 Pháo binh, của Chi khu, cặp theo
sân bay Lộc Ninh, hay những cánh quân đang vừa đánh
vừa di chuyển về các điểm tập trung như các đơn
vị Thiết đoàn 1 Kỵ binh của Trung tá Nguyễn Đức
Dương, TĐ74/BĐQ/BP, TĐ2/9, TĐ3/9 và Đại đội 9 Trinh
sát, thì Tướng Hưng cũng không thế nào cứu vãn
được các “đứa con” của mình thoát khỏi tình
trạng nguy ngập. Một phần vì KQVN cho biết là
phòng không của CSBV quá mạnh, nên một số chiến
đấu cơ không thể đánh yểm trợ cho các đơn vị đang
di chuyển, ngoại trừ các căn cứ ở thị xã cặp
theo sân bay Lộc Ninh. Phần khác, vì lực lượng
địch quân quá đông. Trong suốt ngày đó lực lượng
phòng thủ của các căn cứ này đã chống trả hữu
hiệu nhiều đợt tấn công bộ binh dữ dội của CSBV
và KQVN đã yểm trợ đắc lực cho các căn cứ này.
Tuy nhiên các căn cứ cấp Đại đội Địa Phương Quân
và Trung đội Nghĩa quân ở các xã chung quanh thị
xã đều bị tràn ngập, hay không chịu nổi phải
rút bỏ hay tản lạc. Hai Đại đội ĐPQ 293 và 294,
rút về bảo vệ Bộ Chỉ huy Chi khu. Chợ Lộc Ninh
và Nhà Thờ bị địch chiếm trong ngày. Đêm tối,
các căn cứ trên trục lộ sân bay tiếp tục bị pháo
dữ dội. Tổn thất càng nhiều hơn. Binh sĩ trú
phòng kinh hoàng vì địch pháo kích với cường độ
và sức công phá của các đầu đạn đại pháo pháo
khủng khiếp. Nhất là các vị trí đặt pháo 155ly
và 105ly cố định của TĐ53/PB bị tê liệt không thể
phản pháo vì nhiều khẩu pháo bị phá hủy vì
pháo binh địch rót vào chính xác. Các mục tiêu
pháo của ta lộ diện dễ bị trinh sát pháo của
địch điều nghiên từ trước trận đánh.
Một
điều tưởng cũng cần nêu lên là các đơn vị chiến
thuật CSBV thi hành lệnh cấp trên rất chặt chẽ
nhưng cũng rất máy móc. Thí dụ như đơn vị pháo
của SĐ70 Pháo/TWC/MN bắn phá căn cứ đóng quân của
Thiết đoàn 1 Kỵ binh ở Ngã ba Lộc Tấn dữ dội
trong đêm trước cho đến khi đơn vị này bỏ căn cứ di
chuyển thì chúng cũng ngưng không bắn nữa, coi như
đã hoàn thành nhiệm vụ. Khoảng quá trưa Trung tá
Dương đã liên lạc được với các đơn vị đã rút về
được Ngã ba Lộc Tấn và được phân nhiệm tiến về
Thị xã Lộc Ninh với hai cánh quân băng rừng cặp
theo hai bên QL–13, mà không di chuyển trên trục lộ,
tiến về Thị xã Lộc Ninh, tăng viện cho BCH Chiến
đoàn 9 và đánh giải tỏa cánh quân Chi đoàn 3/1 và
một Đại đội của TĐ2/9 tùng thiết đang bị địch bao
vây ở cua Chùm Bao. Sau hai lần nỗ lực, nhưng không
tiến lên được, Trung tá D. cho các đơn vị rút trở
lại Ngã ba Lộc Tấn đế đóng quân qua đêm. Buổi
tối đêm 5 tháng 4, khi các đơn vị Thiết đoàn 1 Kỵ
binh, TĐ74/BĐQ/BP, TĐ2/9 (–) và ĐĐ9TS tập trung trở
lại khu vực này, dù đơn vị nào cũng bị tổn
thất, nhưng không bị “ăn pháo” như đêm trước; chỉ
bị trinh sát địch bám sát.
Sáng sớm hôm
sau, ngày 6 tháng 4 Trung tá Dương cũng tiến hành
kế hoạch hành quân với sự phân nhiệm như buổi
chiều hôm trước để rút về Lộc Ninh như lệnh đã
nhận được. Nhưng kế hoạch hành quân này có một
thay đổi lớn về lộ trình. Cánh quân thứ nhất
gồm Thiết đoàn 1 Kỵ binh (–), chừng 60 chiến xa
và quân xa các loại trong đó có 14 chiến xa loại
M–41 và M–113 của Chi đoàn 1/1 Chiến xa phối hợp
với TĐ74/BĐQ/BP với hai khẩu pháo 155ly và bốn
khẩu 105 ly. Cánh quân thứ hai gồm TĐ2/9 (–) và
Đại đội 9 Trinh sát.
Cánh quân thứ nhất, do
chính Trung tá NĐD chỉ huy, không tiến về Lộc Ninh
cặp theo phía tây QL–13 như buổi chiều hôm trước,
nhưng từ Ngã ba Lộc Tấn băng rừng sâu hơn ở phía
đông trục lộ này, với dự định đánh bọc ra quốc
lộ và tiến chiếm mục tiêu chính là đồi 150 Bắc,
nằm ở phía tây trục lộ, ở phía nam Đồi 177. Hai
ngọn đồi này chỉ cách thị xã Lộc Ninh ở hướng
tây bắc từ một đến hai cây số. Riêng ngọn đồi 150
Nam nằm ở tây nam thị xã, cách đồi 150 Bắc chừng
hai cây số. Ngày hôm trước, 5 tháng 4, trong khi
quân CSBV từ Đồi 150 Bắc tràn xuống chiếm Chợ,
Nhà Thờ và tấn công Đồn Cảnh sát Quận thì các
cánh quân khác của chúng xuất phát từ Đồi 150
Nam nhiều lần mở các đợt tấn công vào các căn
cứ Bộ Chỉ huy Chiến đoàn 9, TĐ53/PB và Bộ Chỉ
huy Chi khu Lộc Ninh đóng dọc theo sân bay. Cánh
quân thứ hai gồm TĐ2/9 (–) và Đại đội 9 Trinh sát
do Đại úy Nguyễn Quang Nghi, Tiểu đoàn trưởng TĐ2/9
chỉ huy, yểm trợ cho cánh quân thứ nhất ở hướng
đông, cũng băng rừng tiến song song với cánh quân
này và chiếm mục tiêu cao điểm phía đông thị xã
là Đồi 178.
Nếu hai cánh quân trên chiếm
được hai ngọn đồi 150 Bắc và 178 kẹp hai bên Thị
xã Lộc Ninh thì KQVN có thể hoạt động hữu hiệu
hơn khi đánh bom tiêu diệt một đơn vị lớn của CSBV
đang chiếm Đồi 150 Nam mà chúng dùng nơi đó làm
bàn đạp để tấn công ba căn cứ nằm dọc sân bay
Lộc Ninh. Như vậy sẽ giải tỏa bớt áp lực địch
để chờ viện binh. Đó là quan niệm hành quân của
Tướng Hưng, khi ông ra lệnh cho các cánh quân dưới
sự chỉ huy của Trung tá Dương rút từ Lộc Tấn về
Lộc Ninh.
Nhưng tình hình diễn tiến trái
ngược. Không may mắn cho cánh quân của Trung tá D.
băng rừng cặp theo sườn đông trục lộ khi tiến ra
QL–13, lúc đó chừng 8 giờ sáng, ngày đó. Đơn vị
tiến trước là Chi đoàn 1/1 Chiến xa không biết vì
nhầm lẫn hay vì lý do nào đó lại đâm ra cua Chùm
Bao, gần đồi 177 –tức là nơi Thiết Đoàn 1 Thiết
kỵ bị phục kích hôm qua– thay vì đoạn quốc lộ
gần đồi 150 Nam. Chiến xa tiến lên đồi thì quân
địch trên đồi 177, đông như kiến cỏ, tràn xuống
tấn công dữ dội, hết đợt này đến đợt khác, và
gần như tiêu diệt TĐ1KB và TĐ74/BĐQ/BP. Trên trực
thăng chỉ huy Tướng Hưng không còn liên lạc với
Trung tá Dương được nữa cả giờ sau đó, khi đang bay
trên vùng trời Lộc Ninh. Khi báo cáo sự kiện này
lên Trung tướng Minh thì Hưng bị xát muối lần thứ
hai. (Sau này được biết trận đánh ở cua Chùm Bao
sáng ngày 6 tháng 4 đó gần như nguyên vẹn Sư đoàn
Công trường 5 CSBV chủ động cộng thêm Trung đoàn
95B từ chiến trường Tây Nguyên xuống tăng cường cho
mặt trận Bình Long; chúng đã bắt được Trung tá
Nguyễn Đức Dương và một số sĩ quan khác của
Thiết Đoàn và TĐ74/BĐQ/BP).
Cánh quân thứ
hai là TĐ2/9 và ĐĐ9TS, cả hai do Đại úy Nguyễn
quang Nghi chỉ huy, cũng tiến từ Ngã Ba Lộc Tấn
cặp sườn đông QL–13, sâu hơn trong rừng, tiến về
thị xã Lộc Ninh và chiếm đồi 178 ở phía đông
thị xã. Đại úy Nghi là một sĩ quan chỉ huy Tiểu
đoàn nổi tiếng. Nghi chỉ huy đơn vị của mình và
ĐĐ9TS của Trung úy Thái Minh Châu suốt buổi sáng
đó về gần mục tiêu nhưng không tiến được lên ngọn
đồi 178 vì bị địch quân chận đánh dữ dội. Buổi
quá trưa khi trực thăng chỉ huy lấy thêm đầy xăng
nhớt, Tướng Hưng lên vùng, liên lạc được với Đại
úy Nghi và được báo cáo tình trạng, ra lệnh cho
Nghi bỏ mục tiêu quay ra QL–13 tìm tông tích của
TĐ1KB và TĐ74/BĐQ/BP. Đại úy Nghi đã chỉ huy hai đơn
vị thiện chiến này trở ra được trục lộ chính
này nhưng không tiến nổi được lên khu vực chiến
trường của hai đơn vị của Trung tá Dương. Buổi
chiều ngày 6 tháng 4, khi nắng tàn Tướng Hưng quay
về An Lộc thì TĐ2/9 và ĐĐ9TS báo cáo đã nằm
trong khu Chợ Lộc Ninh dù bị tổn thất nặng nề.
Tuy nhiên hình chư chỉ có một bộ phần nhỏ của
đơn vị này vào được chợ Lộc Ninh. Phần lớn đang
bị địch quân theo sát tấn công trên lộ trình rút
về thị xã. Cánh quân này bị quân CSBV bám sát
và tấn công liên tục suốt trong đêm đó.
Các
căn cứ của Chi Khu Lộc Ninh, của Tiểu đoàn 53 Pháo
binh và Bộ Chỉ huy Chiến đoàn 9 của Đại tá Nguyễn
Công Vĩnh bị pháo kích dữ dội nhiều đợt suốt
đêm 5 rạng ngày 6 này. Căn cứ Chiến đoàn 9 ở
cuối sân bay bị pháo nặng nhất, hầm cứu thương
sập, tất cả Trung đội Quân y bị chết gần hết.
Trong ngày quân CSBV mở nhiều đợt tấn công vào căn
cứ nhưng đều bị đẩy lùi. Sự thực căn cứ này
đứng vững được là nhờ vào yểm trợ của KQVN với
các khu trục phản lực đánh sát bờ rào đất khá
cao chung quanh. Cộng quân tổn thất rất lớn về
nhân mạng. Căn cứ Tiểu đoàn 53 Pháo binh gần đó
của Trung tá Thông cũng bị pháo giập nặng; các ụ
pháo và các khẩu pháo của Tiểu đoàn hoàn toàn
bị... câm tiếng, không còn một khẩu nào sử dụng
được. Thương binh ở hai căn cứ này lên quá cao.
Không một trực thăng nào của KQVN hay Hoa Kỳ đáp
xuống được để tải thương hay tiếp tế suốt hai
ngày đêm liền vì phòng không của địch quá dày
và quá mạnh.
Tiều đoàn 3/9 (–) (không nhớ
tên Tiểu đoàn trưởng) hành quân ở phía nam thị
xã, trong buổi chiều đó tuy bị Cộng quân bám tấn
công nhưng bảo cáo là đã về được cuối sân bay, ở
bìa rừng cao su hướng đông phi đạo và của căn cứ
Chiến đoàn 9. Tướng Hưng trực tiếp liên lạc với
Tiểu đoàn trưởng và chỉ thị cho giữ quân tại chỗ
để bảo vệ mặt ngoài cho Chiến đoàn chỉ trừ một
Đại đội vào căn cứ tăng cường cho Đại tá Vĩnh và
một Trung đội khác cho TĐ53/PB của Trung tá Thông.
Tất cả các đơn vị của Chiến đoàn nằm chịu trận
tại chỗ, suốt đêm 6 rạng ngày 7, kể cả hai đơn
vị dã ngoại là TĐ2/9 (–), ĐĐ9TS và TĐ3/9 (–), hứng
pháo của địch quân. Đến 4 giờ sáng ngày 7 thì
mất liên lạc với Đại úy Nguyễn Quang Nghi, Tiểu
đoàn trưởng TĐ2/9 và cả Trung úy Thái Minh Châu,
Đại đội trưởng ĐĐ9TS. Coi như cánh quân cuối cùng
ở phía bắc Lộc Ninh kéo về thị xã Lộc Ninh bị
tan rã. Tướng Hưng mất gần 2 nghìn quân, hơn 80
chiến xa và quân xa, và hơn hai chục khẩu pháo 105
ly và 155 ly. Màn đêm sắp phủ trùm lên sự nghiệp
làm tướng của Tướng Hưng.
Đêm 6/4/1972 đó
ngồi ăn cơm với Tướng Hưng ở căn cứ của Bộ Tư
lệnh Hành quân nhẹ của SĐ5BB ở An Lộc, (căn cứ
trên mặt đất, với các công sự khá chắc chắn,
nhìn ngang hông của tư dinh tỉnh trưởng, chưa dời
sang hầm ngầm mà Đại tá Lê Nguyên Vỹ đang tu bổ),
ông kể lại cho tôi nghe từ ngày ông về phục vụ ở
SĐ21BB khi còn là Trung úy, từ đầu năm 1964 cho đến
năm 1968, do Tướng Nguyễn văn Minh làm Tư lệnh với
bao nhiêu công trận và Tướng Minh đã mến thương,
nâng đỡ ông như thế nào cho đến ngày Tướng Minh
lên làm Tư lệnh QĐIII & Vùng 3 CT và đưa ông lên Tư
lệnh SĐ5BB và thăng cấp tướng, Tướng Minh chưa một
lần nào nặng lời với ông. Ông nói với tôi,
“Dưỡng à, trận chiến này vô cùng nguy hiểm, sống
chết chỉ trong giây phút. Cùng khóa, cùng Trung
đội của Thầy Chiêu, ngày nay tôi đã lên tướng mà
Dưỡng và các bạn khác, đến nay, chưa một người
nào thăng được cấp Trung tá. Như vậy là quá mức
rồi, chết cũng đáng. Còn Dưỡng, tội tình gì mà
ở đây cho thiệt thân, uổng mạng. Ngày mai về Lai
Khê đi. Đưa Đại úy Bé lên đây là được rồi.” (Đại
úy Trần văn Bé là phụ tá của tôi, cũng là Biệt
đội trưởng Biệt đội Quân báo Sư đoàn. Sau năm 1973,
thăng Thiếu tá chuyển về Định Tường làm Trưởng
phòng 2 Tiểu khu. Năm 1976 khi bị CSVN cầm tù ở
Trại Suối Máu Biên Hòa, vượt ngục bị chúng bắt
lại, đem xử bắn tại Suối Máu cùng một Đại úy
ngành An Ninh Quân Đội. Buổi trưa đó, ngay sau khi
hai sĩ quan này bị bắn, trời đang nắng gắt bỗng
tối sầm lại, giông gió nổi lên một chập lâu. Tù
nhân các trại Suối Máu vẫn còn nhớ chuyện trời
đất khóc người bị giết oan này).
Tôi không
nói gì và suy nghĩ nhiều về lời tâm sự của
Tướng Hưng. Một chập sau tôi dứt khoát trả lời là
tôi không về Lai Khê…. Buổi cơm thật buồn, vì
chúng tôi mất mát, tổn thất lớn lao, mà chính
tôi cũng có trách nhiệm là không hiểu tường tận
về khả năng to lớn của CSBV ở biên giới tây bắc,
vùng Lưỡi Câu, nơi tập trung quân trước trận đánh
và các căn cứ địch trên dòng sông Chllong trong
tỉnh Kratié của Kampuchia.
Ngày hôm sau, mới
thực sự là ngày quyết định cho Lộc Ninh.
Khởi đầu ở buổi sáng, khoảng 6 giờ, khi binh sĩ
ở mặt tiền của căn cứ của Chiến đoàn 9 thấy
chiến xa CSBV lù lù tiến vào cổng của căn cứ,
hoảng sợ bỏ chạy mà chưa có tấn công bộ binh như
mấy ngày trước. Chiến xa của chúng vào trận địa
chậm một đôi ngày nhưng gây ngay chấn động. Chừng
bốn chiếc T–54 của chúng tiến vào con đường dốc
và bắn đại bác vào căn cứ. Đại tá Nguyễn Công
Vĩnh trong hầm chỉ huy được báo cáo tin này. Ông
báo cáo lên Bộ Tư lệnh nhẹ của Tướng Hưng là căn
cứ bị chiến xa tấn công. Đó là báo cáo cuối
cùng của của Đại tá Vĩnh trước khi cùng mấy sĩ
quan tham mưu và toán Cố vấn Hoa Kỳ của Chiến
đoàn, bỏ căn cứ và có ý định chạy ra với TĐ3/9
đang ở đầu sân bay ngoài căn cứ. Tuy nhiên tất cả
đều bị CSVN bắt. Trung tá Thông, Tiểu đoàn trưởng
Tiểu đoàn 53 Pháo binh gần đó, cũng chạy về
hướng Tiểu đoàn 3/9 và cũng bị bắt.
Bên
trong căn cứ của Chiến đoàn, Thiếu tá Trần Đăng
Khoa, Trung đoàn phó, điều động binh sĩ củng cố
lại tuyến phòng thủ. Quân phòng thủ dùng M–72
bắn vào mấy chiến xa, nhưng không hiệu quả và
chiến xa T–54 địch bắt đầu nhả đạn và tiến lên
căn cứ. Bộ binh địch tràn vào theo chiến xa, Thiếu
tá Khoa trở xuống hầm chỉ huy gọi vô tuyến báo
cáo với Tướng Hưng là Đại tá Vĩnh đã ra với TĐ3/9
nhưng không liên lạc được nữa. Chiến xa địch còn
bên ngoài cổng, nhưng bộ binh địch đã vào trong
căn cứ, đang đánh nhau ở phía trên hầm. Tướng
Hưng, Trung tá Đăng Trưởng phòng 3, Thiếu úy Tùng
tùy viên của Tướng Hưng, và tôi đang ở trên trực
thăng chỉ huy, đều nghe rõ đối thoại của Tướng
Hưng với Thiếu tá Khoa, trừ Đại tá Miller, Cố vấn
trưởng không biết chuyện gì đang xảy ra. Ông ngơ
ngác nhìn chúng tôi và hỏi gì đó, nhưng không ai
trả lời. Thiếu tá K. yêu cầu “Xin dội bom trên đầu
tôi, chúng đã tràn ngập căn cứ và đang bắn vào
hầm chỉ huy, xin 45 đừng do dự….” Tướng Hưng nói:
“Khoa, đây 45 nghe rõ, tôi sẽ làm đúng lời yêu cầu
của anh. Tôi sẽ lo chu đáo cho gia đình anh....”
Mấy tiếng sau cùng của Thiếu tá Khoa: “Xin cám ơn
và vĩnh biệt 45...” nghe rõ kèm theo một tiếng
nổ. Mắt Tướng Hưng hoen đỏ, đầy nước mắt. Chúng
tôi đều rơi lệ. Nhìn xuống căn cứ chỉ thấy màn
khói mỏng. Thảm kịch kéo đến, tôi nghe Hưng
chuyển qua tần số gọi yêu cầu KQVN đánh bom trên
căn cứ của Chiến đoàn 9, phá hủy chiếc nôi của
con mình để tàn sát địch quân đang tràn vào chiếm
lĩnh nó. Khi ông gọi khu trục là lúc ông hiểu rõ
hơn ai hết thảm kịch của chính ông. Đến lúc khu
trục yêu cầu trực thăng rời vùng và tiếng bom
từng đợt dội xuống căn cứ cũng là lúc Tướng
Hưng bị Tướng Minh xát muối bầm mình. Đó là lần
thứ ba..và rất dữ dội.
6. NHỮNG
QUYẾT ĐỊNH SÁNG SUỐT CỦA TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG ĐÃ
CỨU VÃN AN LỘC TRONG NGÀY 7/4/1972.
Buổi sáng trước khi lên trực thăng bay lên Lộc
Ninh, Tướng Hưng đã ra lệnh cho Chiến đoàn trưởng
Chiến đoàn 52 tăng phái, đóng ở hai căn cứ Hùng
Tâm phía bắc cầu Cần Lê đưa hai Tiểu đoàn ra Ngã
ba QL–13. Trái với suy đoán hay phỏng đoán của
nhiều người viết về đoạn quân sử này là Tướng
Hưng ra lệnh cho Chiến đoàn 52 đưa quân lên tiếp
viện cho Lộc Ninh tiến theo trục lộ này. Thực ra
ông chỉ ra lệnh cho Chiến đoàn đưa quân ra QL–13 để
chận hướng tiến của chiến xa địch trên trục lộ
chính vào An Lộc như một tuyến phòng thủ phía
trước của tuyến cầu Cần Lê. Ở căn cứ cầu Cầ̀n
Lê có hai Đại đội của SĐ5BB, một của TĐ2/9, một
của TĐ1/7 và hai Đại đội ĐPQ của Tiểu khu Bình
Long với 6 khẩu pháo do Trung tá Nguyễn văn Hòa
chỉ huy, trấn đóng. Vì buổi sáng sớm Tướng Hưng
đã được Đại tá Nguyễn Công Vĩnh báo cáo là căn
cứ của CĐ 9 bị chiến xa địch tấn công. Đến lúc
đó mới xác nhận là CSBV thực sự có chiến xa.
Vì vậy Tướng Hưng muốn lập thêm một tuyến, trước
tuyến cầu Cần Lê, nằm trên trục lộ này, chừng 8
dặm (8 miles) ở hướng bắc An Lộc. Tướng Hưng sau
khi mất liên lạc với Thiết đoàn I Kỵ binh ngày
hôm trước đã không còn hy vọng tiếp viện hay giải
tỏa Lộc Ninh nữa.
Nhưng diễn tiến trên trận địa không được như
mong muốn vì khi chuyển quân ra chưa đến QL–13
Chiến đoàn 52 đã chạm địch nặng mà đó là Sư
đoàn Công trường 5 CS và Trung đoàn 95B tăng phái
là hai đơn vị đã phục kích và đánh tan Thiết
đoàn 1 Thiết Kỵ trong ngày hôm trước. Trước buổi
trưa ngày đó, 7 tháng 4, khi trực thăng của Tướng
Hưng từ Lộc Ninh về bay trên vùng Cần Lê sau khi
khu trục dội bom xuống căn cứ của Chiến đoàn 9,
Tướng Hưng được Chiến đoàn 52 báo cáo đang chạm
địch rất nặng trên Tỉnh lộ 17 khi đang tiến ra
QL–13, nhưng không thể yếm trợ được bẳng phi pháo
đánh cận vì sợ đánh nhầm vào quân bạn. Tướng
Hưng ra lệnh cho Chiến đoàn cố gắng rút về An
Lộc, không cần tiến ra QL–13 phía bắc cầu Cần Lê
nữa. May mắn là trực thăng chỉ huy vòng lên vùng
phía bắc cầu Cần Lê trên trục Sông Bé chảy song
song với QL–13, trước khi rời vùng, chúng tôi quan
sát thấy một vị trí dã ngoại trên một vùng đất
trên bờ sông có mấy cần antennes truyền tin vô
tuyến mà cấp bộ chỉ huy cấp Sư đoàn CSBV mới
có, khi hành quân cấp tốc, Tướng Hưng gọi khu
trục của KQVN đánh vào tọa độ đó. Phi vụ rất
chính xác. Khi trở lại vùng trời cầu Cần Lê thì
được báo cáo là phần lớn các đơn vị của Chiến
đoàn 52 đã vượt qua phía nam cầu Cần Lê, dù
thiệt hại nặng. Nhưng trên trục lộ thì dù trực
thăng bay cao trên bốn nghìn bộ, vẫn quan sát thấy
dòng người đang cuốn về cầu Cần Lê chen lẫn với
một đoàn chừng hai mươi xe đang di chuyển mà chính
Tướng Hưng và Đại tá Miller đều cho là chiến xa.
Nửa ngờ rằng chiến xa CSBV, lại nửa ngờ rằng
biết đâu đó là đoàn thiết giáp của Trung tá
Nguyễn Đức Dương đã mất liên lạc truyền tin từ
hôm qua. Tướng Hưng trở lại tần số của Thiết
đoàn 1 Kỵ binh. Vô tuyến lặng câm.
Một lần
nữa Tướng Hưng đưa ra một quyết định quan trọng
khác. Ông sợ rằng bộ binh và chiến xa của địch
đang “bôn tập” để tấn công An Lộc. Đây là chiến
thuật “thừa thắng xông lên” của quân Bắc Việt,
thường gọi là “cấp tập”. Một mặt ông chuyển tần
số yêu cầu KQVN đánh bom xuống dòng người đang bôn
tập trên QL–13, chừng tám đến mười cây số phía
bắc cầu Cần Lê. Ông cũng ra lệnh cho tôi vẽ liền
hai boxes B–52 cập theo bờ tây Sông Bé đưa ngay cho
Đại tá Miller với yêu cầu đánh bom trong buổi chiều
hay đêm đó. Mặt khác ông ra lệnh cho Trung tá
Nguyễn văn Hòa, chỉ huy tuyến cầu Cần Lê, tức
khắc đặt chất nổ phá sập các nhịp cầu béton
cốt sắt của chiếc cầu này. Nếu phá sập cầu
hoàn toàn thì tốt nhất. Đổng thời dùng pháo
binh bắn chặn tối đa trên trục lộ phía bắc, mỗi
khi khu trục của KQVN rời vùng. Nếu địch quân tấn
công mạnh, liệu không giữ được pháo, thì phá hủy
2 khẩu 155 ly và 4 khẩu 105 ly pháo binh ở đó.
Trả bớt một Đại đội của TĐ1/7 về cho Chiến đoàn
7 của Trung tá Lý Đức Quân nội trong buổi trưa.
Lệnh phá cầu được Trung tá Hòa thi hành ngay. Tuy
không đủ kỹ thuật làm cho cầu sụp đổ hoàn toàn
nhưng mấy nhịp cầu bị hư hại nặng, chiến xa không
thể di chuyển được.
Về đến căn cứ Bộ Tư
lệnh nhẹ ở An Lộc, trong khi trực thăng chỉ huy
bay về Lai Khê lấy thêm nhiên liệu, Tướng Hưng vào
ngay Trung tâm Hành quân báo cáo mọi việc lên Trung
tướng Minh, Tư lệnh QĐIII & V3CT. Lúc đó Đại tá Lê
Nguyên Vỹ không có ở đó, còn Đại tá Bùi Đức
Điềm, Tham mưu trưởng Hành quân Sư đoàn, đang chỉ
huy việc dọn chuyển các cơ sở của Bộ Tư lệnh
Hành quân của Sư đoàn sang căn cứ mới, vì suốt
trong đêm trước và trong buổi sáng đó, pháo của
địch đã tập trung nhiều hơn, rơi nhiều quả chung
quanh căn cứ Bộ Tư lệnh nhẹ cũ mà chúng tôi suy
đoán là thám sát pháo của địch đã điều nghiên
kỹ vị trí của căn cứ cũ này. Khi bước vào Trung
tâm Hành quân ở căn cứ cũ, chưa dọn kịp, Tướng
Hưng nói với tôi “chắc là bị xát muối nữa...”
Đúng và còn hơn thế nữa. Lần này thì chính
Tướng Hưng bị Tướng Minh dội pháo, không phải là
xát muối nữa. Không một sĩ quan nào dám nghe, họ
lẻn ra ngoài. Tôi vì quá thân với Tướng Hưng, nên
ở lại. Theo Tướng Minh thì Hưng ra lệnh cho phá
cầu Cần Lê là coi như bỏ luôn mấy đứa con ở Lộc
Ninh, làm tuyệt đường về của họ, nhất là Thiết
kỵ của Trung tá NĐD. Biết đâu đoàn chiến xa mà
Tướng Hưng gọi là “bôn tập” vào An Lộc trên QL–13,
phía bắc cầu Cần Lê kh̀ông là đoàn chiến xa của
Thiết Kỵ 1. Một cánh quân lớn như vậy gồm hơn 60
chiến xa, quân xa, bộ binh, tất cả hàng nghìn
quân, mất liên lạc vô tuyến không có nghĩa là dễ
dàng bị đánh tan rã hay biến mất vô tông tích.
Đánh đấm như là giết con mình. Tướng Minh cho
rằng Tướng Hưng có những quyết định vội vã,
không cân nhắc, và nhất là không trình báo trước
với thượng cấp trước khi quyết định. Tướng Hưng
chỉ nín lặng nghe vì thực ra những điều Tướng
Minh nêu ra rất hợp lý. Tướng Hưng không có lý do
nào chính đáng để thưa trình cùng vị Tướng
thượng cấp, cũng là thầy mình, ngoài lý do là
sợ quân CSBV bôn tập tấn công An Lộc buổi trưa đó.
Nhưng ông không dám trình bày…. Ông đành chấp nhận
sự thất bại của mình và tự quyết định số phận
của mình.
Bước ra khỏi phòng hành quân,
vào phòng ăn, khi đầu bếp dọn thức ăn lên cho ông
và tôi, Tướng Hưng chỉ yêu cầu cho nước uống, tôi
cũng vậy. Làm sao nuốt nổi cơm trong hoàn cảnh
đó. Tổn thất quá lớn lao. Ông lập lại ý định
quyết giữ An Lộc bằng sinh mệnh của ông và cho
rằng cái nghiệp làm tướng của ông đã không còn
gì nữa. Thân làm tư lệnh Sư đoàn mà mới trận
đầu tiên đã mất mát quá to lớn, gần một nửa Sư
đoàn, mà cái mất lớn nhất là mất niềm tin của
người thầy là Tướng Minh đã từng tin tưởng nơi
khả năng cầm quân của ông. Một lần nữa Tướng Hưng
chỉ thị cho tôi về Lai Khê và đưa người phụ tá
của tôi lên thay tôi. Tôi có trình với Tướng Hưng
rằng hiện ở An Lộc tôi có Đại đội 5 Trinh Sát,
với mấy toán viễn thám vừa thu hồi về. Các đơn
vị nhỏ này rất thiện chiến, sẽ bảo vệ Tướng
Hưng. Họ biết rõ địa thế, kinh nghiệm hoạt động
trong rừng nhiều ngày đêm, di chuyển đêm dễ dàng
ở mọi thế đất đồi núi sông ngòi, nhất là được
chỉ huy bởi những sĩ quan kiên cường, giỏi trận
mạc. Nếu Tướng Hưng quyết tự sát khi mất An Lộc,
tôi tin rằng chúng tôi sẽ đem được xác ông và xăng
ra rừng đốt và mang than tro hài cốt về được Lai
Khê trong vòng hai tuần. Tôi khẳng định với Hưng,
như lời hứa của một người bạn, là tôi sẽ giữ
mạng sống của mình và mang xác Hưng về. Tôi ở
lại với Hưng ở chiến trường này. Chuyện này sau
đó tôi cho Đại úy Dương Tấn Triệu, Trung úy Lê văn
Chánh, Đại đội trưởng Trinh Sát và Trung Úy
Nguyễn Đức Trạch, tức nhà thơ Trạch Gầm, con trai
trưởng của Nữ sĩ Tùng Long, là những sĩ quan
thân tín phụ trách những công tác mật và gay go
trong các mật khu của CSBV trong khu vực chiến
thuật của Sư đoàn trước trận chiến. Ba sĩ quan ưu
tú này là những người bạn thân cận, dám sống
chết với tôi.
Sau buổi cơm toàn uống nước
lã, Hưng chỉ thị cho họp tham mưu mời Đại tá Trần
văn Nhật, Tỉnh trưởng Bình Long, Đại tá Lê Nguyên
Vỹ, Phụ tá Hành quân của Tướng Minh, Trung tá Lý
Đức Quân, Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 7, các cố
vấn Hoa Kỳ Sư đoàn và Tiểu khu, các sĩ quan tham
mưu của Bộ̣ Tư lệnh nhẹ Sư đoàn và Trung tá
Nguyễn văn Biết, Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 3
Biệt Động Quân được Trung tướng Minh cho tăng viện
vào An Lộc, vừa mới được trực thăng vận vào sân
bay Đồng Long ở phía bắc thị xã trong buổi sáng
(đơn vị này mất mấy sĩ quan trong ngay buổi đầu
tiên đổ quân vào An Lộc vì khi phi cơ chỉ huy của
Trung tá Biết vừa đáp xuống đã bị pháo kích, may
mà ông không hề hấn gì).
Buổi họp hành
quân này tổ chức trong villa duy nhất trên mặt đất
ở khu vực của Bộ Tư Lệnh nhẹ mới chuyển sang
(Bản đồ #1). Lúc đó vào khoảng 2:30 giờ trưa
ngày 7, tháng 4, sau khi hai boxes B–52 xin buổi
sáng đã được Không lực Chiến lược Hoa Kỳ thực
hiện ở phía bắc cầu Cần Lê cặp theo Sông Bé như
đã đề nghị. Lúc đó Tiểu đoàn 1/7 (–) cũng đã
rút từ sân bay Quản Long ở phía đông về và các
TĐ2/7, TĐ3/7, ĐĐTS7, hành quân dã ngoại cũng đã
rút về đóng quân án ngữ ở phía bắc và ven sườn
tây bắc thành phố còn Bộ Chi huy Chiến đoàn 7, ở
căn cứ Charlie, đã rút hết vào khu vực tòa nhà
Hành chánh của Tỉnh lỵ. Chỉ trừ Chiến đoàn 52
và đơn vị hỗn hợp của Trung tá Hòa ở Căn cứ Cần
Lê chưa rút về được mà chỉ có những đơn vị nhỏ
của Chiến đoàn 52 vượt được qua suối chạy về
thị xã. Giờ đó Đại đội 7 Trinh sát, một toán
nhân viên của Phòng 2 HQ Sư đoàn và Tiểu khu đang
ở ngoài cổng sân bay Đồng Long, phía bắc thị xã,
đón nhận các toán quân này và chờ đón những
toán khác chạy về.
Book marks: LGT | TSTG | KỲ–1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | KỲ–12 | PL | Đầu trang
KỲ–5
Tướng
LÊ VĂN HƯNG &
Những sự thực ở Chiến trường AN LỘC
trong Mùa Hè Đỏ
Lửa 1972; cont'd...
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Kỳ–5
Sau khi tôi trình
chiến trận trong mấy ngày qua và tổn thất của Sư
đoàn ở Lộc Ninh và ước tính là trận An Lộc sẽ
có thể diễn ra ngay trong đêm đó hay sáng ngày hôm
sau, Trung tá Đăng trình sơ đồ bố trí các đơn vị
phòng thủ tỉnh lỵ An Lộc theo quan niệm của
Tướng Hưng. Sự phối trí này tạm thời áp dụng cho
đến khi có tăng viện thêm (Bản đồ # 2). Theo sơ đồ
đó thì tạm thời TĐ1/7 và ĐĐ7TS sẽ đóng trấn giữ
mặt bắc thành phố với TĐ2/7 ở cánh trái. Khi
Chiến đoàn 52 về toàn bộ, sẽ giao khu vực trách
nhiệm lại cho Chiến đoàn này và rút sang cánh
trái án ngữ mặt tây bắc thanh phố. Nếu đơn vị
này bị tổn thất nặng thì đóng ở khu vực nằm
phía sau tuyến của TĐ1/7. Tuyến phía tây, từ cổng
Phú Lố trở xuống phía nam do TĐ3/7 án ngữ. Chiến
đoàn 3 BĐQ án ngữ ở tuyến phía đông. Mặt nam
thành phố do Tiểu khu phụ trách với các đơn vị
ĐPQ trực thuộc. Tiểu khu duy trì các đơn vị ĐPQ
trên hai ngọn Đồi Gió và Đồi 169 ở đông nam thành
phố.
Hai điều quan trọng trong buổi họp này
là: Thứ nhất, Tướng Hưng yêu cầu Đại tá Trần văn
Nhật (sau này thăng cấp Chuẩn tướng, Tư lệnh SĐ2BB)
với tư cách là Tình trưởng ra lệnh trưng dụng
tất cả các loại xe be kéo gỗ và tất cả các
loại xe chuyên chở bốn bánh khác hiện có trong
giờ đó tại tỉnh lỵ và Chiến đoàn 7 của Trung tá
Lý Đức Quân trách nhiệm đem các loại xe kéo gỗ
và xe đò làm chướng ngại vật lập tuyến phòng
thủ án ngữ trục QL–13 dẫn vào thành phố và các
trục lộ cổng Phú Lố ở phía tây và cổng xe lửa
trên trục lộ từ sân bay Quản Lợi đổ vào. Thứ
hai, Tướng Hưng yêu cầu Đại tá TVN thông tri cho dân
chúng thành phố biết nên di tản vì CS sẽ tấn
công lớn vào tỉnh lỵ. Chọn giữ lại các nhân viên
công chức cần thiết về điều hành điện nước, y
tế, chiêu hồi hay nhân viên bán quân sự ở lại, kỳ
dư cho di tản khỏi thành phố để tránh tổn thất
nhân mạng thường dân vô ích. Đại tá Nhật, giữ sự
tế nhị như thường xuyên, trong buổi họp hành quân
đó không đưa ra ý kiến về hai việc này, nhưng liền
sau đó gặp riêng Tướng Hưng và trình bày là hai
chỉ thị trên của Tướng Hưng sẽ ảnh hướng rất
lớn về tâm lý của quần chúng và rất quan trọng
nên ông sẽ xin trình lại Trung tướng Tư lệnh QĐIII &
V3CT kiêm Đại biểu Chính phủ ở Vùng 3 Chiến
Thuật. Sau đó Tướng Hưng lên trực thăng không đem
các trưởng phòng tham mưu theo. Tôi nghĩ là ông về
Lai Khê về chuyện phòng thủ ở đó với Trung tá Lê
Thọ Trung, tham mưu trưởng và chuyện riêng gia đình
liên quan đến quyết định tử thủ An Lộc của ông.
Buổi chiều trời chưa sụp tối khi Tướng Hưng
trở lại An Lộc, thì thành phố đã hứng một số
đạn pháo của Cộng sản và còn đang tiếp tục bị
pháo tuy không nhiều lắm, nhưng đã có một số khá
lớn cư dân –cả vài trăm người– được đưa đến
điều trị ở bệnh viện thành phố chỉ cách Bộ Tư
lệnh nhẹ một con đường. Ở phía bắc thành phố,
là khu vực phố buôn bán và chợ An Lộc, binh sĩ
các đơn vị của Chiến đoàn 9 ở Lộc Ninh bị thất
tán cũng chạy về, kể cả dân chúng. Chiến đoàn
52, sau khi chạm súng ở phía tây bắc cầu Cần Lê
và mất luôn cả hai căn cứ Hùng Tâm, cũng đã rút
về, được đưa vào tuyến phòng thủ của phía bắc
thành phố. Tổn thất của đơn vị này khá nặng,
chỉ còn hơn bốn trăm quân có thể tác chiến được.
Các đơn vị của Chiến đoàn 7 đang kéo các loại xe
be và xe chuyển chở dân sự lập chướng ngại vật
trên các trục lộ chiến xa địch có thể tiến vào
thành phố như lệnh của Tướng Hưng mà hình như
không có lệnh trưng dụng của Tòa Tỉnh trưởng.
Đúng vào lúc này, khoảng 8 giờ đêm, trong
phòng hành quân dưới hầm ngầm Tướng Hưng bị Trung
tướng Minh xát muối lần chót, lần thứ năm, trước
khi trận chiến An Lộc thực sự diễn ra, cũng nặng
nề, về việc mà Tướng Hưng yêu cầu Đại tá Nhật
trong cuộc hop hành quân buổi xế trưa mà Đại tá TVN
có nói cho Tướng Hưng biết sau buổi họp là sẽ
trình lên Trung tướng Minh quyết định. Mà quyết
định của Trung tướng Minh là không quyết định gì
hết ngoài việc “xát muối” Tướng Hưng. Nhưng
chuyện đã lỡ rồi, Chiến đoàn 7 đang thu xe dân sự
lập tuyến án ngữ như lệnh đã nhận được. Ở đây
phải ghi nhận quyết tâm và kiến thức quân sự
vững chãi của Tướng Hưng. Ông đã nhận định rõ
kích thước lớn lao của trận chiến sắp diễn ra,
hay đã diễn ra từ hai hôm trước, nên nhanh chóng
chọn quyết định phản ứng thích nghi của một vị
tướng chỉ huy ngoài mặt trận và can đảm nhận
chịu trách nhiệm về mọi quyết định của mình
trước thượng cấp. Ở chiến địa, tình hình chuyển
biến nhanh chóng từng phút, từng giây, thân làm
tướng chỉ huy mà còn hỏi trình thưa gởi về lệnh
lạc thì làm sao mà đánh giặc được…. Vì vậy,
mặc dù bị Tướng Minh xài xể nặng, khi buông ống
nói điện thoại với Tướng Minh, ông chuyển sang
tần số gọi Trung tá Lý Đức Quân, Trung đoàn
trưởng Trung đoàn 7, hỏi xem chuyện lập chướng
ngại vật trong vòng đai phòng thủ phía bắc tiến
triển đến đâu và không hề nghe ông ra lệnh hủy bỏ
lệnh trong buổi họp xế trưa hay đình chỉ chuyện
thu xe dân sự làm rào cản phòng thủ trên các
trục lộ dẫn vào thành phố ở vòng đai mặt bắc.
Khoảng chừng gần 9 giờ đêm đó, Tướng Hưng
cùng Đại tá Miller đi xe lên tuyến phía bắc gặp
Trung tá Quân, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 7. Xe
Jeep của tôi theo sau với Đại úy Triệu, nhân viên
Phòng 2 Hành quân của tôi và vài tùy tùng. Trong
khi Tướng Hưng và Cố vấn Miller đi cùng Trung tá
Quân xem bố phòng của Chiến đoàn, tôi ra trạm kiểm
soát và tiếp nhận binh sĩ từ mạn bắc chạy về.
Hơn một giờ tiếp xúc với một số hạ sĩ quan và
binh sĩ của Chiến đoàn 9, TĐ53 Pháo binh, Chi khu
Lộc Ninh và những chiến binh thất lạc của Chiến
đoàn 52 vượt qua được cầu Cần Lê chạy về thành
phố vào chập tối, tôi mới hiểu rõ những nhận
thức của Tướng Hưng buổi trưa khi bay trực thăng
từ Lộc Ninh, về cầu Cần Lê là chính xác:
Thứ nhất, nhiều người chạy từ Lộc Ninh về trên
trục quốc lộ này đã lẩn trốn ở các bụi rập
bên đường khi nghe tiếng động cơ chiến xa, nhìn
thấy nhiều chiến xa CSBV với bộ đội mặc quân
phục xanh lá cây ngồi trên tháp pháo và bộ đội
nắm súng AK–47 và vác B–40 chạy bộ –vượt qua nơi
ẩn trú của họ– về hướng cầu Cần Lê. Có những
binh sĩ trốn chạy về trễ hơn cho biết đã mục
kích phi pháo của KQVN oanh kích vào đoàn chiến
xa và bộ đội CSVN ở quãng đường cách Lộc Ninh
về phía nam chừng bảy, tám, đến mười cây số.
Tổn thất của chúng rất lớn đến đỗi chúng bận
rộn thu dọn xác chết và cứu thương đồng bạn
không lưu ý đến dân chúng có quân nhân lẫn lộn
chạy qua khu vực này.
Thứ hai, nhiều binh sĩ
của Chiến đoàn 52 cho rằng đơn vị của họ ở Căn
cứ Hùng Tâm bị pháo kích từ trong đêm đến sáng
thì bị bộ binh tấn công, nên khi có lệnh rút ra
ngã ba QL–13 thì bỏ căn cứ, di chuyển ra chưa đến
mục tiêu đã chạm địch từ hướng QL–13 tiến vào.
Chiến đoàn đã bắn hạ được những toán quân trước
nhưng hình như bộ đội CSBV càng lúc càng đông hơn
với nhiều loại súng nổ càng lúc càng dữ dội
hơn. Đơn vị tuy chạm súng mạnh trong mấy giờ
liền, tổn thất lớn, nhưng sau đó có tiếng bom
B–52 nổ ở phía đông bắc khu chạm súng thì trận
đánh thư giãn hơn nên nhiều đơn vị của Chiến đoàn
lần lượt rút được về An Lộc.
Thứ ba, một
số thường dân, người Stiêng, cư ngụ ở một sóc
nhỏ gần bên bờ Sông Bé cho biết khi thấy đông đảo
bộ đội Công sản suốt đêm trực kéo qua sóc của
họ đến khu vực khá rộng và cao gần bờ Sông Bé,
đến sáng tinh sương họ mở kéo cần dựng máy liên
lạc lên, nên biết sắp đánh lớn, sợ nguy hiểm một
số gia đình lẻn trốn về hướng quốc lộ và chạy
cặp theo đường về thị xã. Chạy hết một buổi
thì nghe máy bay nhỏ bỏ bom, mấy giờ sau khi qua
khỏi cầu Cần Lê thì nghe máy bay lớn bỏ bom. Họ
tin rằng “bụt” cứu họ thoát chết.
Tổng kết
những tin tức này, tôi cho rằng nhận định về diễn
tiến thế trận, việc chiến xa và bộ đội bộ binh
của CSBV “bôn tập” để tấn công An Lộc, ngày 7/4,
khi mục tiêu này chưa kịp tổ chức phòng ngự là vô
cùng chính xác rút ra từ kinh nghiệm chiến
trường với hàng trăm trận chiến thắng của Tướng
Hưng –từ khi là Đại đội trưởng tiến dần lên đến
cấp Tiểu đoàn trưởng rồi Trung đoàn trưởng, trước
khi là tư lệnh Sư đoàn, người sĩ quan tên Hưng này
là một cấp chỉ huy bách chiến bách thắng. Do
đó, những quyết định cấp thời vô cùng chính xác
của ông buổi trưa khi bay trên trực thăng chỉ huy
trên vùng trời Lộc Ninh, QL–13, Sông Bé và cầu
Cần Lê đã cứu vãn được An Lộc từ những giờ
phút quyết định nhất làm thay đổi cục diện
chiến trường An Lộc ngay sau đó và cục diện
chiến tranh Việt Nam trong hai năm kế tiếp. Thử
nghĩ, nếu An Lộc mất ngay trong ngày đó, 7/4/1972,
Sài Gòn sẽ ra sao? Washington sẽ nghĩ gì và làm
gì? Sách lược “Việt Nam hóa Chiến tranh” của
Nixon–Kissinger ở giai đoạn áp chót đó sẽ đi đến
đâu? Mất An Lộc trong ngày đó sẽ tạo ảnh hưởng
dây chuyền vô cùng khốc hại là chính phủ Nam
Việt Nam và QLVNCH phải lo bảo vệ Thủ đô Sài Gòn
là chính... Lấy quân ở đâu ra mà tăng cường tiếp
viện cho Kontum và Quảng Trị? Hay Hoa Kỳ sẽ phải
đưa Thủy Quân Lục Chiến trở lại Việt Nam? Không
thể có chuyện đó. Và như vậy có phải sẽ mất
tất cả hay không? Là thua cuộc sớm hơn và Hoa Kỳ
còn tiếng tăm gì với thế giới!.. Vậy phải chăng
quyết định sáng suốt và nhanh chóng của một
tướng lãnh như Tướng Lê văn Hưng ở An Lộc trong
thời điểm đó không là những quyết định lớn nhất
mang tính cách quyết định trong Chiến Tranh Việt
Nam, đã cứu nguy cho cả Sài Gòn lẫn Washington? Ông
có xứng danh là một danh tướng của miền Nam hay
không? Còn sau đó, khi trận An Lộc đã diễn ra,
đến cả những người ở trong cuộc cũng ít người
hiểu rõ về những khúc mắc trên đây đã xảy ra
trước đó, huống chi những vị cầm bút, dù có
tiếng tăm, ở bên ngoài dựa vào lời nói của
người này hay người khác mà viết về Cuộc chiến
An Lộc năm 1972 thì cũng dễ sai lạc lắm.
Tôi xin nhắc lại những quyết định trên của
Tướng Hưng:
1) Quyết định đánh bom
và oanh kích vào khu vực của một bộ chỉ huy dã
ngoại cấp Sư đoàn CSBV trên bờ tây Sông Bé.
2) Quyết định
đưa Chiến đoàn 52 từ hai căn cứ Hùng Tâm ra ngã ba
QL–13 lập thêm một tuyến án ngữ ở mặt bắc cầu
Cần Lê, tuy chưa thực hiện nhưng đã chạm súng và
kềm giữ được cánh quân lớn của CSBV đang bôn tập
xuống tấn công cầu Cần Lê.
Vì nếu quân
địch không trước tiên đánh cánh quân của Chiến
đoàn 52 trên Tỉnh lộ 17, chúng sẽ bị đơn vị này
đánh thúc ngang hông trên QL–13 khi bôn tập xuống
hướng cầu Cần Lê. Trận đánh này đủ cho tuyến cầu
Cần Lê chuẩn bị pháo tập lên khu vực tiến quân
trên QL–13 phía đông bắc nơi chạm súng của Chiến
đoàn 52 và có thời gian cần thiết phá các nhịp
cầu Cần Lê.
3) Quyết định oanh kích và dội
bom đoàn quân gồm chiến xa và quân bộ chiến của
CSVN đang bôn tập từ Lộc Ninh hướng về cầu Cần
Lê.
4) Quyết định cho Trung tá Nguyễn văn Hòa
phá sập cầu Cần Lê ngăn cản kịp thời chiến Xa
của CSBV tiến vào An Lộc khi thành phố chưa có
lực lượng phòng thủ.
Chỉ ngay trong đêm đó
Tư lệnh bộ của Sư đoàn Công trường 5 của quân CSBV
đã không còn nghe trong hệ thống vô tuyến hành
quân của Tư lệnh bộ TWC/MN hoặc COSVN hay Bộ Tư
lệnh Hành Quân của Chiến dịch Nguyễn Huệ cho đến
một tuần lễ sau theo ghi nhận và báo cáo của
Đại đội 5 Kỹ Thuật của SĐ5BB (là đơn vị kỹ
thuật Truyền tin trực thuộc Phòng 7/BTTM/QLVNCH,
chuyên môn dùng hệ thống vô tuyến tìm đài tối tân
xen vào hệ thống truyền tin vô tuyến của CSBV bắt
tin và chuyển dịch bản tin mật mã thành bạch văn
cho Phòng 2/SĐ5BB nghiên cứu và ước tính. Mỗi Sư
đoàn Bộ binh QLVNCH đều có một Đại đội Kỹ Thuật
như vậy).Với báo cáo của ĐĐ5KT và những tin tức
của binh sĩ và thường dân từ Lộc Ninh chạy về,
chúng tôi biết chắc chắn là Bộ Chỉ huy hành quân
của SĐ–5/CS đã bị hủy diệt và cánh quân gồm bộ
binh và chiến xa do Bộ Chỉ huy của Sư đoàn CS này
điều động bôn tập tấn công An Lộc trong ngày 7
tháng 4, đã bị tổn thất nặng bởi cuộc oanh kích
của KQVN buổi trưa và hai boxes B–52 trong buổi
chiều cùng ngày. Cộng thêm sự truy cản của Chiến
đoàn 52 và sự phá cầu Cần Lê, lực lượng của
TWC/MN đã không thể tấn công và chiếm An Lộc trong
ngày đó.
Cuộc tấn công chính của TWC/MN
vào An Lộc chỉ thực sự diễn ra vào ngày 13
tháng 4, 1972, tức là gần một tuần sau đó. Trong
thời gian 6 ngày, 5 đêm này Cộng quân chỉ pháo
kích bừa bãi vào thanh phố. Sư đoàn Công trường 5
của chúng phải bỏ chiến trường trên trục QL–13
vòng qua Mật khu Bến Than vào lộ trình cặp theo
Sông Sài Gòn về vùng Dầu Tiếng để bổ sung quân
lấy quân số từ Sư đoàn C30B của TWC/MN chuyển sang
để có đủ quân trở lại chiến trường An Lộc. Sư
đoàn mới thành lập C30B đã từng lấy cán bộ
khung từ Sư đoàn Công trường 9 để làm nòng cốt và
từng tấn công Chiến đoàn 49 của SĐ18BB trên trục
lộ 22 trong ngày 31/3/1972 rạng ngày 1/4/1972. Sau
trận đánh trên, Sư đoàn C30B đã bỏ vùng hoạt
động ở Tây Ninh tiến xuống vùng Sông Sài Gòn hoạt
động từ vùng Bến Than, ở sườn phía tây quận
Bình Long kéo dài xuống sườn phía tây Lai Khê,
quận Bến Cát, xuống đến Mật khu Bời Lời và tấn
công các đơn vị đóng trong các căn cứ cặp theo
hành lang Sông Sài Gòn từ căn cứ Tống Lê Chân của
Tỉnh Bình Long phía bắc Mật khu Bến Than, xuống
Trị Tâm –Dầu Tíếng, Bến Cát và Bến Súc, tỉnh
Bình Dương. Lần này, Sư đoàn C30B đã phải bổ sung
một số quân lớn cho Sư đoàn Công trường 5 ở vùng
Trị Tâm, bờ tây Sông Sài Gòn trong tuần lễ thứ hai
của tháng 4.
Bổ sung quân xong, SĐ–5/CS tức
tốc trở lại chiến trường An Lộc sau trận tấn
công đợt thứ nhất vào thành phố An Lộc của
SĐ–9/CS và các Trung đoàn 202 và 203 Chiến xa ngày
13 tháng 4. Riêng Sư đoàn C30B từ Trị Tâm kéo
xuống Bời Lời, được lệnh đánh phá rối đồn bót
ngoài ven tỉnh lỵ Bình Dương, như là mũi tấn công
phụ cấp Tiểu đoàn và Đại đội, không phải cấp
Trung đoàn cộng mà Sư đoàn này đã thực hiện ở
trục lộ 22 mấy tuần trước. Bị thất bại ở đó,
chúng kéo xuống vừa lấy thêm quân ở dọc hành
lang sông Vàm Cỏ Đông trong trung tuần tháng 5, 1972
và hoạt động trong vùng Trảng Bàng và Gò Dầu
Hạ. Ở vùng hoạt động này chúng tấn công Hiếu
Thiện và dự định cắt đứt trục lộ 22 và cô lập
Tây Ninh nhưng bị SĐ25BB đánh mấy trận dữ dội và
thiệt hại nặng nên phải rút ra vùng Mật khu Mỏ
Vẹt ngoài biên giới bổ sung lần thứ hai. Trong khi
đó thì mặt trận An Lộc và mặt bắc Chơn Thành
đang diễn ra ác liệt trong tháng 4 và tháng 5.
Trở lại mặt trận An Lộc. Sau khi Tướng Hưng
tự ra lệnh phá hủy cầu Cần Lê (không phải do Đại
tá TVN, Tiểu khu trưởng Bình Long, đề nghị, như
một số bài báo viết sai lạc) một số nhịp cầu
hư hại nặng. Ở vùng cầu Cần Lê, Chiến đoàn 52,
được tướng Hưng cho điều động TĐ31BĐQ –vừa mới
được tăng viện– tiến lên ấp An Hữu phía nam cầu,
tiếp ứng và yểm trợ, về được An Lộc với hơn 400
quân còn tác chiến được. Tình hình đã không còn
nguy hiểm như buổi sáng ngày đó. Sau đó, các đơn
vị do Trung tá Nguyễn văn Hòa chỉ huy ở Cần Lê
gồm một Đại đội của TĐ2/9, hai Đại đội ĐPQ 256
và 257 cũng rời căn cứ Cần Lê rút về trong buổi
xế trưa sau khi phả hủy hai khẩu pháo 155 ly và
bốn khẩu 105 ly theo lệnh của Tướng Hưng, vì không
có xe để kéo pháo về. Buổi chiều khi quân bộ và
chiến xa của CSBV tiến đến cầu Cần Lê thì đã
không thể vượt được qua cầu, ngược lại chúng còn
bị hứng thêm những trận oanh kích nặng của KQVN.
Dĩ nhiên cuộc tấn công qui mô vào An Lộc ngày
7 tháng 4 của TWC/MN phải đình hoãn. Thứ nhất,
vì đơn vị bôn tập vào An Lộc là Sư đoàn Công
trường 5 của chúng bị thiệt hại lớn lao. Thứ
hai, chiến xa của các Trung đoàn 202 và 203 Chiến
xa CSBV cũng bị thiệt hại, tuy không nặng lắm
–khi phối hợp bôn tập với quân bộ chiến của
SĐCT5/CS của TWC/MN– nhưng đã không thể qua được
cầu Cần Lê đã được phá hủy kịp lúc. Nhờ vậy,
Tướng Minh Tư lệnh QĐIII & V3CT chẳng những không
mất An Lộc trong ngày, mà còn có thì giờ đổ
quân vào đó tăng viện cho Tướng Hưng và giải tỏa
được An Lộc. Từ đó, ông được đánh giá như một
tướng tài đã đánh bại được CSBV trong mùa Hè 1972
trong lãnh thổ trách nhiệm của ông.
Tướng
Minh có một nhãn quang rất sáng giúp ông chọn
đúng một người đủ tài để giữ đất giữ thành
trong cơn giặc tràn bờ như dầu sôi lửa bỏng. Dù
ông có chê trách hay nổi giận với người tướng
này trong một chiến dịch, trong cuộc điều quân
nhiều thất lợi lúc ban đầu đó, cũng không là
điều đáng nêu lên. Tuy nhiên hình như hào quang có
lúc bị che khuất nên ông trông một sĩ quan khác
như con gà hóa thành con quốc –con cuốc– quá
cưng chiều nó. Mà nếu chỉ coi con gà đó là con
quốc cũng được, không ai muốn nói đến. Vì con
quốc và con gà có hơn kém bao nhiêu đâu!.. Con
quốc được tiếng kêu buồn thảm thiết. Con gà
trống thì được tiếng gáy. Mà con “gà này” thì
tiếng gáy thật hay. Nên Tướng Minh bị mê hoặc, nên
tưởng nó là con phụng. Sự thực là sự thực.
Trung tướng Nguyễn văn Minh là một cấp chỉ huy
thực tốt, tôi luôn quí trọng, nhưng tôi nghĩ lòng
tốt và sự tin tưởng của Trung tướng đối với
thuộc cấp đã bị “con gà” kia khai thác và lợi
dụng.
Sáng ngày 7 tháng 4, Chiến đoàn 3 BĐQ
của Trung tá Nguyễn văn Biết, được trực thăng vận
tăng viện vào An Lộc gồm các đơn vị chính là
TĐ31, TĐ36 và TĐ52, chừng hơn 1,500 người. Trung tá
Biết, các Tiểu đoàn trưởng, các Đại đội trưởng
CĐ33BĐQ đều là những sĩ quan lỗi lạc, dày dạn
chiến trường. Ngày hôm sau, Tướng Minh cho tăng
cường vào An Lộc Trung đoàn 8 –là đơn vị cơ hữu
của SĐ5BB– gồm hai TĐ1/8, 2/8 và ĐĐ8TS chừng hơn
850 người do Đại tá Mạch văn Trường chỉ huy (TĐ3/8
được giữ lại Lai Khê để bảo vệ BTL Tiền Phương
của Quân Đoàn III của Tướng Minh). Tuy nhiên suốt
trận đánh của Trung đoàn 8 ở An Lộc sau đó đều do
Thiếu tá Huỳnh văn Tâm, Trung đoàn phó chỉ huy. Lý
do là: ngay trong buổi trưa ngày đầu tiên, 8 tháng
4, khi Trung đoàn 8 (–) đổ quân vào khu phố phía
bắc thành phố gần sân bay Đồng Long, Đại tá MVT,
đứng ở cạnh đường trước bộ chỉ huy nhẹ của
mình, quan sát các đơn vị trực thuộc vào vị
trí, một viên đạn M–72 bị một Dodge 4/4 cán phải,
nổ khá xa, một mảnh nhỏ văng trúng phần vai
trước (tôi không nhớ rõ vai phải hay vai trái vì
thương tích không đáng để ý) không chạm gân và
xương, theo như lời Bác sĩ Hùng, Tiểu đoàn trưởng
Tiểu đoàn 5 Quân Y của Sư đoàn, trình với Tướng
Hưng. Nhưng khi Đại tá MVT xin ở lại Bộ TL/HQ Sư
đoàn để điều trị, Tướng Hưng cười và cho Đại tá
MVT ở trong căn phòng nhỏ –dành riêng cho Tư
lệnh– ở cuối đường hầm ngầm. Tướng Hưng còn
chỉ thị mỗi ngày Bác sĩ H. đến chăm sóc vết
thương nhỏ này. Nơi dành cho tư lệnh là nơi an toàn
nhất trong hầm ngầm, Tướng Hưng đã không dùng
đến, nhường cho Đại tá MVT ở để trị vết thương.
Tướng Hưng và Đại tá Cố vấn Miller phải bắc ghế
bố ngay cửa hầm từ mặt đất xuống và đặt một
chiếc bàn thấp, nhỏ, giữa hai chiếc ghế bố làm
chiếc bàn hành quân cho hai người. Phần hầm chỗ
này trở thành Trung tâm Hành Quân. Cạnh đó là một
chiếc bàn dài kê sát tường đặt hệ thống truyền
tin vô tuyến và điện thoại. Còn chúng tôi, Đại tá
Lê Nguyên Vỹ, Đại tá Bùi Đức Điềm, Trung tá Trịnh
Đình Đăng Trưởng phòng 3, Bác sĩ Hùng, tôi và
mấy sĩ quan tham mưu cần thiết khác –chừng ba
bốn người nữa– đều bắc ghế bố nằm ở phía đầu
trong của chiếc bàn truyền tin.
7.
HOA KỲ VÀ CHIẾN CUỘC MÙA HÈ 1972 Ở MIỀN NAM
VIỆT NAM.
TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG TUYÊN BỐ “TỬ
THỦ AN LỘC”
Thiết nghĩ, nếu
muốn nói rõ vai trò quan trọng của các tướng
lãnh trên chiến trường thuộc lãnh thỗ QĐIII &
V3CT, nhất thiết phải nêu lên toàn cảnh chiến
dịch Xuân–Hè 1972 của CSBV ở miền Nam Việt Nam.
Hơn nữa, cần nhận định rõ vị thế và vai trò
của Washington trong trận chiến đặc biệt quan
trọng này trong toàn bộ chiến tranh Việt Nam.
Sau các trận đánh lớn giữa các
lượng QLVNCH và Quân CSBV trên lãnh thổ Lào và
Miên trong năm 1971, nhận định của giới quan sát
quốc tế am tường về tình hình thế giới và
Chiến Tranh Việt Nam đều cho rằng sắp bước vào
giai đoạn mà Nixon và Kissinger sẽ kết thúc cuộc
chiến ở đó với bất cứ giá nào chớ không phải
với “hòa bình trong danh dự” –peace with honor–
như các nhà lãnh đạo chính trị này rêu rao. Lúc
đó cặp bài trùng này chỉ coi Việt Nam là một
sideshow –một màn phụ diễn– của những vấn đề
trọng đại hơn mà Chính phủ Nixon của Đảng Cộng
Hòa cần giải quyết, nếu không muốn để cho Đảng
Dân Chủ thắng trong cuộc bầu cử sắp diễn ra trong
các tháng cuối năm 1972. Giới này cho rằng
Kissinger đã gần đánh bại QLVNCH với âm mưu “thí
quân” của ông ta ở hai mặt trận này sau khi đã thi
hành gần trọn vẹn sách lược “Việt Nam hóa Chiến
tranh”; từ đó chiến tranh sẽ chấm dứt vì Nam
Việt Nam sẽ như cua gãy càng. Kissinger nghĩ rằng
miền Bắc cũng lâm vào tình trạng như vậy.
Mà quả thật, từ tháng 7 cho cuối năm 1971, quân
lực cả Miền Bắc lẫn Miền Nam đã bị những tổn
thất rất nặng nề, không đủ sức đánh nhau trong
sáu, bảy, tháng liền cho đến đầu năm 1972. Thời
gian đó hội đàm Paris về Việt Nam trì trệ…. Cuộc
mật đàm giữa Kissinger và Lê Đức Thọ cũng không
đi đến đâu. Và tên phù thủy chính trị Kissinger,
dù coi Việt Nam là một sideshow, đã biểu diễn
màn ảo thuật quốc tế lớn lao chẳng những làm
cho cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam đều ngơ ngác sợ
mà cả Liên Xô cũng thực sự lo lắng, nên sau đó
cũng đã tiếp Nixon (May 22nd, 1972) và hòa hoãn hơn
trong việc ký hiệp ước hạn chế Vũ khí Nguyên tử
Chiến lược SALT –Strategic Arms Limitation Talks–
sau đó. Từ mấy tháng trước, Kissinger đã dàn xếp
xong màn diễn với việc TT Nixon bay sang Bắc Kinh
gặp gỡ Chu Ân Lai, Thủ tướng Chính phủ Trung Quốc
Cộng sản, ngày 21 tháng 2, 1972. Ai cũng biết một
cuộc “dàn xếp tối mật” trật tự thế giới đang
diễn ra. Nhưng diễn ra như thế nào là phần ước
đoán riêng của mỗi người. Liên Xô đã nhìn thấy
hiểm họa cho chính họ. Bắc Việt nằm trong tay
những đầu xỏ như Lê Duẫn, Lê Đức Thọ và Phạm
Hùng với thay đổi lớn lao là chính họ đã cho
phép phê phán “Chủ nghĩa Xét Lại” của Nikita
Khrushchev đề ra trước đó, trong Hội Nghị Trung
Ương Đảng CSVN lần thứ IX và bí mật chủ trương
theo Trung Cộng, mặc dù bên ngoài không để lộ ra,
nhưng bên trong Lê Đức Thọ –người thực sự lãnh
đạo miền Bắc Việt Nam– với các em ruột ông này
đang nắm ngành an ninh trong đảng, trong nước, và
nắm toàn bộ tài sản ngoại viện của khối CSQT
cho “Quân Đội Nhân Dân”... đã bắt đầu thủ thiêu
những phần tử trong Bộ Chính Trí và Trung Ương
Đảng, hay tướng lãnh Quân Đội Nhân Dân kể cả tước
quyền Tổng tư lệnh của Võ Nguyên Giáp.
Lúc
đó, Chính phủ Nguyễn văn Thiệu càng lo sợ hơn về
sách lược của Kissinger nhưng đành bó tay, chỉ
còn biết trông cậy vào người đồng minh đỡ đầu
của mình.
Trên đây là nguyên nhân chính,
nhưng xa, âm thầm diễn ra bên trong. Trên mặt nổi,
hai sự kiện dưới đây là nguyên nhân gần bắt buộc
Bắc Việt phải hành động trong một khoảng thời
gian nhất định nào đó, nếu trễ hơn hậu quả đến
với họ sẽ vô cùng trầm trọng.
Một là,
ngày 26 tháng 3, 1972 Thứ trưởng Quốc Phòng Liên
Xô, Thống chế Pedorovich, đến Hà Nội với một phái
đoàn quân sự đông đảo duyệt xét lại toàn bộ kế
hoạch tấn công miền Nam của Quân uỷ Trung Ương
Đảng CSVN. Trước đó, Liên Xô cũng đã nhìn rõ ý
đồ của Nhà Trắng về Việt Nam nên đã cho Phó Thủ
tướng Chính phủ Podgorny trong tháng 12, năm 1971,
bàn định về một kế hoạch tấn công miền Nam với
lời hứa viện trợ bất bồi hoàn các loại chiến
xa tối tân hạng nặng T–54, T–55 và PT–76 cùng các
loại hỏa lực chiến lược như trọng pháo 130 ly,
150 ly, các chiến đấu cơ MIG–19 và MIG–21, các đại
bác phòng không 23 ly và 57 ly, và các hỏa tiễn
chống tank AT–3 Sagger và hỏa tiễn địa không SA–7
Strela chống các loại phi cơ quân sự, nhất là
trực thăng võ trang và chuyển quân. Tất cả các
vũ khí này được chuyển vận vào cảng Hải Phòng
với khối lượng khổng lồ trong mấy tháng liền
nhưng việc phong tỏa cảng Hải Phòng chỉ thực
hiện mấy tháng sau khi CSBV đã kết thúc chiến
dịch tổng tấn công miền Nam.... Tuy nhiên, cuộc
tổng tấn công này chỉ được thực hiện với sự
chấp thuận của Bắc Kinh, mà trong thâm sâu Đặng
Tiểu Bình cũng muốn triệt bớt tiềm năng nhân lực
của Quân đội Nhân Dân miền Bắc để dễ bề thao túng
sau này.
Hai là, tháng 11, năm 1972 sẽ là
tháng bầu cử tổng thống và TNS, và DB lưỡng
viện liên bang Hoa Kỳ và cấp bộ lãnh đạo hành
pháp và lập pháp các tiểu bang. Đây là cuộc
tổng tuyển cử vô cùng quan trọng sẽ ảnh hướng
lớn lao đến tình hình thế giới khi Hoa Kỳ còn
trong thời kỳ chiến tranh. Nếu Đảng Dân Chủ Hoa
Kỳ cầm quyền, chắc chắn là họ sẽ bỏ cuộc ở
Việt Nam nhanh chóng hơn. Theo luận lý này CSBV cần
phải đánh bại Nam Việt Nam trước, mới đánh bại
được Nixon. Và cuộc chiến đó phải dứt điểm
thành công vài tháng trước khi cuộc tổng bầu cử
ở Hoa Kỳ bắt đầu. Điều này các cơ quan tình báo
cấp cao miền Nam, dân sự lẫn quân sự, đều biết
nhưng đã không ước lượng được sự lớn lao của
cuộc chiến sắp diễn ra và thời điểm chính xác
vì chỉ có Hoa Kỳ mới hiểu rõ mức độ vận
chuyển các loại vũ khí chiến lược của khối
Cộng Sản quốc tế vào cảng Hải Phòng và mức độ
xâm nhập của CSBV vào Nam Việt Nam trên đường mòn
Hồ Chí Minh. Chắc chắn là Tòa Bạch Ốc biết, Ngũ
Giác Đài biết và MACV ở Sài Gòn cũng biết, nhưng
chúng ta –các cơ quan tình báo miền Nam– không
biết... rõ, vì khả năng sưu tầm kỹ thuật của
các cơ quan tình báo của chúng ta bị người bạn
đồng minh của mình hạn chế trong cuộc chiến tranh
chung này. Người bạn đồng minh này cũng độc quyền
nắm sinh mạng quốc gia của chúng ta trong tay.
Nhưng trên bình diện chính trị, khi cuộc chiến
bắt đầu khai diễn, Washington đã có những phản
ứng quyết liệt như TT Nixon tuyên bố: –”The bastards
have never been bombed like they’re going to be this
time.” Lũ khốn kiếp này chưa từng nhận những trận
đánh bom nào như những trận bom sắp tới trong lần
này. Và ông ta đã ra lệnh cho KLHK yểm trợ hỏa lực
không kích yểm trợ tối đa cho QLVNCH, kể cả sử
dụng vũ khí B–52 lợi hại của Không Quân Chiến
lược Hoa Kỳ mà chúng ta đã ghi nhận qua suốt
trận chiến mùa Hè năm 1972 đó.
Quân CSBV đã
động viên toàn lực, kể cả việc động viên thiếu
niên ở tuổi 16, đưa vào tấn công miền Nam ở ba
mặt trận chính: Quảng Trị ở Vùng 1 Chiến Thuật,
Kontum ở Vùng 2 Chiến Thuật và Bình Long ở Vùng
3 Chiến Thuật. Trong chiến dịch lớn lao, sống
còn, này CSBV đã tung vào chiến trường tất cả
trên dưới 200,000 quân tác chiến, không kể nhân lực
phục dịch hậu cần và vận chuyển, thường bằng
hoặc gấp hai lần nhân số tác chiến. Nếu tính
thành đơn vị thì chúng đã sử dụng 14 Sư đoàn bộ
binh, 4 Sư đoàn pháo binh và phòng không cơ giới,
từ 4 đến 6 Trung đoàn chiến xa, 26 đơn vị chuyên
môn cấp Trung đoàn. Tính chung chừng 22 Sư đoàn
với các loại vũ khi tân tiến nhất của Liên Xô và
Trung Quốc, chia thành ba mũi dùi tấn công vào
Quảng Trị và Thừa Thiên ở V1CT vào Kontum và
Bình Định ở V3CT và vào Tây Ninh và Bình Long ở
V3CT. Mặt trận nào cũng nguy hiểm. Tuy nhiên, nếu
QLVNCH để mất một tỉnh nào ở Vùng 1 hoặc Vùng 2
thì tình trạng chung vẫn chưa thể gọi là nguy
ngập. Một ước tính rộng lớn hơn cho rằng nếu
CSBV thắng cả ở hai mặt trận ở các Vùng Chiến
Thuật này miền Nam vẫn còn tồn tại từ Nha Trang
trở vào. Như vậy, vẫn là chưa mất hẳn. Nhưng nếu
mất Bình Long hay Tây Ninh ở Vùng 3, sát cạnh Sài
Gòn thì tình trạng vô cùng nguy ngập, vì Sài Gòn
có thể bị mất ngay sau đó. Vì vậy, chiến trường
Bình Long vô cùng quan trọng cho sự sống còn của
miền Nam trong năm 1972.
Book marks: LGT | TSTG | KỲ–1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | KỲ–12 | PL | Đầu trang
KỲ–6
Tướng
LÊ VĂN HƯNG &
Những sự thực ở Chiến trường AN LỘC
trong Mùa Hè Đỏ
Lửa 1972; cont'd...
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Kỳ–6
Trận TCK của CSBV
trong mùa Hè 1972 này vào miền Nam VN, chúng chia
vùng trách nhiệm lãnh đạo chỉ huy như sau: Mặt
trận Trị–Thiên do chính Bộ Tư lệnh miền Bắc chỉ
đạo. Miền Trung VN chia làm hai vùng: Vùng Cao
Nguyên do Bộ Tư lệnh Mặt trận B–3 Tây Nguyên chỉ
huy; miền Duyên hải do Bộ Tư lệnh Quân khu 5 chỉ
huy. Miền Nam: Vùng 3 và Vùng 4/CT do Trung Ương
Cục Miền Nam chỉ đạo với chiến dịch Nguyễn Huệ.
Trở lại mặt trận Vùng 3 Chiến Thuật, TWC/MN,
sau khi đã dứt điểm xong Lộc Ninh và thất bại
trong việc bôn tập tấn công An Lộc trong ngày 7
tháng 4, đã phải đình hoãn trận tấn công này
lại như đã đề cập ở trên cho đến ngày 13 tháng
4. Trong sáu ngày này mặt trận đã có những thay
đổi lớn, nhất là về việc tăng quân của QLVNCH cho
tỉnh Bình Long. Trong hai ngày 7 và 8, tháng 4, sau
khi tăng cường cho Tướng Hưng trong thị xã An Lộc
Chiến đoàn 3 BĐQ và Trung đoàn 8 (–), Trung tướng
Minh được Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH tăng cường Lữ
đoàn 1 Nhảy Dù từ trước trận đánh, nay Sư đoàn
21 Bộ Binh được đưa từ miền Tây lên để tăng viện
cho Tướng Minh giải tỏa chốt chặn của CSBV vùng
suối Tàu–Ô trên QL–13, phía bắc Quận Chơn Thành.
Chốt chặn này không phải là thứ chốt chặn cấp
Đại đội hay Tiểu đoàn như đã biết trên những
chiến trường khác trước đó, mà là một tuyến án
ngữ dài và rộng trên trục lộ và hai bên trục
QL–13, với những hầm hố được đào đắp sâu và
kiến cố, nhất là ở hai ngọn đồi hai bên trục lộ
chế ngự toàn khu vực này mà trước năm 1968 là căn
cứ đóng quân kiên cố cấp Tiểu đoàn của lực lượng
Hoa Kỳ. Chốt chặn trong khu vực này do nguyên cả Sư
đoàn 7 của CSBV, một đại đơn vị thiện chiến và
trang bị các loại vũ khí, các loại súng phòng
không tân tiến, kể cả hoả tiễn phòng không loại
nhẹ, nhưng kiến hiệu, mới được phát hiện SA–7.
SĐ–7/CSBV này đã bọc xuống phía nam thị xã An
Lộc khi SĐ–5/CS thuộc TWC/MN đang bôn tập để tấn
công cầu Cần Lê và An Lộc ngày 7 tháng 4. Trong
khi SĐ–5/CS thất bại và bị thiệt hại nặng phải
rút xuống vùng Trị Tâm và Bời Lời trên Sông Sài
Gòn gần tỉnh lỵ Bình Dương để thay quân và bổ
sung, thì SĐ–7/CSBV thành công trong việc thiết lập
được hệ thống chốt chặn kiên cố Tàu–Ô. Với việc
cắt đứt giao thông trên trục lộ huyết mạch này,
An Lộc hoàn toàn bị bao vây và cô lập kể từ
ngày 10 tháng 4, 1972.
Trong buổi sáng ngày
9 tháng 4, một phái đoàn phóng viên của Nhật báo
Sóng Thần gồm Dương Phục, Thu Thủy và Nguyễn
Tiến bay trực thăng lên An Lộc định phỏng vấn
Tướng Lê văn Hưng về chiến trường sắp diễn ra.
Lúc đó Tướng Hưng đang bận nên ủy thác cho tôi
tiếp phái đoàn. Tướng Hưng nói với tôi là xin
cáo lỗi phái đoàn vì ông bận việc hành quân
không tiếp được, Chỉ cho phép tôi nói là “ÔNG
NHẤT QUYẾT TỬ THỦ AN LỘC VÀ SẼ NHẤT ĐỊNH CHẾT
Ở ĐÓ NẾU THÀNH PHỐ NÀY BỊ CÔNG SẢN CHIẾM”. Ông
cũng cho phép tôi nói những gì trong sự hiểu
biết của tôi về các lực lượng CSBV. Trong mấy vị
phóng viên này Dương Phục và Thu Thủy là những
người bạn quen thân với tôi từ các cuộc hành quân
Toàn Thắng năm 1970–1971 trên lãnh thổ Miên thời
Tướng Đỗ Cao Trí. Tôi lập lại nguyên văn câu tuyên
bố “TỬ THỦ AN LỘC” của Tướng Hưng. Trong ngày hôm
sau, cả thủ đô Sài Gòn và các thành phố miền Nam
đều biết Tướng Hưng tuyên bố tử thủ An Lộc sau
khi số báo Sóng Thần ra mắt độc giả. Hiện nay,
tôi được biết các phóng viên này, nhất là Dương
Phục và Thu Thủy, đang sống ở Texas, Hoa Kỳ, có
thể xác nhận những điêu trên đây.
Ở Mật
trận toàn Vùng 3 Chiến Thuật này tướng Cộng Sản
đối đầu với Trung tướng Nguyễn văn Minh là Thượng
tướng Trần văn Trà. Tướng Trà sinh tại Quảng
Ngãi năm 1920, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương
năm 1938, kháng chiến chống Pháp trong Quân Đội
Nhân Dân –the People’s Army– của Đảng CSVN mà Võ
Nguyên Giáp là Tổng Tư lệnh, từ năm 1946 đến năm
1954. Được phong cấp Thiếu tướng năm 1961 và là Tư
lệnh Mặt Trận B–2 của chúng, tức là phụ trách
quân sự và chỉ huy toàn thể lực lượng cộng sản
trong toàn lãnh thổ phía nam của miền Nam Việt
Nam (bao gồm một phần lãnh thổ của Vùng 2 Chiến
Thuật và toàn thể Vùng 3 và Vùng 4 Chiến
Thuật). Cũng trong năm đó, CSBV đưa Tướng Trần
Lương –hay Trần Nam Trung– và Trần Độ vào miền
Nam thành lập Trung ương Cục miền Nam, hay TWC/MN,
mà phía Hoa Kỳ và MACV gọi là COSVN (Central
Office of South Vietnam, xem lại ở phần trên), là cơ
quan chỉ đạo cả về chính trị và quân sự của Bộ
Chính Trị Đảng LĐVN (để kiện toàn hệ thống chỉ
đạo của Đảng ở B–2). Nguyễn văn Linh là nhân vật
lãnh đạo chính trị cao cấp nhất và Tướng Trần
văn Trà là tư lệnh các lực lượng vũ trang. Từ
năm 1964, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Trung
ương Đảng được đưa vào Nam vừa là Chính ủy và Tư
lệnh TWC/MN thì hai nhân vật chính trị và quân sự
kể trên được điều ra miền Bắc.
Năm 1967,
Nguyễn Chí Thanh chết đột ngột (có thể bị thanh
toán bằng độc dược). Phạm Hùng, nhân vật thứ tư
của Bộ Chính Trị Đảng Lao Động VN được đưa vào
Nam thay thế chỉ đạo toàn thể mọi tổ chức và hệ
thống “kháng chiến” của Đảng ở miền Nam. Tư lệnh
lực lượng quân sự ở miền Nam giao trở lại cho
Tướng Trần văn Trà. Lúc đó, Mặt Trận Giải Phóng
miền Nam Việt Nam của Nguyễn Hữu Thọ và Huỳnh
Tấn Phát cũng đã được Hồ Chí Minh cho thành lập
và sau đó cải danh thành Chính Phủ Lâm Thời miền
Nam Việt Nam, khi hội nghị hòa đàm ở Paris bắt
đầu. Tướng Nguyễn Cao Kỳ Chủ tịch ủy Ban HPTU và
Chính phủ miền Nam chỉ coi MTGPMN như một thực tế
chớ không phải là một thực thể (The Southern
Liberation Front is a reality but not an entity). Và
vì vậy nên CSVN nâng cấp MTGPMN từ một “tổ chức”
thành một “chính phủ”. Tướng Trần Nam Trung là
Bộ trưởng Quốc phòng của Chính phủ LTMNVN. Tướng
Trần văn Trà vừa là Tư lệnh phó các lực lượng
vũ trang TWC/MN cũng là Tư lệnh phó lực lượng vũ
trang MTGP/MNVN.
Phía Hoa Kỳ, MACV cho rằng
NVA –(North Vietnam Army) là lực lượng miền Bắc xâm
nhập còn VC hay Việt Cộng là các đơn vị vũ trang
của MTGP/MNVN hay của CPLT/MNVN. Đây là thứ hỏa
mù. Trên thực tế tất cả những lực lượng võ
trang trong chiến tranh của CS ở miền Nam đều do
Đảng CSVN xây dựng và chỉ đạo. Những kế hoạch
tấn công lớn của CSVN ở miền Nam Việt Nam (trong
lãnh thổ Mặt Trận B–2 cũ mà Trà là tư lệnh)
đều do Trần văn Trà thiết kế và chỉ đạo như
trận Tết Mậu Thân, Trận Mùa Hè 1972 này, trận
tấn công thăm dò đánh chiếm Phước Long đầu năm
1974, hay chiến dịch Nguyễn Huệ sau này bao vây và
tấn chiếm Sài Gòn, năm 1975, v.v.) Tóm lại, Trần
văn Trà là danh tướng của CSBV, đã chỉ huy hàng
trăm trận đánh chống Pháp và các lực lượng Hoa
Kỳ ở B–2, trước khi diễn ra trận TCK Tết Mậu Thân
và Trận TCK mùa Hè 1972 này. Riêng trong Chiến
dịch Nguyễn Huệ mùa Hè này, Trần văn Trà, Tư
lệnh Măt Trận B–2 cũ, là tư lệnh lực lượng của
CSBV lẫn của TWC/MN tấn công vào QĐIII & V3CT. Có
hiểu được “tài” của Tướng Trần văn Trà, mới
hiểu được “trí” của Tướng Nguyễn văn Minh.
Điểm ghi nhận lớn nhất có thể nhìn thấy là kế
hoạch tấn công của các lực lượng CSBV do các
Tướng CSBV hay Tướng Trần văn Trà thiết lập quá
dè dặt nên không chiếm lĩnh được mục tiêu là
tỉnh lỵ Bình Long, tức thành phố An Lộc. TWC/MN
đã nướng quân khá nhiều khi tập trung tấn công
Lộc Ninh với kế hoạch “Tập Tấn” mà không dám
nghĩ đến chiến thuật “Tản Tấn” nên mất thời cơ
không chiếm được An Lộc ngay trong tuần lễ đầu,
hay nói rõ hơn là bốn ngày đầu, của chiến dịch
qui mô này. Chiến thuật tập tấn và tản tấn tôi
đã đề cập sơ lược ở phần trên. Các tướng CSBV
và TWC/MN thiếu quyết đoán và thiếu tự tin. Nếu
họ có các đức tính này, thì chiến tranh đã có
thể chấm dứt ngay trước mùa bầu cử Hoa Kỳ năm
1972.
Thử nhìn lại trận chiến ở tuẩn lễ
đầu này –từ 3 đến 7 tháng 4, 1972. TWC/MN có bốn
Sư đoàn bộ binh, một Sư đoàn pháo nặng được tăng
cường hai Trung đoàn phòng không, hai Trung đoàn
chiến xa và một Trung đoàn đặc công, và còn thêm
Trung đoàn 95B thiện chiến từ Tây Nguyên đưa vào,
không kể một số Trung đoàn và Tiểu đoàn địa
phương khác. Thực tế trận chiến diễn ra trong
tuần lễ đầu của Chiến dịch Nguyễn Huệ tấn công
vào lãnh thổ QĐIII & V3CT được ghi nhận là: Tướng
Trà sử dụng Sư đoàn Bình Long mới thành lập
đánh dứ –nhưng có kết quả– ở Tây Ninh trong
ngày 31/3/1972, coi như “diện” (chiến thuật “dương
đông kích tây” mà mục tiêu đánh nhử là “diện” và
mục tiêu chính là “điểm”). Ba ngày sau, giữa khuya
đêm 4 rạng 5, tháng 4, Tướng Trà đã tung vào
chiến trường “điểm” Lộc Ninh gần hết lực lượng
lớn của mình để tấn công tiêu diệt Trung đoàn 9
Bộ binh và Thiết đoàn 1 Kỵ binh của SĐ5BB và
chiếm Lộc Ninh trước trong khi sử dụng chỉ một
đơn vị đặc công và một đơn vị pháo nhỏ tấn công
căn cứ và sân bay Quản Lợi, khoảng 5 km đông An
Lộc. Không có pháo kích và tấn công Bộ Tư lệnh
SĐ5BB ở Lai Khê hay vào An Lộc trong đêm 4 rạng
ngày 5, tháng 4 như một số bài viết tưởng tượng.
Sau khi dứt điểm Lộc Ninh mới dùng SĐ–5/CS và
các đơn vị chiến xa (Trung đoàn 202 và 203 Chiến
xa) bôn tập theo trục QL–13 định vượt cầu Cần Lê
tấn công An Lộc trong ngày 7 tháng 4. Đêm trước,
6/4 hay có thể trước đó chừng nửa ngày, Tướng
Trần văn Trà đã điều động SĐ–7/CSBV vòng qua thị
xã An Lộc và thiết lập hệ thống “chốt chặn” ở
khu vực Suối Tàu–Ô trên trục lộ QL–13 phía nam An
Lộc chừng 15 km, và phía bắc của quận lỵ Chơn
Thành cũng chừng khoảng cách đó. Mục đích là
chận viện của lực lượng bộ binh VNCH từ phía nam
tiến lên tiếp viện An Lộc đồng thời chặn đường
rút lui của các lực lượng phòng thủ An Lộc. Kế
hoạch như vậy, Tướng Hưng và chúng tôi gọi là
“Tập Tấn”, tức là lối tấn công tập trung dứt
điểm từng cụm chiến trường, tiêu diệt từng phần
lực lượng đối phương. “Quân đội Nhân dân” Bắc Việt
rập khuôn chiến thuật tập tấn biển người của
Hồng quân Trung Cộng. Chiến thuật này rõ ràng là
để lộ quá nhiều sơ hở, đánh mất thời cơ, và
đương nhiên hứng chịu nhiều tổn thất bởi phi pháo
của đối phương. Kết quả của tuần lễ đầu đó,
Tướng Lê văn Hưng, Tư lệnh SĐ5BB dưới sự tập trung
tấn công của gần như hai Sư đoàn bộ binh và một
Sư đoàn pháo và chiến xa tất nhiên không giữ nổi
Lộc Ninh nhưng, mặc dù bị mất hai đơn vị với hai
nghìn quân, Tướng Hưng đã gây tổn thất nặng cho
lực lượng của TWC/MN ngay ở trận Lộc Ninh, và khi
bộ binh và chiến xa của CSBV bôn tập trên QL–13
trong ngày 7/4, đồng thời Tướng Hưng có đủ thời
gian đem quân về phòng thủ An Lộc, củng cố hệ
thống phòng thủ, xin thêm viện binh “tử thủ” An
Lộc. Đó là cú đấm trả đầu tiên của Tướng Hưng.
Cú đấm thứ hai là do Tướng Nguyễn văn Minh, Tư
lệnh QĐIII & V3CT đánh ra với sự khôn ngoan tinh tế
và kinh nghiệm chiến trường của ông.
Như ở
phần trên tôi có đề cập Tướng Nguyễn văn Minh
không phải là dũng tướng như cố Đại tướng Đỗ Cao
Trí, nhưng là một tướng lãnh rất thận trọng và
“túc trí”, hay là một “túc tướng”. Ông suy nghĩ
rất chặt chẽ trước khi đưa ra những quyết định
hay những đề nghị hợp lý trong chiến thuật hành
quân và dụng binh. Điều này tôi không nói ngoa mà
cũng không tâng bốc Tướng Minh. Dưới đây là thí
dụ điển hình về sự túc trí của Tướng Minh. Khi
được trình về tin tức SĐ–5/CS và Sư đoàn C30B –hay
Sư đoàn Bình Long mới thành lập– của TWC/MN đồng
thời cùng tập trung về vùng Trị Tâm và Mật khu
Bời Lời gần tỉnh lỵ Bình Dương, trên thực tế là
để bổ sung quân cho SĐ–5/CS sau khi bôn tập từ Lộc
Ninh xuống tấn công An Lộc và bị tổn thất nặng
trong ngày 7 tháng 4, như nói ở phần trên, nhưng
lúc đó Tướng Minh tuyên bố với các phóng viên
chiến trường, tôi nhớ đại khái là: “Sau khi đánh
xong Lộc Ninh, đại bộ phận Sư đoàn Công trường 5
bôn tập xuống Trị Tâm hoạt động phối hợp với Sư
đoàn C30B. Các đại đơn vị Cộng sản nằm sát các
thị trấn gần thủ đô, rất nguy hiểm khi thọc sâu
xuống phía nam. Phải chú ý theo dõi Sư đoàn Công
trường 5 với những mặt trận mới có thể mở ra.”
Khi tuyên bố như vậy chẳng những Tướng Minh ám
chỉ là có thể SĐ–5/CS phối hợp với Sư đoàn C30B
tấn công tỉnh lỵ Bình Dương và Biên Hòa, kể cả
Gia Định đồng thời TWC/MN cũng sẽ mở những mặt
trận mới với các lực lượng địa phương nhắm vào
Long Khánh và Phước Tuy. Những gì Ông tuyên bố
đều là “khả năng có thể có của các lực lượng
TWC/MN”.
Thực ra, như đã trình bày, mục
đích của TWC/MN điều SĐ–5/CS và Sư đoàn C30B về
Trị Tâm trên vùng Sông Sài Gòn không phải để tấn
công mà để cho SĐ–5/CS lấy thêm quân từ Sư đoàn
C30B rồi sau đó trở lên mặt trận An Lộc, như đã
nói ở trên, chớ không phải xuống đó để chuẩn bị
tấn công Bình Dương. Tuy nhiên vì sự điều động hai
đại đơn vị này của Tướng Trần văn Trà gần bên
nách Sài Gòn nên Tướng Minh có lý do chính trình
lên BTTM/QLVNCH và Tổng thống để giữ nguyên SĐ18BB
(trừ Chiến đoàn 52 đã tăng viện cho SĐ5BB trước
trận Lộc Ninh) đang trấn đóng các tỉnh phía đông
Sài Gòn trên trục QL–1, và SĐ25BB đang trấn đóng
tại Củ Chi lên Tây Ninh trên trục QL–1 phía tây thủ
đô, và các đơn vị chiến xa và BĐQ thuộc Lữ đoàn
Xung kích của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi trước đây,
làm lực lượng trừ bị ở Biên Hòa. Đó là những
đại đơn vị cơ hữu của QĐIII, Tướng Minh có đủ
lực lượng chuẩn bị phá “những mặt trận mới của
TWU/MN” trong lãnh thổ QĐIII & V3CT, trong khi đó
thì Tổng Tham mưu trưởng BTTM/QLVNCH, Đại tướng Cao
văn Viên nhất định phải trình TT Nguyễn văn Thiệu
tăng viện lớn lao cho Vùng 3 CT. Cũng dĩ nhiên
Tổng thống sẽ chấp thuận.
BTTM/QLVNCH đã
điều động SĐ21BB, sau đó ít lâu còn điều động
thêm Trung đoàn 15 của SĐ9BB tăng viện ở mặt trận
Bình Long. Và cũng vì sợ nguy ngập cho Sài Gòn,
nên TT Thiệu còn điều động hai Lữ đoàn 3 Dù từ
Vùng 2CT về tăng viện tướng Minh, đưa Lữ đoàn 1
Dù và Liên đoàn 81 Biệt Cánh Nhảy Dù vào An Lộc
cho Tướng Hưng. Như vậy, với viễn kiến của mình,
Tướng Minh đã nhìn thấy rõ mặt trận rộng lớn
hơn trong toàn lãnh thổ mà ông chịu trách nhiệm,
không phải chỉ hạn hẹp trong mặt trận An Lộc.
Nghĩa là ông đã đoán được và hiểu biết trọn
vẹn quan niệm hành quân của Tướng TWC/MN Trần văn
Trà trong chiến dịch mùa Hè năm 1972, là muốn
đánh chiếm An Lộc cần thiết phải “mở nhiều diện
khác” trong lãnh thổ B–2, nhất là các tỉnh bao
quanh thủ đô. Về phía các tư lệnh Hoa Kỳ từ
Tướng Abram Creighton Tư lệnh MACV, đến Tướng hai
sao Hollingsworth James F. Tư lệnh TRAC (Third Regional
Assistance Command –Bộ Tư lệnh Viện trợ Quân Khu 3)
tất nhiên cũng đặc biệt chú trọng đến tình hình
chiến cuộc ở QĐIII & V3CT, nên chắc chắn yểm trợ
ưu tiên cho Tướng Nguyễn văn Minh. Nếu nhìn thấy
rõ những điều này mới hiểu rõ tài điều binh và
sự túc trí của Tướng Nguyễn văn Minh, ngược hơn
những phán đoán từ trước đến nay về vị tướng
lãnh cẩn trọng này của QLVNCH.
Với lực
lượng như vậy, Tướng Minh đã phối trí các đơn vị
hợp lý là tăng viện thêm cho An Lộc, nỗ lực giải
tỏa chốt chặn của Sư đoàn 7 CSBV ở phía bắc Chơn
Thành bằng các lực lượng tăng viện, trong khi đó
giữ vững các đại đơn vị cơ hữu ở các vùng hiểm
yếu trong lãnh thổ của mình để chờ những mặt
trận mới của TWC/MN.
8. TỬ THỦ AN
LỘC LÀ QUYẾT TÂM SẮT ĐÁ CỦA TƯỚNG TƯ LỆNH MẶT
TRẬN LÊ VĂN HƯNG CŨNG LÀ TƯ LỆNH SĐ5BB, NHƯNG KẾ
HOẠCH TỐI ƯU GIÚP TƯỚNG HƯNG GIỮ VỮNG AN LỘC LÀ
CỦA Đại tá LÊ QUANG LƯỠNG LỮ ĐOÀN TRƯỞNG LỮ ĐOÀN 1
NHẢY DÙ.
Tại thị xã tỉnh lỵ An
Lộc, ngoài các Trung đoàn 7 và 8 (–) của SĐ5BB,
một Tiểu đoàn Pháo binh và Đại đội 5 Trinh sát
–bảo vệ BTL/HQ Sư đoàn (tất cả dưới 2,500 quân),
chừng hai Tiểu đoàn ĐPQ của Tiểu Khu Bình Long
(tất cả dưới 800 quân), Chiến đoàn 33 BĐQ (hơn
1,500 quân), Chiến đoàn 52/SĐ18BB (400 quân, kể cả
thương binh), ngày 14 tháng 4 Tướng Minh cho tăng
viện vào thị xã Lữ đoàn 1 Nhảy Dù (chừng 2,200
quân), và ngày 17 tháng 4, Chiến đoàn 81 Biệt
Cách Nhảy Dù (chừng 450 quân). Tổng cộng, lực
lượng phòng thủ tại An Lộc của Tướng Lê văn Hưng
chừng trên 7,500. Tại Bộ Tư lệnh HQ nhẹ của Tướng
Hưng, Phòng 3 Hành Quân của Trung tá Trịnh Đình Đăng
ở khu nhà mặt tiền xoay ra đường Nguyễn Huệ bị
một hỏa tiển 122 ly rơi trúng, 6 sĩ quan tham mưu
của ông tử thương. Phòng 2 Hành Quân của tôi trong
cùng một dãy nhà đó cũng có một sĩ quan tử
thương. Các sĩ quan tham mưu của Trung tá TĐĐ không
còn người nào để làm việc, nên ông cùng tôi và
hai sĩ quan cấp Đại úy của tôi là Dương Tấn
Triệu và Nguyễn Chí Cường phải đảm đương việc
thu nhặt tin tức hành quân của tất cả các đơn vị
để lập quyển nhật ký hành quân cho Sư đoàn về
trận An Lộc. Sau này quyển nhật ký hành quân này
do tôi giữ nên tai họa đổ lây sang cho tôi sau khi
tướng Hưng bị thất sủng.... Theo ghi nhận của
chúng tôi sau khi liên lạc với toàn bộ các cánh
quân phòng thủ thì trong trận tấn công của CSBV
vào An Lộc ngày 13 tháng 4, tổn thất của bạn là
28 tử thương, 53 bị thương, mất 3 súng cộng đồng
và 42 súng cá nhân; địch 169 chết ở các tuyến
phòng thủ bạn, 2 bị bắt. Ta tịch thu được 3 súng
cộng đồng, 50 súng cá nhân, 2 máy truyền tin, bắn
hạ từ 14 đến 16 chiến xa T–54 va PT–76 của địch.
Nên lưu ý
là khi TWC/MN tung quân tấn công đợt thứ nhất vào
thành phố ngày 13 tháng 4, 1972 thì Lữ đoàn 1
Nhảy Dù và Chiến đoàn 81 BKND chưa được tăng
viện, quân số phòng thủ chỉ chừng dưới 5,500
người nếu tính cả nhân dân tự vệ võ trang. Trong
ngày này, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù của Đại tá Lê Quang
Lưỡng đang giải tỏa chốt chặn của Sư đoàn 7 CSBV
ở Tàu–Ô, vì trận CSBV tấn công An Lộc nói trên
nên Tướng Minh lệnh cho rút ra để chuẩn bị vào An
Lộc tăng cường cho SĐ5BB. SĐ21BB từ miền Tây được
đưa vào thay thế.
Ở đây, có một điểm cần
nêu lên là, trong ngày 13 tháng 4, bởi sự tấn công
dữ dội của Sư đoàn Công trường 9 CS của TWU/MN
cộng với các đơn vị chiến xa 202 và 203 từ miền
Bắc vào và ba Trung đoàn pháo của Sư đoàn 69, hay
70 Pháo, được tăng cường Trung đoàn Pháo Phòng
không từ miền Bắc và Trung đoàn Đặc công 429, các
tuyến phòng thủ của Trung đoàn 8 (–), Trung đoàn
52 (–) và Chiến đoàn 3 BĐQ ở mặt bắc và đông bắc
đã phải lui về tuyến phòng thủ thứ hai trong
thành phố. Một phần thành phố trong khu vực
thương mãi phía bắc đường Nguyễn Trung Trực và
sân bay Đồng Long tạm thời bị địch chiếm giữ,
mặc dù có một số chiến xa của chúng bị hạ
trong khu vực trách nhiệm của mỗi đơn vị.
Xin tưởng tượng, một thành phố với chiều ngang 1
km và chiều dài 2 km chỉ trong đêm 12 rạng 13
tháng 4, phải chịu từ bốn đến năm nghìn quả đạn
đại pháo của CSBV thì có nơi nào không bị pháo
dội phải? Binh sĩ phòng thủ và cư dân trong thành
phố bị thương rất cao. Bệnh viện tỉnh nằm trước
mặt Bộ Tư lệnh Hành quân SĐ, cách một con đường,
bị pháo nhiều đợt. Người bị thương đưa vào đó
trong những ngày trước chết nằm la liệt khắp nơi.
Có những xác chết rồi bị banh xác thêm một đôi
lần nữa. Trước tình cảnh đó, Đại tá Bùi Đức
Điềm,Tham mưu trương Hành quân Sư đoàn, khi dứt tấn
công chiến xa, tìm đâu đó được một chiếc xe ủi
đất, tự mình lái xe đào những đường rãnh lớn
và binh sĩ Đại đội Trinh sát Sư đoàn phụ thu dọn
xác chết và các mảnh vụn thi thể cư dân, đem chôn
tập thể dưới các đường rãnh này. Binh sĩ đơn vị
chết thì chôn tại chỗ bố phòng của đơn vị. Các
việc này lập lại nhiều lần suốt trận chiến dài
một trăm ngày ở An Lộc. Đại tá Điềm luôn luôn ở
trên chiến trường, trong các hố cá nhân với binh
sĩ ở đâu đó khi pháo rộ và đi giám sát đôn đốc
binh sĩ mọi nơi trong tuyến phòng thủ của Bộ Tư
lệnh HQ và các đơn vị của Sư đoàn. Ông là một
sĩ quan can trường, cẩn trọng và nhiệt tình. Tôi
chưa từng thấy một cấp chỉ huy nào như ông. Chỉ
vào đêm tối ông mới xuống nằm cạnh bên tôi trong
hầm khi đã hiểu biết vững vàng mọi việc trong
ngày trên mặt đất và làm hết sức mình trong
ngày.
Sau trận tấn công này, các đơn vị
phòng thủ của Tướng Hưng không thể tản thương,
thay quân và tiếp tế đạn dược hay thực phẩm được
nữa vì đã mất sân bay Đồng Long, một phần thành
phố phía bắc thị xã trong khu thương mãi, và hai
ngọn đồi quan trọng ở đông nam thị xã là Đồi
Gió và Đồi 169. Hệ thống tiếp tế bằng C–47
Chinooks ở sân bay Đồng Long hoàn toàn đình chỉ.
Cư dân vẫn sống trong các dãy phố chung với binh
sĩ các đơn vị ở những khu vực của tuyến phòng
thủ mới và một số lớn chạy về sống tạm bợ
cạnh dòng suối cặp đường rầy xe lửa ở khu đông
nam thị xã. Trong khu vực hành chánh phía nam Đại
lộ Hoàng Hôn, ở khu vực suối nói trên và ở các
khu vực phòng thủ binh sĩ chia xẻ gạo, cơm xấy
và thực phẩm với dân. Cũng ghi nhận là trước
đó, trong ngày 8 tháng 4, cư dân trong thành phố
chừng hơn ba ngàn người tị nạn chia làm hai đoàn
do một linh mục Công giáo và một đại đức Phật
giáo hướng dẫn di chuyển theo QL–13 về Chơn Thành,
nhưng vừa qua khỏi đồn điền Xa Trạch bị Sư đoàn
Công trường 7 pháo kích, hàng trăm người chết, bị
thương. Xác chết nhầy nhụa trên mặt đường và khu
vực chung quanh. Một số chạy ngược về An Lộc, kỳ
dư đều bị chúng bắt không còn biết tung tích gì
nữa sau đó.
Từ ngày 14 tháng 4 trở đi An
Lộc chỉ được tiếp tế bằng thả dù không vận của
KQVN và Không lực Hoa Kỳ. KQVN, trong hai ngày đầu,
sau mấy đợt thả đạn dược và thực phẩm khô cho
các đơn vị phòng thủ bằng các loại vận tải cơ
Faichild C–123 và C–119 bị phòng không CSBV bố trí
dày đặc bao quanh thành phố xạ kích dữ dội làm
thiệt hại 2 chiếc C–123 và mấy chiếc khác bị hư
hại, vả lại vì bay cao nên các dù đạn và thực
phẩm phần lớn rơi vào khu vực địch kiểm soát.
Vì vậy, KQVN đã phải đình chỉ các hoạt động
thả dù tiếp tế cho An Lộc sau 27 phi vụ. Cứu tinh
của binh sĩ phòng thủ và số lớn cư dân là nguồn
thả dù tiếp tế của đơn vị 347 Tactical Airlift Wing
(U.S. 347th TAW). Do hệ thống phòng không của CSBV
rất mạnh với tầm tác xạ kiến hiệu cao nên các
vận tải cơ C–130 H.K. phải bay trên 10,000 bộ khi
thả dù tiế́p tế. May mắn là đơn vị này đã tìm
được nguyên tắc cho dù mở chậm sau khi thả ra
khỏi phi cơ và dù chỉ mở ra cách mặt đất từ 10m
đến 20m. Nhờ cách thả dù tiếp liệu này nên các
lực lượng của Tướng Hưng từ ngày 16 tháng 4 trở
đi nhận hơn 95% thực phẩm và đạn dược trừ đạn
đại pháo 155 ly và 105 ly, vì cả Tiểu đoàn pháo
của Sư đoàn trong thị trấn hoàn toàn bị pháo
địch phá hủy trong ngày tấn công đầu tiên của
chúng; không còn một khẩu nào sử dụng được, nên
không tiếp tế đạn pháo.
Tuy nhiên lối thả
dù tiếp liệu này cũng rất nguy hiểm cho binh sĩ
trú phòng. Sức nặng của mỗi bọc dù thực phẩm
hay đạn dược cũng phải từ hai đến ba, bốn, tấn.
Dù vừa thả ra khỏi máy bay, chỉ là một chấm
nhỏ, chừng chưa đầy ba mươi giây đã xuống đến mặt
đất. Mỗt lần thả dù như vậy ít́ nhất cũng phải
có đôi ba cộng sự phòng thủ bị dù rớt xập hay
mấy chiếc hầm cá nhân bị dù chôn luôn xuống đất
lẫn người chiến sĩ trong hầm vì có những chiếc
dù chưa kịp mở đã đâm thẳng xuống mặt đất. Và
ở tất cả những bãi thả dù này luôn có sự hiện
diện của Đại tá Bùi Đức Điềm. Chính ông là người
phân phối thực phẩm, đạn dược theo nhu cầu của
các đơn vị. Cấp bậc Đại tá của ông dĩ nhiên đầy
đủ uy quyền đối với các toán tiếp tế của các
đơn vị đến bãi nhận phần súng đạn và thực phẩm
khô cho đơn vị. Không hề có vấn đề giành giựt
thực phẩm bắn nhau ở bãi thả dù, bất cứ khu
nào trong thành phố.
Đứng chỉ huy thu nhặt
và phân phối thực phẩm ở bãi thả dù nghĩa là
phải vừa đội pháo CSBV vừa có thể bị đè bẹp,
chết tức khắc, bởi những chiếc dù nặng rơi nhanh
không thể tưởng. Người ta tâng bốc nhau về công
trạng của vị chí huy này hay vị chỉ huy nọ. Cũng
có người tự tâng bốc chính mình, nhưng tôi hiện
diện ở chính chiến trường đó, chỉ thấy những
người câm nín làm việc như vị Đại tá này hay một
hạ sĩ Truyền tin của Sư đoàn, tên Lê văn Sáu, dù
ngày hay đêm, pháo vừa dứt đã thấy anh hết trèo
lên trụ điện này đến trụ điện nọ nối lại những
mạch điện thoại bị đứt vì pháo kích hay vì bất
cứ lý do nào đó, suốt cả một trăm ngày của
trận chiến. Tiếc rằng không có một thẩm quyền
nào đó cầm chiếc “Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân
Chương” dúi vào tay Tổng Thống để gắn cho Đại tá
BĐĐ hay một Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu
gắn cho Hạ sĩ Sáu....
Sau trận tấn công
đầu tiên của các đơn vị TWC/MN vào An Lộc, một
phần của phía bắc thị xã bị chúng chiếm (Bản
đồ # 4). Nhất là mất Sân bay Đồng Long, không thể
tải thương, thay quân và tiếp tế, nên kế hoạch của
Tướng Minh là thả Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, gồm các
Tiểu đoàn 5, Tiểu đoàn 6, Tiểu đoàn 8, Tiểu đoàn 3
Pháo binh Dù và Đại đội Trinh Sát, do Đại tá Lê
Quang Lưỡng (sau này thăng cấp Chuẩn tướng, Tư lệnh
SĐ Nhảy Dù cuối cùng của QLVNCH) chỉ huy, ở hai
bãi ruộng trống cặp QL–13 mà đầu mùa Hè chưa có
mưa và ruộng khô trơ gốc rạ, nằm ở quãng giữa
cầu Cần Lê và sân bay Đồng Long, để từ đó quân
Dù sẽ tiến xuống hướng nam, tấn công vào đơn vị
địch chiếm giữ sân bay và phía bắc thành phố.
Trong khi đó thì ở phía nam thành phố Tướng Hưng
sẽ đưa một cánh quân BĐQ của Trung tá Nguyễn văn
Biết kết hợp với Trung đoàn 7 của Trung tá Lý
Đức Quân tấn công lên phía bắc chiếm lại khu phố
bị mất ngày hôm trước. Dĩ nhiên KQVN và KLHK sẽ
thả bom dọn bãi đáp và yểm trợ cho Dù đổ quân
và cho BĐQ và bộ binh khi tấn công.
Kế
hoạch này khi đưa về SĐ5 thì được Đại tá Cố vấn
William Miller yểm trợ hết mình, nhưng Tướng Hưng
do dự vì muốn gặp Đại tá Lê Quang Lưỡng, Lữ đoàn
trưởng Lữ đoàn 1 Nhảy Dù trước cuộc đổ quân vào
giải tỏa An Lộc ngày hôm sau 14 tháng 4. Ngày đó,
vào sáng tinh sương, một trực thăng bay sát ngọn
cây đưa Đại tá Lê Quang Lưỡng vào Bộ Chi huy Tiểu
khu của Đại tá Trần văn Nhật. Tôi được lệnh đến
đó đón Đại tá LQL về Bộ Tư lệnh Sư đoàn.
Khi vào hầm chỉ huy của Tiểu khu, tôi hiểu vì sao
sau này các cố vấn Hoa Kỳ “mê” và hết lời khen
ngợi Đại tá TVN, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng
Bình Long. Hầm ngầm của Bộ Chỉ huy Tiểu khu, gọi
là B–15, trước đó của Lực lượng Đặc Biệt QLVNCH,
được Hoa Kỳ xây dựng, sâu, kiên cố và rộng rãi
gấp ba lần chiếc hầm u tối, chật hẹp, của Bộ Tư
lệnh HQ/ Sư đoàn. Trong hầm, đèn sáng choang, các
sĩ quan Việt–Mỹ ngồi ở các bàn hành quân, đề
huề, đâu ra đó; bản đồ thành phố, bản đồ hành
quân đầy đủ. Cũng không thiếu thuốc lá, café,
trà ngon và thực phẩm khác. Như đã nói ở trên,
Đại tá TVN là một sĩ quan can trường lại vô cùng
tế nhị. Hầu hết các cố vấn Hoa Kỳ đều về tập
trung tại đây, trừ Đại tá William Miller và hai sĩ
quan dưới quyền ông, trong toán Cố vấn của SĐ5BB.
Số cố vấn Hoa Kỳ của Tiểu khu và các đơn vị
khác về đó trong suốt trận chiến có lẽ trên mươi
người, hoặc nhiều hơn, từ cấp Trung tá trở lại,
chắc chắn đã được Đại tá TVN bồi tiếp chu đáo.
Đó là do bản tính nồng nhiệt và sự tế nhị của
ông mà tôi đề cập trên. Ngược lại, chính sự tận
tâm giúp đỡ của số cố vấn ít oi này mà các
chiến sĩ phòng thủ đã giữ vững được An Lộc nhờ
vào sự yểm trợ tối đa của không trợ và không
yểm của Không Quân Chiến Lược và Chiến Thuật Hoa
Kỳ. Các cố vấn Hoa Kỳ ở Bộ Chỉ huy Tiểu khu
Bình Long sau này về nước đều khen ngợi Đại tá TVN
về sự liên lạc mật thiết giữa ông và họ, kể cả
sự can đảm và tài thao lược của ông. Chuyện đó
dĩ nhiên thôi.
Sự thực thì Đại tá TVN có ít
quân, chỉ còn dưới một Tiểu đoàn Đia Phương quân,
kể cả Nghĩa quân và Dân vệ, chừng hơn 600 binh sĩ
–được những kẻ tâng bốc tăng thành cấp Trung đoàn
với 1,000 người. Đại tá TVN không có quyền quyết
định về mọi việc ở chiến trường An Lộc, mà là
Tướng Tư lệnh Mặt trận Lê văn Hưng. Một trong
những sĩ quan cố vấn của Chiến đoàn 52 là Trung
úy James H. Willbanks, vào An Lộc trễ, và bị
thương bởi đạn pháo kích, khi về Hoa Kỳ leo dần
lên cấp Trung tá và theo học chương trình hậu đại
học đã dựa phần lớn vào tài liệu của Đại tá
William Miller, viết luận án Cao học và Tiến sĩ
về Trận Chiến An Lộc, bốc thơm Đại tá TVN nức nở,
nhưng đã xúc phạm lớn lao đến uy tín Tướng Lê văn
Hưng. Có lẽ chính Willbanks cũng không hiểu rõ sự
bất đồng ý kiến lớn lao giữa Đại tá Cố vấn Hoa
Kỳ William Miller và Tướng Tư lệnh SĐ5BB Lê văn Hưng
từ trước và trong trận chiến An Lộc diễn ra.
Nguyên do chính là vì từ trước khi diễn ra
trận An Lộc, Tướng Hưng coi Đại tá William Miller
chỉ một sĩ quan xuất thân từ hàng binh sĩ, là
“un sorti–du–rang” theo cách nói không mấy nể trọng
của người Pháp và coi Đại tá Miller như một người
không hiểu biết nhiều về địch thủ trong cuộc
chiến Việt Nam. Hơn nữa, Tướng Hưng coi cấp bậc
là cấp bậc, tướng là tướng, tá là tá. Việt,
Mỹ, có khác gì nhau…. Ngược lại, Đại tá Miller coi
tướng Hưng là một sĩ quan trẻ tuổi –a young
general– hàm ý là thiếu kinh nghiệm và coi Hưng
là một trong các tướng “Đồng bằng Cửu Long”(one
of the Delta–Clan generals) cũng với ý biếm nhẽ,
kém tôn trọng. Họ khi dể lẫn nhau và ngấm ngầm
trở thành những kẻ thù. Nhưng thái độ của mỗi
người một khác. Đại tá Miller nhiều lần cãi vã
với Tướng Hưng ngay trong hầm ngầm hành quân ở An
Lộc. Mọi chuyện Tướng Hưng đều bỏ qua. Ngược
lại, Đại tá Miller mang mối thù này về tận Hoa Kỳ
và mở những cuộc thuyết trình, hội thảo, về
trận chiến An Lộc và nhân các cơ hội này miệt
thị Tướng Lê văn Hưng…. Tôi sẽ nói rõ hơn ở phần
dưới.
Khi Tướng Nguyễn văn Minh đưa ra kế
hoạch tăng viện Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù bằng chiến
thuật hai mũi giáp công để chiếm lại phần phía
bắc thị xã An Lộc bị mất từ hôm trước thì Đại
tá Miller rất tán thành. Tuy nhiên, sau khi tôi đón
Đại tá LQL, Lữ đoàn trưởng LĐ1ND, về căn hầm BTL/HQ
Sư đoàn gặp Tướng Hưng xong thì mọi việc đã đổi
khác. Đại tá Lưỡng trình bày chiến thuật hơn
thiệt rất hợp lý và chứng tỏ ông là một nhà
chiến thuật lỗi lạc và nhiều kinh nghiệm trong
những trận đánh lớn.
Ông cho rằng, nếu đổ
hơn hai nghìn hai trăm quân Dù ở vùng ruộng trống
trơ gốc rạ nằm giữa cầu Cần Lê và sân bay Đồng
Long, thì vì bất ngờ, líp (lift) thả đầu tiên
bằng C–47 của KLHK hay KQVN, đơn vị Dù nhảy xuống
đầu tiên đó có thể sẽ an toàn. Nhưng từ líp đổ
quân thứ hai trở đi các đơn vị Dù sẽ là mồi ngon
cho pháo binh CSBV tập trung. Tổn thất sẽ rất cao,
có thể lên đến 50%, hay cao hơn nữa. Người ta sẽ
không thể mở một cuộc tấn công vào sân bay Đồng
Long với một số tử thương và thương binh cao –dù
bị bỏ họ lại ở bãi chiến hay dìu họ theo. Hơn
nữa, nếu thả các đơn vị Dù ở LZ (Landing Zone)
theo kế hoạch, thì cũng chỉ thả được các đơn vị
Dù tác chiến bộ binh mà không thể thả Tiểu đoàn
3 Pháo binh Dù với các loại trọng pháo, đại
pháo dã chiến, để đánh nhau liền. Cho rằng Lữ
đoàn 1 Nhảy Dù vào được mục tiêu chỉ định, thì
với lực lượng còn lại cũng sẽ không ̣đủ sức
tấn công lực lượng địch đã chiếm giữ sân bay và
mặt bắc thành phố từ ngày hôm trước mà chúng ta
không hiểu rõ chúng có bao nhiêu quân và ở cấp
bộ nào? Yếu tố thành công không có, mà sự thất
bại đã thấy rõ trước mắt. Cho dù Lữ đoàn Dù
chiếm được mục tiêu thì lực lượng còn lại chỉ
trên dưới một Tiểu đoàn, sẽ không chịu đựng nổi
những trận tấn công kế tiếp của quân CSBV. Một
cánh quân mạnh tinh nhuệ cũng sẽ trở thành một
đơn vị què quặt thì sự tăng viện họ vào An Lộc
là... vô ích. Với các lý luận này, Đại tá LQL đề
nghị một kế hoạch khác.
Book marks: LGT | TSTG | KỲ–1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | KỲ–12 | PL | Đầu trang
KỲ–7
Tướng
LÊ VĂN HƯNG &
Những sự thực ở Chiến trường AN LỘC
trong Mùa Hè Đỏ
Lửa 1972; cont'd...
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Kỳ–7
Quan niệm hành quân
của Đại tá LQL là tăng viện Lữ đoàn 1 Nhảy Dù
vào An Lộc không chỉ là tăng quân để phòng thủ
vị trí chiến lược then chốt này, mà còn để đáp
ứng nhu cầu giúp cho vị tư lệnh mặt trận tạo
niềm tin trong binh sĩ phòng thủ là An Lộc được
tiếp viện, chẳng những đủ sức phòng thù chống
mọi cuộc tấn công của địch quân, mà còn có thể
phản công khi tình hình cho phép, chớ không thể
sử dụng đơn vị này như lực lượng xung kích đánh
ngay vào vị trí địch đang chiếm đóng trong thành
phố trong trận tấn công trước mà chúng ta chưa
biết được thực lực của chúng lớn mạnh ở qui mô
nào. Cấp liên Trung đoàn hay Sư đoàn? Thực tế chỉ
biết phòng không và trọng pháo dã chiến của
chúng rất mạnh. Nếu tấn công địch quân ngay khi
đổ quân ở vùng ruộng trống phía nam cầu Cần Lê
thì sẽ rơi vào trường hợp nêu ở trên. Nếu chiếm
lại được sân bay Đồng Long ở phía bắc thành phố
cũng sẽ không dùng được nữa vì nơi đó đã... và
sẽ trở thành mục tiêu tập trung pháo đã được
điều chỉnh từ trước. Các loại phi cơ vận tải hay
trực thăng đáp xuống chỉ để bị banh xác mà thôi.
Kế hoạch khả thi là nên đổ quân Dù bằng trực
thăng của KQVN hay KLHK ở một bãi đáp bí mật (a
secret landing zone –or LZ) ở phía đông nam thị xã.
Toàn bộ quân Dù sẽ an toàn khi đổ quân vì tạo
được yếu tố bất ngờ, pháo binh địch sẽ không đủ
thì giờ chỉnh tác xạ vào LZ mật đó. Từ bãi
đáp an toàn này, Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù, đơn vị đổ
quân đầu tiên sẽ tức tốc di chuyển tấn công chiếm
lại Đồi Gió và Đồi 169 chừng 3 hay 4 km phía đông
nam thị xã bị địch chiếm trong trận đánh ngày
hôm trước, là hai cao điểm chế ngự toàn thành
phố. Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù sẽ đổ quân sau và
vào vị trí khi Tiểu đoàn 6 Dù chiếm xong hai ngọn
đồi nói trên. Hai Tiểu đoàn này sẽ do Trung tá Lê
văn Ngọc, Lữ đoàn phó, chỉ huy. Bộ Chỉ huy Lữ
đoàn, Đại đội Trinh sát, Tiều đoàn 5 và Tiểu
đoàn 8 sẽ đổ quân tiếp theo trong ngày kế tiếp.
Tiểu đoàn 5 sẽ yểm trợ cho Tiểu đoàn 8 tiến
vào đầu xa lộ (hay QL–13) xuất phát từ phía nam
thị xã, chạy về hướng đồn điền cao su Xa Cam
cách thị xã chừng 3, 4 km, về hướng nam. Khúc xa
lộ này mặt đường rộng trên dưới 20m, hai bên đường
trước đó các đơn vị Hoa Kỳ đã phát hoang sâu vào
bìa rừng, mỗi bên rộng chừng 800m đến 1,000 nên
rất trống trải có thể mở làm “một sân bay trực
thăng tạm” rộng rãi, các loại trực thăng lớn nhỏ
của KQVN và KLHK đều có thể đáp xuống được. Sau
đó, Tiểu đoàn 8 Dù của Trung tá Văn Bá Ninh sẽ
trấn đóng ở khu vực này phụ trách giữ an ninh
và điều hành sân bay trực thăng tạm để các đơn
vị phòng thù có thể tản thương các thương bệnh
binh và tiếp nhận quân bổ sung thay thế.
Tiểu đoàn 5 Dù của Trung tá Nguyễn Chí Hiếu sẽ
tiến về khu vực gần vòng đai tây nam tỉnh lỵ và
trấn đóng ở đó làm lực lượng trừ bị cho Lữ
đoàn và cho Tướng Hưng. Bộ Chỉ huy Lữ đoàn được
Đại đội Trinh sát bảo vệ, sẽ đóng chung với Bộ
Chỉ huy Tiểu khu, nằm gần hai Tiểu đoàn nói trên.
Đại tá LQL cho rằng, “nếu Lữ đoàn Dù mở được sân
bay trực thăng tạm và bung rộng ra giữ được an
ninh ở khu vực đầu xa lộ nói trên, thì lực lượng
phòng thủ có thể tản thương và thay quân, hay
tiếp tế được, các đơn vị sẽ có quân mới, khoẻ.
Lực lượng sẽ mạnh dần. Sau khi đánh không quân
cắt đứt đường tiếp vận của quân CSBV vào thành
phố và “cô lập” được cánh quân này của chúng với
các đơn vị hậu cần TWC/MN ở bên ngoài thì lực
lượng địch sẽ mòn dần. Lực lượng phòng thủ An
Lộc của Tướng Hưng chờ khi bắt tay được với các
cánh quân của SĐ21BB từ Chơn Thành tiến lên sau khi
giải tỏa được các chốt chặn của địch quân ở khu
vực suối Tàu–Ô, lúc đó sẽ mở các cuộc hành
quân chiếm lại các khu phố ở phía bắc thành phố
và sân bay Đồng Long. Đó là kế sách an toàn cho
An Lộc chống giữ lâu dài và quân CSBV sẽ mòn mỏi
dần khi họ bị tấn công dồn dập bởi KQVN và KLHK
–nhất là không lực chiến lược với loại bom sát
thương rộng lớn và dữ dội B–52. Đó cũng là ưu
sách để chiến thắng. Vì chúng ta giữ được thành
và đánh được địch.”
Dựa trên tình hình
chiến sự diễn ra lúc đó thì quan niệm và kế
hoạnh hành quân của Đại tá LQL là tối ưu. Sau hơn
một giờ bàn luận với Tướng Lê văn Hưng và được
vị tư lệnh chiến trường này hết lòng yểm trợ,
Đại tá LQL lên trực thăng về Lai Khê trình bày lại
với Tướng Nguyễn văn Minh. Kế hoạch tức khắc
được chấp thuận cho áp dụng. Từ chiều ngày 14
đến ngày 15 tháng 4, mọi cuộc đổ quân bằng trực
thăng vận của Lữ đoàn 1 Nhảy Dù đã gây bất ngờ
cho Bộ Tư lệnh TWC/MN của Tướng Trần văn Trà. Toàn
bộ các đơn vị Dù trực thuộc vào An Lộc trong
ngày 17, với tổn thất tương đối nhẹ (chỉ dưới
4%) khi cánh quân lớn này vào trận địa đang nóng
bỏng lúc đó. Yếu tố bất ngờ và sự chọn bãi
đổ quân (landing zone –LZ) thận trọng nên không bị
tổn thất khi đổ quân. LZ là khu vực hương lộ 245
con đường nhựa chạy ngang sóc Srok Ton Cui, hướng
tây nam và gần hai ngọn đồi Gió và 169 (xem bản
đồ đổ quân vào An Lộc của LĐ1ND). Mọi chi tiết
của kế hoạch do Đại tá LQL cũng được thực hiện
chu đáo.
–Tiểu đoàn 6 Dù của Trung tá Nguyễn
văn Đỉnh, từ khu vực đổ quân đã tiến vào mục
tiêu và tấn công vào các đơn vị quân CSBV trên hai
ngọn đồi ở khu vực đông nam thành phố này. Ngay
trong buổi chiều 14, chừng hơn một giờ sau khi đổ
quân, Tiểu đoàn đã chiếm xong hai mục tiêu, Đồi
Gió và Đồi 169.
–Toàn bộ đại bộ phận của
Lữ đoàn 1 Dù gồm Bộ Chỉ huy Lữ đoàn, Đại đội
Trinh sát, Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 8 Dù đã đổ
quân hoàn tất vào khoảng 3giờ chiều ngày 15 tháng
4 ở bãi đáp gần đồi Gió. Cũng trong ngày này,
từ sáng sớm Bộ Tư lệnh Tiền phương TWC/MN đã mở
một cuộc tấn công chiến xa và bộ binh vào các
tuyến phòng thủ của Tướng Hưng sau khi đã giập
hơn năm ngàn quả đại pháo vào thành phố. Cuộc
tấn công này diễn ra có vẻ vội vã ở mặt tây và
tây bắc vì chiến xa từ hướng này tiến vào thành
phố không có bộ binh tháp tùng. Ở mặt đông bắc
thì áp lực tấn công của lực lượng địch rất
nặng. Riêng ở mặt đông nam thì địch không thể tấn
công vì quân Dù đã chiếm trọn khu vực hai ngọn
đồi nói trên và ng̣ọn đồi thấp hơn ở sóc Srok
Ton Cui. Đặc biệt ghi nhận là thiết giáp địch
vào thành phố chạy lạc lõng, lơ ngơ, không biết
đường lối hay mục tiêu tấn công, để bị bắn hạ...
dễ dàng. Có không ít đôi ba lý do để giải thích.
Nhưng nguyên nhân chính là ngày hôm trước, tức
ngày 14 tháng 4, nhằm mục đích làm giảm áp lực
địch và sự tăng viện quân của chúng vào thành
phố sau khi chúng tấn công mạnh ở hướng tây bắc
ngày hôm trước và cũng để đánh lạc chú tâm của
địch, yểm trợ cho Dù đổ quân, sau khi họp xong với
Đại tá LQL, Tướng Hưng chỉ thị cho tôi vẽ mười
boxes B–52 (mỗi boxe dài chừng hơn 2km và rộng 1km)
chuyển cho Đại tá Miller, yêu cầu Không Quân Chiến
lược Hoa Kỳ thực hiện; trong đó có hai boxes đánh
xuống Ấp Phú Lố cách thị xã chừng hơn ba dặm,
và Ấp Phú Bình chỉ các vòng đai phòng thủ của
quân bạn ở hướng tây chừng 800m. Xin thực hiện
ngay trong ngày hôm đó.
Buổi trưa trước khi
Tiểu đoàn 6 Dù đổ quân vào LZ ở đông nam thị xã
thì KQ Chiến lược Hoa Kỳ đã đánh xong hai boxes
B–52 vào các ấp Phú Lố và Phú Bình ở tây thị
xã. Tám boxes khác đánh xa hơn trên trục chuyển
quân của chúng. Cư dân ở hai ấp này đã hoàn toàn
di tản vào thành phố ngay trong những ngày 7 và 8
tháng 4. Ở các nơi đó chỉ còn vườn không nhà
trống tuy nhiên vẫn còn là nơi thích nghi cho các
đơn vị CSBV với các nước giếng ngọt, rau cải và
cây trái, nhà cửa. Chúng có thể tạm dừng trên
lộ trình tiến quân, lo cơm nước, để chuẩn bị tấn
công vào thị xã. Sau này chúng tôi được biết
chính hai boxes B–52 ngày 14 tháng 4 này ở hai ấp
nói trên đã tiêu diệt trọn Bộ chỉ huy Trung đoàn
271, hai Tiểu đoàn bộ binh của Trung đoàn này và
các đơn vị phòng–không tháp tùng, là cánh quân
lớn của Sư đoàn Công trường 9 TWC/MN, và là mũi
tấn công chính vào mặt tây và tây bắc An Lộc.
Nhưng ngày 15/4, mũi nhọn chủ lực này đã... không
bao giờ vào thành phố mà đã phơi thây ở hai ấp
Phú Lố và Thanh Bình rồi. Các chiến xa vào
thành phố trong ngày này không có bộ binh tháp
tùng đã chạy lang bang trên các con đường phố,
không biết bạn ở đâu, ví trị của quân phỏng thủ
ở đâu, thì chỉ là những con mồi ngon cho loại
súng chống chiến xa M–72 mà thôi. Trong ngày đó,
10 chiếc T–54 và PT–76 cùa CSBV bị hạ trong thành
phố).
Cũng trong ngày 15 tháng 4 này, vì
giữ được LZ nên Bộ Chỉ huy Lữ đoàn 1 Nhảy Dù,
các Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 8 Dù cũng đã đổ
quân an toàn ở bãi đổ quân vùng sóc Srok Ton Cui.
Tuy nhiên vì thành phố đang bị tấn công nên Tướng
Hưng liên lạc chỉ thị cho Đại tá LQL tạm giữ lực
lượng Dù ở khu vực vùng ba ngọn đồi đông nam đó,
chưa vào thành phố trong ngày hôm đó. Ngày hôm sau
Đại tá LQL chia quân Dù làm hai cánh vào thành
phố.
Cánh thứ nhất, gồm có Tiểu đoàn Bộ
Chỉ huy Lữ đoàn, các Đại đội Trinh sát và Công
binh cùng với Tiểu đoàn 5 của Trung tá Nguyễn Chí
Hiếu tiến vào vòng đai phòng thủ của Tiểu khu
theo ngã ấp Sóc Gòn. Cánh quân thứ hai do Trung tá
Văn Bá Ninh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 8 Dù chỉ
huy, tiến vào mục tiêu chỉ định là đầu xa lộ
phía nam tỉnh lỵ, gần Bộ Chỉ huy Tiểu khu theo
ngã ấp Phú Hòa chỉ cách vòng đai phòng thủ thị
xã chừng 1 km về hướng đông. Ấp Sóc Gòn cách ấp
Phú Hòa hơn một km về hướng đông bắc. Cả hai
cánh quân này đều chạm địch. Tuy cánh quân do Trung
tá VBN chỉ huy là TĐ8ND vào ấp Phú hòa trước, chỉ
chạm nhẹ, nhưng đã đóng quân đêm 16/4 tại ấp này
để yểm trợ cho cánh quân của Tiểu đoàn 5 và các
Đại đội Trinh sát và Công binh Dù do chính Đại tá
LQL chỉ huy, chạm súng nặng với một Trung đoàn
của SĐ–5/CS trong suốt ngày và đêm 16 đó ở ấp
Sóc Gòn. Địch quân tấn công vị trí dã chiến của
Dù ở Sóc Gòn nhiều đợt, rất mạnh. Chúng xung
phong biển người với cả bộ binh và chiến xa,
nhưng đều bị Dù đẩy lui. Kết quả cuộc chạm súng
này các đơn vị của Đại tá LQL đã bắn hạ 4 T–54,
tịch thu 7 súng cộng đồng, 20 súng AK–47, và địch
quân bỏ lại tại trận 85 xác chết. Lực lượng Dù
có 3 tử thương và 13 bị thương.
Điều đáng
nêu lên là cả trong ngày và đêm 16/4 đã có hơn 20
phi tuần yểm trợ của KQVN cho đơn vị Dù của Đại
tá LQL. Đặc biệt là trong các đêm này lần đầu
tiên ghi nhận Không Quân Chiến Thuật Hoa kỳ đã đưa
một loại vũ khí mới diệt chiến xa địch ban đêm
vô cùng hữu hiệu gọi là “Spectre” –tức là loại
máy bay C–130 cải biến thành chiến đấu cơ, trang
bị hồng ngoại tuyến, với các loại sensors dò
tiếng động của động cơ và tự động điều khiển
dàn súng đại bác 105 ly không dật, cộng thêm 18
khẩu đại liên 50 ly, đặt ở ba vị trí khác nhau
mỗi nơi 6 khẩu, và hai dàn hỏa tiễn gồm 12 ống,
tùy theo loại mục tiêu di động hay gây tiếng nổ
trên mặt đất nhiều ít hay nặng nhẹ đến mức độ
nào các loại vũ khí đó sẽ tác xạ thẳng tiêu
diệt mục tiêu, chính xác trăm lần như một, không
trật. Đây là loại vũ khí vô cùng lợi hại, bao
vùng và diệt chiến xa và các loại xe chuyên chở
pháo, hay các khẩu pháo di động của CSBV nhiều
nhất trong trận chiến An Lộc –nhất là bên ngoài
thành phố. Nên ghi nhận rằng tại An Lộc và vùng
bao quanh, từ khi chiến trận diễn ra, toàn bộ
chiến xa và các loại xe của các đơn vị phòng
thủ hoàn toàn không còn nữa, chỉ còn một ít xe
jeep không hề được sử dụng di chuyển trong đêm, do
đó khi tiếng động cơ nổ ban đêm thì chỉ là chiến
xa và các loại xe chở pháo và chở quân hay tiếp
liệu của quân CSBV. Hai động cơ nổ là hai máy
điện của BTL/SĐ5BB và của BCH/Tiểu khu Bình Long,
cố định và có tọa điểm chính xác, nên các
chiến đấu cơ Spectres, thường gọi là Hoả Long
–xuất phát từ căn cứ Không quân Hoa Kỳ Utapao ở
Thái Lan– không thể bắn nhầm vào vị trị của
các đơn vị phòng thủ. Hàng nhiều chục chiến xa
và các loại quân xa của CSBV bị Hỏa Long bắn hạ
trên các trục giao thông ngoài An Lộc ở những
ngày đêm sau đó, đã triệt mất đường tiếp vận
của chúng.
Sáng ngày 17 tháng 4, các đơn
vị Lữ đoàn 1 Nhảy Dù đã hoàn toàn vào các vị
trí đã dự trù đúng theo kế hoạch của Đại tá Lê
Quang Lưỡng. Tức là ngoài Tiểu đoàn 6 Dù và mấy
pháo đội của Tiểu đoàn 3 Dù trấn đóng trên hai
ngọn đồi 169 và đồi Gió và Srok Ton Cui, do Trung
tá Lê văn Ngọc, Lữ đoàn phó chỉ huy, toàn bộ
thành phần lớn hơn của Lữ đoàn 1 Nhảy Dù do
chính Đại tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy, đã vào các
vị trí trong thành phố như đã dự trù. Bộ Chỉ
huy Lữ đoàn và Đại đội Trinh sát đóng chung với
Bộ Chỉ huy Tiểu khu, Tiểu đoàn 5 Dù làm trừ bị
đóng gần đó. Quan trọng nhất là Tiểu đoàn 8 Nhảy
Dù, do Trung tá Văn Bá Ninh chỉ huy, chiếm trọn khu
vực rộng lớn đầu xa lộ phía nam thành phố xuống
đến gần đồn điền Xa Cam trong buổi sáng ngày
18/4. Tại khu vực này Tiểu đoàn đã chạm nặng với
một đơn vị của SĐ Công trường 7 của CSBV, địch bỏ
lại hơn 40 xác chết, nhiều súng cộng đồng và cá
nhân. Sau đó TĐ8NH và Đại đội Công binh Dù đã tu
bổ dọn trống thêm quãng xa lộ sát liền với phía
nam BCH Tiểu khu, làm thành bãi đáp tạm cho các
loại trực thăng và chinooks của KLHK và KQVN. Tiểu
đoàn này đã giữ sân bay trực thăng tạm này an
toàn suốt những trận tấn công sau đó của lực
lượng CSBV vào thành phố. Trực thăng của KQVN và
HK đã bay lên đáp xuống khá an toàn, dù không
tránh khỏi bị pháo kích, đã đưa được hàng trăm
thương bệnh binh các đơn vị trú phòng ra khỏi
trận địa và mang vào quân bổ sung, thực phẩm và
trang bị nhẹ vào cho các cánh quân đó, mặc dù
tiếp tế thực phẩm khô và đạn dược hay trang bị
nặng khác vẫn do KLHK tiếp tục thả dù như trước
đó.
Trước đó, trong ngày 16 tháng 4, Liên
đoàn 81 Biệt Cánh Nhảy Dù, chừng dưới năm trăm
quân do Trung tá Phan văn Huấn chỉ huy, cũng được
BTTM tăng viện cho Tướng Minh và được đưa vào An
Lộc bằng trực thăng vận và đáp ở bãi đáp bên
suối Rô, gần bãi đổ quân Sóc Srok Ton Cui của Lữ
đoàn 1 Dù. Cuộc đổ quân an toàn và hoàn tất vào
khoảng hơn 5 giờ chiều. Trung tá PVH bắt tay được
với Trung tá LVN, Lữ đoàn phó Dù. Sau đó tiếp
xúc âm thoại được với Tướng Hưng và nhận chỉ
thị tiến lên hướng bắc thành phố theo lộ trình
cặp theo đường rầy xe lửa. Tuy nhiên vì trời tối
nên phải đóng quân dã ngoại đêm đó; chỉ chạm
súng nhẹ. Sáng ngày, trên lộ trình này Trung tá
PVH đã liên lạc được với hai Đại đội của Liên
đoàn 3 BĐQ đã tách rời đơn vị mẹ trong cuộc tấn
công ngày 13/4. Buổi chiều 17/4 cả Liên đoàn 81
Biệt Cách Nhày Dù vào thành phố. Ngay tối đêm
đó, từng toán quân nhỏ thiện chiến của Liên đoàn
tấn công và chiếm lại một vài khu vực quân CSBV
chiếm mấy ngày trước gần khu Chợ An Lộc. Đến
hết ngày 18/4 chiến sĩ Liên đoàn đã hoàn toàn
kiểm soát khu vực được chỉ định và bung ra hơn
trăm thước về hướng bắc. LĐ81BCND sở trường tấn
công vị trí địch quân bằng những toán quân nhỏ
cấp Tiểu đội hay bán Tiểu đội như vậy.
Từ
ngày đó LĐ81BCND trấn giữ vị trí quan trọng này
ở mặt bắc thành phố đã gặt hái những thành
quả tốt đẹp mặc dù bị tổn thất không ít vì
pháo kích, và lập được kỳ công ghi vào quân sử
với cái nghĩa trang nhỏ chôn chiến sĩ hy sinh tại
chỗ trong khu vực đó, có hai câu đối khắc ghi
trong tâm tưởng của mọi người –mặc dù sau chiến
tranh nghĩa trang đó không còn nữa– nhưng bất cứ
một quân nhân QLVNCH nào cũng còn nhớ: “An Lộc
địa sử ghi chiến tích. Biệt Kích Dù vị quốc
vong thân”. Trên vách tường xây gạch quét vôi của
nghĩa trang người ta còn đọc được hai câu thơ của
Vương Hãn được ghi lại bằng chữ lớn: “Túy ngọa sa
trường quân mạc tiếu. Cổ lai chinh chiến kỷ nhân
hồi” (Ảnh # 3) Nét văn hóa trên đây là chứng tích
mã thượng không riêng của người quân nhân BKD nhưng
là nét hào hùng phóng khoáng chung của mọi chiến
sĩ trong QLVNCH. Họ chiến đấu anh dũng với chính
nghĩa cao cả là bảo vệ quần chúng với tư tưởng
bao dung, lòng vị tha, không thù hằn khát máu như
những cán binh Bộ đội Nhân Dân CSBV, mà chúng
thường tự cho là “Bộ đội Cụ Hồ”. Những người
cầm súng “sinh bắc tử nam” đó đã từng giết
người tập thể dã man ở Huế Tết Mậu Thân, ở
khắp mọi chiến trường mà họ mở những cuộc tấn
công với chủ trương tiêu diệt tất cả mọi người
dù là chiến sĩ hay thường dân, người già cả,
đàn bà và trẻ con trên mục tiêu mà họ tấn công.
Nghĩa là không chừa một ai trước họng súng của
chúng. Và đó là chủ trương của Đảng Lao Động
Việt Nam. An Lộc mùa Hè này cũng là một điển
hình về sự giết chóc vô tội vạ của “Bộ đội cụ
Hồ”.
An Lộc là một thành phố của một
tỉnh, không có hệ thống phòng thủ kiên cố như
Điện Biên Phủ, như Khe Sanh. Trong thành phố đó
nếu tính theo tỷ lệ nhân số thì chỉ có một quân
nhân trong năm hoặc sáu cư dân. Vậy nếu An Lộc
được bảo vệ bằng bốn, năm, hay sáu nghìn chiến
sĩ thì có từ hai mươi nghìn thường dân hay nhiều
hơn. Khi trận chiến khởi diễn, mấy nghìn cư dân,
từng đoàn, chạy theo xa lộ về Chơn Thành, hay
Bình Dương, bị “Bộ đội cụ Hồ” bắn thẳng bằng
súng trường AK–47 hay pháo kích pháo, thây chết
đầy đoạn đường dài mấy cây số quãng từ đồn
điền cao su Xa Cam trở về hướng nam. Ngày đầu
tiên, khi tấn công An Lộc từ hướng đông, chúng đã
lùa hàng trăm thường dân ở Quản Lợi làm mộc che
phía trước bộ đội của chúng tiến theo ở phía
sau. Hèn nhát và vô nhân. Chúng tôi thà chịu đựng
cuộc tấn công đó một cách khó khăn và tránh làm
thiệt hại cho thường dân, tránh không sử dụng hỏa
lực tập thể của pháo binh hay không quân. Ngược
lại cũng trong ngày này, chúng pháo kích vào nhà
thương tỉnh lỵ, và nhiều lần khác trong các ngày
sau, quần chúng bị thương hàng mấy trăm người đến
đó, bị chết gần hết. Rồi thây người chết bị
chúng dập thêm pháo, tan xác, mất đầu, cụt tay
chân. Rồi đợt pháo khác nữa... thây người biến
thành những đống thịt nhầy nhụa hay văng vãi tứ
tung khắp trong ngoài bệnh viện. Đại tá Bùi Đức
Điềm, Tham mưu trưởng hành quân của Tướng Hưng
phải tự mình lái xe xúc đất buldozer đào các
đường rãnh sâu dài nhiều chục thước và rộng trên
ba thước rồi chiến sĩ Đại đội 5 Trinh sát phụ
chôn xác tập thể dưới các đường rãnh đó, như
nói trên. Những ngày tiếp theo chúng pháo kích
liên tục và vô cùng dữ dội, mỗi ngày hàng nghìn
quả đạn. Chiến sĩ chết đã đành, nhưng hàng
nghìn thường dân chết theo với một thành phố sụp
đổ gần như toàn diện. Không một ngôi nhà nào
đứng vững, không một bức tường nào, con đường
nào, hay thân cây nào không mang dấu vết mảnh đạn
lớn nhỏ của các loại trọng pháo, đại pháo, lớn
nhỏ của bộ đội cụ Hồ. Xin nhớ... An Lộc chỉ là
một thành phố nhỏ, không phải là một hệ thống
chiến lũy, chiến hào. Đó là nơi cư trú của
thường dân không phải là nơi để chúng dập thành
bình địa như những công sự chiến đấu của binh
sĩ.
Sự hiện diện của hai đơn vị Dù thiện
chiến này vào An Lộc làm cho tinh thần binh sĩ
trú phòng của SĐ5BB, LĐ3BĐQ và quân dân thuộc Tiểu
Khu Bình Long lên tinh thần thấy rõ. Lực lượng
phòng thủ đã lên đến hơn bảy nghìn chiến sĩ.
Các đơn vị phòng thủ lo củng cố thêm vị trí của
mình, thực ra là binh sĩ trú phòng chỉ đào sâu
thêm và rộng hơn hố chiến đấu cá nhân để dễ bề
xoay trở trường hợp bị pháo kích mà không hề có
công sự chắc chắn nào che chở khi bị tấn công.
Chính kỹ thuật chiến đấu cá nhân, sự trông cậy
vào loại M–72, vũ khí chống chiến xa rất hữu
hiệu mới được Hoa Kỳ đưa vào chiến trường miền
Nam làm cho binh sĩ tin tưởng cũng như niềm tin
tưởng vào sự quyết tâm của các cấp chỉ huy,
nhất là lệnh tử thủ chiến của tướng tư lệnh mặt
trận Lê văn Hưng, nên họ quyết tâm và dũng cảm
chiến đấu. Trong trận tấn công ngày 13/4 vừa qua
họ đã thành công bắn hạ được nhiều chiến xa của
CSBV, giữ vững được An Lộc. Cuộc tấn công đó kéo
dài đến hết ngày 17/4.
Ngày 18/4, TWC/MN mở
cuộc tấn công thứ hai vào An Lộc. Chính trong
ngày này các đơn vị CSBV tấn công thành phố bị
thiệt hại nhiều nhất. Sự tăng cường của những đơn
vị tinh nhuệ nhất của QLVNCH, làm cho niềm tin cùa
quân trú phòng càng được củng cố mạnh mẽ hơn
trong thời gian sau đó. Phải công nhận là kế
hoạch đổ quân tiếp viện Dù ở một bãi đổ quân an
toàn và thiết lập một phi trường trực thăng tạm
ở khu xa lộ phía nam thành phố An Lộc của Đại tá
LQL là ưu việt. Tải được thương binh về các bệnh
viện ở hậu cứ, nhận được thêm quân, dù ít dù
nhiều, đã làm thay đổi cả bộ mặt chiến trường.
Các đơn vị mạnh hơn, nhẹ nhàng hơn và cơ động hơn
trong chiến đấu.
Suốt thời gian hơn 3 tuần
lễ, từ ngày 18/4 cho đến ngày 11/5 –là ngày CSBV
mở đợt tấn công thứ ba vào An Lộc– diễn ra hai
sự kiện quan trọng làm ảnh hưởng đến uy tín và
con đường binh nghiệp của Tướng Lê văn Hưng. Hai
việc này đã nói sơ ở phần trên. Xin ghi rõ hơn:
Sự kiện thứ nhất: Vì bãi trực thăng tạm do
TĐ8ND do Trung tá Văn Bá Ninh chỉ huy thiết lập và
bảo vệ hữu hiệu, các đơn vị phòng thủ tản
thương được, nhận thêm quân, và tiếp tế được các
nhu yếu phẩm cần thiết, tuy với số lượng ít.
Niềm tin mới lớn dần. Vậy mà, trong khi chiến sĩ
của từng đơn vị phòng thủ lên tinh thần và sẵn
sàng chờ một cuộc tấn công sắp tới của CSBV,
thì một ngày vào khoảng cuối tháng 4, 1972, một
cấp chỉ huy mang cấp bậc Đại tá băng bó vết thương
rất nhẹ, đã được điều trị lành rồi, và một
Thiếu tá pháo binh, cùng ra sân bay trực thăng tạm
và định leo lên một trực thăng tản thương để mong
thoát ra khỏi An Lộc. Binh sĩ Dù của Trung tá VNB
giữ bãi trực thăng thấy ông thương binh này mang
cấp bậc Đại tá trên cổ áo, không dám cản, nhưng
báo cáo cho Trung tá Văn Bá Ninh. Ông Ninh báo cáo
ngay cho Đại tá Lê Quang Lưỡng, Lữ đoàn trưởng. Đại
tá L. ra tận nơi, nhìn dải băng trên vai ông Đại tá
nọ và hỏi ông ta ở đơn vị nào và bị thương ra
sao? Ông Đại tá xưng tên là Mạch văn Trường, Trung
đoàn trưởng Trung đoàn 8, SĐ5BB. Đại tá LQL chỉ nói
một câu nhẹ nhàng: –”Thương tích nhẹ như vậy mà
muốn được tản thương hay sao?” Ông tức khắc gọi
cho Tướng Hưng trình sự việc. Tôi lại được Tướng
Hưng ra lệnh đem xe Jeep ra gặp Đại tá LQL đế “nhận
lại” ông Đại tá và ông Thiếu tá “thương binh” trở về
Bộ TLHQ/SĐ. Lẽ dĩ nhiên ông Đại tá và ông Thiếu tá
này bị Tướng Hưng xát muối. Thì ra Đại tá MVT
trước đó một hôm bị Tướng Hưng ra lệnh cho về
chỉ huy lại đơn vị của mình sau khi nằm hơn tuần
lễ trong căn hầm của tư lệnh chỉ với vết thương
nhẹ trên vai. Ai ngờ bị “lạnh cẳng” vì những
trận pháo dồn dập của quân CSBV khi trở lại đơn
vị, ông ta ra sân trực thăng định “chuồn” về hậu
cứ.... Và vì “việc phải làm” này, Tướng Hưng đã
chạm vào con gà cưng của tướng Tư lệnh Quân Đoàn.
Đó là lần thứ nhất. Việc “giả thương binh định
chuồn về hậu cứ” này chẳng những tôi biết mà
còn rất nhiều người biết. Nhưng người biết rõ
nhất có lẽ là Đại tá VBN, Tiểu đoàn trưởng TĐ8ND
lúc đó; hiên nay ông đang sống tại Hoa Kỳ. Sau này,
còn một chuyện quan trọng hơn cũng liên quan tới
“con gà đó” nên Tướng Hưng bị Tướng Nguyễn văn
Minh dáng cho những đòn nặng chí tử ảnh hưởng
lâu dài đến binh nghiệp của Ông.
Sự kiện
thứ hai: Như tôi trình bày ở phần trên, chỉ xin
ghi thêm cho rõ hơn. Từ ngày 7/4 sau khi BTL Hành
Quân của SĐ chuyển sang hầm ngầm ở khu đất trống
cạnh building Tòa Hành Chánh Tỉnh, Tướng Hưng chưa
hề ở trong căn hầm ngầm dành riêng cho tư lệnh cho
đến tuần lễ cuối cùng của tháng 4/1972. Nơi đó
có một chiếc giường sắt, một tủ lạnh, một
chiếc bàn nhỏ và một ghế ngồi, vì suốt buổi
chiều và đêm 7/4, Ông cùng Đại tá Miller bận họp
bàn kế hoạch hành quân ở chiếc bàn thấp nhỏ
đặt giữa hai chiếc ghế bố của hai vị này mà, bên
cạnh ghế bố của Đại tá Miller là hai chiếc ghế
bố của hai sĩ quan cố vấn cấp tá, mộ̣t của
Trung tá Ed Benedit, phụ tá cho Miller, một của
Thiếu tá Alan Borsdorf, phụ trách hành quân của
toán cố vấn. Nếu từ trên mặt đất bước xuống
mươi bậc, nhìn vào vách hầm đối diện là thấy
ngay, nghĩa là ở khu chính của hầm. Từ cửa hầm
bước chừng năm sáu bước sang phía trái là chiếc
bàn dài đặt hệ thống máy truyền tin. Vì vậy có
thể gọi khu này là Trung tâm Hành Quân của
BCH/HQ/SĐ. Từ cửa hầm, nếu theo địa đạo đi về
phía phải, chừng hai mươi bước, là căn hầm của tư
lệnh. Từ ngày 8/4, khi Đại tá MVT, Trung đoàn
trưởng Trung đoàn 8 bị vết thương ở vai, Tướng
Hưng đã nhường căn hầm riêng này cho ông này nằm
điều trị và dưỡng thương trước trận tấn công thứ
nhất của quân CSBV (trước ngày 13/4) cho đến tuần
lễ cuối của tháng 4 đó. Tại chiếc bàn nhỏ giữa
hai chiếc ghế bố của hai giới chức quan trọng
nhất ở An Lộc là Tướng Tư lệnh Chiến trường Lê
văn Hưng và Đại tá Cố vấn trưởng William Miller đã
xảy ra nhiều trận cãi vã to tiếng giữa hai mgười,
như đã nói.
Lý do chính là vì Đại tá Miller
thấy An Lộc được tăng cường Lữ đoàn 1 ND và Liên
đoàn 81 BCKD, nên đưa ra kế hoạch tái chiếm lại
phần thành phố trong khu vực thương mãi phía bắc
An Lộc và Sân bay Đồng Long –đã bị các đơn vị
của CSBV chiếm trong đợt tấn công đầu tiên của
chúng từ ngày 13 đến ngày 18 tháng 4. Nếu có
một cuộc phản công như vậy ông (Đại tá Miller) sẽ
yêu cầu Không Quân Chiến Lược và Không Quân Chiến
Thuật lập kế hoạch không yểm tối đa cho Tướng
Hưng. Ông ta yêu cầu nên sử dụng Lữ đoàn 1 Nhảy
Dù, Liên đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù và Liên đoàn
3 BĐQ làm nỗ lực tấn công chính, những đơn vị
còn lại sẵn sàng ứng chiến tại chỗ. Ông ta ước
tính là lực lượng phòng thủ của Tướng Hưng có
thể điều động được chừng 3,000 quân cho kế hoạch
phản công tái chiếm phần thành phố bị mất đó,
mà ông cho sân bay Đồng Long là quan trọng cho việc
tiếp tế và tải thương hơn là hàng ngày phải
tiếp tế bằng thả dù của Không lực Hoa Kỳ. Ông
cũng cho rằng các loại trực thăng KQVN hay Hoa Kỳ
đáp vào bãi đáp tạm do TĐ8ND ở đầu xa lộ là
rất nguy hiểm. Đề nghị này của Đại tá Cố vấn
Miller có vẻ hợp lý nhưng chưa đúng lúc.
Theo lời khai của tù binh, là một sĩ quan CSBV bị
TĐ3/7 bắt được trong trận tấn công vào An Lộc lần
thứ nhất ngày 17/4 và lời khai của một sĩ quan
CSBV hồi chánh khác, cho biết là Trung đoàn 271
của SĐ–9/CS gần như hoàn toàn bị B–52 tiêu diệt ở
ấp Phú Lố và ấp Phú Bình mấy ngày trước nên
nỗ lực chính của Sư đoàn này coi như thất bại ở
hướng tây bắc, mặc dù hướng đông bắc Trung đoàn
272 của chúng chiếm được sân bay Đồng Long và mấy
khu phố phía bắc An Lộc. Tuy nhiên cuộc tấn công
lần thứ nhất này của CSBV vào An Lộc được TWC/MN
ghi nhận là thất bại. Các tù binh này cho rằng
TWC/MN đã chuẩn bị một trận tấn công lớn khác
vào An Lộc và lần này nỗ lực chính sẽ do SĐ–5/CS
đảm trách ở hướng đông bắc. Hướng tây và tây nam
do SĐ–9/CS đảm nhận, nhưng chỉ là nổ lực phụ.
Các đơn vị chiến xa, pháo binh, phòng không và
đặc công cấp Trung đoàn sẽ tăng cường cho hai đơn
vị lớn nói trên. Hồi chánh viên này cũng cho
rằng SĐ–7/CSBV sẽ tăng cường từ phía nam lên cho
SĐ–5/CS một Trung đoàn nguyên vẹn để tấn công ở
mặt đông nam An Lộc vì nơi này đã có sư hiện diện
của quân Nhảy Dù. Trước những tin tức và tình
huống trận chiến có thể diễn ra lớn lao được
ước tính là nguy hiểm như vậy, Tướng Hưng tất
nhiên phải rất dè dặt và vì vậy nên sinh ra cuộc
cãi vã dữ dội về quan niệm chiến thuật giữa ông
và Đại tá Cố vấn Miller, kéo dài cả nhiều ngày
liền, ngay cả khi trận tấn công lần hai của CSBV
(18–21/4) vừa chấm dứt.
Thấy tình trạng
khá gay cấn nên có một đêm tôi vào căn hầm riêng
và hỏi chuyện Tướng Hưng. Ông Hưng nói với tôi
rằng ông coi Miller như một chiến sĩ ưu tú nhưng
không đủ hiểu biết về chiến tranh Việt Nam. Ông
chỉ cần Miller vì cần sự trợ chiến về không yểm
và tiếp tế của Lực lượng Không Quân Chiến lược
và Chiến Thuật Hoa Kỳ mà không cần đến quan điểm
chiến thuật của ông Miller. Tướng Hưng nói với
Miller rằng, nếu trận tấn công khác diễn ra thì
lực lượng CSBV mà TWC/MN sử dụng sẽ lên đến hơn
20,000 quân, hay hơn nữa, các loại bộ, pháo, các
đơn vị đặc biệt khác, và chiến xa... tổng cộng
lực lượng đó sẽ lên đến hơn ba Sư đoàn…. Giả thử
nếu ngay lúc đó mà đề nghị phản công để chiếm
lại mặt bắc thành phố và sân bay Đồng Long của
Đại tá Miller được thực hiện thì tổn thất của
các cánh quân phản công sẽ rất lớn. Và, nếu
chiếm lại được các khu vực bị mất trước đó thì
lực lượng bạn sẽ phải phân tán để giữ các vị
trí vừa tái chiếm, hệ thống phòng thủ sẽ mỏng
hơn vì không đủ quân. Hiện tại trong thành phố An
Lộc quân phòng thủ chỉ chừng 7,000 người có thể
tác chiến được. Một kế hoạch phản công tái
chiếm các khu bị mất có thể thành công tạm bợ
nhưng An Lộc sẽ bị tiêu diệt trong trận tấn công
dữ dội hơn của CSBV. Vì ngay trong tuần lễ khi An
Lộc được tăng cường hai đơn vị Dù thì tình hình
ở khu vực phía đông nam An Lộc trở nên vô cùng sôi
động.
Trong trận tấn công An Lộc lần thứ
hai, bắt đầu từ ngày 18/4, CSBV đã dội trọng
pháo mỗi ngày hơn một nghìn quả pháo vào các
đơn vị phòng thủ An Lộc và đạn nổ tập trung
nhiều nhất là các khu đóng quân của các đơn vị
thuộc TĐ6ND, nhất là hai ngọn Đồi Gió, Đồi 169
và ấp Srok Ton Cui. TĐ5ND đóng ở đông nam, cách
BCH/Tiểu khu một cây số, cũng bị pháo kích và
tấn công dữ dội. SĐ–7/CSBV, mặc dù vẫn “đóng
chốt” chặt chẽ ở khu vực Suối Tàu–Ô, nhưng vẫn
nhận được lệnh của TWC/MN đưa bớt Trung đoàn 141
về vùng đông nam An Lộc để gây áp lực mạnh cho
cánh quân Dù của Đại tá LQL ở khu vực cao điềm
này. Điều làm cho Tướng Hưng quan tâm hơn là tin
tức của Đại đội Kỹ Thuật/SĐ ghi nhận hai Trung
đoàn F–6 và 275 của SĐ–5/CS sau khi bổ sung quân ở
vùng Trị Tâm đã quay lại chiến trường An Lộc và
hiện diện trong khu trọng yếu đó, chưa kể Trung
đoàn Đặc công 469 và hai Trung đoàn 208 Trọng pháo
và 271 Phòng không của SĐ70 Pháo/TWC/MN cũng từ
vùng đồn điền Quản Lợi kéo xuống các ấp Sóc
Trào, Hương Thanh hướng đông bắc Đồi Gió chừng 6
đến 8 cây số. SĐ–5/CS vẫn giữ Trung đoàn 174, tức
đơn vị cấp Trung đoàn thứ ba của chúng ở vùng
đồn điền và sân bay Quản Lợi, hình như để làm
lực lượng phòng ngừa một cuộc đổ quân bất ngờ
của QLVNCH tái chiếm sân bay quan trọng nhất này
của Bình Long, chỉ cách An Lộc chừng 5 hay 6 cây
số ở phía đông. Trước tin tức về cuộc tập trung
quân CSBV lớn ở đông và đông nam An Lộc, cộng thêm
những yếu tố khác nói ở trên, dĩ nhiên Tướng
Hưng không thể chấp thuận kế hoạch tái chiếm các
khu phố phía bắc tỉnh lỵ và sân bay Đồng Long
của Đại tá William Miller. CSBV tập trung lực lượng
lớn ở khu vực này rõ ràng là chúng có ý định
tấn công và tiêu diệt đơn vị Nhảy Dù thiện chiến
này của QLVNCH trước, hoặc trong trận đánh quyết
định. Cuộc cãi nhau “về chiến thuật” này đã tăng
thêm sự rạn vỡ giữa hai cấp chỉ huy cao cấp này
ở mặt trận An Lộc. Dĩ nhiên, Tướng Hưng đã báo
cáo đầy đủ lên Tướng Minh. Về phần Đại tá Miller
có lẽ cũng vậy. Sự ghét bỏ Tướng Hưng của Đại tá
Miller dù muốn che đậy qua vẻ lịch sự thường
nhật của người phương Tây, nhưng ông đã không tự
kềm chế được lúc đó –và sau này nữa– khi về
lại Hoa Kỳ, Miller đã tạo nên một luồng dư luận
lớn tấn công vào uy tín của Tướng Hưng và Bộ
Tham mưu Hành Quân của SĐ5BB là bất lực, thụ động,
không làm được việc gì, “kể cả công việc tham mưu
hành quân hoàn toàn do toán cố vấn Hoa Kỳ của
ông ta đảm trách suốt trận đánh An Lộc.” Ông ta
còn cung cấp tài liệu thiếu chính xác mà nhiều
bịa đặt nói trên cho Trung úy James H. Willbanks,
trong toán cố vấn của Chiến đoàn 52 của SĐ18BB
tăng phái, mà, sau này về Mỹ đi học lại, đã dựa
vào để viết, trình, luận án Tiến sĩ (sau đó in
thành sách với tựa đề “The Battle of AnLoc”,
Indiana University Press, 2005), như nói phần trên.
Tài liệu này của Wilbanks và các cuộc hội thảo
khác về Trận An Lộc của Đại tá William Miller đã
biếm nhẽ và hạ thấp uy tín của Tướng Lê văn Hưng
đến mức cao nhất trong Quân lực Hoa Kỳ. Trở lại
thời điểm đó, nhìn rõ cục diện chiến trường
mới thấy rằng sự hiểu biết của William Miller là
nông cạn, đúng như Tướng Hưng nhận xét.
Ngày 19/4, ngày thứ nhì TWC/MN tấn công An Lộc
lần hai, CSBV pháo kích dữ dội vào thành phố,
vào vị trí đóng quân của các đơn vị Dù, nhất
là vị trí của TĐ6 và TĐ3 Pháo binh Dù ở Đồi
169, Đồi Gíó và Srok Ton Cui. Ngay trong đêm đó, 6
khẩu đại bác 105ly của TĐ3 Pháo Dù bị pháo CSBV
dập nát không sử dụng được nữa và kho đạn trọng
pháo trên Đồi Gió, hơn 1,000 quả đạn, cũng bị nổ
tung. Sáng ngày 20/4, toàn khu vực đông nam này bị
uy hiếp trầm trọng bởi hai Trung đoàn CSBV, Trung
đoàn 275 của SĐ–5/CS và Trung đoàn 141 của
SĐ–7/CSBV phối hợp với chiến xa. Đồi Gió bị tấn
công ác liệt nhất trong đêm đó sau nhiều đợt pháo
gần như san bằng ngọn đồi cao 150m này, tiếp theo
là những đợt tấn công biển người với bộ binh và
chiến xa. Mặc dù chiến sĩ TĐ6ND trên đồi đã
chống trả mãnh liệt, hạ 2 trong 4 chiến xa, và
đẩy lui nhiều đợt xung kích, nhưng đến gần sáng
thì bị tràn ngập. Thiếu tá Phạm Kim Bằng, Tiếu
đoàn phó và số quân Dù còn lại đã tập trung về
được với Bộ Chỉ huy nhẹ của Trung tá Lê văn Ngọc
Lữ đoàn phó, trên Đồi 169. Một cánh quân khác
của TĐ6ND, gồm hơn hai Đại đội do Trung tá Nguyễn
văn Đỉnh chỉ huy ở Srok Ton Cui cũng bị tấn công
dữ dội, phải đánh mở đường máu rút về hướng
đông nam trên hữu ngạn Sông Bé. Sau nhiều lần bị
phục kích và tấn công trên lộ trình rút lui,
nhiều toán binh sĩ của cánh quân này thất lạc,
tuy nhiên Trung tá NVĐ vẫn giữ được liên lạc với
Bộ Chỉ huy Lữ đoàn, nên buổi chiều ngày 21/4
được trực thăng bốc về Lai Khê. Chỉ còn hơn một
trăm chiến sĩ phần lớn đều bị thương tích. Các
ngày kế tiếp một số chiến sĩ của Tiểu đoàn
thất lạc cũng tìm về được với các đơn vị bạn
thuộc SĐ21BB vùng phía bắc Chơn Thành. Tổn thất
của TĐ6ND rất nặng. Bị mất hơn một nửa quân số
tham chiến, trên hai trăm người chết và mất tích,
với hàng trăm thương binh. TĐ3 Pháo binh Dù mất
toàn bộ các khẩu pháo binh dã chiến, tổn thất
lớn về quân số. Cũng trong đêm 20 rạng sáng 21/4,
dưới áp lực quá nặng nề của hơn hai Trung đoàn
quân CSBV, cánh quân của Trung tá LVN trên Đồi 169,
chỉ còn chừng 150 người, kể cả chiến sĩ của
TĐ6ND, cũng được lệnh bỏ ngọn đồi này rút vào An
Lộc theo lộ trình của TĐ8ND mấy ngày trước, và
tập trung lại với Bộ Chỉ huy Lữ đoàn phòng thủ
mặt đông nam thành phố.
Book marks: LGT | TSTG | KỲ–1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | KỲ–12 | PL | Đầu trang
KỲ–8
Tướng
LÊ VĂN HƯNG &
Những sự thực ở Chiến trường AN LỘC
trong Mùa Hè Đỏ
Lửa 1972; cont'd...
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Kỳ–8
Như vậy, cả khu
vực cao điểm đông nam An Lộc lại hoàn toàn bị
quân CSBV kiểm soát. Tuy nhiên chúng cũng không đủ
mạnh để có thể đánh bật được toàn bộ Lữ đoàn
Dù ra khỏi khu xa lộ phía nam Tiểu khu. Dưới sự
chỉ huy sáng suốt và nhiều kinh nghiệm trận mạc
của Đại tá LQL và cấp chỉ huy tài giỏi như các
Trung tá LVN, VBN và NCH, Lữ đoàn 1 Nhảy Dù vẫn
bảo vệ được sân trực thăng xa lộ và các loại
trực thăng và Chinook Hoa Kỳ và KQVN tiếp tế và
tải thương cho các đơn vị phòng thù cho đến ngày
trận chiến An Lộc chấm dứt. Thế nhưng nếu rút
quân Nhảy Dù đi khỏi khu vực đó hợp lực với một
số đơn vị khác mà mở cuộc phản công chiếm lại
phía bắc thành phố và sân bay Đồng Long như chủ
trương của Đại tá Cố vấn William Miller là thứ
chiến thuật không tưởng, hạng bét. Vậy mà không
hiểu tại sao Đại tá Miller không hiểu rõ tình thế
lúc đó vẫn tiếp tục thôi thúc và cãi với Tướng
Hưng về việc này cho mãi đến cuối tháng 4/1972.
Về câu chuyện thôi thúc phản công chiếm lại phía
bắc thành phố Wilbanks ghi lại ở trang 112 trong
quyển sách nói trên của ông như sau “Colonel Miller
had once again frustrated with General Hung. After the
jubilation of blunting the attack on 19–20 April had
failed, Miller urged Hung to put his troops on the
offensive te retake the northern part of the city.
However, no amount of pleading was able to force Hung to
give such an order”.
Không biết khi viết luận
án Tiến sĩ Wilbanks có biết trong ngày 19–20 April
quân CSBV tấn công dữ dội TĐ6 Nhảy Dù ở Đồi Gió
và Srok Ton Cui và ngày 20 April hai nơi này bị
tràn ngập đưa đến việc làm cho Tiểu đoàn này và
mấy Đại đội pháo binh Dù tan rã... sau khi đánh
mở đưởng máu rút về căn cứ Tiểu khu và trên bờ
Sông Bé rồi cả vùng cao điểm đông nam An Lộc đã
bị địch quân tái chiếm hay không mà viết những
câu vô lý như ghi trên. Ông ta có biết chăng Tướng
Hưng đang chịu sức ép rất lớn của địch quân lúc
đó ở mặt đông nam này và Lữ đoàn 1 Nhảy Dù đã
mất gần 1/3 lực lượng trong hai ngày đó hay không?
Nếu biết tại sao ông không nêu lên? Hay vì ông ta
muốn bênh vực cho quan điểm chiến thuậ̣t của Đại
tá Miller mà quên, hay bỏ qua, sự kiện vô cùng quan
trọng nói trên. Hoặc giả ông ta biết và mặc dù
khi trở vể Hoa Kỳ thăng đến cấp tá và có bằng
cấp cao nhưng vẫn chưa lột hết cái dốt về chiến
thuật của một Trung úy, cấp Trung đội trưởng, còn
quá ngu ngơ về trận mạc nên đã tâng bốc quan điểm
hạ đẳng của một sĩ quan cấp tá “sorti–du–rang”
như Miller, không biết gì về chiến tranh Việt Nam?
Luận điểm sau này có lẽ đúng hơn.
Trở lại
thời điểm đó, một đêm vào cuối tháng 4/1972, vào
khoảng gần giữa khuya, khi tôi đang ngồi ở chiếc
bàn trực hành quân vuông –thay thế chiếc bàn
thấp cũ– thì Đại tá Miller đến gặp tôi và nói
với tôi là ông cần gặp Tướng Hưng –lúc đó đã
vào ở trong căn hầm riêng của tư lệnh, sau khi Đại
tá MVT bị đưa về đơn vi. Ông nói với tôi là ông sẽ
gởi điện xin TRAC (Third Regional Assistance Command –
Bộ Tư lệnh Yểm Trợ Vùng 3 Chiến Thuật) “rescue”
toán cố vấn Sư đoàn –division combat assistance
team– ra khỏi An Lộc. Ông ta trao cho tôi xem bút
tự của ông viết trên mẫu giấy công điện hành quân
màu vàng. Tôi đọc xong bản văn ngắn đó –mà ngày
nay tôi không còn nhớ rõ chi tiết từng chữ– và
chỉ hỏi ông một câu rất ngắn: –”Đại tá có chút
cảm tình nào với các chiến sĩ của Sư đoàn này
hay không? Ông ta trả lời rằng: –”Có, lúc nào tôi
cũng có và tôi quí trọng họ, nhưng tôi phải ra
đi...” Tôi yêu cầu Đại tá Miller ngồi chờ và đi vào
hầm tư lệnh với bản điện văn của ông ta. Tướng
Hưng cười nhưng không dấu được nỗi tức giận: –”Cứ
để cho hắn đi.” Tôi nói: –”Không được, anh phải ra
gặp hắn.” Tôi đến tủ lạnh, cắt mấy khoanh chả
lụa để vào một cái dĩa và mang mấy chai bia ra
hầm hành quân đặt trên bàn trực hành quân. Tôi
nói với Đại tá Miller là Tướng Hưng sẽ ra ngay,
rồi bỏ về chỗ nằm của tôi (nếu ngày nay Đại tá
Miller có đọc được những gì tôi viết trên đây,
hẳn sẽ nhớ rõ việc này và sẽ nhớ lại tôi là
ai). Chỉ mấy phút sau Tướng Hưng từ hầm riêng
bước ra, quân phục tác chiến chỉnh tề, với ngôi
sao tướng màu đen thêu trên bâu áo. Ông cười bắt
tay Đại tá Miller và hai người ngồi vào bàn, nói
chuyện thản nhiên như không có chuyện quan trọng
xảy ra. Họ nói với nhau những gì không ai dám
đến gần nghe, nhưng rõ ràng là không cãi nhau như
những ngày trước....
Sau đêm đó, từ sáng
ngày hôm sau, Phòng 3 và Phòng 2 của Bộ Tư lệnh
Hành quân không nhận được một chỉ thị nào của
Tướng Hưng để thiết lập kế hoạch hành quân giải
tỏa các phu phố mặt bắc thành phố vào sân bay
Đồng Long. Chỉ biết là trong khu vực tránh nhiệm
của Liên đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, các đơn vị
của Trung tá Phan văn Huấn, với lối đánh trong đêm
tối đặc biệt đã tiệm tiến chiếm lại được từng
căn phố, từng dãy phố, tiêu diệt từng nhóm nhỏ
của địch, nên khu vực phòng thủ đã nới rộng lần
lên phía bắc thành phố. Hàng đêm, Hỏa Long của
Không lực Hoa Kỳ vẫn tiếp tục bao vùng trên toàn
thành phố và các khu vực ngoại vi, bắn thêm
nhiều chiến xa và quân xa của CSBV. Ngược lại,
hằng ngày và hằng đêm, tiếng đạn đại pháo địch
vẫn tiếp tục rít lên nổ ầm ầm không dứt trên
mọi tuyến phòng thủ, gây tổn thất không ít cho
các đơn vị và cư dân. Lượng đạn chúng “dập” vào
thành phố không dưới 1,000 quả mỗi ngày đêm. Mọi
người đều biết rằng mình đang mong đợi những
cánh quân bạn từ phía nam lên, biết rằng một
trận tấn công lớn khác sắp diễn ra, và cũng
biết rằng tính mạng của mình treo trên những sợi
chỉ mành vì bất cứ một mảnh đạn pháo vô tình
nào, một viên đạn bắn thẳng nào, hay... kể cả
những cánh dù tiếp tế, không bung kịp, từ trên
trời rơi xuống vùi lấp cả chiếc hầm cá nhân lẫn
những con người... trong đó. Họ biết thân phận
mình như những chàng... Kinh Kha... đang chờ Cao
Tiệm Ly trên bờ Dịch Thủy. Vậy mà họ vẫn giữ
trong lòng niềm tin mãnh liệt là họ sẵn sàng
chết để tử thủ An Lộc như lời tuyên bố của vị
tư lệnh chiến trường. Chỉ cần vị tư lệnh chịu
chết theo thành thì họ cũng sẽ chịu chết để
giữ thành. Người ngoại quốc làm sao hiểu được
thứ tâm lý của binh sĩ ở chiến trường Việt
Nam!.. Ngược lại họ đã viết nhiều điều sai sự
thực. Vì vậy, nên sau này có nhiều người có lương
tâm đã xin lỗi về những gì mình viết hay nói về
Việt Nam trước đó. Những vị này là những người
có lương tri….
Một ngày đầu tháng 5/1972,
tôi không nhớ rõ, một chiếc dù tiếp tế không kịp
mở, đã rơi đúng vào căn nhà ngói, trần dầy,
tường béton–armé, nền gạch cao... của Phòng 2/
Hành quân, nơi làm việc tôi và gần hai mươi sĩ
quan, hạ sĩ quan và binh sĩ, làm cho nóc nhà
sập, và chiếc dù với khối tiếp tế khổng lồ
khoét một hố sâu trên 4m dưới nền nhà, nhưng nhà
không sập, tường không đổ, chỉ mất nóc và trần
nhà...(Ảnh # 5) và cũng không ai bị đè chết vì
lúc đó tôi đang ở dưới hầm hành quân với hai Đại
úy của tôi phụ tránh “nhật ký hành quân”, còn
các sĩ quan và nhân viên khác đều nằm ở hố cá
nhân ngoài tuyến. Chiếc hầm bất đắc dĩ này mà
sau đó vẫn hữu dụng –thành nơi sinh hoạt an toàn
của chúng tôi. Chừng hơn một tuần hay mươi ngày
sau, khi tôi vừa ăn xong bữa trưa gạo xấy và mấy
hộp thịt ration với anh em ở trong cái hầm đó
định bước lên để trở lại hầm hành quân thì thấy
một Đại tá Hoa Kỳ đứng cạnh Đại tá Bùi Đức Điềm,
Tham mưu trưởng Hành quân của Tướng Hưng bên ngoài
cửa... nhìn vào chiếc hầm. Tôi bước lên hầm
chào. Ông bắt tay tôi và cho biết là ông mới đến
thay thế Đại tá Miller và muốn gặp tôi để biết
thêm về địch tình và cung từ của người tù binh
mới bị bắt mấy ngày trước. Tôi tiếp ông ở trong
hầm hành quân chừng mươi phút. Đó là một ngày
mà chúng tôi đang chuẩn bị đón đợi một đợt tấn
công mới của quân CSBV vào An Lộc tháng 5/1972. Ông
cố vấn trưởng Hoa Kỳ mới của Tướng Lê văn Hưng
là Đại tá Walter F. Ulmer. Ông ngoài bốn mươi, không
phải dạng cao lớn nhưng tầm thước, khỏe mạnh,
đẹp người. Trông ông có vẻ trầm tĩnh đặc biệt,
rất ít nói và rất hiểu biết. Như vậy là Đại tá
Miller đã âm thầm rời Bộ Tư lệnh Hành quân của
SĐ5BB ở An Lộc trong đêm trước đó. Các sĩ quan
phụ tá của ông vẫn còn ở lại làm việc với Đại
tá Ulmer.
Ông cố vấn mới và ông tư lệnh cũ
của Sư đoàn hoạt động với nhau hình như thích
hợp. Sự yểm trợ hành quân của Không lực Hoa Kỳ
nhanh chóng và hữu hiệu trong trận đánh nhau dữ
dội hơn sau đó. Còn Đại tá Miller, tôi không biết
thuyên chuyển đi đâu. Giả thử lúc đó ông có gửi
bản văn của công điện xin “rescue” toán cố vấn Hoa
Kỳ ra khỏi An Lộc –mà ông cho tôi và Tướng Hưng
xem– thì thượng cấp của ông cũng làm đến mức
là chỉ “bốc” riêng ông đi khỏi chiến trường này
mà thôi. Làm sao mà Washington bỏ An Lộc được
trong thời điểm đó? Ông tướng Hoa Kỳ nào ở Việt
Nam lúc đó dám làm cái việc dại dột mà Miller
đã xin làm: “bốc toán cố vấn Sư đoàn ra khỏi
chiến trường An Lộc”? Dĩ nhiên chỉ có chính
Miller bị thiệt thòi mà thôi. Trước trận An Lộc,
chúng tôi được biết là ông sẽ được bổ nhậm làm
tư lệnh một lữ đoàn, tức là có khả năng thăng
cấp tướng. Nhưng từ khi về HK cho đến sau này
giải ngũ ông vẫn mang cấp Đại tá, mặc dù nghe đâu
đã được nhận chức vụ chỉ huy dự trù. Có lẽ vì
vậy nên nỗi hận Tướng Lê văn Hưng của Đại tá Miller
dâng cao ngùn ngụt.... Tuy nhiên có điều đáng mừng
cho ông là đã có một người con tốt nghiệp ở một
trường võ bị danh tiếng Hoa Kỳ, sau này đánh nhau
nổi tiếng ở chiến trường Irac và thăng đến cấp
tướng ba sao (lieutenant general). Đó là niềm an ủi
lớn nhất của ông. Trong khi đó người bị thiệt
thòi nhiều nhất là Tướng Lê văn Hưng bởi cả hai
sự việc vừa kể trên.
9. CÁC CHỐT
CHẶN CỦA SĐCT–7/CSBV TRÊN QL–13, PHÍA BẮC LAI KHÊ
VÀ PHÍA NAM AN LỘC. CUỘC ĐẤU TRÍ GAY GO GIỮA HAI
TƯỚNG NGUYỄN VĂN MINH VÀ TRẦN VĂN TRÀ.
Trong suốt thời gian gần ba tuần lễ sau trận
tấn công lần thứ nhất ngày 13/4/1972 cho đến đầu
tháng 5/1972 khi Đại tá Walter Ulmer thay thế Đại tá
William Miller ở An Lộc thì mặt trận ở phía nam,
SĐ21BB của Thiếu tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được điều
độ̣ng từ miền tây lên tăng viện với ba Trung đoàn
31, 32, 33 và Thiết đoàn 9 Kỵ binh, thay thế Lữ
đoàn 1 Nhảy Dù của Đại tá Lê Quang Lưỡng –đã vào
An Lộc– đang lo giải tỏa chốt chặn của Sư đoàn
SĐ–7/CSBV trên trục QL–13, từ phía bắc quận lỵ
Chơn Thành lên An Lộc. “Chốt chặn” gồm nhiều
“chốt nhỏ” của các đơn vị trực thuộc đại đơn vị
này. Mỗi chốt nhỏ gồm có hệ thống hầm hố liên
hoàn yểm trợ nhau –thường được binh sĩ gọi là
“kiềng” như loại kiềng ba chân– tức một hệ phòng
thủ chặn trục lộ với ba hệ thống hầm hố, địa
đạo... bảo vệ cho nhau, kéo dài hàng chục cây số
trên trục lộ gồm cả khu vực rộng lớn hai bên
đường. Trên lý thuyết một “cứ điểm” của QLVNCH
hay một “chốt chặn” của CSBV –nếu được phòng
thủ với hệ thống kiên cố– lực lượng tấn công
chiếm điểm hay bứng chốt cần một quân số gấp ba
lần, là ít nhất, để có thể thành công. Tướng
Minh đã điều ngược lại với dụng ý... như một
đại kỳ thù trong bàn cờ ở (trận) QL–13 và An
Lộc này năm đó.
Nên lưu ý theo trục QL–13 thì từ Lai Khê
lên Chơn Thành là 30km. Từ Chơn Thành, một quận
của tỉnh Bình Long, lên An Lộc thủ phủ của Bình
Long, cũng 30km.
Toàn bộ SĐ21BB di chuyển
vào lãnh thổ V3CT từ ngày 10/4/1972 và hoàn tất
vào ngày 12/4/1972. Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi đóng
Bộ Tư lệnh Hành quân nhẹ SĐ21BB ở căn cứ Lai Khê
chung với Bộ Tư lệnh Hành quân nhẹ của QĐIII &
V3CT. Ông cho điều động Trung đoàn 31 lên vùng Suối
Tre, chừng 6km tây bắc Lai Khê và giữ Trung đoàn 33
làm trừ bị tại Lai Khê. Trước tiên ông đưa Trung
đoàn 32 bằng đường bộ lên Chơn Thành ngày 11/4.
Quốc lộ 13 từ Lai Khê lên Quận Chơn Thành từ ngày
các đơn vị của Tướng Nghi vào vùng hành quân lưu
thông tốt sau khi Lữ đoàn 1 Nhảy Dù bứng các
chốt của hai Trung đoàn 141, 209 của SĐ–7/CSBV tăng
cường Trung đoàn biệt lập 101 và các đơn vị
chống chiến xa và phòng không của CSBV ở vùng
Bàu Bàng (chốt chặn lần thứ nhất) từ ngày 9
đến 11/4. Sau đó Ông nhận được lệnh kiện toàn hệ
thống phòng thủ vùng từ tỉnh lỵ Bình Dương lên
quận Bến Cát và căn cứ Lai Khê lên đến căn cứ Vân
Đồn, ở hướng bắc Lai Khê chừng 6km... trong vòng
mười ngày (từ 14/4 đến 24/4/1972…) nhưng bỏ trống
quãng đường dài chừng 20km từ căn cứ này đến
phía nam quận lỵ Chơn Thành. Tướng Minh cho rằng
trong vòng mười ngày TWC/MN sẽ cho đóng chốt lần
nữa trên đoạn đường này.
Đúng vậy, đến
ngày 24/4 quả thực đoạn đường này bị đứt đoạn
khi một xe đò bị một đơn vị của SĐ–7/CSBV bắn
cháy bằng B–40 làm cho nhiều người chết và bị
thương và đóng chốt lần thứ hai ở khu vực Bàu
Bàng, phía bắc Lai Khê chừng mươi cây số, tức là
cách căn cứ Vân Đồn, nơi đóng quân của một Tiểu
đoàn thuộc Trung đoàn 33, chừng 6km, làm tắt
nghẽn vận chuyển tiếp tế cho các đơn vị khác ở
Chơn Thành. Chốt chặn lần này rất mạnh gồm Trung
đoàn 101 bộ binh biệt lập của VC, được tăng cường
các đơn vị phòng không, chống chiến xa, và đặc
công... kể cả lực lượng tăng cường gồm hai Tiểu
đoàn của các Trung đoàn 209 và 165 thuộc SĐ–7/CSBV
như Tướng Minh đã tiên liệu.... Ông cũng biết rằng
dù “bứng” chốt chặn ở khu vực Bàu Bàng này xong
SĐ21BB, với ba Trung đoàn bộ binh cơ hữu và một
thiết đoàn kỵ binh sẽ khó giải tỏa QL–13 đoạn
đường dài nối tiếp 30km từ phía bắc Chơn Thành
lên An Lộc. Ông là vị tướng dùng quân rất thận
trọng, như đã nói, nên đã xin BTTM/QLVNCH tăng
cường thêm lực lượng. BTTM tăng cường cho QĐIII &
V3CT Lữ đoàn 3 Nhảy Dù. Một kế hoạch mới được
thiết lập để bứng các chốt chặn trên vùng bắc
Chơn Thành cho đơn vị Dù mới tăng viện. (Nếu tính
về quân số thì lực lượng Dù tung vào giải chốt
vùng bắc Chơn Thành chỉ bằng 1/3 quân số của đơn
vị đóng chốt là SĐ–7/CSBV. Đó là điều “nghịch
lý” mà tôi nêu ở phần trên, nhưng lại nằm trong
kế hoạch có dụng ý của Tướng Nguyễn văn Minh. Sau
này, mới hiểu dụng ý của Tướng Minh trong kế
hoạch này là dùng ít quân thiện chiến để kềm
đại quân của địch nằm tại chỗ tiêu diệt bằng phi
pháo, đồng thời đánh nhử để biết rõ thực lực
của địch ở các chốt chặn đó, và kéo thêm những
đơn vị lớn của chúng vào vùng chốt chặn mà nới
áp lực ở mặt trận chính An Lộc...)
Kế
hoạch hành quân mới gọi là “Toàn Thắng 72–D”,
được tiến hành từ ngày 24/4 với ba Tiểu đoàn 1, 2
và 3 của Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù do Trung tá Trương
Vĩnh Phước chỉ huy (Ông thăng cấp Đại tá không lâu
sau đó), có sự phối hợp của Trung đoàn 31 Bộ
binh, Đại đội Trinh sát của SĐ21BB. Và Thiết đoàn
5 Kỵ binh. Đây là cuộc hành quân giải tỏa lần
thứ hai vào Suối Tàu–Ô của lực lượng Dù, nhưng
là lần thứ nhất vào ấp Tân Khai. Thực ra, cả hai
lần: lần trước sử dụng Lữ đoàn 1 Dù của Đại tá
Lê Quang Lưỡng và lần này Lữ đoàn 3 Dù của Đại
tá Trương Vĩnh Phước đánh vào Suối Tàu–Ô không
phải là để thực sự “bứng” chốt mà chỉ “kềm”
địch tại chỗ…. Hay nói rõ ràng hơn chỉ là một
cuộc “hành quân cường thám” vào hang hùm, cấp lữ
đoàn mà thôi. Một cuộc hành quân cường thám với
lực lượng khá lớn như vậy nếu bứng được chốt
thì bứng, không bứng được thì rút, dù có tổn
thất cũng biết rõ được thực lực của địch trong
“hang hùm” của chúng lên đến mức nào... (Cũng nên
lưu ý rằng Tướng Minh xuất thân là một sĩ quan
Nhảy Dù từ khi ra trường Đà Lạt cho đến khi mang
cấp bậc đại úy mới ra khỏi Lữ đoàn Nhảy Dù và
làm Trưởng phòng 3 Bộ Tham mưu Phân Khu Sài Gòn –
Chợ Lớn của Đại tá Dương văn Minh (người mà sau này
thăng đến Đại tướng, hai lần làm sụp đổ hai nền
Cộng Hòa của miền Nam) cũng là Bộ Tham mưu Hành
quân của ông này trong chiến dịch Chợ Lớn và
Rừng Sát bình phục loạn quân Bình Xuyên của Bảy
Viễn (1954–1955). Đối với các cấp chỉ huy Nhảy
Dù như các Đại tá Lê Quang Lưỡng và Trương Vĩnh
Phước thì Tướng Minh là bậc huynh trưởng, nên dù
cho các ông có xả thân cho huynh trưởng trong chiến
trận cũng không tiếc. Đó là truyền thống cao quí
của các sĩ quan Nhảy Dù).
Với hai lữ đoàn
hành quân trong mặt trận, Sư đoàn Nhảy Dù phải
lập BTL/HQ nhẹ do Chuẩn tướng Hồ Trung Hậu chỉ huy
–đóng chung với Bộ Chỉ huy của Trung đoàn 32 tại
Chơn Thành– để theo dõi và yểm trợ cho hai lữ
đoàn trực thuộc (Lữ đoàn 1 ở An Lộc và Lữ đoàn
3 đang hành quân trên QL–13). Trên nguyên tắc, Tướng
Nguyễn Vĩnh Nghi là Tư lệnh các lực lượng giải
tỏa QL–13. Tuy nhiên trong cuộc hành quân đặc biệt
Toàn Thắng 72–D này, Bộ Tư lệnh nhẹ của Sư đoàn
Nhảy Dù trực tiếp chỉ huy Lữ đoàn 3 Dù và
Thiết đoàn 5 Kỵ binh. Đơn vị trưởng của đơn vị
thiết kỵ này là Đại tá Trương Hữu Đức, hy sinh
trong lần giải tỏa trước khi phối hợp với Lữ
đoàn 1 Nhày Dù (ngày 13/4, thăng cố Chuẩn tướng).
Trong ngày 24/4 Trung đoàn 31 Bộ binh được trực
thăng vận từ vùng Suối Tre lên phía đông nam Suối
Tàu–Ô chừng 3km, bên sườn QL–13, để hỗ trợ cho Lữ
đoàn 3 Nhảy Dù trực thăng vận vào vùng hành
quân. Lữ đoàn này vừa rút từ mặt trận Tây nguyên
về và được đưa ngay vào trận địa QL–13. Ngày hôm
sau, 25/4 Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù được trực thăng vận
xuống bãi đáp đã dự trù phía đông QL–13, quãng
giữa Suối Tàu–Ô và xã Tân Khai ở phía bắc để
tấn công vào hai mục tiêu đó. Ngay khi trực thăng
vừa đổ quân, Tiểu đoàn này –do Trung tá Lê văn Mạnh
chỉ huy– đã bị pháo kích súng cối và bắn
phòng không, nhưng vẫn tiến đánh các mục tiêu đã
ấn định. Ngày 26/4, Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù của Thiếu
tá Lê Hồng được đổ tiếp vào trận địa nhưng vượt
sang phía tây quốc lộ tiến về hướng tây bắc lên
đến xã Đức Vinh, chiếm mục tiêu này, chừng năm cây
số phía bắc Tân Khai và khoảng 8 km nam An Lộc.
Lúc đó quân CSBV sợ và nghĩ là lực lượng của
Tướng Nghi sẽ từ phía nam tiến lên giải tỏa Suối
Tàu–Ô hơn là đánh ở quãng trên, tức vùng ấp Đức
Vinh, phía bắc Tân Khai. Vì vậy việc đóng chốt
của chúng ở vùng suối Tàu–Ô và ấp Tân Khai rất
vững, kiên cố, với hai Trung đoàn 209 và 165 tăng
cường các đơn vị phòng không và chống chiến xa.
Còn ở ấp Đức Vinh chúng bỏ trống. Do đó Tiểu
đoàn 2 Dù của Trung tá Lê văn Mạnh chạm địch rất
mạnh ở cả hai khu vực Suối Tàu–Ô và Tân Khai.
Còn Tiểu đoàn 1 Dù của Thiếc tá Lê Hồng chỉ
chạm nhẹ ở Đức Vinh. Tiểu đoàn 2 Dù phải đóng
một căn cứ tạm trong khu vực hành quân, với một
số khẩu 105 pháo binh dã chiến mang theo yểm trợ.
Trong nhiều ngày liền Tiểu đoàn Dù này đã mở
nhiều đợt tấn công vào các chốt của địch nhưng
không thể chiếm được các mục tiêu này của
SĐ–7/CSBV, mặc dù được sự yểm trợ của KQVN và
KLHK kịp thời và dữ dội, với hỏa lực của các
phi xuất dội bom khủng khiếp vào khu vực đóng
chốt của chúng, kể cả các phi vụ B–52. Hơn một
tuần, từ ngày đổ quân cho đến ngày 2/5, sau nhiều
đợt tấn công, rồi liên tục bị phản công hay bị
dập pháo vào căn cứ dã chiến, và mặc dù tổn
thất của CSBV rất nặng, cánh quân của Tiều đoàn
2 Dù không thể “bứng” được các chốt trên QL–13 ở
hai vùng chốt chặn nói trên. Ở khu vực ấp Đức
Vinh ở phía bắc Tân Khai, TĐ1ND khi mới đổ quân
vào chỉ chạm súng nhẹ. Nhưng cho đến ngày
2/5/1972, thì căn cứ dã chiến của Tiểu đoàn ở ấp
Đức Vinh bắt đầu bị tấn công mạnh “tiền pháo
hậu xung”. Tin tức tình báo kỹ thuật ghi nhận là
từ đầu tháng 5, Trung đoàn 271 của SĐ–9/CS được
tái bổ sung sau trận tấn công An Lộc lần đầu 13/4
và bị tổn thất lớn, đã được TWC/MN đưa xuống
vùng tây bắc ấp Đức Vinh, đồng thời Trung đoàn
141 của SĐ–7/CSBV, sau khi kết hợp với hai Trung
đoàn F6 và 275 của SĐ–5/CS tấn công Tiểu đoàn 6 Dù
tái chiếm vùng Đồi Gíó, Đồi 169 và Srok Ton Cui
ở đông nam An Lộc từ 18 đến 21/4, cũng được trả
lại cho SĐ–7/CSBV và rút về vùng ấp Đức Vinh để
kết hợp với Trung đoàn 271 của SĐ–9/CS nhằm ngăn
chận và tiêu diệt TĐ1ND không cho tiến lên An
Lộc... Những gì Tướng Minh dự trù đều diễn ra
đúng như vậy. Đánh nhử phía nam để địch quân
giãn bớt quân ở An Lộc phía bắc.
Tuy đã
tính trước là kéo các đơn vị lớn của TWC/MN về
vùng chốt chặn, nhưng với tình hình nguy hiểm
đó, trong ngày 2/5, Tướng Minh ra lệnh cho Tướng
Nghi và Bộ Tư lệnh nhẹ của Sư đoàn Dù đưa Trung
đoàn 31 ở phía đông QL–13, đông bắc Chơn Thành, lên
Đức Vinh và cũng cho trực thăng vận Đại đội Trinh
sát của SĐ21BB từ Lai Khê vào ấp Đức Vinh để tăng
cường cho Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù. Ông cũng ra lệnh
cho Lữ đoàn 3 Nhảy Dù trực thăng vận Tiểu đoàn 3
Dù vào vùng hành quân Suối Tàu–Ô và Tân Khai tăng
cường cho Tiểu đoàn 2 Dù.
Phải thành thực
ghi nhận rằng SĐ–7/CSBV là đơn vị thiện chiến.
Chẳng những các đơn vị thuộc Sư đoàn này đã lợi
dụng sự kiên cố của hệ thống phòng thủ do quân
lực Hoa Kỳ thiết lập ngày trước ở hai bên trục
lộ ở khu vực Suối Tàu–Ô, củng cố các vị trí
đó thêm, để đủ sức chịu đựng phi pháo vô cùng
dữ dội của Không Lực Hoa Kỳ, kể cả sự tàn phá
ghê gớm của hàng mấy mươi phi xuất B–52, và hàng
trăm phi vụ đánh bom và không kích khác của Không
quân Chiến thuật Hoa Kỳ và KQVN suốt chiều dài
của chiến dịch Nguyễn Huệ mùa Hè năm đó, Sư
đoàn này còn có khả năng tổ chức hệ thống
phòng thủ di động, có nghĩa là, ngoài các đơn
vị giữ chốt với hệ thống hầm hố và giao thông
hào, sâu, nối liền dày đặc trong khu vực đóng
chốt –và thường xuyên thay quân– chúng còn tổ
chức những đơn vị đánh phản công, từ cấp Đại
đội hay cấp Tiểu đoàn tăng cường phòng không, với
các đội trinh sát bám thật sát theo các đơn vị
hành quân của ta trong vùng để chỉ điểm đánh
pháo, hoặc đánh phục kích và tấn công. Do đó,
các đơn vị Dù, từ ngày được đưa vào vùng hành
quân giải tỏa QL–13 từ Suối Tàu–Ô lên phía bắc
Tân Khai và Đức Vinh theo Kế Hoạnh Toàn Thắng
72–D, đã khó tiến gần đến khu vực chốt phòng
ngự thực sự của CSBV, ngược lại luôn luôn bị
chúng dập pháo hoặc phục kích trên các trục lộ
xuất phát từ căn cứ dã chiến trong khu vực.
Những sự kiện này giúp cho Tướng Minh ước tính
được lực lượng của TWC/MN ở các chốt chặn phía
bắc Chơn Thành nhiều ít, mạnh yếu, như thế nào
dù ông biết rằng các đơn vị tăng viện sẽ gặp
khó khăn và tổn thất vì ít quân, nhưng ông tin
tưởng vào sự thiện chiến của các đơn vị Dù và
nhất là sự đánh phủ đầu bằng các trận bom dội
xuống mục tiêu…. Tuy nhiên chỉ với cấp một Tiểu
đoàn cho mỗi khu vực mục tiêu thì quá ít và nguy
hiểm.... Thí dụ như khu vực Suối Tàu–Ô do nguyên
Trung đoàn 209 của SĐ–7/CSBV cộng thêm các đơn vị
phòng không với đại bác 37 ly Liên xô di động và
hỏa tiễn hồng ngoại tuyến mới nhất SA–7 cá nhân
chống chiến đấu cơ, nhất là các loại trực thăng
(của một Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 271 Phòng
không, SĐ–70 Pháo/TWC.MN) và loại hoả tiễn AT–3
Sagger chống chiến xa (Tiểu đoàn 41 Chống Chiến xa)
và đơn vị trọng pháo (một Tiểu đoàn của Trung
đoàn 208 Pháo dã chiến với các loại súng cối 82
ly, 120 ly của Liên Xô, hỏa tiễn 122 ly) trong khi
lực lượng tấn công “bứng” hay “kềm” chốt chỉ là
một cánh quân chừng hai Đại đội của TĐ2ND tăng
cường một pháo đội Dù với 4 khẩu 105 ly. Còn ở
vùng Tân Khai, SĐ–7/CSBV có Trung đoàn 165, trong khi
lực lượng của ta chỉ có một cánh quân khác
chừng hai Đại đội cũng của Tiểu đoàn 2 Dù. Như
khi ta đưa Tiểu đoàn 1 Dù vào ấp Đức Vinh, phía
bắc Tân Khai, tức khắc TWC/MN điều ngay Trung đoàn
141 của SĐ–7/CSBV về đó lại còn tăng cường thêm
Trung đoàn 271 của SĐ9/VC. Ở đâu quân địch cũng
nhiều gấp 3 hay 4 lần hơn quân bạn.
Trong
chiến tranh, đôi khi người ta nhìn thấy những điều
tưởng chừng như phi lý hay sai nguyên tắc thí dụ
như chuyện dùng quân của Tướng Nguyễn văn Minh kể
trên... nhưng sau này nghĩ lại mới nhận ra rằng
lúc đó đã có cuộc đấu trí lớn lao giữa ông và
Tướng Trần văn Trà ở tuyến đường 60km từ Lai Khê
lên An Lộc mà quận lỵ Chơn Thành là tâm điểm
trọng yếu nhất.
Ai cũng biết muốn tiêu
diệt SĐ5BB của QĐIII phòng thủ tỉnh lỵ An Lộc
tất nhiên phải cắt con đường bộ tiếp viện và
tiếp vận của Sư đoàn này, tức là Quốc lộ 13.
Đoạn đường lý tưởng nhất cho việc đóng chốt khóa
trục lộ đó hẳn nhiên phải là vùng Suối Tàu–Ô
lên đến ấp Tân Khai, từ 15km đến 20km phía bắc
quận lỵ Chơn Thành. Tân Khai ở phía nam tỉnh lỵ
An Lộc chừng 10km. Tư lệnh bộ TWC/MN đã điều động
nguyên vẹn SĐ–7/CSBV tăng cường các đơn vị phòng
không, chống chiến xa, đóng chốt khu vực rộng lớn
này và tổ chức lại địa thế thành một trận địa
với hầm hố và địa đạo ẩn náu tránh được phi
pháo dữ dội nhất và chống trả được các cuộc
tấn kích chiến xa và bộ binh, như nói trên. Trong
khi đó Tướng Trà sử dụng lực lượng tổng hợp
khác, hơn 3 Sư đoàn –2 bộ binh, 1 pháo binh, và 3
Trung đoàn biệt lập chiến xa và đặc công– để
tiêu diệt lực lượng VNCH phòng thủ An Lộc. Kế
hoạch trên được thi hành từ ngày 7/4/1972 sau khi
TWC/MN đã chiếm xong Lộc Ninh. Ngày 8/4/1972 An Lộc
đã bị bao vây, phía nam bị SĐ–7/CSBV cắt mất
đường tiếp vận. Có lẽ Tướng Trần văn Trà của
TWC/MN không nghĩ rằng đã gặp một địch thủ túc
trí và dè dặt như Tướng Nguyễn văn Minh. Tôi đã
trình bày phần trên Tướng Minh đã sử dụng tin
tức để xin tăng cường quân cho Vùng 3 CT và An Lộc
như thế nào. Xin nói tiếp thêm rằng, có lẽ Tướng
Trà cũng nghĩ là Tướng Minh có thể xin tăng viện
được một Sư đoàn từ miền Tây điều động lên ngoài
các đơn vị Dù và Biệt Động Quân. Xin ghi nhớ,
SĐ21BB từ miền Tây lên thì Trung đoàn 32 Bộ binh
đến căn cứ Lai Khê ngày 10/4/1972 và được đưa lên
Quận Chơn Thành ngày hôm sau 11/4 bằng xe vận
chuyển đường bộ. Hai Trung đoàn 31, 33 Bộ binh và
Thiết đoàn 9 Kỵ binh đến Lai Khê ngày 12/4.
Quận lỵ Chơn Thành trấn giữ trục giao thông ở
giao điểm Ngã Tư QL–13 lên An Lộc và QL–14 dẫn qua
tỉnh Phước Long lên Quảng Đức... được coi là
trọng điểm chiến thuật phía nam An Lộc.
Cả
Tướng Minh lẫn Tướng Trà đều biết rõ địa điểm
này là quan trọng cho sự mất còn của An Lộc.
Tướng Minh luôn luôn cho trấn đóng tại đây một
Trung đoàn, vừa để bảo vệ điểm “xuất phát” giải
tỏa trục lộ từ đó lên An Lộc, vừa là điểm
“nhử” cho quân CSBV đến để diệt bằng phi pháo.
Địch đến càng nhiều càng tốt. Tướng Trà chắc
chắn sẽ không thí quân đánh chiếm Chơn Thành, vì
bốn ngã đều “thọ địch”, chưa kể phi pháo. Tướng
Minh biết như vậy nên ông “bỏ ngõ” quãng đường
giữa từ Lai Khê lên Chơn Thành từ chiều ngày
11/4/1972 sau khi Trung đoàn 32 của SĐ21BB đã lên
Chơn Thành chuẩn bị thay thế cho Lữ đoàn 1 Nhảy
Dù rút quân tăng cường cho An Lộc. Ông chỉ cho một
Tiểu đoàn của Trung đoàn 33 đóng quân ở Căn cứ Vân
Đồn, 6km phía bắc Lai Khê, và án binh bất động
chờ địch đến, sau khi rút Lữ đoàn 1 Nhảy Dù
ngày 14/4/1972 đưa lên An Lộc. Như vậy đoạn đường
còn lại từ phía bắc căn cứ Vân Đồn lên Chơn
Thành là trên 20 km, bỏ trống thực sự từ ngày
đó. Đương nhiên Tướng Trà phải hành động. Nếu để
đoạn đường từ Lai Khê lên Chơn Thành cho SĐ21BB sử
dụng thong thả thì chốt chặn từ Suối Tàu Ô của
TWC/MN lâm nguy bị “bứng” và như vậy là không dứt
điểm được An Lộc khi đại đơn vị này của Tướng
Minh tiến lên tiếp viện. Do đó, một mặt TWC/MN tổ
chức vội vã tấn công An Lộc lần thứ nhất từ
ngày 13/4 đến ngày 17/4/1972, thiếu chuẩn bị,
thiếu phối hợp, và nhất là thiếu quân. Rồi lần
thứ nhì từ 18/4 đến 21/4/1972, cũng vội vã như
vậy…. Mặt khác, TWC/MN đưa Trung đoàn 101 biệt
lập, cộng thêm hai Tiểu đoàn của các Trung đoàn
209 và 165 của SĐ–7/CSBV, phối hợp với các đơn vị
phòng không và chống chiến xa xâm nhập trở lại
và lập chốt chặn lần nữa ở khu vực Bầu Bàng.
Mặc dù sau hai đợt tấn công của quân CSBV do
TWC/MN chỉ đạo thất bại, Đài Phát thanh Hà Nội
tuyên bố với thế giới là chúng đã chiếm được An
Lộc ngày 18/4. Quyết tâm của Quân ủy Trung Ương đã
rõ ràng, An lộc là điểm chiến lược của cuộc
Tổng Tấn Công của CSBV mà không là Quảng Trị,
không là Kontum, TWC/MN không thể coi thường).
TWC/MN lâm vào thế phải hạ quyết tâm chiếm cho
được An Lộc trong những trận đánh kế tiếp với
những nỗ lực dù phải tận dụng đến đơn vị cuối
cùng. Do đó, ngoài việc củng cố lại lực lượng
và chu toàn kế hoạch để tấn công và chận viện
từ Chơn Thành trở lên An Lộc, TWC/MN cũng điều
các đơn vị đặc công và pháo phá rối căn cứ Lai
Khê, căn cứ của SĐ5BB nhưng lúc đó là nơi Bộ Tư
lệnh Hành quân của Tướng Minh và là trung tâm yểm
trợ cho các đơn vị QĐIII hành quân trên QL–13, và
đưa một Trung đoàn khác tấn công dữ dội để mong
dứt điểm các căn cứ Tống Lê Chân và Minh Thạnh
nằm trên Sông Sài Gòn, do các đơn vị BĐQ/BP và BĐQ
trấn đóng –cách An Lộc về phía tây nam từ 18km
đến 25km, theo đường chim bay– để khai thông đường
chuyển quân và tiếp vận của chúng giữa các mật
khu Dương Minh Châu ở Tây Ninh và Chiến khu D ở liên
ranh Biên Hòa và Bình Dương cho những trận tiến
công mới. Nếu trong tiểu tiết TWC/MN có thu nhặt
được một vài kết quả nhỏ thì trên tổng thể
TWC/MN rối rắm và mất thế chủ động ở suốt cả
mặt trận Bình Long, từ An Lộc xuống phía nam
quận lỵ Chơn Thành không thể thực hiện được sách
lược của Bộ Chính trị đảng CSVN vì cách điều
quân đầy mưu lược theo một thời biểu có tính
toán và rắc rối của Tướng Minh làm cho Tư lệnh
bộ của Tướng Trà không đoán được Tướng Minh đánh
phản công giải tỏa An Lộc như thế nào... Khi bỏ
trống đoạn đường từ căn cứ Vân Đồn lên phía bắc
gần quận lỵ Chơn Thành, Tướng Minh đã buộc TWC/MN
quyết định và họ đã quyết định sai lầm. Hai lần
TWC/MN đưa những cánh quân lớn vào đóng chốt đoạn
đường phía nam Chơn Thành, hai lần đầu bị “bứng”
với tổn thất nặng. Lần đầu từ ngày 8/4 chắc
chắn nằm trong nhu cầu chiến thuật theo kế hoạch
của TWC/MN khi tung quân bôn tập tấn công An Lộc,
cần thiết phải chặn đường chuyển quân tiếp viện
lên phía bắc của QĐIII & V3CT. Lần thứ nhất đó
chốt chặn bị Lữ đoàn 1 Nhảy Dù “bứng” trong ba
ngày kịch chiến từ 9/4 đến 11/4 với hai mũi
gíáp công từ Lai Khê đánh lên và từ Chơn Thành
đánh ép xuống làm cho SĐ–7/CSBV, Trung đoàn biệt
lập 101, và các đơn vị yểm trợ khác thiệt hại
hơn 200 cán binh, rút quân bỏ chốt. Trái lại, khi
đóng chốt lần thứ hai ở Bàu Bàng từ ngày 22/4
rõ ràng TWC/MN bị Tướng Minh ép vào thế chẳng
đặng đừng. Lần sau này, chốt chặn của các đơn vị
thuộc SĐ–7/CSBV tăng cường cũng bị SĐ21BB bứng với
chiến thuật hai mũi giáp công mà Lữ đoàn 1 Nhảy
Dù đã áp dụng hai tuần trước đó. Trung đoàn 33
và Thiết đoàn 9 Kỵ binh (–) từ Lai Khê đánh lên
và Trung đoàn 32 và một chi đoàn của Thiết kỵ 9
từ Chơn Thành đánh ép xuống với sự yểm trợ tối
đa của KQVN và KLHK. Tuy phải mất 5 ngày để thanh
toán chốt chặn đó, từ 24/4 đến 28/4, nhưng đã
làm cho các đơn vị CS đóng chốt bị thiệt hại
nặng và từ đó về sau TWC/MN không còn đủ lực
lượng tái đóng chốt trên đoạn đường này nữa.
Điều đáng ghi nhận khác là việc điều động
sử dụng quân tăng viện của Tướng Minh theo vòng
quay kim đồng hồ làm cho TWC/MN rối rắm, bỡ ngỡ,
mất cả sự chủ động cần thiết của lực lượng
tấn công. Ngược lại Tư lệnh bộ của Tướng Trà
phải chạy theo từng giờ từng ngày bởi sự chuyển
quân nhanh chóng và không theo quy luật chiến tranh
của lực lượng bị tấn công. Sư kiện điển hình
thứ nhất là khi SĐ21BB đã hoàn tất cuộc chuyển
quân từ miền Tây lên Lai Khê và Chơn Thành từ ngày
12/4 thì Tướng Minh không dùng Sư đoàn này tấn công
bứng chốt Tàu–Ô ở phía bắc Chơn Thành mà lại
sử dụng Lữ đoàn 1 Nhảy Dù lúc đó vừa bứng xong
chốt Bàu Bàng (9–11/4) và đóng ở Chơn Thành
(11/4) rồi tiến lên “ủi” chốt Tàu–Ô ngày 12/4. Khi
SĐ–7/CSBV ở đó đang chống đỡ, bỗng nhiên Dù ngưng
tấn công và rút ra khỏi trận địa ngày 13/3 và
ngày 14–15/4 đổ quân vào tăng viện An Lộc cùng
với Liên đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù (xin xem lại
phần trên). Sự chuyển quân bất ngờ này làm cho
TWC/MN phải điều quân thêm bằng cách đưa bớt Trung
đoàn 141 của SĐ–7/CSBV từ vùng chốt chặn Tân Khai
lên phối hợp với SĐ–5/CS và SĐ–9/CS vội vã tấn
công vào An Lộc đợt 2 từ ngày 18/4/1972, như nói
trên. Sự kiện điển hình thứ hai là sau khi TWC/MN
không thể chiếm được An Lộc trong đợt hai tấn công
này, dù chiếm lại được vùng Đồi Gió và Đồi
169, Tướng Minh vẫn sợ An Lộc bị nguy khốn nên
tung Lữ đoàn 3 Nhảy Dù vào suối Tàu–Ô và Tân
Khai, nhưng quan trọng hơn là vùng ấp Đức Vinh,
phía nam gần An Lộc làm cho TWC/MN phải điều động
Trung đoàn 271 của SĐ–9/CS và Trung đoàn 141 của
SĐ–7/CSBV rời bỏ vòng vây An Lộc rút xuống Đức
Vinh mà chận không cho quân Nhảy Dù tiến lên hướng
An Lộc. Sức ép của của quân CSBV đối với thành
phố nhỏ này nhẹ hơn sau đợt tấn công thứ hai của
chúng, mặc dù An Lộc vẫn bị dập pháo mỗi ngày
hơn một nghìn qủa đại pháo các loại....
Hai sự kiện trên đây cho thấy rõ mưu lược và tài
dùng quân của Tướng Nguyễn văn Minh. Trên bàn cờ
An Lộc và QL–13, rõ ràng rằng Tướng Trần văn Trà
lép hơn Tướng Nguyễn văn Minh túc trí. Cuộc chiến
ở giai đoạn này dằng dai ba tuần lễ từ 22/4/1972
đến 11/5/1972 mà Tướng Minh vẫn chưa thực sự tung
lực lượng trừ bị vào trận địa. Câu hỏi được
đặt ra là:–Tại sao? Trả lời: Thứ nhất, Tướng
Minh tin vào quyết tâm gan lì và khả năng cầm quân
giữ An Lộc của Tướng Lê văn Hưng và của Đại tá Lê
Quang Lưỡng với sự yểm trợ hùng hậu của hoả
lực Không quân HK và KQVN. Thứ hai: Khi tung Lữ
đoàn 3 Nhày Dù cường thám vào “hang hùm” suối
Tàu–Ô lên đến ấp Tân Khai xong, hiểu rõ thực lực
của định quân ở đó, ông sẽ dùng SĐ21BB vào trận
đánh quyết định giải tỏa An Lộc…. Và hình như ông
còn phải chờ thêm những đơn vị tăng viện thiện
chiến khác thích ứng cho kế hoạch mới của ông
và tăng trợ cho Sư đoàn này.
Đến đây thì
mọi người đều thấy rõ cục diện chiến trường
Bình Long giữa QĐIII & V3CT và TWC/MN Cộng Sản.
Tướng Trần văn Trà lúc đó hình như cũng đã hiểu
nhiều hơn về Tướng Nguyễn văn Minh, đối thủ chính
của mình, nên tính toán kỹ hơn, chưa chủ động
đánh lớn vội vã như hai trận tấn công trước trong
suốt ba tuần lễ đó, trừ việc SĐ–7/CSBV còn chận
đánh Lữ đoàn 3 Nhảy Dù từ Suối Tàu–Ô lên Tân
Khai, đến Đức Vinh. Trong thành phố An Lộc chỉ có
những vụ chạm súng nhỏ vì các đơn vị phòng
thủ, tuy bị hứng pháo mỗi ngày, nhưng vẫn bung
dần ra từng căn phố, diệt mòn các đơn vị Công
sản đã chiếm khu vực phía bắc và đông bắc từ
các trận tấn công trước, không rút ra được, đang
cố bám sát các đơn vị phòng thủ để tránh bị
oanh kích. Các chiến xa của địch chưa bị hạ trong
các trận trước hình như cũng áp dụng kỹ thuật
lẩn trốn này trong các khu vực chúng đã chiếm
trong thị xã, nằm im hơi lặng tiếng dưới những
mái nhà sập hay trong những căn phố long lở, trong
khu vực chúng chiếm được, nhưng... ngụy trang thật
kỹ. Chúng cũng đã rút được ít nhiều kinh nghiệm
về sự lợi hại của “Hoả Long”, vì có những chiếc
tăng nhúc nhích di chuyển đâu đó đã bị loại
“spectre” này hạ trong nhiều đêm trước...
Rõ
ràng lần này TWC/MN đang củng cố lực lượng, bổ
sung quân, vận chuyển đạn dược và... lập kế
hoạch mới quyết tâm dứt điểm An Lộc.
Book marks: LGT | TSTG | KỲ–1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | KỲ–12 | PL | Đầu trang
KỲ–9
Tướng
LÊ VĂN HƯNG &
Những sự thực ở Chiến trường AN LỘC
trong Mùa Hè Đỏ
Lửa 1972; cont'd...
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Kỳ–9
10. QUÂN CSBV
TẤN CÔNG AN LỘC ĐỢT 3.
Trong An Lộc, Tướng
Hưng và Đại tá Ulmer cũng nhận định như vậy nên đã
đề nghị KLHK đánh những boxes B–52 vào các mật
khu và các trạm trung chuyển trên các tuyến hành
lang chuyển vận từng được biết trước đây của CSBV
trong vùng biên giới. Đề nghị đánh bom các chiếc
cầu mà các xe be chuyển gỗ đã lập trước đây
trong vùng rừng giữa bắc Bình Long và Kratié.
Hằng đêm vẫn xin “Hỏa Long” bao vùng và hằng ngày
xin KQVN các phi vụ không thám liên tục. Đồng thời
sân bay trực thăng tạm ở đầu xa lộ phía nam vẫn
được TĐ8ND bảo vệ hữu hiệu với sự yểm trợ của
TĐ5ND. Các loại trực thăng KQVN và KLHK vẫn tiếp
tục di tản thương binh –hầu hết vì trúng mảnh
đạn pháo– tiếp tế nhu phẩm cần thiết, với số
lượng thay quân hạn chế. Thiệt hại của KQVN và
KLHK tuy không đáng kể, nhưng vẫn có, mỗi khi bay
vào ra An Lộc…. Vậy mà tiếp tế vẫn đến hằng
ngày, tản thương vẫn đều hằng ngày. Dĩ nhiên,
chẳng những phải ngợi khen Đại tá LQL và chiến sĩ
Dù, còn phải khen và đề cao công trạng của các
phi công trực thăng KQVN và KLHK đã... quên mình,
coi thường sinh mạng, vào ra tử địa như ăn cơm
bữa…. Họ thật anh dũng, thật anh hùng. Còn các
chiến sĩ phòng thủ... chính qui, đặc biệt, địa
phương quân, nghĩa quân, dân quân thì sao? Mọi người
vẫn chờ những cánh quân tới từ hướng nam, cũng
như vẫn biết và sẵn sàng... chịu một trận tấn
công mới không biết sẽ diễn ra trong lúc nào....
Cái hố cá nhân đào sâu hơn, đắp thêm các bao đựng
đầy đất từ hố vừa móc lên, một bidon nước, mấy
bịch gạo xấy hay có được mấy bịnh lương khô
“rations” HK thì nhất –vì sẽ có bốn điếu thuốc
lá xịn trong mỗi bịch– mà chỉ cần một điếu,
hít một hơi, là phồng cả buồng phổi, sáng cả
mắt và tỉnh hơn để ghìm khẩu súng cá nhân đầy
đạn chờ “tụi nó” xung phong mà quạt cho đã. Vẫn
chưa đủ, muốn cho “đã hơn”, thì phải chạy tìm
kiếm xin thêm ít nhất là một ống M–72, lúc đó
được tiếp tế vào An Lộc rất nhiều... để, như bị
thúc đẩy bởi một thần lực vô hình, hễ thấy
chiến xa địch xuất hiện, là chạy vụt ngay ra
khỏi hầm trú ẩn, xông lên án ngữ hay rượt theo
bắn cho bằng được một phát... trúng trật mặc
kệ, chết sống mặc kệ. Bắn tank cho đã, chết
cũng sướng.... Đó, tinh thần chiến đấu của chiến
sĩ phòng thủ An Lộc như vậy đó.
Loại hoả
tiễn cầm tay chống tanks M–72 đã trở thành huyền
thoại hay một sự thật hãn hữu trong lịch sử
chiến tranh chống chiển xa của quân dân An Lộc. Tôi
nói quân dân, vì Tiểu khu –theo lệnh của Đại tá
Trần văn Nhật– ngay trong thời gian này đã lập
một phòng tuyển mộ nghĩa quân và địa phương quân.
Cư dân trong tuổi thanh niên xin đầu quân đông đảo.
Thiếu niên cũng muốn xin cầm súng đánh Cộng sản.
Đây là điểm son của Đại tá Nhật. Và “huyền thoại”
M–72 sở dĩ có là vì chẳng những chiến sĩ phòng
thủ trong các đơn vị đã dùng loại hoả tiễn cầm
tay này diệt tank mà cả nghĩa quân và có cả
thường dân trong thành phố hưởng ứng, cũng có....
M–72, chạy theo binh sĩ bắn chiến xa CSBV.... Đến
cả tôi cũng lây bịnh ghiền M–72. Ngay trong ngày
18/4, ở đợt tấn công thứ hai, một chiến xa CSBV
chạy ngang cổng trước BTL/HQ Sư đoàn theo hướng
bắc–nam, khi lóng ngóng chạy ngược trở lại bị
Đại tá Lê Nguyên Vỹ bắn một phát M–72, trúng, nhưng
chưa chết, chạy thêm một quãng bị chiến sĩ Biệt
Đông quân bắn bồi thêm, cháy.... Tôi chạy phía sau,
lỡ dịp, nên lượm cái nòng M–72 của Đại tá Vỹ vừa
bắn –bằng loại métal gì...đó không biết, màu
trắng– mang về rồi cũng bắt chước anh em binh
sĩ, lúc rảnh núp pháo, rảnh việc... lên chỗ hầm
trú nơi làm việc của nhân viên Phòng 2/HQ, cưa
chiếc nòng ra, mài, dũa và dùng đầu kẽm gai
chặt nhọn mà khắc chữ, thành những chiếc vòng
đeo tay xinh xắn, làm kỷ niệm. Hàng trăm binh sĩ
của các đơn vị phòng thủ làm vòng đeo tay bằng
nòng M–72 để sau đem về tặng...các em làm nữ
trang... của chiến trường. Riêng tôi, tôi giữ các
chiếc vòng của tôi, làm kỷ niệm, không tặng cho
ai. Hiện nay tôi còn giữ các chiếc vòng này (xin
xem ảnh chụp, các chiếc vòng đeo M–72 làm ở An
Lộc). Những chiếc vòng tôi đang có hiện nay là vô
giá, hay nói nôm na là không có giá, vì là chiếc
vòng cắt ra từ nòng métal trắng của quả M–72 mà
Đại tá Lê Nguyên Vỹ bắn chiếc tank nói trên, chính
tay tôi tạo nên và giữ bên mình gần bốn thập niên
qua, dù đã trải bao tang điển thương hải. Tôi sẽ
xin gởi tặng hai chiếc vòng An Lộc cho hai nữ độc
giả nào mà tôi nhận được e–mail sớm nhất, để
làm nữ trang... lạ mắt, sau khi tài liệu này đăng
tải. Tôi sẽ giữ hai chiếc uyên ương còn lại mà
chôn theo tôi...)
Những gì tôi viết trên đây
là để nêu rõ tinh thần chiến đấu bất khuất của
tất cả các chiến sĩ ở tất cả các đơn vị quân
đội, cảnh sát và quân dân địa phương quyết tâm
chống CSBV giữ vững An Lộc. Tinh thần đó lên đến
độ cao nhất vì nhiều lý do mà hai lý do quan
trọng nhất là lời tuyên bố “tử thủ” của vị chủ
soái là Tướng Hưng và sự hiệu nghiệm của loại
hỏa tiễn cầm tay chống chiến xa M–72 của Quân Lực
Hoa Kỳ mới phát minh và lần đầu tiên được đưa
vào An Lộc cho binh sĩ VNCH sử dụng. Họ nhất
quyết không bỏ trận địa mà chỉ xông lên phía
trước vì ông tướng quyết đem thân giữ thành thì
chiến sĩ thi đua nhau bắn chiến xa của CSBV tưng
bừng cũng đã quên bản thân mình. Nên lưu ý một
điều là dù vũ khí tối tân đến mấy mà vào tay
những tướng, tá, sĩ quan và binh sĩ tinh thần
bạc nhược, hèn nhát... dễ khiếp sợ, bỏ chiến
trường mà chạy, thì cũng thành vật vô dụng mà
thôi... Không biết các giới chức quân sự và giới
báo chí Hoa Kỳ có biết rõ các điều này hay
không? Trên thực tế thì tâm lý của chiến sĩ Nam
Việt Nam và vũ khí, bom đạn Hoa Kỳ, đã tạo nên
chiến thắng An Lộc –một thành phố nhỏ, không có
hệ thống phòng thủ chặt chẽ mà chiến sĩ phòng
thủ dưới tám nghìn người đã chiến thắng đạo
quân thiện chiến với lực lượng xung kích lớn hơn
gấp bốn năm lần– làm bất ngờ cả mọi người...
và các chiến lược gia lỗi lạc nhất như Sir Thomas
Thompson của Anh và Tướng Moshi Dayan của Do Thái–
vậy sá gì sự dốt nát của một Đại tá “sorti du
rang” Miller và một Trung úy non choẹt Willbanks. Và
lẽ dĩ nhiên, lúc đó, danh Tướng Trần văn Trà
cũng không ước lượng nổi là cuộc tấn công lần
thứ ba vào An Lộc của quân CSBV –mà ông là tác
giả chính của kế hoạch hành quân và là tướng
chỉ đạo chiến trường– bị thất bại hoàn toàn.
Trận tấn công quyết định đó diễn ra vô cùng
khốc liệt mà chưa có một thành phố nào trong
bất cứ nơi nào trên thế giới từ Thế Chiến Thứ
Nhất hay Thế chiến Thứ Hai mà quân phòng thủ
phải hứng chịu như các chiến sĩ chính qui, đặc
biệt, diện địa, hay dân quân, kể thường dân của
thị xã tỉnh lỵ An Lộc phải chịu đựng trong trận
tổng tấn công lần thứ ba khởi đầu ngày 11/5/1972
của quân CSBV, kể cả thành phố Guernica của Tây Ban
Nha với trận tấn công không tập của Không quân
Quốc xã Đức trong Đệ Nhị Thế Chiến đã trở
thành chủ đề của tác phẩm hội họa bất hủ của
Picasso trong thế kỷ trước... ngoại trừ Hiroshima
và Nagasaki, dĩ nhiên.
Trước đó, bắt đầu
từ ngày 9/5 chỉ mấy ngày sau khi Lữ đoàn 3 Nhảy
Dù rút ra khỏi mặt trận Đức Vinh, Tân Khai và
Tàu–Ô, mặc dù TWC/M vẫn giữ nguyên SĐ–7/CSBV ở
các chốt chặn này, nhưng đã tăng cường tối đa các
đơn vị pháo và phòng không cho mặt trận An Lộc.
Trong ngày 9/5/1972 này, một trực thăng Chinook chở
quân tăng cường của Tiểu đoàn 2/8 cho An Lộc bị
bắn hạ khi định đáp xuống sân bay tạm ở đầu xa
lộ, nên việc châm thêm quân tăng viện không thực
hiện được. Suốt ngày, sân bay này bị pháo kích
dữ dằn, không một trực thăng nào đáp xuống được.
Tình trạng khẩn trương tăng dần vì lượng đạn đại
pháo dội vào thị xã cũng nhiều gấp bội các
ngày trước.
Ngày 10/5, Đại tướng Cao văn Viên,
Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH bay lên Lai Khê –căn cứ
chính của SĐ5BB, lúc đó là nơi trú đóng của
BTL/HQ/ QĐIII & V3CT– họp với Tướng Nguyễn văn Minh
và cố vấn Hoa Kỳ của Vùng 3 Chiến Thuật là
Tướng hai sao James F. Hollingsworth Tư lệnh Bộ Tư
lệnh Viện Trợ 3 của Hoa Kỳ, (Third Regional
Assistance Command hay TRAC). Sở dĩ có cuộc họp này
vì tình hình nói trên và cũng vì một tin tức
khai thác tù binh quan trọng là một sĩ quan trinh
sát Tiểu đoàn Trinh Sát của SĐ–5/CS bị Liên đoàn 3
BĐQ của Trung tá Nguyễn văn Biết bắt được ngày 6/5
ở Cổng Quản Lợi, phía đông An Lộc. Tù binh này
khai rằng trong các ngày 20 và 21 tháng 4, TWC/MN
có mấy buổi họp phê phán các đơn vị Cộng Sản
trong các trận tổng công kích trước vào An Lộc
hội thảo về kế hoạnh mới tấn công An Lộc. Trong
các lần tổng công kích trước vì SĐ–9/CS đánh quá
kém và thiếu sự phối hợp với các Trung đoàn
Chiến xa 202 và 203, nên coi như TWC/MN đã thất bại
ở các lần đó. Do đó, TWC/MN sẽ chủ động một
trận tổng công kích mới vào An Lộc với quyết tâm
và nỗ lực tuyệt đối đánh chiếm cho được mục
tiêu này và tiêu diệt SĐ5BB của Tướng Hưng bằng
mọi giá. Về ngày giờ tấn công đương sự không
biết rõ ngoài sự phối trí lại lực lượng dưới
sự chỉ đạo của TWC/MN. Chủ công mũi dùi của
trận tổng công kích này là SĐ–5/CS, phối hợp với
các đơn vị chiến xa, Trung đoàn Đặc công 469 và
các đơn vị pháo, phòng không, của SĐ–70 Pháo, tấn
công vào mặt bắc và đông bắc thành phố. SĐ–9/CS
giữ vai trò thứ yếu, cũng sẽ có một số chiến
xa phối hợp và phòng không yểm trợ, tấn công vào
mặt tây và tây nam. Lực lượng tấn kích An Lộc
đợt này sẽ được phối trí như sau:
*Thứ
nhất, đơn vị chủ công:
–Trung đoàn
174/SĐ–5/CS phối hợp với một đơn vị chiến xa và
một đơn vị của Trung đoàn Đặc công 429 tấn công
mặt bắc.
–Trung đoàn E–6/SĐ–5/CS phối hợp
với một đơn vị chiến xa và một đơn vị của Trung
đoàn Đặc công 429 tấn công mặt đông bắc.
–Trung đoàn 275/SĐ–5/CS làm trừ bị cho Sư đoàn
này.
*Thứ hai, đơn vị tấn công phụ:
–Trung đoàn 271/SĐ–9/CS phối hợp với một đơn vị
chiến xa tấn công mặt nam, Cổng Xa Cam.
–Trung đoàn 272/SĐ–9/CS phối hợp với một đơn vị
chiến xa tấn công mặt tây, Cổng Phú Lố.
–Trung đoàn 95C/SĐ–9/CS làm trừ bị cho Sư đoàn này.
Như vậy, theo kế hoạch này thì SĐ–5/CS sẽ tấn
công An Lộc từ mặt bắc và đông bắc xuống hướng
nam và tây nam. Ngược lại SĐ–9/CS sẽ tấn công từ
hướng nam lên và hướng tây vào. Tù binh này không
biết ngày giờ của cuộc tổng công kích.
Trong buổi họp ngày 10/5 nói trên giữa Đại tướng
Cao văn Viên với Trung tướng Nguyễn văn Minh và
Tướng Hollingsworth, mặc dù không biết rõ ngày N,
giờ G của CSBV nhưng các vị tướng này biết rằng
phải chạy đua với thời gian để tăng thêm quân vào
An Lộc và đem quân vào đó bằng cách nào.... Một
kế hoạch không yểm hữu hiệu và chi tiết của KQVN
và KLHK cho An Lộc được dự trù. Nhiều boxes B–52
đánh sát vòng đai phòng thủ được dự liệu cho...
ngày khi thành phố này bị tấn công. Nhiều boxes
khác... đánh vào các mật khu và trên hành lang
vận chuyển của quân chúng từ các vùng ngoại vi
vào vòng đai phòng thủ thị xã. Trung đoàn 15
thiện chiến –của SĐ9BB– do một trong ngũ kiệt
lừng danh ở miền tây hay đồng bằng sông Cửu Long
(Mekong Delta) là Trung tá Hồ Ngọc Cẩn chỉ huy,
với một chi đoàn chiến xa và một pháo đội 105ly,
được lệnh đưa ngay vào An Lộc trong ngày hôm sau
11/5/1972 để tăng thêm quân cho An Lộc.
Ngày
11/5/1972 này phải được ghi nhận là giao điểm
chính của cuộc chạy đua theo thời gian của TWC/MN
và QĐIII & V3CT cho sự mất còn của An Lộc. Nhưng
quyết định số mệnh của thị xã tỉnh lỵ Bình
Long này lại nằm trong tay của Tướng Lê văn Hưng
và Đại tá Lê Quang Lưỡng. Sở dĩ nói như thế là
vì việc đưa Trung đoàn thiện chiến của Trung tá
Cẩn, chiến xa và pháo, vào tăng cường An Lộc, và
các biện pháp khác nhằm giải tỏa An Lộc của
Tướng Minh đã trễ mất hai ngày cũng như quyết tâm
của Tướng Trần văn Trà chiếm cho được An Lộc
bằng mọi giá và tiêu diệt SĐ5BB tàn lụi chỉ hai
ngày sau khi những cánh quân CSBV tấn kích thành
phố nhỏ nhoi này khốc liệt như chưa từng thấy ở
một trận chiến nào trước đây trong Chiến tranh
Việt Nam, dù là Điện Biên Phủ 1954, dù là Khe
Sanh 1968. Ở Điện Biên Phủ, quân của Tướng Võ
Nguyên Giáp phải lần lượt đánh chiếm từng vị
trí của quân Pháp trú đóng và đào giao thông hào
để tiến từ ngày này qua ngày nọ mới tấn công
vào căn cứ chỉ huy trung ương của De Castrie ở đồi
A–1 (trên đó sau này CSVN dựng một bảo tàng viện
ghi chiến tích chia hai đất nước của “Bộ Đội cụ
Hồ”. Phạm Tiến Duật có làm một bài thơ khá đẹp
về bảo tàng viện đó trên ngọn đồi. Bài thơ có
thể coi là “phản động” mà CSVN không để ý, hoặc
bỏ lơ, không nói đến. Xin xem một đoạn ở cuối
trang *). Còn Pháo binh của Giáp bố trí trên các
triền đồi chung quanh nã đại pháo vào trận địa
của quân phòng thủ, nhưng pháo tập vẫn hạn chế
và sức công phá của các loại đạn đại pháo còn
chưa khủng khiếp lắm. Vậy mà quân phòng thủ Pháp
của Tướng De Castrie đã nhận được lệnh đầu hàng.
Còn Khe Sanh, một cứ điểm vô cùng kiên cố của
Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đóng ở biên giới
Việt–Lào, phía tây Cam Lộ tỉnh Quảng Trị, trên
QL–9 dẫn lên thị trấn chiến lược Schépone –một
tỉnh lỵ quan trọng ở Nam Lào mà quân CSBV đã
chiếm làm căn cứ tiếp vận trung chuyển quan trọng
của chúng từ Bắc vào Nam Việ̣t Nam, cũng là mục
tiêu của cuộc hành quân Lam–Sơn 719 đầu năm 1971
của QLVNCH. Cứ điểm này lúc đó có 5,500 quân
TQLC/HK và được tăng cường 1,100 quân BĐQ/QLVNCH –do
Đại tá TQLC/HK Davis Lounds dạn dày trận mạc chỉ
huy– tuy bị cắt mất đường vận chuyển tiếp tế
trên trục giao thông này từ căn cứ pháo binh Calu
của TQLC/HK ở phía đông, cách Cam Lộ chừng 35 cây
số, và bị bao vây bởi các đại đơn vị Mặt Trận
Đường ̣9 của CSBV (Route 9 Front’s units, cấp quân
đoàn cộng, gồm ba Sư đoàn bộ binh, hơn một Sư
đoàn pháo binh và những đơn vị đặc biệt khác)
nhưng được bảo vệ bằng một hệ thống hàng rào
điện tử tối tân bao quanh hệ thống phòng thủ
chính kiến cố, vững chãi. Ngoài ra, Đại tướng
William Westmoreland, Tư lệnh MACV còn chuẩn bị một
kế hoạch đánh bom B–52 dày đặc yểm trợ cứ điểm,
chờ tiêu diệt quân CSBV tấn công. Bom B–52, nhiều
người biết hay nghe nói đến. Nhưng hàng rào điện
tử tân tiến, rất ít người biết. Đó là một loại
hàng rào vô hình, không nhìn thấy... dày cả cây
số và dài bao quanh bên ngoài cách khá xa hệ
thống phòng thủ chính... gồm các máy điện tử
mới phát minh có chức năng “phát hiện” một toán,
một đoàn người, hoặc một hay nhiều chiến xa xâm
nhâp (có thể dịch ra Anh ngữ một câu giản dị “an
infiltration barrier of new technologic anti–personnel
and anti–tank sensors). Loại máy điện tử mới này
nhỏ thì bằng quả lựu đạn, hay lớn hơn thì bẳng
quả mìn chống chiến xa, loại khác hình ống dài
cả thước –tất cả đều được phóng từ trực thăng
xuống cắm sâu hay nằm trên mặt đất lẫn lộn với
đất đá, cỏ, cây, bụi rậm. Ngay khi phát hiện...
quân hoặc chiến xa xâm nhập các loại điện tử này
liền “báo tín hiệu” về máy “kiểm tín” trung ương
đặt ở trung tâm hành quân cứ điểm. Người chỉ huy
sử dụng pháo tập trung hay không yểm để tiêu diệt
(xin xem thêm rõ ràng hơn ở Chương 8, The Tragedy of
the Vietnam War, 2008–VND).
Theo nhiều nguồn
tin lúc bấy giờ thì Tướng Westmoreland coi việc
thiết lập một cứ điểm lớn và kiên cố trấn đóng
ở Khe Sanh với hàng rào điện tử và kế hoạch
gọi là “Niagara”dự trù dội bom B–52 chặt chẽ, như
một chiếc bẫy sập lớn dụ cho quân CSBV đến càng
nhiều càng tốt để tiêu diệt hàng loạt. Nhưng một
bẫy sập như vậy làm cho các chiến lược gia Hoa
Kỳ nghi ngờ sẽ gây nên hậu quả... như Điện Biên
Phủ của Đội quân Viễn chinh Pháp trước đó. Nghĩa
là: thua một cuộc chiến. Vì vậy, mặt trận Khe
Sanh trở thành chuyện đầu môi của giới chính
trị, quân sự và nhất là giới báo chí Hoa Kỳ
làm cho mọi gia đình và học đường Mỹ rúng
động.... Lúc đó, đạo quân Mặt trận Đường 9/CSBV
bao vây căn cứ này mấy tháng liền và hàng ngày
dội vào căn cứ hàng trăm quả đại pháo. Nhưng,
thực ra pháo chúng bắn từ xa... và suốt thời
gian khá dài đó các lực lượng của quân đoàn này
chỉ có một lần duy nhất tấn công xung kích vào
tuyến phòng thủ hướng nam cứ điểm do BĐQ/QLVNCH
trấn giữ... và chúng bị đẩy lui. Còn ở các
tuyến khác của TQLC hướng tây bắc, hướng bắc và
hướng đông bố trí dày đặc sensors nên quân CSBV
mỗi lần bén mảng tới, vừa đột nhập hàng rào
điện tử đã bị... banh xác bởi đại pháo 175ly
của căn cứ hỏa lực Calu hay những boxes B–52. Ngoài
ra Không quân Chiến lược Hoa Kỳ hằng ngày còn
đánh B–52 vào các vùng nghi ngờ ẩn trú hay tập
trung của các đơn vị Mặt Trận Đường 9, làm tan
xác hàng nghìn cán binh CSBV chưa thực sự tấn
công. Tổn thất của chúng lớn đến mức độ nào thì
chỉ các tướng của họ biết... mà các ông tướng
này cũng chỉ là những người câm như các loại cây
cỏ của những cánh rừng già vô tri của vùng biên
giới đó thôi... nếu không nói là những robots
biết nghe và biết sợ.... Có ai dám tiết lộ? Tuy
nhiên, trên bình diện “chính trị” cú đấm Khe Sanh
của đại đơn vị CSBV cũng làm cho giới lãnh đạo
chính trị và quân sự HK lo sợ và giới truyền
thông báo chí la hoảng mà quên mất tội ác khủng
khiếp của chúng ở Huế... trong Tết Mậu Thân.
So với An Lộc, cả hai chiến trường trên, quân
phòng thủ chưa từng đội đến hàng ngàn quả đại
pháo mỗi ngày, hay hơn 10,000 quả trong chỉ
một–nửa đêm, chưa từng bị xung kích bằng chiến
xa.... Nếu ở mỗi giai đoạn của Chiến tranh Việt
Nam, Điện Biên Phủ và Khe Sanh đều mang tầm quan
trọng chiến lược về chính trị để giải quyết
chiến cuộc... thì trong mùa Hè năm 1972 An Lộc
cũng mang “thứ đặc tính chính trị” như các nơi
đó, và còn quan trọng hơn. Nếu mất An Lộc thì
hậu quả sẽ vô cùng tai hại, sẽ lớn gấp đôi Điên
Biên Phủ và gấp ba... Khe Sanh. Pháp thua ở ĐBP đã
mất một nửa Việt Nam cho CSVN. Trận Khe Sanh cộng
với Tết Mậu Thân, chỉ làm nản chí một tổng
thống Hoa Kỳ thuộc Đảng Dân Chủ; ông này không dám
nhận... trách nhiệm tái ứng cử Tổng thống HK
nhiệm kỳ hai.... Còn mất An Lộc sẽ kéo theo tai
họa có thể đưa đến mất nốt miền Nam cho CSVN sớm
hơn, có thể sẽ làm cho một tổng thống “sáng
giá” Đảng Cộng Hòa....vuột mất Tòa Bạch Ốc trong
lần ứng cử nhiệm kỳ hai cuối năm đó, và nguy
hại nhất là có thể làm vỡ mất cái uy tín lớn
lao của Quân Lực Hoa Kỳ luôn luôn chiến thắng.
Dĩ nhiên Washington, Ngũ Giác Đài, MACV, TRAC,
và trước tiên là Chính phủ và QLVNCH đều có
trách nhiệm lớn và lo lắng lớn cho sự mất còn
của An Lộc. Nhưng lo thì cũng chỉ có thể... đổ
thêm quân tăng viện, yểm trợ hỏa lực không yểm,
mạnh nhất là B–52… mà đánh nhau dưới mặt đất
vẫn là các chiến sĩ phòng thủ tại đó. Mất hay
còn An Lộc là do chính họ... giỏi hay dở, không
có nghĩa chỉ riêng là súng đạn tối tân họ có
trong tay mà còn là tinh thần quả cảm họ có
trong tim óc trước khi họ nhận được sự yểm trợ
hùng hậu nào đó của Washington hay Sài Gòn. Làm
cách nào để nói hết sự “cô đơn” của chiến sĩ ở
chiến trường, nhất là khi họ nằm chờ địch trên
tuyến phòng thủ. Lúc... chờ đợi sự nguy hiểm
nhất sẽ đến là lúc họ cảm thấy cô đơn nhất.
Chỉ có... quyết tâm và khẩu súng khi địch tràn
vào. Phải ở tại tuyến mà... bắn hay phải đợi
những cánh chim sắt mang hoả lực thần thánh từ
Guam hay Utapao đến giải cứu họ. Một thoáng cô đơn
thôi... nhưng đã quyết định sự thắng thua. Chờ và
Bắn. Chết và Sống. Riêng họ, họ hiểu nỗi cô đơn
của họ. Mấy ai hiểu thấu cho!.. Nếu hèn nhát,
bỏ chạy... thì lúc đó “trời cứu... nị”, vậy ai
cứu Washington và Sài Gòn cho? Mấy ai hiểu rõ nỗi
cô đơn của người chiến sĩ bộ chiến An Lộc....
Nixon hay Kissinger, Đại tá Miller đòi chạy hay Tiến
sĩ Willbanks quờ quạng? Ai cứu các ông?!. Chúng
tôi, những chiến sĩ bộ chiến phòng thủ An Lộc.
Có biết không?.. Tôi nói thay cho các bạn tôi từng
đánh nhau ở An Lộc và hãnh diện để nói. Dĩ
nhiên chúng tôi không hề quên ơn những chiến sĩ vô
danh của Không lực Hoa Kỳ đã coi thường sinh mạng
yểm trợ hoả lực tiếp cận vô cùng hiểm nguy hay
tiếp tế nguồn sống thực phẩm và đạn dược cho
chúng tôi... chiến đấu và cám ơn tất cả các Cố
vấn Hoa Kỳ ở các đơn vị tại mặt trận đã sát
cánh với chúng tôi cùng bảo vệ An Lộc. Nhưng tự
ái dân tộc ở quốc gia nào mà không có. Vâng, xin
giúp chúng tôi phương tiện, tiếp tay chúng tôi
đánh giặc, mà đừng chỉ huy hay... dạy chúng tôi
phải đánh thế nào khi lâm trận. Ở An Lộc không
ít cố vấn cho rằng chúng tôi mất tinh thần. Tôi
thì nói và đã nói ngược lại. Kết quả là những
biện minh vững vàng nhất. Có phải vậy không!
Đêm 10 rạng ngày 11/5, đã khuya lắm, tuy không
phải phiên trực hành quân của tôi, nhưng không hiểu
vì sao tôi không ngủ được, cứ trằn trọc mãi một
phần vì cảm thấy nỗi cô đơn của mình trong đêm
vắng lặng, phần khác vì sự vắng lạnh rùng rợn
của đêm đó làm cho tôi lo sợ và nghĩ ngợi thao
thức mãi. Quả thật từ đầu hôm đến giờ đó tôi
không nghe một tiếng đạn đại pháo nào rơi ở đâu
đó trong vòng đai phòng thủ thị trấn như những
đêm trước. Bỗng... tôi bật dậy vì đã chợt nghĩ
ra.... Vội vã đến ngay bàn làm việc của toán
Truyền tin Hành quân của Sư đoàn, yêu cầu nhân viên
trực máy –vô tuyến và điện thoại– cho tôi g̣ọi
ngay hotline về tư gia của Đại tá Hoàng Ngọc Lung ở
Sài Gòn, vị Trưởng Phòng II/BTTM đương nhiệm –cũng
là Chỉ huy phó Trường Quân Báo Cây Mai mà tôi là
Huấn luyện viên thời Thiếu tá Phạm văn Sơn và Thiếu
tá Hồ văn Lời là Chỉ huy trưởng (từ 1958 đến
1963; ông hiện nay đang ở Virginia, HK). Đánh thức
ông dậy vào giờ hơn nửa khuya phải là việc tối
quan trọng. Khi nghe tiếng của ông ở đầu giây, tôi
báo ngay: –”Thưa Đại tá, đêm nay là đêm quyết định
của An Lộc” và trình bày tiếp nhanh, rõ, về các
sự kiện mới nhất, tin tức do tù binh cung cấp, và
về nhận định của tôi khi cảm nhận được sự yên
lặng ghê rợn của An Lộc từ đầu hôm đến giờ đó,
đúng 2 giờ 35 phút. Đại tá Lung ghi nhận báo cáo,
đồng ý với tôi, và nói: –”Tôi sẽ trình ngay Đại
tướng TTMT tin tức của Dưỡng. Yên tâm, mọi sự sẽ
tốt đẹp. Chúc may mắn.” Tôi yên tâm hơn, Sài Gòn đã
được thông báo...
Tôi lên miệng hầm, một
chiến sĩ Đại đội 5 Trinh sát của Trung úy Chánh,
trong hai Tiểu đội tùy tùng bảo vệ tư lệnh, đang
lặng lẽ đứng gác ở đó, các binh sĩ khác nằm
trên nền gạch trong cái villa lẻ loi bên trên hầm
hành quân với ponchos của họ và những khẩu súng
bên cạnh, gối đầu, hay ôm trong lòng. Trời quang,
trăng loang loáng, với những vì sao thưa thớt. Mặt
đất mờ mờ tĩnh lặng chập chờn đôi ánh lửa xa xa
như một vùng hoang dã, ma quái... Một cảm giác
rờn rợn chạy dài trong xương sống. Tôi trở lại
miệng hầm gặp người binh sĩ gác, tôi hỏi: “Có
gì lạ không em?” Anh trả lời: “Thưa không, nhưng
nghi... tụi nó đánh lớn đó, ông Thầy!” Tôi nói:
“Phải. Chắc vậy! Cố gắng nhen...” Tôi vừa dứt
tiếng, thì nghe những tiếng “départ” của đạn đại
pháo rời miệng súng, nổ ran xa xa ở các hướng,
nhiều nhất là hướng bắc và tây bắc. Liền sau đó
là tiếng đùng đùng như sấm động nổ khắp nơi
trong thành phố, vô cùng kinh khủng. Tôi xuống hầm
hành quân, vào đến chỗ nằm, thì nhận thấy tất
cả mọi người trong hầm đều bị đánh thức bởi
tiếng pháo thực kinh khiếp hơn trăm lần những đợt
pháo dữ dội nhất của những ngày trước. Có
người ngồi trên ghế bố, ngồi dưới đất, và nhiều
người đã và nằm rạp xuống đất... tôi ngồi bẹp
xuống nền đất, tựa vào thành cây của chiếc ghế
bố dã chiến... tự động theo cơn sợ của bản năng,
vì... muôn nghìn tiếng nổ liên tục long trời lở
đất tưởng chừng như đã đến ngày tận thế....
Cứ tưởng tượng là tiếng đạn pháo nổ rung
chuyển trời đất đó là tiếng trống của năm bảy
chục chiếc trống lớn do những lực điền cùng
đánh... một lúc và liên tục suốt gần ba tiếng
đồng hồ từ 2 giờ 45 phút cho đến gần sáng, ước
lượng từ 10,000 đến 11,000 quả. Chiếc hầm hành
quân tưởng sập mất mà không sập.... Như có phép
lạ, hàng trăm quả đạn nổ chung quanh hầm của
chúng tôi, nhưng không một quả nào rơi trên nắp
hầm, không dầy lắm... Chỉ cần một quả xuyên phá
thôi, rớt trên hầm, xuyên xuống, và nổ... là Bộ
Tham mưu Hành quân, kể cả Tướng Hưng và Đại tá
Ulmer, đã bị chôn sống trong lòng đất. Mặt trận An
Lộc có thể sẽ tan vỡ. Chỉ chừng năm phút đầu
tiên, không dứt tiếng pháo, tôi đã thấy hai ông này
cầm ống nói liên lạc với các đơn vị. Tôi chưa
biết phải làm gì. Chung quanh, mấy ông sĩ quan
khác cũng... không khác gì. Hình như không ai suy
nghĩ gì hơn là chờ...một cái gì đó. Chắc cũng
có người đọc kinh hay niệm Phật.
Tiếng
pháo vẫn liên tục dữ dội. Bỗng tôi thấy Đại tá
Vỹ, đang ngồi trên ghế bố, đứng lên, đi ra bàn
đặt hệ thống Truyền tin và Đại tá Điềm đội nón
sắt lên đầu ra khỏi hầm, lên tuyến trên mặt đất.
Trung tá Đăng, Trưởng phòng 3 và tôi liền ra bàn
Truyển tin có nhiều ống nghe vô tuyến và điện
thoại. Lạ lùng thay, khi bắt đầu đặt một ống
nghe vô tuyến có vành cao su bịt tai, nhận báo
cáo của các đơn vị thì... ghi chép, quên tất cả
mọi thứ khác... Tôi đã hoàn hồn nhưng tự thẹn
vì đã sợ hãi như chưa từng sợ hãi như vậy. Lẽ
dĩ nhiên thầm thẹn với… Hưng, ông tướng, bạn cùng
Trung đội sinh viên sĩ quan ngày xưa, khi pháo liên
tục kinh khiếp như vậy mà ông cứ thản nhiên...
gọi, hỏi, theo dõi tình hình từng đơn vị, và
chỉ thị.... Nghĩ lại, biết mình thua xa ông ta là
phải. Ông có hơn năm chục Anh Dũng Bội Tinh, trong
đó có 26 chiếc với nhành dương liễu, mà tôi đếm
được trên ngực áo trận của ông sau một buổi
lễ... nghĩa là ông được tuyên dương chiến công
trước Quân đội 26 lần. Còn tôi, xòe bày tay ra đếm
cũng không được hai... ngón. Còn cái “quê” nào hơn
cái quê này của một sĩ quan cấp tá.
Tiếng
pháo vừa dứt, trời chưa sáng, chừng khoảng 5 giờ
30 phút, các tuyến phòng thủ báo cáo tới tấp
chiến xa và bộ binh địch xung kích dữ dội, nhất
là hướng tây và đông bắc. Những báo cáo đầu tiên
ghi nhận ở các hướng, các cánh quân phòng thủ
đều bắn hạ chiến xa địch. Như vậy là chiến sĩ
phòng thủ đã lâm trận lớn, chịu đánh và bắn
chiến xa tưng bừng như những lần trước. Tuy
nhiên... khi nghe Trung tá Lý Đức Quân, Trung đoàn
trưởng Trung đoàn 7 báo cáo đã mất liên lạc vô
tuyến với Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3/7, chỉ còn
liên lạc được với hai Đại đội trưởng của Tiểu
đoàn này và tuyến phòng thủ hướng tây, cổng Phụ
Lố, của Tiểu đoàn đã bị vỡ.... Địch đã chiếm
Trại giam Tỉnh và Ty Công Chánh, từ đó làm bàn
đạp xung kích Đại đội 5 Trinh Sát của Trung úy Lê
văn Chánh, phòng thủ Bộ Tư lệnh HQ/SĐ ở hướng tây
bắc và chính tây... chỉ cách một con đường.
Tuyến đông bắc thị xã, Tiểu đoàn 52/BĐQ bị
tấn công mạnh, bị thủng tuyến ở quãng giữa,
phải dạt sang hai bên thành hai cánh quân rời nhau.
Địch chiếm Ty Chiêu Hồi và Trường Trung học Tỉnh,
đang tấn công vào Đại đội 5 Trinh Sát, cũng...
chỉ cách một con đường. Như vậy BTL/HQ đang bị
tấn công ở phía tây bắc cách hầm chỉ huy của
Tướng Hưng chừng 150m và hướng đông bắc chừng hơn
100m. Tướng Hưng tức tốc ra khỏi hầm hành quân
với toán Truyền tin vô tuyến và Thiếu úy Tùng,
Sĩ quan Tùy viên, theo sau là Đại tá Ulmer. Toán binh
sĩ tùy tùng tư lệnh nằm trong villa và canh gác
đêm qua liền bố trí bao quanh Tướng Hưng và Đại tá
Ulmer đứng trên sân gần cột cờ, đang liên lạc với
các đơn vị trưởng.
Lúc đó, Đại tá Vỹ và
chúng tôi, tất cả sĩ quan và nhân viên hành quân
khác trong hầm hành quân đều lên tuyến phòng thủ
bộ tư lệnh, mặt tiền, xoay ra đại lộ Nguyễn Huệ.
Tuyến này là của hai Tiểu đội Trinh sát tùy
tùng bảo vệ tướng tư lệnh và của nhân viên Phòng
1, 2, 3 và 4 của BTL/HQ, lúc đó đã có tất cả
gần bốn mươi tay súng, kể cả hai Đại tá Lê Nguyên
Vỹ và Bùi Đức Điềm. Trong hầm chỉ còn lại hai
Đại úy Cường và Triệu của Phòng 2/HQ và các sĩ
quan và chuyên viên của Toán Truyển tin/HQ Sư đoàn
tiếp tục thu nhận tin tức báo cáo của các đơn
vị phòng thủ. Dĩ nhiên lúc đó tất cả đơn vị
trưởng đều lên máy trực tiếp với Tướng Hưng. Tuy
vậy, ban tham mưu của các vị này vẫn báo cáo đều
về Trung tâm Hành quân Sư đoàn (TOC– Tactical
Operations Center) mà hai ông Đại úy đó và các sĩ
quan Truyền tin trên ghi chép.
Ở phần trên
tôi có nói về biệt tài ghi nhớ tọa độ địa hình
(khoa Địa hình học, Topography), việc điều động
các phi cơ oanh kích và đánh bom yểm trợ quân của
ông, khi cần thiết chỉ cách một con đường, và
nhất là việc ông nhớ tên và ám số truyền tin,
đến cấp Đại đội trưởng, của tất cả các đơn vị
cơ hữu và tăng phái. Các biệt tài này rất cần
thiết cho việc cầm quân đánh giặc, không phải vị
tướng hay tá nào... có được đâu. Đó không phải
là “trí nhớ” dai nhưng là phương pháp tự nghĩ ra
“cách nhớ” rất khoa học. Tôi nằm ở một nơi bên
trong bờ rào đất đắp dọc theo con đường trước
dãy nhà làm việc. Tiếng súng nổ dòn dã ở khắp
các tuyến khác. Một chập sau, tôi tự thấy mình
vô lý quá. Nhiệm vụ của mình đâu phải là nằm
đây để bắn... ai đó mà phải ở gần tướng tư lệnh
Sư đoàn giúp đỡ ông ta khi cần biết đến những gì
liên quan đến địch quân. Nhìn quanh không thấy Trung
tá Đăng, Trưởng phòng 3 ở đâu, chắc là ông đã trở
xuống Trung tâm Hành Quân, tôi trở lại sân cờ nơi
Tướng Hưng đứng và đến gần Thiếu úy Tùng, sĩ
quan tùy viên của ông. Lúc đó tôi mới biết là
Tướng Hưng vừa cầm ống vô tuyến vừa liên lạc với
Trung úy Chánh, Trung tá Quân Trung đoàn trưởng Tr.Đ
7 và Trung tá Biết, Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn
3/BĐQ, vừa liên lạc điều động phản lực oanh kích
KQVN yểm trợ cho tuyến của mấy ông này. Chốc chốc
đọc tọa độ cho Thiếu úy Tùng chuyển cho Đại tá
Ulmer, đứng cách đó hơn chục bước, cũng đang điều
động hay gọi các phản lực cơ và trực thăng võ
trang Cobra của Không Lực Hoa Kỳ đánh yểm trợ,
đánh vào các tọa độ mà Tướng Hưng yêu cầu. Một
chập sau tôi biết ngay là tuyến phía nam và đông
nam việc yêu cầu và điều động hướng dẫn đánh bom
và oanh kích của KQVN và KLHK ông để toàn quyền
cho Đại tá Lê Quang Lưỡng và Đại tá Trần văn Nhật
quyết định cùng với và các cố vấn của Lữ đoàn
Dù và Tiểu khu. Tuyến phía đông do Trung tá Nguyễn
văn Biết Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 3/BĐQ và
tuyến phía bắc do Trung tá Phan văn Huấn, Liên đoàn
trướng LĐ81/BCND quyết định và điều động. Chính
Tướng Hưng cũng điều động không yểm tuyến của
Trung đoàn 8 ở mặt tây bắc.
Các tuyến mặt
bắc và tây bắc của LĐ81/BCND và Trung đoàn 8 tuy
bắn hạ mấy chiến xa của quân CSBV nhưng cũng núng
thế vì một phần tuyến của hai đơn vị này bị
chọc thủng, phải lùi lại phía sau một ít. Một
điều... dễ hiểu là mỗi lần liên lạc với Trung
đoàn 8 bộ binh trực thuộc, chỉ nghe Tướng Hưng lên
máy với Thiếu tá Huỳnh văn Tâm, Trung đoàn phó, hay
gọi thẳng chỉ thị cho các Tiểu đoàn trưởng chớ
không phải với ông Đại tá Trung đoàn trưởng.
Từ sáng tinh sương đến giờ đó, khoảng 9 giờ 30
phút sáng, đã có trên 180 phi xuất khu trục phản
lực của KQVN và KLHK yểm trợ cho tất cả các
tuyến phòng thủ và hơn 10 boxes B–52 đã dội trên
các khu vực tiếp cận ngoài vòng đai phòng thủ,
nhưng tình hình mỗi phút mỗi thêm nguy ngập. Đại
đội 5 Trinh sát, ngoài hai Tiểu đội bảo vệ tướng
tư lệnh, một đang ở cạnh ông và một trên tuyến
phía đông dọc theo đại lộ Nguyễn Huệ, còn đại
bộ phận gần 90 chiến sĩ, đến giờ phút đó đã hy
sinh hay bị trọng thương tại tuyến hơn phân nửa,
chỉ còn lại 42 chiền sĩ chiến đấu được, trong
số cũng có nhiều người bị thương nhẹ hơn.
Đó là giờ phút nguy hiểm, khó khăn, nhất cho
Tướng Hưng. Cuối cùng vì thấy tuyến phía nam và
đông nam các đơn vị Dù đã hoàn toàn làm chủ
trận địa, Tướng Hưng hỏi ý kiế̉n Đại tá Lưỡng,
cùng đồng ý quyết định tăng cường Đại đội 63
của TĐ6ND (đã rút từ ấp Srok Ton Cui về tuyến
phòng thủ đông nam thị xã trong trận tấn công của
Trung đoàn 141 SĐ–7/CSBV, ngày 21/4, chiếm Đồi 169
và Đồi Gió) cho Tiểu đoàn 8 Dù của Trung tá Văn
Bá Ninh, án ngữ mặt nam từ đầu xa lộ khu trực
thăng tạm, xuống đến cổng Xa Cam, nơi đó Tiểu đoàn
này đã hạ 6 chiến xa của quân CSBV từ sáng sớm...
Quyết định quan trọng nhất là rút TĐ5BĐQ của
Trung tá Nguyễn Chí Hiếu từ ngoại vi đông nam An
Lộc lên phía bắc, vào thành phố, để phản công
chiếm lại các nơi đã bị địch chiếm, đồng thời
đưa Đại đội Trinh Sát của Lữ đoàn 1 Nhảy Dù từ
tuyến phòng thủ gần BCH Tiểu khu lên bảo vệ cho
BTL/HQ của SĐ5BB mà Đại đội 5 Trinh sát đã quyết
tử giữ vững hơn bốn giờ trước đó. Quyết định
này vô cùng quan trọng là tuy nới lỏng hệ thống
phòng thủ tuyến nam và đông nam An Lộc, nhưng bảo
đảm được sự tồn tại của An Lộc vì đã bảo vệ
được Bộ Tư lệnh Hành Quân Sư đoàn cũng là BTL/HQ
của chiến trường An Lộc. Tướng Hưng và Đại tá
Lưỡng đã quyết định vận mệnh của An Lộc... trên
hết mọi quyết định khác của BTL/QĐIII & V3CT hay
của BTL/TRAC, của BTTM/QLVNCH hay của BTL/MACV, của
Sài Gòn hay Washington. Thực là rõ ràng.
Từ
10 giờ sáng Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù chia làm hai cánh
tiến vào thành phố. Cánh thứ nhất đánh phản
công chiếm lại Trường Trung học Tỉnh lỵ và Ty
Chiêu Hồi, nối lại hai cánh quân của TĐ52/BĐQ.
Chiến đoàn 3 BĐQ lập lại tuyến phòng thủ ở đông
bắc BTL/HQ nhanh chóng. Cánh thứ hai đánh phản
công chiếm lại Ty Công Chánh ở phía tây BTL/HQ
trong khi ĐĐTS Dù cũng đã đến vòng đai phòng thủ
của BTL/HQ. Đến khoảng 2 giờ chiều cục diện của
trận chiến ngày hôm đó đã ngã ngũ. Tiểu đoàn 5
Nhảy Dù, Đại đội Trinh Sát Lữ đoàn 1 Nhảy Dù
là cứu tinh của BTL/SĐ5BB, và Đại đội 5 Trinh Sát
trước tiên là đơn vị bộ binh ưu tú nhất đã bảo
vệ được vị chủ soái của mình. Chỉ với hơn bốn
chục chiến sĩ còn lại mà đơn vị này đã đẩy lui
được nhiều đợt của hai mũi tấn công của quân CSBV
trong bốn tiếng từ 6 đến 10 giờ sáng trước khi
quân Dù đến cứu nguy cho BTL/HQ của Tướng Hưng (sau
trận An Lộc, chỉ trong vòng một năm Trung úy
Chánh, Đại đội trưởng ĐĐTS thăng đến cấp Thiếu tá
và được bổ nhậm là Quận trưởng Quận Định Quán,
tỉnh Tuyên Đức).
Nhờ các đơn vị Dù cứu
tinh nói trên ở trung tâm thành phố, và nhờ các
trực thăng Cobra HK đánh rất rát vào vị trí quân
CSBV, mặc dù loại hỏa tiển SA–7 Strela và các
loại súng phòng không 23mm, 37mm và 57mm của chúng
bắn lên dữ dằn, làm cho các phi công HK phải hết
sức thận trọng và bị khó khăn, mà vẫn không
tránh được thiệt hại, dù rất ít... nên ở tuyến
phía bắc, Trung đoàn 8 phản công nhích lên tuyến
phòng thủ trước trận đánh và LĐ81BCND cũng phản
công tái chiếm lại trụ sở của Cảnh sát Dã
chiến và khu Chợ Mới đã mất trong buổi sáng và
trở lại tuyến phòng thủ đêm hôm trước. Suốt từ
trưa đến chiều, Không Quân Chiến Lược HK –do yêu
cầu của hai ông Tướng Minh và Tướng Hollingsworth,
Tư lệnh TRAC– cũng đã thực hiện thêm hơn 10 boxes
B–52 chung quanh An Lộc nhất là ngoài tuyến phòng
thủ mặt bắc, đông và tây, yểm trợ cho LĐ81BCND,
cho CĐ3/BĐQ và cho TĐ7BB phản công chiếm lại tuyến
phòng thủ; có mấy boxes đánh sát các đơn vị này
chừng 800m. Mọi tuyển phòng thủ thành phố trở
lại tình trạng ổn định hơn, trước khi nắng tàn,
mặc dù ở tuyến của Tiểu đoàn 52/BĐQ còn khuyết
một lõm ở quãng giữa mà quân CSBV cố bám vị
trí rất sát với chiến sĩ BĐQ để tránh bị tiêu
diệt bởi hỏa lực của KQVN và HK. Ở Tuyến hướng
chính tây chúng vẫn còn chiếm giữ Trại giam (Bản
đồ # 6).
Book marks: LGT | TSTG | KỲ–1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | KỲ–12 | PL | Đầu trang
KỲ–10
Tướng
LÊ VĂN HƯNG &
Những sự thực ở Chiến trường AN LỘC
trong Mùa Hè Đỏ
Lửa 1972; cont'd...
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Kỳ–10
Các đơn vị CSBV
tấn công, bị tổn thất rất nặng, kể cả số chiến
xa bị bắn cháy hay chết rụi nằm trong các tuyến.
Số quân còn lại của các đơn vị này vẫn bám trụ
bên ngoài của mỗi tuyến phòng thủ vì bom và oanh
kích của KQVN và KLHK oanh kích và dội bom dữ
dội vào tuyến tấn công của chúng. Cả ngày hôm đó
không yểm chiến thuật lên đến hơn 300 phi xuất và
Không quân Chiến lược HK đánh gần 30 boxes B–52
trong các mật khu và trên các tuyến đường vận
chuyển của chúng, trong số đó có chừng 20 boxes
đánh rất gần ngoại vi thị xã. Chính vì sự còn
“bám sát” trận địa của các đơn vị bộ chiến nên
đêm tối 11/4, pháo của chúng dội vào thành phố
không nhiều lắm, chỉ chừng trên dưới một nghìn
quả. Thêm nữa, các “Hỏa Long” của KLHK từ căn cứ
Không quân Utapao Thái Lan đến bao vùng từ chập
tối, suốt cả đêm, cũng đã triệt hạ từng cụm
pháo hay từng chiến xa địch ở ngoại vi An Lộc.
Buổi tối, khi Tướng Hưng gọi tôi vào hầm riêng
của ông để kiểm điểm lại trận chiến, thì mới
biết rõ lời khai của người tù binh thuộc Tiểu
đoàn Trinh sát SĐ–5/CS bắt được trong ngày 6/5/1972
có sự khác nhau khá lớn vì: SĐ–5/CS –chủ lực
trong trận tấn công đợt 3 này– chỉ sử dụng Trung
đoàn 174 tấn công vào tuyến của Trung đoàn 8 và
LĐ81/BCND ở mặt bắc và Trung đoàn E–6 tấn công
tuyến của CĐ3/BĐQ ở hướng đông bắc và chính đông.
Trung đoàn còn lại là Trung đoàn 275 ghi nhận
chiếm vùng Đồi Gió và Đồi 169. Cũng được biết
là Tư lệnh bộ của Sư đoàn này ở Srok Ton Cui gần
đó như tin tức ghi nhận vô tuyến của Đại đội Kỹ
Thuật của BTL/HQ/ SĐ5BB. Trong khi đó thì Trung
đoàn 95C của SĐ–9/CS tấn công tuyến tây bắc và
Trung đoàn 272 tấn công tuyến chính tây của Trung
đoàn 7/SĐ5BB. Còn tuyến phía nam là do Trung đoàn
271 của SĐ–9/CS chia làm hai cánh tấn công vào
tuyến phỏng thủ của một đơn vị ĐPQ Tiểu khu tiến
vào đường Huỳnh Thúc Kháng đâm ngang hông phía tây
của BCH Tiểu khu và cánh thứ hai tấn công vào
cổng Xa Cam, do TĐ1/48 thuộc Chiến đoàn 52 –lúc
đó đang đặt dưới hệ thống chỉ huy của Lữ Đoàn 1
Nhảy Dù– trấn đóng, chừng hơn hai cây số cách
TĐ8ND ở bãi trực thăng tạm về phía nam. Từ sáng
sớm Đại tá Lê Quang Lưỡng đã ra lệnh cho TĐ8ND của
Trung tá Văn Bá Ninh phản công, hạ 6 chiến xa CSBV
và chiếm lại địa điểm này. Như vậy là có đến 5
mũi tấn công chính của quân CSBV vào các tuyến
phòng thủ chớ không phải 4. Ở mỗi tuyến tấn công
các mũi nhọn cấp Trung đoàn của quân CSBV đều có
sự phối hợp từ 8 đến 10 chiến xa của Trung đoàn
203 Chiến xa và của Đơn vị 202 Chiến xa CSBV. Sự
phối hợp này rất lỏng lẻo. Chiến xa chạy vào
các tuyến trước, quờ quạng như những con cua biển
bò trên đất, nên bị chiến sĩ phòng thủ hạ không
khó lắm. Còn quân bộ xung kích thì chỉ diễn ra
sau khi chiến xa đã bị hạ gần hết.
Điều
ngạc nhiên là tuyến đông nam của BCH Lữ đoàn 1
Nhảy Dù, với ĐĐTS và TĐ5ND của Trung tá Nguyễn
Chí Hiếu đóng gần đó làm trừ bị không hề bị
tấn công... khi mà SĐ–5/CS và Trung đoàn 209 trực
thuộc, với các đơn vị chuyên môn yểm trợ khác,
nằm ở các vùng cao điểm đông nam chỉ cách tuyến
của BCH Lữ Đoàn Nhảu Dù chừng ba, bốn, cây
số.... Tại sao vậy? Ước đoán là TWC/MN tránh
không muốn tấn công mặt này vì sơ chạm phải các
đơn vị Nhảy Dù thiện chiến, tránh thiệt hại quân
vô ích, ngoại trừ tấn công đơn vị trấn giữ sân
trực thăng ở đầu nam xa lộ chạy đến gần cổng Xa
Cam. Nếu tấn công, xung kích, mà dứt điểm được
Trung đoàn 7 và 8 của SĐ5BB và chiếm được BTL Sư
đoàn này, mặt trận sẽ tan rã, thì các đơn vị
Nhảy Dù ở tuyến phía nam và đông nam cũng bị cô
lập và sẽ bị tiêu diệt sau. Kế hoạch tổng công
kích An Lộc đợt ba này của TWC/MN do đó đã thất
bại hoàn toàn vì sơ hở trọng đại này. Chính
không dám tấn công mặt đông nam nên Tướng Hưng và
Đại tá Lưỡng mới dám rút TĐ5ND và ĐĐTS/ND phản
công đánh bật các mũi dùi phía tây và đông bắc
BTL/HQ của SĐ5BB, từ đó bắt đà cho các cánh quân
phòng thủ ở mọi tuyến khác phản công chiếm lại
các vị trí đã mất.
Sau này, tôi thấy có
tài liệu viết rằng, không phải Trung đoàn 271 của
SĐ–9/CS tấn công cổng Xa Cam –tuyến của TĐ1/48
Chiến đoàn 52 của ĐPQ– mà là Trung đoàn 275 của
SĐ–5/CS (Tài liệu của Ban Quân Sử BTTM/QLVNCH ghi
là “Trung đoàn 275 của SĐ9.” Đó là sự nhầm lẫn
hoặc in nhầm, vì Trung đoàn 275 là đơn vị trực
thuộc của SĐ–5/CS). Vì vậy nên SĐ–5/CS đã sử dụng
hết lực lượng rồi đâu còn đơn vị nào nữa mà
tấn công tuyến đông nam của Lữ đoàn 1 Nhảy Dù.
Nhận định này cũng đúng. Nhưng, dù đúng như vậy,
thì đó vẫn là sơ hở trong kế hoạch tổng công
kích đợt 3 của TWC/MN vào An Lộc. Còn tài liệu
của TS Willbanks không ghi rõ phối trí lực lượng
tấn công của CSBV trong đợt này. Ông này hình như
cũng nói theo tài liệu của Ban QS/BTTM/QLVNCH cho
rằng Trung đoàn 274 của SĐ5 tấn công vào tuyến
của LĐ81/BCND ở tuyến bắc. Trung đoàn này, không
tham dự đợt tấn công này vào An Lộc vì không trực
thuộc hai Sư đoàn CS nói trên. Cũng xin nhắc lại:
SĐ–5/CS chỉ có 3 Trung đoàn 174, E–6 và 275. Còn
SĐ–9/CS chỉ có các Trung đoàn 271, 272 và 95C.
Trong một trận đánh mà CSBV né tránh, không muốn
đề cập đến, lại không dựa vào các tài liệu thu
được ở chiến trường hay căn cứ vào khai báo của
tù binh bắt được... thì có lắm chuyện “Ông nói
gà Bà nói vịt” xảy ra. Chỉ có các tay tổ của
TWC/MN biết rõ hơn ai hết mà họ không chịu nói
thì ai nói cho trúng đây....
Trở lại tối
11/4, khi tôi gặp Tướng Hưng trong hầm riêng của
ông, ông hỏi tôi đạn pháo ở đâu ra mà CSBV có
nhiều đến vậy. Tôi trả lời rằng đâu phải chúng
chỉ sử dụng riêng các loại đại bác mà SĐ69
Pháo/TWC/MN đã có, mặc dù trước trận đánh Sư
đoàn này nhận được rất nhiều đại pháo mới và
rất nhiều đạn ở bãi trên Sông Chhlong ở Kratié,
như lời khai của người sĩ quan thuộc Tiểu đoàn
Trinh sát của Sư đoàn này tôi đã nói ở phần trên,
mà chúng còn sử dụng các loại đại bác 105 ly,
155 ly, và cả các loại súng cối 60 ly và 81 ly
mà chúng ta bỏ lại ở căn cứ A của TĐ74/BĐQ/BP, ở
ngã ba Lộc Tấn của các khẩu pháo tăng phái cho
Thiết đoàn 1 Kỵ binh, ở Lộc Ninh của Tiểu đoàn 53
Pháo binh và Chi khu Lộc Ninh, ở căn cứ Hùng Tâm
của Chiến đoàn 52 và ở cầu Cần Lê trong các
trận trước. Số súng mà chúng lấy được trên dưới
bốn mươi khẩu còn sử dụng được và trên 8,000 quả
đạn hay nhiều hơn…. Chúng đã đem các khẩu đại
bác này và đạn bắn vào An Lộc cùng với các
loại đại bác, hỏa tiễn và súng cối của chúng.
Tóm lại, các đơn vị của SĐ69 hay70 Pháo/TWC/MN đã
dội xối xả vào An Lộc gồm đủ loại trong pháo
và đại pháo từ nhỏ chí lớn, súng cối 60ly, 61
ly, 81 ly, 82 ly, bích kích pháo 120 ly, 160 ly của
Liên xô, hỏa tiễn 122 ly, đại bác 105 ly, 155 ly,
loại đại pháo liên hợp 6 hay 8 khẩ̉u 75 ly, không
giật, đặt trên xe di chuyển, thay đổi vị trí ngay
sau mỗi đợt bắn, là loại tối tân nhất của Liên
xô, và cuối cùng là đại bác 130 ly với đầu đạn
nổ chậm –là loại đầu đạn xuyên phá sâu vào mặt
đất trước khi nổ, rất nguy hiểm. Nhiều tài liệu
không chấp nhận CSBV đã dùng loại đại bác này.
Loại đại pháo này được chúng sử dụng với các
đặc điểm như sau: một tiếng nổ nhỏ phát ra khi
đạn rời khỏi nòng súng, tiếng nổ khi đạn chạm
mặt đất và xuyên xuống, tiếng nổ cuối cùng khi
đạn phát nổ dưới đất với một bựng khói bốc lên
cao chừng tám đến mười thước. Một hầm rộng chỉ
cần “lãnh” một quả là sụp đổ tan tành.... Nghe
ba tiếng… tách, phụp, bùm và thấy cụm khói đỏ
xám bốc lên khỏi mặt đất thì... biết đó là đại
bác 130 ly của Hồng Quân Liên xô cung cấp cho Quân
đội Bắc Việt và chúng đưa vào tận chiến trường
An Lộc. Hình như chỉ có một hai khẩu.... Rõ ràng
là CSBV đã áp dụng chiến thuật “tiền pháo hậu
xung” ở mức độ cao nhất ở chiến trường này để
quyết tâm tiêu diệt lực lượng phòng thủ An Lộc
và dù có biến thành phố này thành “bình địa”
chúng cũng phải chiếm cho được. Số đạn chúng
dội vào thành phố nhỏ này tính trung binh mỗi
chiến sĩ hay mỗi cư dân đã chịu hứng 5 hay 6 quả.
Ai chết ai sống, nào ai biết! Vậy từ 9,000 quả,
10,000 quả, hay 11,000 quả ai nói thì cũng phải...
vì có ai biết rõ đâu, kể cả những người đã sử
dụng pháo định tiêu diệt tất cả mọi người trong
thành phố đó... Nhưng chúng đã thất bại.
Trong ngày kế tiếp, 12/5/1972, hình như để chấn
chỉnh lại đội ngũ xung kích nên từ sáng sớm đến
chiều chúng chỉ pháo kích chừng hai nghìn quả
vào các tuyến phòng thủ. Khi trời vừa sụp tối
chúng bắt đầu tấn công phối hợp bộ binh chiến
xa... đánh ban đêm. Ở hướng tây Trung đoàn 272
SĐ–9/CS tăng cường chiến xa xung kích tuyến của
Trung đoàn 7. Ở hướng đông bắc, Trung đoàn 174 của
SĐ–5/CS tấn công xung kích vào tuyến của TĐ52/BĐQ
và Trung đoàn E–6 của SĐ–5/CS được tăng cường
chiến xa tấn công vào TĐ36/BĐQ ở hướng chính đông.
Nhưng ở các tuyến chiến xa của chúng bị hạ thêm
và các đợt xung kích bộ binh dù dữ dội cũng bị
đẩy lui với tổn thất lớn. Ngay trong thành phố,
đếm được 28 chiến xa các loại của CSBV bị hạ và
ở cổng Xa Cam 6 chiếc nữa do TĐ8ND hạ; tổng cộng
là 34 chiếc gồm các loại T–54, PT–76, BTR–50 và
ZSU (Bản đồ # 9). Đến sáng ngày 13/5 quân CSBV
không còn vụ xung kích nào nữa.... Từ ngày đó
chỉ còn các cuộc chạm súng nhỏ diễn ra ở các
khu vực mà quân CSBV còn giữ được trong thành phố
ở phía tây, bắc và đông bắc. Hằng ngày địch vẫn
còn pháo bừa bãi vào thành phố và các tuyến
phòng thủ. Tuy nhiên TWC/MN đã không còn đủ lực
lượng để tấn công một trận lớn nào nữa vào An
lộc sau ngày 13/5/1972 này cho đến khi lực lượng
của Tướng Hưng phản công trong tháng 6/1972.
Hình như bị thiệt hại lớn lao hay vì lâm vào thế
phải thay đổi cả chiến lược, Tướng Trần văn Trà
đã ra lệnh cho SĐ–5/CS rút hẳn ra khỏi chiến
trường này trong tuần lễ kế tiếp, sau hai ngày
thất bại ở đợt 3 tổng công kích An Lộc... để mở
các mặt trận mới trong lãnh thổ Vùng 3 Chiến
Thuật, mà Tướng Nguyễn văn Minh đã nhìn thấy
trước và đã giữ lưc lượng trừ bị đối phó. Chỉ
còn SĐ–9/CS ở lại bám sát các tuyến phòng thủ
và “bao vây thành phố.” Các đơn vị pháo của SĐ69
Pháo của TWC/MN vẫn tiếp tục bắn phá các tuyến
phòng thủ và các đơn vị phòng không của chúng
vẫn còn bắn các phản lực oanh kích và dội bom
hay trực thăng của KQVN và KLHK trong nhiều tuần
nữa. Nhưng số đạn chúng pháo vào thành phố giảm
từng ngày, từ một hai nghìn xuống vài ba trăm,
rồi vài chục quả mỗi ngày. An Lộc coi như đã
thoát hiểm, các đơn vị phòng thủ coi như đã chiến
thắng cuộc chiến long trời lở đất đó. Tuy vậy
với vị tướng thận trọng và dè dặt như Tướng
Nguyễn văn Minh, chưa thể gọi là chiến thắng khi
bộ binh tiếp viện của ông chưa vào được thị trấn
tỉnh lỵ Bình Long này. Ông đã có kế hoạch mới
cho An Lộc trong khi Tướng Trần văn Trà đang có kế
hoạch mới cho Mặt trận B–2 mà trước đó ông ta là
Tư lệnh (lãnh thổ bao gồm Vùng 3 và Vùng 4 Chiến
Thuật của VNCH ở Nam Việt Nam). Hãy xem lại kế
hoạch của Tướng Nguyễn văn Minh cứu nguy và đưa
quân vào An Lộc.
11. GIẢI TỎA AN LỘC,
PHẢN CÔNG
Có lẽ ngay trong giữa
khuya 10/5 rạng ngày 11/5 khi được Tướng Hưng báo
cáo là địch đang pháo kích với cường độ vô cùng
lớn lao và An Lộc sẽ bị tấn kích trong buổi
sáng sớm hôm sau khi dứt tiếng pháo... nên Tướng
Minh và Bộ Tham mưu Hành quân của ông đã họp khẩn
cấp lúc đó để hoạch định sử dụng các đơn vị
chưa lâm chiến thi hành ngay kế hoạch cứu nguy cho
An Lộc trong ngày hôm sau. Theo nhận định riêng của
tôi thì kế hoạch này có hai phần, diễn ra chỉ
cách nhau mấy ngày.
Thứ nhất: Tấn công mạnh để
“bứng chốt” ở suối Tàu–Ô nhưng thực ra là để
kềm SĐ–7/CSBV không cho tăng cường quân lên mặt bắc
tập trung truy diệt Lữ đoàn 3 Nhảy Dù hiện đang
còn hành quân trong các vùng ấp Đức Vinh và ấp
Tân Khai từ 6km đến 10km phía nam An Lộc hay hợp
công với các đơn vị chủ lực khác dứt điểm An
Lộc.
Thứ hai: Khi quân CSBV tấn công vào An
Lộc đợt 3 này thì ở vùng hai ấp nói trên có hai
Trung đoàn 165 và 141 của SĐ–7/CSBV cộng thêm Trung
đoàn 271 của SĐ–9/CS. Tất nhiên chúng phải rút
bớt đơn vị sau trả về Sư đoàn gốc để tấn công An
Lộc, chỉ còn lại ở chiến trường phía nam này
hai Trung đoàn của SĐ–7/CSBV đã đang còn đánh nhau
dữ dội với LĐ3ND và tất nhiên là đã thấm mệt
vì tổn thất bởi các trận chạm súng và bởi hỏa
lực không yểm quân Dù của KQVN và KLHK, nhất định
là đã yếu đi. Nay Tướng Minh đổ thêm một cánh
quân mạnh vào Tân Khai, tức nhiên lấy mạnh đánh
yếu, vừa giải tỏa áp lực cho LĐ3ND, vừa có thể
đánh thốc lên tiến thằng vào An Lộc bắt tay với
các cánh quân phòng thủ An Lộc của Tướng Hưng mà
gần nhất ở mặt nam là cánh quân của LĐ1ND của Đại
tá Lê Quang Lưỡng. TWC/MN đã hết quân, không thể
truy cản được cánh quân mới nhập trận này.
Phần thứ nhất của Kế hoạch được thưc hiện
vào sáng tinh sương ngày 11/5/1972.
Trung đoàn 32 của SĐ21BB được tăng cường hai Chi
đoàn chiến xa 1/5 và 1/18, cộng thêm Chi đoàn 1/2
Thiết kỵ, chia làm hai mũi, xuất phát từ Chơn
Thành cặp theo hai bên trục QL–13 tấn công mạnh vào
chốt chặn ở đoạn đường dài hơn 3 cây số khu vực
suối Tàu–Ô. (Quận lỵ Chơn Thành được giao cho
Trung đoàn 9/SĐ5BB (–) –mới được tái lập với hai
Tiểu đoàn, tạm thời đặt trực thuộc hệ chỉ huy
hành quân của SĐ21BB, bảo vệ trục QL–13 từ Lai Khê
lên Chơn Thành). Ở mặt trận Suối Tàu–Ô, cuộc
chạm súng đã diễn ra vô cùng dữ dội. Cần nói
là trước khi quân của Trung đoàn 32 tiến đánh các
mục tiêu, các chốt chặn liên hợp của Trung đoàn
209/SĐ–7/CSBV tăng cường Trung đoàn 101 Địa phương,
một Đại đội trinh sát của SĐ–7/CSVB, Đại đội C41
Chống Chiến xa, một Đại đội phòng không, tất cả
ước chừng hơn 1,200 cán binh –đóng chốt trong hai
căn cứ với hầm hố kiên cố ở hai bên đường do các
đơn vị HK để lại, kết hợp với các địa đạo sâu
chi chít và hệ thống các “kiềng” dày đặc– đã
bị dội hàng chục phi xuất B–52, và mỗi lần bị
tấn kích chúng đã phải hứng hàng vài chục phi
xuất không kích với bom, đạn, kinh hồn... của KQVN
và KLHK mà chắc chắn rằng tổn thất không nhỏ.
Có lẽ chúng chỉ thêm quân từng toán nhỏ và tiếp
tế vào đêm... nhưng các chốt đó vẫn tồn tại.
Cũng dĩ nhiên là chúng cũng không thể nhích chân
để chuyển lên phía bắc để tiếp tay với các đơn
vị khác. Và như vậy, Tướng Minh cũng thực hiện
được một phần kế hoạch của ông, mặc dù sau đó
đã phải tăng viện thêm cho Trung đoàn 32 ba Tiểu
đoàn 65,73 và 84 BĐQ....
Phần thứ hai
của Kế hoạch được thực hiện vào ngày 14/5/1972.
Trong ngày 11/5 khi Trung đoàn 15 của SĐ9BB đến
Lai Khê, Trung tướng Minh định đưa vào tăng cường cho
Tướng Hưng, bằng trực thăng vận vào thẳng An Lộc,
nhưng trong đêm 10 rạng 11/5 CSBV pháo kích khủng
khiếp vào An Lộc và biết rằng sáng sớm chúng
sẽ tấn công vào các tuyến phòng thủ thành phố
bằng bộ binh và chiến xa nên Trung tướng Minh đã
thay đổi chiến thuật: vẫn đưa Trung đoàn này và
một Trung đoàn khác vào An Lộc nhưng bằng cách
khác. Sau mấy ngày chuẩn bị, mặc dù sau hai ngày
11 và 12/5 các mũi tấn công của CSBV và các
tuyến phòng thủ đã bị chặn đứng và mức độ tấn
kích của chúng cũng giảm đi, nhưng kế hoạch vẫn
được tiến hành. Hai cánh quân được chuẩn bị để
đưa vào chiến trường:
Cánh quân thứ nhất
là Chiến đoàn 15 với các Tiều đoàn 1, 2, 3 và
Đại đội 15 Trinh Sát trực thuộc, tăng cường Thiết
đoàn 9 Kỵ binh và Pháo đội 93 Pháo binh, do Trung
tá Hồ Ngọc Cẩn chỉ huy, chia làm ba đợt, trước
tiên vào Tân Khai. Sau đó sẽ dùng nơi này làm “bàn
đạp” tiến lên An Lộc. Đợt thứ nhất xuất phát
gồm Thiết đoàn 9 Kỵ binh và Tiểu đoàn 1/15 tùng
thiết kéo theo Pháo đội 93, xuất phát từ Chơn
Thành, hành quân bộ tiến lên hướng bắc, đến Ngã
ba Ngọc Lầu, 2km bắc Chơn Thành bọc vòng ra phía
đông QL–13, nội trong ngày 15/5 đã vào ấp Tân Khai
và thiết lập căn cứ hỏa lực Long Phi. Đợt thứ
hai, Tiểu đoàn 2/15 được trực thăng vận xuống bãi
đáp phía tây cách Tân Khai chừng 1km, tiến vào ấp
trong ngày 16/5. Sau đó Bộ Chỉ huy Chiến đoàn đổ
xuống căn cứ hỏa lực trong ấp. Đợt thứ ba, Tiểu
đoàn 3/15 và ĐĐ15TS cũng được trực thăng vận đổ
xuống phía đông, rồi tiến vảo Tân Khai. Các cuộc
đổ quân an toàn.
Cánh quân thứ hai là Trung
đoàn 33/SĐ21BB với các Tiểu đoàn bộ binh và Đại
đội trinh sát trực thuộc, do Trung tá Nguyễn Viết
Cần chỉ huy, cũng sẽ vào Tân Khai. Từ đó sẽ
tiến lên An Lộc song song với cánh quân thứ nhất.
Ngày 17/5 một Tiểu đoàn của Trung đoàn này được
trực thăng vận vào căn cứ Long Phi để bảo vệ đơn
vị pháo binh và thay cho Tiểu đoàn 2/15 rút ra
khỏi căn cứ và di chuyển quân bên ngoài tiếp nối
với Tiểu đoàn 3/15. Ngày 18/5 Trung đoàn 33 (–)
xuất phát từ một căn cứ hỏa lực cách Ngã ba
Ngọc Lầu 1km và cách Chơn Thành 3km về phía bắc,
cũng bọc ra hướng đông trục lộ, theo đường tiến
quân của Thiết đoàn 9 Kỵ binh và Tiểu đoàn 1/15
trong mấy ngày trước, vào Tân Khai trong ngày đó.
Như vậy, đến ngày 18/5 này coi như cả hai cánh quân
giải tỏa An Lộc đã đến được địa điểm tập trung
và xuất phát mới chỉ cách An Lộc về phía nam
chừng 10km.
Nhưng 10 cây số này là đoạn
đường sống chết vô cùng nguy hiểm cho cả hai cánh
quân nói trên nếu không có một cánh quân bạn
–tái nhập cuộc– làm đảo lộn cục diện ở đoạn
đường này và cục diện chiến trường An Lộc, vì
đã đánh một trận để đời làm cho... quân CSBV
thực sự kiệt lực.
Xin nhắc lại
diễn tiến:
Ngày 18/5, khi Trung đoàn
33 (–) của SĐ21BB đến Tân Khai thì Chiến đoàn 15
của Trung tá Hồ Ngọc Cẩn bắt đầu xuất phát tiến
lên An Lộc, với toàn bộ 3 Tiểu đoàn, Đại đội
trinh sát và nguyên vẹn Thiết đoàn 9 Kỵ binh; chỉ
để lại Trung đoàn phó Trung đoàn 15 chỉ huy căn
cứ pháo yểm Long Phi với 4 khẩu đại bác 105 ly
và 2 khẩu 155 ly và một Tiểu đoàn của Trung đoàn
33/SĐ21BB, đến yểm trợ và bảo vệ căn cứ từ hôm
trước. Như vậy, khi xuất phát từ Tân Khai tiến lên
An Lộc, Trung đoàn 33 (–) của Trung tá Nguyễn Viết
Cần chỉ huy có hai Tiểu đoàn bộ binh và Đại đội
trinh sát trực thuộc, không có đơn vị chiến xa
cùng theo. Ở đây có một chi tiết quan trọng cần
nêu lên là hai cánh quân này cùng tiến lên giải
tỏa hay bắt tay với các đơn vị phòng thủ An Lộc
không có một cấp chỉ huy thống nhất, cấp bậc cao
hơn –tức là cấp Đại tá– để chỉ đạo hai ông Trung
tá chỉ huy hai cánh quân khác nhau nhưng cùng chung
một nhiệm vụ. Dĩ nhiên, Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi,
Tư lệnh SĐ21BB chỉ huy toàn thể các cánh quân đó,
nhưng ông ở Lai Khê lại còn phải điều động các
cánh quân khác nữa, nên cần... phải chỉ định một
vị chỉ huy và ban tham mưu của vị này để trực
tiếp chỉ huy Chiến đoàn 15 và Trung đoàn 33. Cũng
cần nên nói là sao chỉ tổ chức “một Chiến đoàn”
quá nhiều quân và “một Trung đoàn” trừ bớt một
Tiểu đoàn trong khi hai cánh quân này cùng song song
tiến theo trục lộ: Chiến đoàn 15 ở hướng tây và
Trung đoàn 33 (–) ở hướng đông? Do đó, trước tiên
là thiếu sự chỉ huy phối hợp, thiếu đồng nhất
–cánh mạnh, cánh yếu. Thứ đến, kế hoạch hành
quân không được phối hợp chặt chẽ, thiếu yểm trợ
hữu hiệu, và có thể thiếu cả sự tương trợ khi
cần đến nhau. Tóm lại những quyết định tại chỗ
của một cấp chỉ huy thống nhất rất cần thiết
cho một cuộc hành quân phối hợp có nhiều đơn vị
khác nhau.... Dựa vào “logic” mà nói thì nhận
định trên không sai, nhưng hình ở trận lần thứ hai
đổ quân vào Tân Khai này tình thế trận địa có vẻ
phù hợp với tổ chức các cánh hành quân như
Tướng Minh hay Tướng Nghi đã làm. Vì cánh quân
sườn tây trục lộ tiến lên An Lộc của Trung tá Hồ
Ngọc Cẩn chạm địch dữ dội, mạnh nhiều lần hơn
so với cánh quân của Trung tá Nguyễn Viết Cần ở
sườn đông trục lộ.
Đêm 18/5 địch bắt đầu pháo kích vào
căn cứ Long Phi. Rốt cục, Trung tá Hồ Ngọc Cẩn
quyết định để thêm Tiểu đoàn 1/15 ở lại phối hợp
với Tiểu đoàn có sẵn của Trung đoàn 33, thay nhau
bung ra để hạn chế bớt việc địch pháo bắn súng
cối vào căn cứ hỏa lực quan trọng này.
Cánh quân của Chiến đoàn 15 từ lúc xuất phát đã
bị địch đánh nhiều trận lớn, nhất là bị địch
bám sát bắn súng cối liên tục trong các ngày 19,
20 và 21/5, như trước đây chúng đã dùng để đối
phó với quân Nhảy Dù trong vùng này. Trận chạm
súng mạnh nhất diễn ra ở ấp Đức Vinh. Đây là
vùng trận địa của Trung đoàn 141/SĐ–7/CSBV. Mặc
dù vậy, đến sáng ngày 22/5 cánh quân này đã tiến
đến một địa điểm khoảng 1km hướng nam xã Thanh
Bình. Xã này nằm bên ngoải vòng đai phòng thủ
hướng tây nam chỉ cách thị xã tỉnh ly An Lộc
chừng 2km. Như vậy là rất gần An Lộc, nhưng bị
Trung đoàn 141 chận đánh dữ không tiến lên được.
Các Tiểu đoàn 2/15, 3/15, Đại đội 15 Trinh Sát và
Bộ Chỉ huy Chiến đoàn bị pháo dữ dội, bị xung
kích bằng bộ binh có chiến xa phối hợp, nhưng đã
đẩy lui mọi cuộc tấn kích đó. Tuy vậy, tiến
không được, thối cũng không xong. Chiến đoàn đã
bị bao vây kể từ ngày 23/5. Chiến sĩ chết phải
chôn tại chỗ, chiến sĩ bị thương không tản thương
được. Trong mấy ngày liền phải được tiếp tế
thực phẩm và đạn dược bằng thả dù. Trực thăng
cũng không đáp được. Hàng ngày chỉ có vài chục
phi xuất không yểm, oanh kích và thả bom là có
kết quả. Thiết đoàn 9 tiến trên trục QL–13, từ
Tân Khai lên Đức Vinh, theo sau Chiến đoàn, không bị
tấn công. Chiều ngày 23/5 Trung tá Cẩn quyết định
mở đường máu bằng Thiết quân vận của Thiết đoàn
này tản thương cả trăm thương binh về Tân Khai.
Thành công. Nhưng ngày hôm sau, 24/5 khi trở lên nơi
đóng quân của Chiến đoàn, qua khỏi ấp Đức Vinh,
Thiết đoàn bị một đơn vị cấp Tiểu đoàn và một
đơn vị chống tăng của TRĐ141 phục kích, tổn thất
nặng, hàng chục chiến sĩ hy sinh hàng chục mất
tích, gần 80 bị thương, 22 Thiết quân vận M–113 bị
B–40, B–41 và hoả tiễn AT–3 Sagger bắn hạ. Chiến
đoàn 15 phải đưa một đơn vị bộ yểm trợ và phối
hợp với Thiết đoàn 9 Kỵ binh mở đường trở về
căn cứ Long Phi, ở Tân Khai. Sau đó, đại bộ phận
chiến sĩ bộ binh của Chiến đoàn trụ lại địa
điểm đóng quân bên ngoài xã Thanh Bình, tổ chức
lại đơn vị. Toàn bộ chỉ còn gần 350 chiến sĩ
chiến đấu được. Ngày 25/5 Chiến đoàn này lại
đánh thốc lên An Lộc, nhưng không tiến lên nổi.
Không yểm VNCH và KLHK đã trở nên tối cần hơn bao
giờ.... Đã có hàng trăm phi xuất ngày đó và mấy
ngày tiếp theo.
Cánh quân thứ hai, Trung
đoàn 33 (–) của Trung tá Nguyễn Viết Cần lúc đó
bắt tay với Trung đoàn 31/SĐ21BB (không nhớ tên
Trung đoàn trưởng) –trước đã được đưa vào tăng
cường cho Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù trong vùng ấp Đức
Vinh– khi quân Dù rút quân, vẫn bám trụ trong
vùng này. Ngày hôm sau, Trung đoàn 33 tiến lên
hướng bắc, Trung đoàn 31 vẫn tiếp tục được lệnh
hoạt động trong địa bàn cũ vùng phía đông Đức
Vinh. Trung đoàn 33 vừa qua khỏi đông bắc ấp Đức
Vinh bị Trung đoàn 165/SĐ–7/CSBV chận đánh. Nỗ lực
đánh thốc lên phía bắc của cánh quân này ngày
31/5/1972, cũng không thành công. Tổn thất của
địch lớn bởi hỏa lực không yểm của KQVN và KLHK
nhất là là trực thăng võ trang Cobra HK rất nhanh
với các dàn đại liên bắn chính xác. Cánh quân
này của Trung tá Nguyễn Viết Cần tránh không khỏi
tổn thất, nhất là bị pháo kích, nhiều nhất vẫn
là các loại súng cối 61 ly, 82 ly và loại hỏa
tiễn 122 ly. Chiến sĩ bị thương đã lên đến hơn
200. Không ghi nhận rõ bao nhiêu chiến sĩ hy sinh
và mất tích.
Trong bốn năm ngày kế tiếp
cả hai cánh quân của hai ông Cẩn và Cần còn tiếp
tục chịu nhiều trận tấn công xung kích bộ và
chiến xa của hai Trung đoàn 141 và 165 của
SĐ–7/CSBV. Số binh sĩ thương vong của hai cánh quân
bạn càng nhiều hơn, nhưng vẫn không thể tản thương
được vì trực thăng không thể đáp xuống các vị
trí đóng quân dã ngoại của các cánh quân này.
Màn lưới phòng không của chúng dày đặc, nguy
hiểm nhất là loại hoả tiễn SA–7. Trực thăng không
thể đáp được. Chỉ có thể nhờ vào không yểm mà
thôi, kể cả những boxes B–52….
Vào những
giờ phút khó khăn, gay cấn nhất của hai cánh quân
“Giải tỏa An Lộc” nói trên thì đơn vị cứu tinh
tái xuất hiện ở chiến trường nam An Lộc này. Đó
là Tiểu đoàn 6 Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, do Trung tá
Nguyễn văn Đỉnh chỉ huy.
Nhớ lại, Trung tá
Nguyễn văn Đỉnh trong tháng 4/1972, đã chỉ huy Tiểu
đoàn 6 Nhảy Dù đổ quân vào tăng cường An Lộc,
chiếm hai cao điểm đông nam An Lộc, Đồi Gió và
Đồi 169. Khi đang đóng quân tại Srok Ton Cui gần đó
thì đêm 20/4 rạng ngày 21/4 cả ba địa điểm này
bị hai Trung đoàn 141 và 165 của SĐ–7/CSBV và Trung
đoàn 209 của SĐ–5/CS tràn ngập, ông phải chỉ huy
hai Đại đội đánh mở đường máu rút xuống ven Sông
Bé và được trực thăng đón về Lai Khê với hơn một
trăm chiến sĩ Dù. Ngày đó địch đã tấn công đơn
vị của ông với lực lượng 6/1 (2,400/400). Phải
đánh mở đường máu mà thôi. Sau hơn một tháng,
Tiểu đoàn của ông được bổ sung với quân số thặng
dư của Sư đoàn Nhảy Dù gồm các chiến sĩ Dù của
tất cả các đơn vị Dù khác bị thương trong nhiều
trận đánh, hồi phục sau thời gian trị bịnh
–trong đó có nhiều sĩ quan các cấp dày dạn
chiến trường– và một số tân binh tình nguyện,
thường là những thanh niên can đảm, nên khi tái
thành lập, Tiểu đoàn đã có khả năng tác chiến
như các đơn vị Dù khác. Trở lại chiến trường An
Lộc để tái sát nhập với Lữ đoàn 1 Nhảy Dù của
Đại tá Lê Quang Lưỡng. Tướng Minh giao trách nhiệm
cho Trung tá Đỉnh đánh giải vây cho hai cánh quân
của hai ông Cẩn và Cần, trước khi Tiểu đoàn Dù
này vào An Lộc. Nên khi vào trận địa, Trung tá
Đỉnh còn dẫn theo đơn vị của mình 300 quân bộ
binh bổ sung cho Chiến đoàn 15 của Trung tá Hồ
Ngọc Cẩn.
Ngày 4 tháng 6, 1972 TĐ6ND được
trực thăng vận đổ quân ở một bãi đáp cách căn
cứ pháo yểm Long Phi ở Tân Khai chừng 2km, hướng
đông bắc. Tiểu đoàn cặp theo hướng đông QL–13 tiến
lên hướng bắc, qua khỏi ấp Đức Vinh, bất thình
lình đánh thúc vào ngang hông của Trung đoàn
165/SĐ–7/CSBV lúc đó đang đối đầu với Trung đoàn
33 của Trung tá Nguyễn Viết Cần. Đơn vị địch tổn
thất nặng phải bỏ trận địa rút lên hướng bắc
vùng Đồi Gió và Đồi 169. Áp lực địch không còn,
các đơn vị của Trung tá Cần có thể dọn bãi đáp
cho trực thăng tản thương hơn hai trăm thương binh ra
khỏi trận địa và đơn vị tiếp tục vượt qua Đồn
điền cao su Xa Trạch vào ấp Đồng Phất 1, chừng
4km nam An Lộc. Ngày 6/6, đơn vị Dù của Trung tá
Đỉnh tiếp tục tiến qua hướng tây trục lộ, một
lần nữa đánh ngang hông Trung đoàn 141/SĐ–7/CSBV,
giải vây, bắt tay với Chiến đoàn 15 và giao 300
quân bổ sung cho Trung tá Cẩn. Đơn vị của ông Cẩn
cũng ngay sau đó cũng dọn bãi đáp cho trực thăng
tản thương gần 150 thương binh (Bản đồ # 8). TĐ6ND
là cứu tinh của hai cánh quân miền Tây này ở mặt
trận nam An Lộc. Đơn vị của Trung tá Cẩn đã khoẻ
hơn…. Người anh hùng, Trung tá Nguyễn văn Đỉnh, Tiểu
đoàn trưởng TĐ6ND, đã lập kỳ tích lớn lao đánh
những trận quyết định làm cho hai Trung đoàn 141
và 165 của SĐ–7/CSBV bị thiệt hại thật nặng
–gần như tan rã– báo được mối hận tháng trước
bị hai đơn vị cộng sản này đánh xé đôi đơn vị của
mình ở vùng Srok Ton Cui và Đồi Gió.
Ngày
8/6, hai đơn vị của hai ông Trung tá Dù và bộ binh
này thành hai mũi nhọn song song cùng tiến lên An
Lộc. Trong buổi sáng đó, khi TĐ6ND tiến đến phía
đông xã Thanh Bình, lại lần nữa chạm súng dữ
dội với một đơn vị của Trung đoàn 141, địch tháo
chạy, bỏ lại trận địa trên 70 xác chết và hơn 30
súng cộng đồng và cá nhân. TĐ6ND tổn thất 11
chiến sĩ hy sinh và hơn 50 bị thương. Sau đó Tiểu
đoàn này của Trung tá Đỉnh tiế́p tục tiến qua
đồn điền Xa Cam và bắt tay với TĐ8ND của Trung tá
Văn Bá Ninh. Trung đoàn 15 tiến theo sau và đóng
quân bên ngoài An Lộc với thiệt hại trên 150 chiến
sĩ hy sinh, gần 600 bị thương và trên 30 mất tích,
nhưng cũng đã hạ tại trận trên 300 cán binh, thu
hơn hàng trăm vũ khí cộng đồng và cá nhân, và
bắn cháy 2 chiến xa của quân CSBV từ khi đổ quân
vào Tân Khai và tiến lên An Lộc.
Trung đoàn
33 cũng đã tiến qua khỏi ấp Đồng Phất 1 và chạm
khá nặng với một đơn vị địch quãng giữa đường
khi tiến lên ấp Đồng Phất 2. Tiếc thay, khi đã
đẩy lui được mọi cuộc tấn công của địch quân và
vào đóng quân tại ấp này, đến ngày 29/6/72 Trung
tá Trung đoàn trưởng Nguyễn Viết Cần hy sinh trong
một đợt pháo kích của địch quân. Ông được truy
thăng Đại tá. Nếu ở miền Đông gia đình “Đỗ Cao...”
có hai người con hy sinh cho QLVNCH là Tướng Đỗ Cao
Trí, Tư lệnh QĐIII & V3CT và em ruột là Thiếu tá
Đỗ Cao Luận thì ở miền Tây gia đình “Nguyễn
Viết...” cũng có hai sĩ quan một cấp Tướng và
một cấp Tá hy sinh trên chiến trường làm rạng rỡ
dòng tộc là Tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư lệnh
QĐIV& V4CT và em ruột là Đại tá Nguyễn Viết Cần.
Còn bao nhiêu gia đình nữa có hai hoặc ba người
con hy sinh ở chiến địa cho miền Nam tự do?..
Thương cảm biết bao!
Từ ngày 8/6 khi sĩ quan
chỉ huy và chiến sĩ hai cánh quân TĐ6ND và Trung
đoàn 15 tay bắt mặt mừng với các chiến sĩ phòng
thủ An Lộc thì cục diện chiến trường này đã
hoàn toàn thay đổi. Trong thành phố An Lộc, Tướng
Lê văn Hưng ra lệnh cho các cánh quân phòng thủ
phản công đánh chiếm lại các khu vực ở các
tuyến đã bị quân CSBV chiếm trong các trận đánh
trước.
Tuyến hướng Tây, Trung đoàn 7/SĐ5BB
chiếm lại khu vực trại giam tỉnh ra cổng Phú Lố
và trọn con đường dài Hoàng Hoa Thám bọc quanh
phía tây thị xã. Tuyến phía bắc Liên đoàn 81/BCND
tái chiếm lại toàn bộ khu vực thương mại bắc
thành phố và Sân bay Đồng Long, Tuyến phía đông
Chiến đoàn 3/BĐQ chiếm trọn lại tuyến cũ trên
Đại Lộ Nguyễn Du, bung ra xa khỏi đường rầy xe
lửa đến cổng Quản Lợi. Đến quá trưa ngày 12/6
tàn quân của các đơn vị địch không kịp rút chạy
hay bỏ trốn đều bị hạ. Tuyến phía nam thị xã,
Lữ đoàn 1 Nhảy Dù vẫn giữ chặt chẽ từ lâu, sân
bay trực thăng tạm ở đầu xa lộ bắt đầu hoạt đông
lại từ đầu tháng 6, khi các cánh quân từ Tân Khai
tiến lên đang đánh nhau với các đơn vị địch (Bản
đồ # 7). Từ khi hai cánh quân của TĐ6ND và Trung
đoàn 15/SĐ9BB vào đến vòng đai An Lộc và bắt tay
với TĐ8ND, thì đã có rất nhiều loại trực thăng
chở quân đến, tải thương đi, khá đều đặn, tuy
nhiên thỉnh thoảng vẫn còn những quả pháo từ xa
rót vào. Điều đáng nêu lên là trong ngày 13/6
Trung tướng Nguyễn văn Minh ra lệnh cho SĐ18BB đưa
trước Trung đoàn 48 trực thuộc vào An Lộc và
đánh chiếm lại hai cao điểm đông nam thị xã là
Đồi Gió và Đồi 169 và trấn đóng trong khu vực
này.
Book marks: LGT | TSTG | KỲ–1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | KỲ–12 | PL | Đầu trang
KỲ–11
Tướng
LÊ VĂN HƯNG &
Những sự thực ở Chiến trường AN LỘC
trong Mùa Hè Đỏ
Lửa 1972; cont'd...
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Kỳ–11
Đến hết ngày này
coi như thành phố An Lộc, tỉnh lỵ của Tỉnh Bình
Long hoàn toàn được giải tỏa, Sài Gòn và Washington
không còn bận tâm lo lắng nhiều nữa. Hà Nội đã
vuột mất thành phố này, không như chúng từng
tuyên bố. Kế hoạch về quân sự và chính trị của
CSVN đã hoàn toàn thất bại.
Ngày kế tiếp,
14/6/1972, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu, gởi công
điện khen ngợi các Tướng Tư lệnh QĐIII & V3CT,
Tướng Tư lệnh SĐ5BB, Tướng Tư lệnh SĐ21BB và toàn
thể các đơn vị trưởng và chiến sĩ các cấp của
tất cả các đơn vị phòng thủ và khai thông QL–13.
Trên thực tế, con đường bộ từ Chơn Thành lên
đến Tân Khai đã không thể nối liền được. Trung
đoàn 32/SĐ21BB bị thiệt hại nặng ở khu vực chốt
chặn suối Tàu–Ô, phải đưa về SĐ25BB để bổ sung
và Sư đoàn này đưa Trung đoàn 46 trực thuộc vào
thay thế để tiếp tục “bứng” chốt ở đó. Ở đoạn
trên, các Trung đoàn 141 và 165 của SĐ–7/CSBV sau
mấy trận đánh với Chiến đoàn 15, Trung đoàn 33
và TĐ6ND trong tuần lễ trước, tuy bị tổn thất
nặng nề về vũ khí và nhân mạng, nhưng ngày 17/6
đã tập trung trong vùng ngoại vi Tân Khai, tổ chức
thành cả hàng chục địa điểm phòng không và pháo
với ý định dứt điểm căn cứ hóa lực Phi Long của
Chiến đoàn 15 ở Tân Khai. Tướng Nghi, Tư lệnh
SĐ21BB phải điều động Trung đoàn 31 từ ngoại vi
ấp Đức Vinh quay về, phối hợp với hai Tiểu đoàn
bộ binh và Thiết đoàn 9 Kỵ binh (–) trong căn cứ
để bảo vệ căn cứ hỏa lực này. Ngày 18/6 Lữ đoàn
1 Nhảy Dù của Đại tá Lê Quang Lưỡng được lệnh
xuất phát ra khỏi SĐ5BB rời chiến trường An Lộc,
di chuyển hành quân xuống Tân Khai và lập thêm
thành tích đánh một trận lớn nữa, hạ gần 600
quân của hai Trung đoàn nói trên của SĐ–7/CSBV –bỏ
xác tại trận– và tịch thu trên 70 súng đủ loại,
trong đó cả nhiều loại đại liên phòng không. Đó
là trận đánh lớn cuối cùng của mặt trận Binh
Long mà Lữ đoàn cứu tinh này đã thực hiện. Sau
đó tất cả các đơn vị Dù của Đại tá LQL được
trực thăng vận về Chơn Thành và trở về Sài Gòn
bổ sung rồi tăng viện cho QĐI & V1CT. Tàn quân của
các Trung đoàn CSBV rút về tăng cường chốt chặn
Tàu–Ô. Coi như SĐ–7/CSBV đã mất ba phần tư nhân lực
và phân nửa vũ khí ở chiến trường nam An Lộc và
trên QL–13 mặc dù chúng vẫn giữ chặt được chốt
chặn Tàu–Ô này trong khi các tướng chỉ huy của
chúng ở TWC/MN đã để thua một cuộc chiến lớn
nhất trong thời điểm đó.
Chiến thắng ở
Bình Long là điều khẳng định của các tướng
lãnh, các cấp chỉ huy đơn vị và chiến sĩ phòng
thủ và tiếp ứng An Lộc. Nhưng trên hết vẫn do
tinh thần “quyết tử” của những người giữ thành
từ ông tướng đến một chiến sĩ vô danh như một
nghĩa quân, một địa phương quân, một cảnh sát, hay
ngay cả một cư dân, một cậu bé nhỏ tên Đoàn văn
Bình từng xin Đại tá Trần văn Nhật súng để “bắn
xe tăng” địch, hoặc giả như một cô thơ ký hành
chánh tỉnh chạy giặc ẩn trú trong khu vực của
LĐ81/BCND đã viết hai câu đối ca ngợi chiến sĩ
của đơn vị thiện chiến này “An Lộc địa sử ghi
chiến tích. Biệt Kích Dù vị quốc vong thân.” Như
vậy cô thư ký này cũng đã tham dự vào chiến công
giữ vững An Lộc. Các tỉnh thành miền Đông, miền
Tây, ngay cả Sài Gòn bừng bừng tin chiến thắng,
đến chị em bán hàng trong Chợ Bến Thành và các
chợ búa khác ở Sài Gòn cũng biết “Tướng Hưng tử
thủ và chiến thắng An Lộc”. Hình như ít ai biết
“giữ được An Lộc, đánh được Tướng Trần văn Trà
là công lớn của vị Tướng cầm quân hữu tài, túc
trí, Nguyễn văn Minh, Tư lệnh QĐIII & V3CT”. Và
chính vì tiếng vọng xa của Hưng đã làm... hại
ông cộng thêm một sự kiện khác diễn ra vào những
ngày chót chiến thắng đã làm cho binh nghiệp của
ông không còn hanh thông như trước nữa. Tôi sẽ
nói... nhưng nên nói sao cho phải lẽ trước, sau.
Trước tiên là mấy ông tướng cầm quân TWC/MN
tức ấm ức, nhất là Tướng Trần văn Trà nổi danh,
vì biết sẽ thua ở An Lộc, nhưng vì Chiến dịch
mùa Hè năm 1972 đó của Bộ Chính Trị Đảng và
Quân Ủy Trung Ương quyết nghị và chỉ đạo chưa ngã
ngũ ở Vùng 1 và Vùng 2 Chiến Thuật, nên, cũng
giống như các võ sĩ thượng đài có tiếng, chẳng
lẽ... mới bị đấm một vài “cú” vào mặt ngã ngửa
mà không cọ quạy tay chân thì người ta tưởng là
chết gục rồi, nên mấy ảnh đành gượng dậy –từ
cuối tháng 5/1972 và tiếp theo từ trung tuần
tháng 6/1972– đánh qua Phước Long, đấm qua Xuyên
Mộc, Đất Đỏ tỉnh Phước Tuy, đấm xuống Đức Huê,
tỉnh Hậu Nghĩa và còn đánh càn xuống Cái Bè,
Cai Lậy tỉnh Định Tường, Mộc Hóa, tỉnh Kiến
Tường của Vùng 4 CT. Ở mấy nơi thuộc lãnh thổ
Vùng 3 Chiến Thuật thì Tướng Minh biết rồi và
đã có lực lượng trừ bị đánh trả. Còn sở dĩ
Tướng Trà cho đánh lan xuống Vùng 4 là vì, tuy
trong chiến dịch này ông ta là Tư lệnh Tiền phương
của BTL/TWC/MN, nhưng trước đó là Tư lệnh Mặt
Trận B–2, mà theo tổ chức của CSBV, gồm cả lãnh
thổ V3CT và V4CT của QLVNCH, nên lập kế hoạch
đánh khắp... nơi cho mặt trận nó rộng lớn. Đánh
thì đánh nhưng ở đâu thì mùa Hè năm đó ông Trần
văn Trà cũng thua thôi. Lý do là vì TWC/MN chỉ có
mấy đơn vị bộ chiến chủ lực, Sư đoàn 5, 7, 9 và
Sư đoàn mới thành lập C30B, còn một số đơn vị
địa phương cấp Trung đoàn hay Tiểu đoàn. Các đơn
vị địa phương CS không ai coi ra gì, chủ lực thì,
nói riêng trong mùa Hè đó, chỉ có SĐ–7/CSBV và Sư
đoàn 69 Pháo là các lò nướng rụt rịt qua lại
khá lâu tại chiến trường Binh Long–An Lộc chịu...
đốt, còn các đại đơn vị khác thì như những
chiếc lò nướng lớn, di chuyển loanh quanh đông tây
nam bắc, mà bao nhiêu lớp người “sinh Bắc, tử Nam”
đưa từ ngoài ấy vào đều chung vào các lò... đó
để nướng, hết lớp này đến lớp khác.... Chết thì
châm... thêm. Càng châm thì càng chết. Vậy mới
đúng nghĩa với câu “dĩ ngôn” rất ư là... thản
nhiên của các “lãnh tụ” Đảng CSVN khuyến dụ nhân
dân miền Bắc... ái quốc, “chống Mỹ cứu nước” và
“giải phóng nhân dân miền Nam” v.v. và v.v.
Kế tiếp là phải nói đến chiến thắng của quân
dân ở An Lộc chẳng những tạo niềm tin lớn lao
trong mọi tầng lớp trong quần chúng các tỉnh
miền Nam mà còn vang xa đến tận nhiều nơi trên
thế giới, những chiến lược gia lỗi lạc như Tướng
Moshi Dayan của Do Thái, đã đến Nam Việt Nam –như
nói ở trên– để tìm hiểu bằng cách nào mà quân
phòng thủ miền Nam trong một thành nhỏ này lại
có thể chiến thắng được đạo quân thiện chiến của
Võ Nguyên Giáp ở Điện Biên Phủ… nhất là Sir
Robert Thompson, nhà chiến lược nổi tiếng của Anh
Quốc –lúc đó đang là cố vấn đặc biệt cho TT
Nixon– cũng được Tướng Hollingsworth hướng dẫn
vào thị xã An Lộc trong ngày 15/6/1972 và được
Tướng Hưng đưa đi quan sát sự đổ nát gẩn như hoàn
toàn của thành phố và một số xác của các chiến
xa CSBV ở khắp các tuyến phòng thủ... đã vô cùng
ngạc nhiên về sức chiến đấu, lòng can đảm và sự
chịu đựng của chiến sĩ phòng thủ An Lộc. Ông cho
rằng chiến công của chiến sĩ An Lộc trong trận
chiến này lớn lao hơn ĐBP rất nhiều và tỏ ra khâm
phục các tướng, tá, các cấp chỉ huy và chiến
sĩ phòng thủ. Hình như chưa cỏ một nơi nào mà
sĩ quan và binh sĩ ôm vũ khi rượt bắn xe tăng và
hạ hầu hết bất cứ chiến xa nào đã vào thành
phố.... Tiếng vang chiến thắng An Lộc cũng đến
thủ đô các nước Nam Hàn, Đài Loan, Phi Luật Tân.
Nên BTTM/QLVNCH định thành lập một phái đoàn gồm
các chiến sĩ anh hùng ở mặt trận này thăm viếng
và thuyết trình “Trận An Lộc” ở Đài Bắc và Hán
Thành. Đây là việc làm tốt để biểu dương thành
tích của QLVNCH.
Ngày hôm sau, 16/6 Trung
tướng Nguyễn văn Minh mới vào thị sát và ủy lạo
chiến sĩ phòng thủ An Lộc. Ông được hoan nghinh
lắm và rất... lắm lắm bởi chiến sĩ Trung đoàn
8, nhất là của Đại tá Trung đoàn trưởng Mạch văn
Trường. Đêm đó ai nghe Đài Phát thanh QĐ sẽ được
nghe ông MVT nói là hằng ngày vị Tướng Tư lệnh
này đều bay trên nền trời An Lộc để trực tiếp
chỉ huy, khích lệ và khen ngợi, nâng cao tinh thần
chiến đấu... của chiến sĩ và còn cho thả dù...
thịt heo quay và bánh hỏi cho chiến sĩ phòng
thủ....
Ngày 18/6/1972, Trung tướng Nguyễn văn
Minh tuyên bố An Lộc đã được hoàn toàn giải tỏa.
Nhưng cũng ngay đêm đó, Tướng Hưng lại mang thêm
mối họa khác, và lần này lớn hơn mọi lần khác:
Trung tướng Minh gởi công điện lệnh cho Tướng Hưng
đưa ngay Đại tá Mạch văn Trường về trình diện
BTL/HQ/QĐIII & V3CT để chuẩn bị... mọi thứ –nhất
là các tài liệu cho các buối thuyết trình lớn–
về trận chiến An Lộc. Đại tá MVT được QĐIII & V3CT
chỉ định và đề nghị lên BTTM/QLVNCH làm Trưởng
phái đoàn “nhữnh anh hùng An Lộc”, sẽ mang chuông
sang đấm xứ người. Hình như không cần suy nghĩ
Tướng Hưng... từ chối. Ngày hôm sau chính đích
thân Trung tướng Minh gọi điện thoại cho Tướng Hưng.
Ông này xin Tướng Minh nên đề cử người khác vì Đại
tá MVT... không xứng đáng. Đây là lần đầu tiên
Tướng Hưng cãi lệnh Tướng Minh. Trong mấy ngày
liền cả Thiếu tướng Đào Duy Ân, Tư lệnh phó và Đại
tá Phan Huy Lương, Tham mưu trưởng HQ/QĐIII & V3CT đều
gọi điến thoại cho Tướng Hưng yêu cầu nên nghe lời
Trung tướng... nhưng Tướng Hưng đều từ chối. Đêm
sau, Tướng Ân cũng gọi điện thoại cho tôi, vì ông
mến tôi khi tôi làm việc ở Phòng 2/BTL/QĐIII & V3CT
và biết tôi thân với ông Hưng, bảo tôi nên khuyên
ông Hưng nên tuân theo lệnh của Trung tướng... Tư
lệnh đi. Tôi vào gặp Hưng lập lại lời của Tướng
Đào Duy Ân. Ông Hưng chỉ cười nói: –”Không, không
được! Tại sao Trung tướng không chỉ định Đại tá Vỹ,
Đại tá Lưỡng, hay Đại tá Nhật. Chỉ định Đại tá Nhật
là phải nhất, địa phương này của ông ta....” Chỉ
một câu này thôi, ông Hưng quay sang hỏi tôi chuyện
khác... “Dưỡng, nghĩ xem tụi nó còn quân không?’’
Tôi nói –”Không, tụi nó chỉ còn pháo!”
Mà
quả thật, sau khi các đơn vị phòng thủ phản công
tái chiếm lại hoàn toàn các khu vực bị chúng
chiếm và Liên đoàn 81/BCND cắm ngọn quốc kỳ lên
ngọn đồi thấp ở sân bay Đồng Long trưa ngày 12/6
đã không còn trận chạm súng nào nữa, các đơn vị
bộ chiến của TWC/MN đã rút ra khỏi mặt trận An
Lộc sau khi bị thiệt hại rất nặng... gấp hai
hoặc ba lần so với các đơn vị phòng thủ. Theo
ước tính của riêng tôi, số quân tổn thất chúng ở
các vòng đai phòng thủ An Lộc nhất là vùng
ngoại vi tiếp cận thành phố có thể lên đến 8,000
người đa số chết bởi KQVH và KLHK trong hàng
nghìn phi vụ không yểm: oanh kích, thả bom, kể cả
B–52 của KQ Chiến lược HK. Đó là chưa kể số
thương binh có thể lên đến gấp đôi hay gấp ba lần
số quân chết tại trận. Tổn thất của tất cả các
cánh quân của chúng trong chiến dịch mùa Hè năm
đó có thể lên đến hơn 20,000, hằng trăm chiến xa,
hàng trăm đại pháo và hàng vài nghìn vũ khí
cộng đồng và cá nhân khác trong chiến trận Tỉnh
Bình Long.
Lữ đoàn 1 Nhảy Dù rời An Lộc
trong hai ngày 16/6 và 17/6 xuống Tân Khai đánh
thắng trận cuối cùng ở đó, rồi về Sài Gòn. Ngày
24/6 Liên đoàn 81/BCND cũng trả về cho BTTM/QLVNCH.
Các tuyến phòng thủ giao lại cho SĐ5BB và các đơn
vị ĐPQ của Tiểu Khu, đã mỏng ra. Nhưng địch đâu
còn quân mà đánh nhau nữa. Các đại đơn vị của
chúng, bị thiệt hại nặng, rút sang đất Miên bổ
sung, rồi mở các mặt trận khác như nói ở trên.
Nhưng... pháo vẫn còn bắn vào thành phố nhiều
ngày nữa. Đó là các loại pháo kéo trên các xe,
thường xuyên di chuyển sau mỗi đợt bắn, nên khó
diệt. Mỗi ngày ít ra thì cũng còn vài chục
quả, muốn rớt vào đâu cũng mặc, cũng có người
chết. Ai mà... chết vào những giờ phút trận
chiến đã chỉ còn là nhúm lửa âm ỉ sắp tàn lụi
này thì... thật là tận số. Nên ông nào... đã
lạnh cẳng sẵn rồi, lúc này lại còn... ớn lạnh
hơn lúc trước nữa. Ra sớm khỏi An Lộc mà... làm
anh hùng sớm, hạng bậc nhất “đình huỳnh”, thì ai
mà chẳng muốn ra.... Người giỏi tính như ông MVT
sau khi được ăn “thịt quay bánh hỏi” dỏm xong thì
tính chuyện rút ra sớm thiệt thì quả thật là...
giỏi. Còn người chân chính như Tướng Hưng, không
chịu nổi chuyện dỏm chuyện thật mập mờ bất phân,
không biết đáp ứng... chỉ thị của thượng cấp
là... bất tuân thượng lệnh. Mà chuyện cãi lệnh
này có nhiều người biết nên ông Tư lệnh càng giận
hơn, giận dữ.... Thôi thì không thưởng được lúc
này thì thưởng lúc khác. Thôi thì chưa làm gì
được nhau lần đó thì để lần khác hạ vậy. Chưa
vội. Rồi cũng đến mà. Lật bật mấy tuần qua mau.
Ngày 7/7/1972, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu,
một vài Bộ trưởng, Đại tướng Cao văn Viên, Tổng
Tham mưu trưởng QLVNCH và Trung tướng Nguyễn văn Minh
Tư lệnh QĐIII & V3CT vào An Lộc ủy lạo và thăng
thưởng chiến sĩ phòng thủ. Tướng Hưng đã… ra
lệnh cho các đơn vị quanh vòng đai phòng thủ bung
ra xa hơn vì sợ bích kích pháo địch bắn gần hơn
là đại pháo bắn từ xa. Tổng thống và phái đoàn
đến bằng trực thăng và đáp ở bãi tạm nam xa lộ,
được Tướng Lê văn Hưng và Đại tá Trần văn Nhật đón
rước và mời vào cái villa phía trên hầm
BTL/HQ/SĐ5BB –cái villa và chiếc hầm chưa hề
trúng một quả đạn đại pháo nào trong hơn 70,000
quả đạn đại pháo CSBV dội vào thành phố từ
đúng ba tháng vừa qua.
Bên trong villa đã
chuẩn bị sẵn các bản đồ chờ TT hỏi để trình
nhưng TT đến không hỏi mà để tuyên dương công trạng
cho chiến sĩ “Bình Long Anh Dũng”, tuyên bố chiến
thắng An Lộc là chiến thắng vang dội thế giới:
“Bình Long là một tiêu biểu của quốc gia và là
một tiêu biểu quốc tế”, đại khái Tonton nói như
vậy và tuyên bố thêm là sẽ thăng cho mỗi chiến
[sĩ] An Lộc một cấp bậc cao hơn.... Lúc đó các
vị sĩ quan chỉ huy Nhảy Dù, BCND và BĐQ tăng phái
đã rời An Lộc rồi nên các vị đó và sĩ quan
chiến sĩ thuộc cấp sau đó đều được thăng cấp
(Đại tá Lê Quang Lưỡng thăng Chuẩn tướng và được bổ
nhậm làm Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù). Vậy nên Tonton
Thiệu gắn lon mới tượng trưng cho một số sĩ quan
của SĐ5BB và Tiểu Khu Bình Long. Chỉ thưởng một
ít huy chương cho mấy vị thôi.
Tướng Hưng
đứng đầu hàng được TT đọc lệnh thăng cấp Chuẩn
tướng thực thụ và được gắn Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc
Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương
Liễu. Đại tá Trần văn Nhật thăng Đại tá thực thụ
và được gắn Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm
ADBT với Nhành Dương Liễu. Đại tá Mạch văn Trường
thăng cấp Đại tá thực thụ, vừa đọc quyết định
xong... TT Thiệu định bước sang gắn cấp bậc mới
cho Trung tá Lý Đức Quân, Trung đoàn trưởng Trung
đoàn 7 đứng kế tiếp... bỗng thấy Trung tướng Minh
bước tới… vừa thưa trình vừa dúi vào tay TT một
cái huy chương vàng nhạt lẫn màu xanh đọt chuối,
có vòng vải quốc kỳ (để đeo vào cổ) tức là Đệ
Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương và một cuống huy
chương khác là Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương
Liễu... “Xin TT gắn cho Đại tá Trường Đệ Tam Đẳng
Bảo Quốc Huân Chương và...” TT Thiệu ngắt lời:
–”Ông Trường có Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương
chưa?” Trả lời: –”Dạ có... Tôi đã đề nghị rồi...
Sắp được!” TT Thiệu ngần ngừ… nhưng bước tới
tròng chiếc huy chương cao quí đó vào cổ cho MVT,
rồi gắn thêm cái ADBT với Nhành Dương Liễu lên
ngực ông này. Đẹp quá! Đẹp hết chỗ nào chê.… Sau
đó TT gắn lon Đại tá cho Trung tá Lý Đức Quân và
Trung tá Trịnh Đình Đăng, Trưởng phòng 3 Sư đoàn.
Kế tiếp gắn cấp bậc Trung tá cho tôi và Thiếu tá
Huỳnh văn Tâm, Trung đoàn phó Trung đoàn 8 –người
thực sự chỉ huy Trung đoàn này suốt trận An Lộc.
Thêm vài SQ, HSQ và BS nữa được mang cấp bậc mới.
Sau buổi lễ, TT và đoàn tùy tùng được Tướng
Hưng và các ông Đại tá hướng dẫn đi thăm viếng các
nơi khác trong thành phố An Lộc. TT Thiệu và phái
đoàn viếng An Lộc chừng hơn 2 tiếng đồng hồ mới
ra về. Không nghe tiếng pháo nào nổ quanh đâu đó
như mọi ngày trước. Âu là Tonton có chân mạng...
đế vương đó thôi. Sướng cũng nhiều mà khổ cũng
lắm. Nên sau này sang lưu vong ở Hoa Kỳ không nói
hay viết hồi ký về bất cứ điều gì. Im lặng là
vàng.
Trong lần thăng thưởng đó đã... thấy
rõ sự bất công: Đại tá hiện dịch thực thụ Lê
Nguyên Vỹ không thấy hiện diện trong lễ tưởng
thưởng này, không thấy thăng Chuẩn tướng, không biết
sau đó có được tặng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc huân
Chương hay không? Mãi đến gần hai năm sau khi Trung
tướng Phạm Quốc Thuần về làm Tư lệnh QĐIII & V3CT,
Đại tá LNV mới được đề bạt làm Tư lệnh SĐ5BB thay
thế Chuẩn tướng Trần Quốc Lịch. Một vị nữa,
người có công trạng nhiều nhất ở An Lộc là Đại
tá thực thụ Bùi Đức Điềm, như tôi đã nói, bị bỏ
quên như một gốc cổ thụ già ở đâu đó trong các
khu rừng Bình Long: không thăng cấp tướng, không
một chiếc huy chương... mãi cho đến khi mất miền
Nam.
Một sự kiện buồn đáng nêu lên là chỉ
mấy ngày sau khi TT Thiệu rời An Lộc, ngày
9/7/1972, Tướng Richard J. Tallman, Tư lệnh phó TRAC
(Third Region Assistance Command –Bộ Tư lệnh Viện
Trợ Vùng 3, Hoa Kỳ) cùng mấy sĩ quan tham mưu và
tùy viên của ông, bay trực thăng vào thăm An Lộc,
đáp xuống sân bay trực thăng Tiểu khu, bị pháo,
trái thứ nhất thoát, nhưng trái thứ hai trúng vào
giữa toán của ông đang chạy vào BCH/TK, ba sĩ quan
của TRAC chết liền tại chỗ, Tướng Tallman được
tản thương về Bệnh viện 3 Dã Chiến HK –3rd Field
Hospital Sài Gòn– mổ vết thương. Thương tích quá
nặng ca mổ không thành công, ông từ trần ngay khi
mổ, ngày đó. Trong chiến cuộc Bình Long, từ Lộc
Ninh, đến An Lộc và vùng chốt chặn Tàu Ô–Tân
Khai, có nhiều sĩ quan cố vấn HK của các đơn vị
hy sinh hay mất tích. Tôi không biết rõ là bao
nhiêu vị. Chúng tôi, những chiến sĩ của An
Lộc–Bình Long xin tri ân và chia buồn cùng gia
đình của các vị. Xin cám ơn tất cả các chiến
sĩ KLHK [Không Lực Hoa Kỳ] và các đơn vị khác đã
cứu giúp chúng tôi trong cuộc chiến này.
Ngày 11/7/1972, SĐ18BB do Đại tá Lê Minh Đảo, Tư lệnh
Sư đoàn chỉ huy, đổ quân bằng trực thăng vào An
Lộc thay thế SĐ5BB rút toàn bộ về căn cứ chính
Lai Khê. SĐ25BB được lệnh đến Chơn Thành thay thế
cho SĐ21BB ngày 15/7/1972 để tiếp tục giải tỏa
QL–13, bứng các chốt chặn từ suối Tàu–Ô lên Tân
Khai. Tính ra thì sự tổn thất của SĐ21BB của
Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi còn nặng hơn của SĐ5BB
nhưng công trạng rất lớn vì suốt ba tháng đã kềm
chế được SĐ–7/CSBV không để cho Sư đoàn này tiến
lên An Lộc hợp lực với các đại đơn vị CSBV dứt
điểm thành phố đó. Chúng chắc chắn bị thiệt
hại nặng hơn, số cán binh của chúng bị hạ không
dưới 7,000 người. Sau khi về miền Tây, Tướng Nghi
thăng thêm một sao và được bổ nhậm Tư lệnh QĐIV &
V4CT.
Tôi về Lai Khê với nỗi buồn ray rức.
Tôi thăng cấp Trung tá nhiệm chức đặc cách mặt
trận ngày 7/7/1972 sau hơn 5 năm mang cấp bậc Thiếu
tá từ 19/6/1967 –ba năm nhiệm chức, hai năm thực
thụ– đó là phần thưởng cuối cùng trong binh
nghiệp của tôi. Một năm sau mới được điểu chỉnh
Trung tá thực thụ. Nỗi buồn không rõ nguồn cơn.
Có thể vì tôi đã nhìn thấy lửa bỏng chiến
trường lần này mới thực sự là chiến tranh, chết
chóc, máu thịt đầm đìa bừa bãi ở trận địa và
những nấm mồ tập thể của người dân thường vô
tội. Tôi đã nhìn thấy sự chịu đựng của chiến
sĩ với những hình ảnh hy sinh cao cả và cả...
những hình ảnh bẩn thỉu nhất trong quân ngũ.
Vâng, QLVNCH bất khuất, tôi thương yêu quân đội
này như yêu chính bản thân tôi, hơn tất cả mọi
thứ khác trên đời. Và vì tình yêu đó, sau này
khi định cư tại Hoa Kỳ, tôi bỏ tất cả mọi thứ,
vào trường đi học hỏi lại, và mong mỏi làm cho
được cái công việc mà tôi gọi là “lật đất”,
thực ra là tìm tòi tài liệu để tìm hiểu sự
thực, để binh vực cho màu cờ sắc áo của chúng
tôi; tôi đã thực hiện sở nguyện viết lại cuộc
chiến đó bằng Anh ngữ –một quyển sách chỉ vài
trăm trang nhưng tạm gọi là đầy đủ– để trả lời
những người đã bôi biếm chúng tôi (xin xem mạng
Google để đọc một vài Chương của quyển sách “The
Tragedy of the Vietnam War”, McFarland, 2008 Van Nguyen
Duong và bài thơ “Lật Đất” đính kèm). Nhưng,
những “sự thực” thì một người muốn “lật đất”,
không thể giấu giếm mãi, đến ngày nay tôi phải
nói ra để mong đem lại sự phán đoán công bằng cho
cố nhân.
Hình như Tướng Hưng cũng mang vẻ
trầm tư hơn trong nét mặt của ông sau khi từ chiến
trường An Lộc trở về. Có lẽ ông đã thấm thía
hơn và suy nghĩ nhiều về câu nói “nhất tướng công
thành vạn cốt khô”. Ông có muốn như thế đâu. Phận
làm tướng, là cấp chỉ huy chiến sĩ đánh nhau ở
chiến trường, cái lẽ sống chết, thành bại, cũng
là... đương nhiên thôi. Đâu có cấp chỉ huy nào
muốn cho binh sĩ dưới quyền mình bị hy sinh quá
nhiều đâu! Tôi biết trường hợp mất quân... quá
lớn ở Lộc Ninh làm cho ông suy nghĩ nhiều nhất.
Có lẽ ông cũng mang thứ mặc cảm “đã phụ lòng
thầy”. Quả thực ông có phụ lòng Tướng Minh đâu!
Tướng Minh đã nâng đỡ ông từ cấp Trung úy lên cấp
Tướng, như ông từng nói với tôi. Ông rất muốn lấy
sự “sống chết” ở chiến trường để tạ ơn người
thầy đã đỡ đầu cho ông. Nhưng tôi cũng biết ông
Hưng đã từng tạo chiến công hãn mã... đem đến sự
thăng tiến binh nghiệp của chính ông và cả... cho
Tướng Minh nữa trong bao nhiêu năm trời. Còn quyết
định của ông ở chiến trường An Lộc, dù không hợp
với Tướng Minh, nhưng cũng cứu nguy được An Lộc
trong những giờ phút nguy ngập nhất. Tướng Minh
cũng đã đem hết tài năng của mình điều binh
khiển tướng mà cứu Tướng Hưng. Có lần, sau Trận
An Lộc, ông và tôi ăn cơm với nhau... trên một nhà
hàng khá thanh tịnh ở Sài Gòn, ông hỏi tôi:
–”Dưỡng có thích đọc sách triết hay không? Có
theo một tôn giáo nào hay hành xử theo một đạo lý
nào không?” Tôi trả lời: –”Không, tôi ghét triết
học, tôi không thích được thuyết giảng, tôi không
thích ai nói cho tôi nghe về “morale”. Tôi dốt.”
Hưng nói: –”Tôi cũng vậy. Nhưng có lắm điều làm
cho mình suy nghĩ về đạo lý ở đời... và về sự
sống chết...”
Tôi suy nghĩ và hiểu rằng ông
Hưng không hẳn chỉ là một tướng lãnh chỉ biết
đánh nhau. Ông ta có suy tư hơn là những kẻ có uy
quyền chỉ biết hưởng thụ, coi thường sinh mạng
chiến sĩ thuộc cấp. Ông hành xử theo lẽ phải, tôn
trọng lẽ phải.... Ông có một khối óc mẫn đạt,
sáng suốt với những ý nghĩ chính chắn trong
sạch và một trái tim đỏ thắm tình yêu chiến sĩ,
yêu mầu cờ sắc áo, và yêu nước cao cả. Chính
những người như ông mới dám cầm súng mà bắn vào
óc hay vào tim mình để tự hủy diệt những gì
tốt đẹp ở trong các thứ quí báu của con người
đó trước khi những kẻ khác muốn hủy diệt nó.
Tôi biết rõ ở An Lộc ông đã từng câm nín... để
nhận chịu sự bất công của bậc mà ông vẫn tôn
kính là thầy mà ông từng muốn đem sinh mạng để
đền đáp nghĩa ân. Sao người ta nỡ hủy diệt hay tạo
ảnh hưởng hủy diệt uy tín của một người cao
thượng và trung chính như vậy... hở? Mãi đến
ngày nay ông đã tuẫn tiết hơn ba mươi năm rồi mà
chiến dịch ngầm phá hoại uy tín ông vẫn còn ảnh
hưởng ở một số người, hiện sống ở hải ngoại,
kể cả những chiến hữu ngày xưa của ông. Trời ơi,
tôi hiểu ông và thương ông lắm! Tôi không tin rằng
có một người nào hiểu Hưng hơn tôi, kể cả những
người ông yêu thương nhất. Tôi thành thực xin lỗi
khi viết những dòng chữ này.
Tôi suy nghĩ...
hay chỉ vì một quyết định vô cùng ngay thẳng,
theo lẽ phải, từ chối không cho Đại tá MVT về Lai
Khê làm trưởng phái đoàn “Bình Long Anh Dũng” mà
Tướng Minh cho Hưng bị người ta cho là người “phản
thầy” hay sao? Hay đó chỉ là giọt nước làm tràn
miệng bát vì uy danh “tử thủ” của Tướng Hưng
trong trận An Lộc đã lan xa trong nước? Tiếng
“phản bội” cũng do chính Tướng Minh nói với tôi
trước mặt Đại tá MVT. Hiện nay ông MVT đang sống ở
California. Hai vị tướng đã thành người thiên cổ.
Tôi xin lập lại sự thực vì người sống vẫn còn
đó, như trách nhiệm của một người muốn “lật
đất”....
Chỉ chừng một tuần, sau khi từ An
Lộc về Lai Khê, được Tướng Minh cho người điện
thoại bảo tôi về Biên Hòa dùng cơm trưa với ông.
Tôi ngạc nhiên nhưng tuân lời, tôi không nhớ rõ
ngày, chỉ nhớ buổi trưa đó tôi đến tư dinh Tướng
Minh ở bờ sông Biên Hòa và được hướng dẫn lên
chiếc trailer của tư lệnh. Vào trailer thì thấy
Trung tướng đã có ở đó, bên cạnh chỉ có Đại tá
MVT. Tôi chào Trung tướng và được ngồi vào bàn
cơm. Suốt buổi cơm Tướng Minh nói cười vui vẻ với
ông MVT và tôi. Nhưng khi ông tướng ăn cơm xong, uống
cà phê, hút thuốc và nghiêm nghị hỏi tôi có biết
vì sao gọi tôi về ăn cơm trưa buổi đó: –”Dưỡng
từng làm việc với tôi, chắc biết tánh tôi. Tôi
rất ghét những người phản bội. Về nói với Hưng,
đừng phản thầy. Tôi đã từng cứu Hưng không chỉ
lần này ở An Lộc mà rất nhiều lần trước ở
SĐ21BB. Tôi đã từng tin tưởng Hưng và nâng Hưng từ
một Đại úy lên cấp tướng. Sao lại trở mặt với
tôi!” Tôi nghe xong, chết điếng trong lòng. Chỉ
ngồi im lặng. Ông MVT cũng không thốt một lời
nào.... Buổi cơm tàn, tôi lên trưc thăng trở về Lai
Khê. Suy nghĩ mãi, mấy ngày sau, tôi gặp Tướng
Hưng ở văn phòng của ông. Tôi lập lại từng lời
của Trung tướng cho ông Hưng nghe. Tướng Hưng chỉ
cười nhẹ. Một nụ cười gượng, buồn bã, nhưng
không nói gì. Từ đó về sau, trong ánh mắt, Tướng
Hưng nhìn tôi như nói lên sự thương mến tôi nhiều
hơn thời gian trước. Ông đã rõ lòng dạ tôi từ
ngày ở An Lộc, tôi từ chối không về Lai Khê, mà
ở lại cùng ông giúp ông đánh nhau với quân CSBV.
Ông có cho tôi một đặc ân nào đâu. Chỉ có tấm
lòng... chân thật với nhau. Không lâu sau đó, Tướng
Hưng được lệnh bàn giao SĐ5BB cho Đại tá Nhảy Dù
Trần Quốc Lịch, về Biên Hòa làm Phụ tá Hành quân
cho Tướng Minh. Và cũng... không lâu sau đó, tôi
nghe nhiều người châm biếm về đôi mắt “hay nheo”
của Tướng Hưng và bình luận rằng vì ở An Lộc
ông Hưng không hề rời hầm hành quân, ở mãi trong
bóng tối nên sợ ánh sáng mà... nheo mắt. Tôi đã
nói Hưng hay nheo mắt từ khi còn là SVSQ mà…. Hơn
thế nữa, người ta đem những điều đó mà ngầm
trình báo lên các giới chức lãnh đạo cao cấp....
Cao cấp nhất của Chính phủ và QLVNCH. Chê ông Hưng
thiếu khả năng nên thua lớn ở Lộc Ninh.... Khi ông
về Quân đoàn III & V3CT, tôi biết ông Hưng sẽ dừng
lại ở ngôi sao của ông....
Trước khi Đại tá
Trần Quốc Lịch về thay thế Tướng Lê văn Hưng, Đại
tá MVT được bổ nhậm chức Tỉnh trưởng kiêm Tiểu
khu trưởng Tỉnh Long Khánh. Tôi vẫn ở lại làm
việc với Đại tá TQL, ở chức vụ cũ. Còn các Đại
tá Lê Nguyên Vỹ và Bùi Đức Điềm thuyên chuyển về
đâu, tôi không nhớ. Phụ tá Hành quân QĐIII & V3CT
là chức vụ của Đại tá LNV khi ông... bắn xe tank ở
An Lộc và mỗi đêm nằm ngủ trên chiếc ghế bố dã
chiến trong hầm BTL/HQ cạnh anh Trịnh Đình Đăng và
tôi trong hơn ba tháng....
Một ngày khác, sau
buổi cơm ở trailer Biên Hòa với Trung tướng Minh và
Đại tá MVT, tôi tiếp một sĩ quan báo chí quân đội
tại Lai khê. Trung tá Nguyễn Đạt Thịnh, Trưởng
Phòng Báo Chí Cục Tâm Lý Chiến của Tổng cục
Chiến tranh Chính trị QLVNCH, lên Lai Khê vào Phòng
3 BTL/SĐ5BB hỏi Đại tá Trịnh Đình Đăng xin bản sao
Nhật ký Hành quân của Sư đoàn ở An Lộc để viết
Hồi ký... cho Tướng Minh. Ông Đăng chỉ cho Trung tá
NĐT sang gặp tôi, vì Phòng 3/HQ của ông có 6 sĩ
quan bị một hoả tiễn 122 ly rơi trúng khi đang ăn
cơm, tất cả đều… hy sinh, nên không ai ghi Nhật ký
Hành quân của Sư đoàn và giữ các tài liệu này,
mà chỉ có ông Đăng, tôi và hai ông Đại úy Dương
Tấn Triệu và Nguyễn Chí Cường của Phòng 2/BTL/HQ
của tôi ghi chép khá chi tiết (sau trận An Lộc,
đều thăng cấp Thiếu tá, vẫn làm việc với tôi) nên
toàn bộ tài liệu đó tôi đã cho đánh máy lại và
do tôi cất giữ lúc đó. Sơ sót của tài liệu là
không ghi phối trí của các đơn vị bạn ở An Lộc
và chi tiết về các phi xuất yểm trợ của KQVN và
KLHK vì hai ông này chỉ là nhân viên tình báo tác
chiến. Khi ông NĐT nói rõ mục đích xin bản sao
tài liệu nói trên, tôi từ chối và nóí vớí
Trung tá Nguyễn Đạt Thịnh một câu mà đến nay tôi
vẫn còn nhớ rõ ràng: –”Nếu anh Thịnh xin các
tài liệu này cho Phòng Báo Chí, Cục TLC, tôi xin
đưa ngay, nhưng nếu để viết Hổi ký... riêng cho
Trung tướng Tư lệnh... xin miễn chấp, tôi từ chối.”
Trung tá NĐT ra về không nói gì. Tôi biết làm như
vậy đường hoạn lộ của tôi sẽ bị tắt nghẽn,
không thăng tiến được nữa.
Sau đó vài ngày
tôi mang một bản sao tài liệu Nhật ký Hành quân
này về Khối Quân sử /BTTM định trao cho Đại tá Phạm
văn Sơn làm tài liệu nhưng hình như Đại tá PVS đã
không còn giữ chức vụ Trưởng Khối Quân sử nữa
hoặc đi đâu vắng. Tôi trao tài liệu cho một sĩ
quan cấp tá ở đó. Sau này tôi được biết phần sử
viết về trận chiến Bình Long–An Lộc là do Trung
tá Lê văn Dương, tân Trưởng Khối Quân Sử/P5/BTTM chủ
biên với các vị phụ tá, Thiếu tá Lê văn Bân và
Đại úy Tạ Chí Đại Trường. Thỉnh thoảng có
trích một đoạn trong bản Nhật ký Hành quân của
SĐ5BB do các Đại úy Triệu và Cường của Phòng
2/HQ ghi trong thời gian đang hành quân ở An Lộc.
Thời gian thấm thoát qua mau. Sau này, Trung tá
Nguyễn Đạt Thịnh và tôi cùng định cư ở thành
phố Honolulu, thỉnh thoảng gặp nhau chỉ cười chào
hỏi nhau, ít nói năng thù tạc. Hiện nay, tôi được
biết ông ở Texas, làm báo. Không biết ông NĐT có
nhớ chuyện cũ không? Không nhớ thì tốt hơn.
PHẦN KẾT: VỀ MIỀN TÂY, VÙNG ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
Tháng 8 hay 9, năm 1974,
tôi không nhớ rõ, Đại tá Lê Nguyên Vỹ được bổ nhậm
vào chức vụ Tư lệnh SĐ5BB thay thế Chuẩn tướng
Trần Quốc Lịch thuyên chuyển về làm Chánh Thanh
tra Quân đoàn IV & V4CT. Đại tá LNV có cơ hội này là
vì Trung tướng Phạm Quốc Thuần đã thay thế Trung
tướng Nguyễn văn Minh ở chức vụ Tư lệnh QĐIII &
V3CT. Tướng PQT trước là Tư lệnh SĐ5BB, khi đó ông
LNV là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8. Tôi biết đã
đến lúc nên xin trở lại Phòng 2/BTTM, vì từ đó
tôi thuyển chuyển ra SĐ22BB đầu năm 1969, rồi về
Phòng 2 BTL/QĐIII &V3CT và SĐ5BB. Đã hơn 5 năm rồi.
Gian truân cũng lắm, hứng đạn pháo cũng nhiều.
Tôi xin trở về Phòng 2/BTTM và được chấp thuận.
Đến cuối năm 1974, Phòng 2/BTTM nhận thấy tình
hình bất ổn càng ngày càng trầm trọng từ sau
ngày “Hiệp ước Đình Chiến Paris tháng Giêng–1973”,
được thi hành mà hầu hết các điều khoản đều cho
thấy rõ rệt thực chất của một bản hiệp... đầu
hàng này của Nixon và Kissinger trước CSBV mà hầu
hết các nhà chính trị hiểu biết thế giới đều
gọi như vậy... nên QLVNCH đã đánh giặc một mình
theo lối nhà nghèo như TT Nguyễn văn Thiệu nói.
Tình trạng càng ngày càng nguy cấp thêm và người
chiến sĩ miền Nam đã xả thân đánh giặc với vũ
khí, chiến cụ, trang bị cũ kỹ và số đạn dược
quá ít oi còn lại... ở tất cả các binh chủng
Hải, Lục, Không quân trong các Vùng Chiến Thuật.
Đại lược, với hiệp ước đầu hàng này, HK không
phải “rút ra khỏi Nam VN trong danh dự” mà mà
ngược lại vì... khi ký hiệp ước trên Kissinger
biết mình đã chịu thua Lê Đức Thọ của BV rồi.
Theo đó thì Hoa Kỳ phải rút toàn bộ quân tác
chiến ra khỏi Nam Việt Nam trong những ngày giờ
ấn định, kể cả toàn bộ cố vấn trong mọi cơ quan
và đơn vị của QLVNCH, chỉ để lại một số chuyên
viên kỹ thuật và nhân viên tòa Đại sứ và các
Lãnh sự quán. Bộ Tư lệnh Viên trợ MACV to lớn
giải thể, gom lại thành một tổ chức nhỏ gọi là
D.A.O., hay DAO (Defense Attaché Office hay là Phòng
Tùy Biên Quốc Phòng, do một tướng hai sao HK chỉ
huy phụ trách liên lạc và yểm trợ BTTM/QLVNCH).
Ở các Vùng Chiến Thuật các tổ chức viện
trợ và yểm trợ quân sự lớn trong hệ thống của
MACV như FRAC, SRAC, TRAC và DRAC (First Regional
Assistance Commmand, Second Regional Assistance Command,
Third Regional Assistance Command & Delta Regional
Assistance Command; HK gọi Vùng 4 CT là Vùng Đồng
bằng Sông Cửu Long) cũng giải thể. Mọi hoạt động
yểm trợ cũng gom về tòa Lãnh sự ở thủ phủ của
các Vùng Chiến Thuật.
Toàn thể đạo quân
rất lớn của CS Bắc Việt từ trước đánh phá trong
lãnh thổ miền Nam vẫn được Nixon–Kissinger chịu
để cho trú đóng các vùng chúng chiếm được ở
miền Nam; dĩ nhiên kể cả lãnh thổ Lào và
Kampuchia…. Chính thức, HK ước tính –cố ý hạn
chế đến mức thấp vừa phải để ép buộc TT Nguyễn
văn Thiệu của Nam VN chấp nhận ký hiệp ước– là
chừng 150,000 quân tác chiến CSBV ở lại miền Nam.
Nhưng trên thực tế phải trên 250,000 người vì
những đơn vị tác chiến, hậu cần và công binh ở
Lào, Miên đang hoạt động ráo riết trên đường mòn
Hồ Chí Minh, lúc đó đã trở thành Đại Lộ
Sullivan (xin xem “The Tragedy of the Vietnam War” để
biết rõ chi tiết về các việc đề cập trên và chi
tiết về Chiến Tranh VN trên các mặt chính trị,
quân sự, kinh tế và xã hội trước, trong và sau
khi chiến tranh kết thúc). Với hiệp ước đó, KLHK
đã chấm dứt mọi hoạt động trên hệ thống tiếp
vận khổng lồ này, kể cả không thám, không kích
bằng các loại bom CBU hay B–52. Do đó, chẳng những
CSBV tu bổ rộng lớn Đường Trường Sơn Tây bên kia
đãy dãy Trường Sơn trong lãnh thổ Lào và Miên,
mà chúng còn mở thêm con đường mới bằng cách mở
rộng QL–14 từ phía tây Cam Lộ, Quảng Trị vào tận
Đôn Luân, Tỉnh Phước Long... sau khi chúng đã đánh
chiếm xong tỉnh này trong tháng 1/1974. Chúng gọi
con đường mới kiến thiết này là Đường Trường Sơn
Đông. Trong khi chúng sử dụng hàng nghìn chuyến xe
Molotova đêm ngày vận chuyển tự do trên Đường
Trường Sơn Tây đưa hàng nghìn tấn vũ khí, quân
dụng và đạn dược vào miền Nam để chuẩn bị một
chiến dịch lớn nhất “giải phóng” toàn bộ miền
Nam thì Đường Trường Sơn Đông sau này dẫn đến
trận chiến Ban Mê Thuột, từ đó... TT Thiệu quyết
định bỏ Cao Nguyên miền Trung mà gây thảm họa cho
miền Nam sớm hơn là Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản
VN dự phóng. Nhưng thảm họa sẽ không thể có nếu
HK không thực sự muốn bỏ rơi Nam Việt Nam mà với
các điều khoản khác trong Hiệp ước Paris tháng
Giêng, 1973 cũng nói rõ ràng. Đó là các điều
khoản HK phải thu vét lại hệ thống mìn phong tỏa
Cảng Hải Phòng mà Hải Quân Hoa Kỳ đã thiết lập
phong tỏa Cảng này trong cuối năm 1972, theo lệnh TT
Nixon... cùng một lúc với lệnh không tập dữ dội…
Bắc Việt, bất kể Hà Nội, Hải Phòng và các
tuyến đường xe lửa vận chuyển vũ khí, thiết bị
chiến tranh nặng, của Trung Cộng tiếp tế cho quân
CSBV từ biên giới Trung Quốc vào Yên Bái và Việt
Trì... để trả đũa chiến dịch mùa Hè năm 1972
của CSBV tấn công miển Nam.
Điều khoản giải
tỏa Vịnh Bắc Việt và Cảng Hải Phòng có nghĩa
là chấp thuận để cho CSBV tái tiếp nhận hàng
trăm tấn trang thiết bị chiến tranh... tank, đại
bác, các loại vũ khí tối tân nhất và đạn dược
Liên xô, do hai hạm đội gồm 150 chiếc tàu vận tải
loại lớn từ hai quân cảng Odessy và Vladivostok
thay phiên nhau cập bến cảng Hải Phòng hàng
ngày... cũng như điều khoản “không được tái tấn
công quân sự vào Bắc Việt, Lào và Kampuchia bằng
bộ binh, không quân hay hải quân”... nên hai tuyến xe
lửa từ Trung Quốc sang Hà Nội càng hoạt động
liên tục hơn, không còn hạn chế tiếp vận thiết
bị chiến tranh của Cộng Sản Trung Quốc cho Bắc
Việt. CSBV tái tiếp nhận hàng trăm tấn vũ khí
đạn dược tiếp viện từ kẻ thù phương Bắc. Cùng
với việc tổng động viên thanh niên từ 16 tuổi trở
lên và với khối thiết bị chiến tranh khổng lồ
nhận được liên tục, Quân đội Nhân Dân CSBV trở
thành một quân đội mạnh vào hàng thứ tư thế
giới, chỉ sau hai nước Công Sản quan–thầy nói trên
và Hoa Kỳ. Trong khi đó thì QLVNCH chỉ… được một
điều khoản khác của Hiệp ước đó cho phép thay
thế “một đổi một”, nghĩa là HK sẽ thay thế một
một chiến xa, một khẩu đại bác hay các loại
súng khác hư không xài được... bằng một chiếc hay
một khẩu khác. Cho nên tại chiến trường chiến sĩ
QLVNCH đã chịu đựng trăm bề... bất lợi, thua
thiệt. Đạn đại bác lúc trước bắn không hạn chế,
sau Hiệp ước Paris–1973, một khẩu đại bác 155 ly
hay 105 ly chỉ được phép bắn 3 quả đạn mỗi ngày
và sau cùng chỉ 1 quả mỗi ngày…. Còn quân CSBV
thì sao? Chúng xài thả ga... vì các quan thầy
của chúng cho phép mà. Thêm nữa, và quan trọng
hơn là Viện trợ Quân sự cho QLVNCH đã bị HK cắt
giảm quá mức so với các năm trước. Chiến tranh
sau hiệp ước đầu hàng của Hoa Kỳ này càng gia
tăng dữ dội hơn ở Nam VN. Chúng sử dụng vũ khí
tối tân hơn, đại dược nhiều hơn và chiến sĩ của
chúng ta đã hy sinh nhiều hơn... nhất là ở vùng
hỏa tuyến và dọc theo biên giới VN với Lào, Miên.
Trước hoàn cành đó, nhất là sau khi quân CSBV
chiếm được Tỉnh Phước Long trong tháng 1/1/1974, vi
phạm trầm trọng Hiệp ước Paris–1/1973 và Hoa Kỳ
làm ngơ, mặc dù Chính phủ Ford đề nghị Quốc Hội
HK cấp cho QLVNCH ngân khoản viện trợ đặc biệt 300
triệu Mỹ Kim cũng bị... từ chối sau cả năm bàn
cãi. Các tháng cuối của năm 1974 CSBV định cắt
đôi Nam VN ở phía nam Đà Nẵng với việc đánh chiếm
các Quận Nông Sơn, Đức Dục và Thường Đức, Tỉnh
Quảng Nam, và định tiến ra đánh chiếm Hội An thì
bị chận đứng ở phía tây Quận Đại Lộc. Sư đoàn
Nhảy Dù của Tướng Lê Quang Lưỡng được Tướng Ngô
Quang Trưởng Tư lệnh QĐI & V1CT rút từ Quảng Trị
vào đã đánh nhau dữ dội với các Sư đoàn 304 và
308 CSBV ở vùng núi phía bắc Thường Đức, nhất
là ở vùng đồi 1062, từ tháng 8 đến tháng 12, năm
1974, mà Washington tiếp tục làm ngơ. TT Nguyễn văn
Thiệu và Chính phủ của ông biết rõ hơn HK đã bỏ
rơi miền Nam. Phòng 2/BTTM/QLVNCH cũng đã nhiều
lần báo cáo những âm mưu chiến lược của CSBV là
sẽ có trận Tổng Công Kích của quân CSVN trong mùa
Xuân năm 1975.... Hai sĩ quan cấp bậc Đại tá được
Đại tá Hoàng Ngọc Lung, Trưởng Phòng 2/ BTTM đưa
đến QĐI & V1CT và QĐII & V2CT đặt cạnh Phòng 2 BTL
của các vùng chiến thuật này, để làm sĩ quan
liên lạc. Riêng tôi, lúc ấy đang biệt phái cho một
đoàn tình báo thuộc Đơn vị 101, được đưa làm sĩ
quan liên lạc của Phòng 2 BTTM cạnh Phòng 2
BTL/QĐIV & V4CT. Nhiệm vụ của các sĩ quan liên lạc
Phòng 2/BTTM là giúp theo dõi và chuyển tin tức
chiến sự, địch tình, từ vùng này sang vùng khác,
từ địa phương về trung ương và ngược lại.
Lúc đó, Tướng Lê văn Hưng đã được Tướng Nguyễn
Khoa Nam đưa về làm Tư lệnh phó QĐIV & V4CT. Trước
đó, Tướng Hưng khi đang làm Phụ tá Hành quân cho
Tướng Nguyễn văn Minh ở QĐIII & V3CT khoảng tháng 7
hay 8/1972, Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được bổ nhậm
làm Tư lệnh QĐIV & V4CT (thay thế Trung tướng Ngô
Quang Trưởng ra Đà Nẵng nắm quyền Tư lệnh QĐI &
V1CT thế Trung tướng Hoàng Xuân Lãm để mở cuộc
phản công tái chiếm Quảng Trị sau trận Mùa Hè
năm đó) đã đề nghị đưa ông về làm Tư lệnh SĐ21BB.
Khi Tướng Nguyễn Khoa Nam về thế Tướng Nghi, đưa
Tướng Hưng lên Cần Thơ làm Tư lệnh phó, trở thành
nhân vật quân sự thứ nhì ở miền Tây, tức là cả
vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Trong âm thầm tôi
biết rằng Tướng Hưng được hai Tướng Nghi và Nam
hiểu tài, quí trọng, nhưng chiến dịch bôi biếm
ông ta trước đó, đã được đưa trình đến những cấp
lãnh đạo cao hơn cấp tư lệnh quân đoàn và vùng
chiến thuật từ lâu rồi....
Khi đến Cần Thơ
sau khi gặp Trưởng Phòng 2 BTL/QĐIV & V4CT tôi đến
văn phòng Tư lệnh phó, trình diện Tướng Hưng. Ông
bắt tay mừng rỡ và hỏi tôi xuống Cần Thơ làm
gì…. Tôi nói nhiệm vụ mới của tôi. Ông hỏi tôi...
ở đâu? Tôi trả lời: –”Xin nhờ anh lo cho...” Ông
nói: –”Đến ở nhà tôi.” Tôi chỉ có cái rương sắt
màu xanh từ thuở học trò, đựng mấy bộ quân
phục, thường phục và mấy quyển sách, thêm một
cặp vợt tennis. Từ cuối năm 1974, tôi ở trong tư
dinh của Tướng Hưng, Chị Hoàng phu nhân của Hưng
lại... đãi cơm cho tôi hằng ngày. Trên bàn cơm chỉ
có hai vợ chồng ông và tôi. Việc làm không có
gì, sáng chiều vào Phòng 2 gọi hotline về Phòng
2/BTTM/QLVNCH hỏi tin tức quan trọng ở các vùng
chiến thuật khác trình Tướng Hưng. Chiến sự có
gia tăng ở khắp nơi, nhưng nhiệm vụ của tôi chỉ
có vậy. Khi nào cần thiết lắm và nếu Tướng Hưng
muốn biết những tin tức quan trọng ban đêm, tôi
dùng hotline trong phòng hành quân ở tư dinh Tướng
Hưng hỏi Sài Gòn. Miền Tây tình hình yên ả hơn, nên
tôi vẫn có thì giờ đánh tennis đôi ba buổi chiều
trong tuần. Ngày Chúa Nhật thường xoa mạt chược
ở nhà ông chánh án Đỗ Nam Kỳ, mà tôi quen biết
được ở sân Tennis Ngọc Lợi. Ông chánh án Cần Thơ
người Bắc nhưng tên... Nam. Những ngày như vậy,
không ăn cơm, thì nhờ Trung úy Tùng hoặc Trung úy
Anh, các sĩ quan tùy viên của Tướng Hưng, thưa lại
với chị Hoàng. Ông bà Hưng có hai con, một trai
chừng 6 tuổi và một gái 2 tuổi, bà ngoại các
bé lo chăm sóc, phụ với Chị Hoàng.
Ông Hưng
để tôi hoàn toàn tự do. Ăn, ở, hay đi chơi đâu đó
mặc ý, không bao giờ hỏi. Khi nào buổi chiều ăn
cơm ở... nhà, trời sập tối sau khi cơm nước xong,
ông và tôi thường ra trước nhà, ngồi nhìn qua bên
kia đường là một công viên trống trơn hình tam
giác khá dài, mũi nhọn hướng về “bến bắc” Cần
Thơ. Những buổi đó thường nói chuyện chiến sự...
lẫn tình người. Những câu hỏi và câu trả lời đều
ngắn gọn như lối đối thoại giữa ông và tôi. Nhưng
mỗi câu đều có ý nghĩa nào đó, mang nhiều suy tư
vì thường không có những giải đáp rõ ràng. Thí
dụ như, hỏi: –”Sao tụi nó đánh Thường Đức, Đại
Lộc? Định cắt đôi miền Nam, cô lập Đà Nẵng hả?”
Trả lời: –”Không! Không hẳn! Nếu nó chiếm Hội An,
mình sẽ mất Đà Nẵng, Huế, Quảng Trị. Nếu Mỹ
nín... tụi nó đánh bứt luôn QL–19.” Hỏi: –”Rồi
sao?..” Trả lời: –”Đánh hết phía bắc Nha Trang,
đưa CPLTMNVN vào lãnh thổ chiếm được, lập...
nước... trái độn trung lập.” Tiếp: –”Nhưng Tướng
Lưỡng đánh tụi nó lui rồi...” Trả lời: –”Thì
thôi. Mai mốt đánh nữa! Nhưng không có ông Trưởng,
ông Lưỡng đánh giỏi, mình mất miền Trung thì...
đỡ cho miền Nam hơn!” Câu hỏi cuối: –”Sao vậy?...
Không có câu trả lời... Than: –”Mình không thiếu
người tài, anh hùng!..”
Tướng Hưng nói câu
này tất nhiên là ông thừa nhận tài dùng binh của
Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh QĐI & V1CT và Tướng
Lê Quang Lưỡng, Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù, đã cứu
nguy cho ông và giúp ông giữ An Lộc. Nhưng ông có
biết ông cũng là một trong những người tài, anh
hùng đó không?
Cũng tại tư dinh Tướng Hưng,
một buổi tối tôi gặp lại Đại tá Mạch văn Trường.
Tướng Hưng mời ông MVT ăn cơm tối, mừng ông này
vừa được bổ nhậm chức vụ Tư lệnh SĐ21BB. Từ khi
xuống Cần Thơ, tôi được biết nhiều hơn về ông này
vì... “tiếng tốt đồn xa... tiếng xấu... đồn xa.”
Người ta nói rằng Đại tá MVT, khi làm Tỉnh trưởng
Long Khánh, bị Giám Sát Viện điều tra về tội
tham nhũng và hối mại quyền thế, với đề nghị
ngưng chức, phạt trọng cấm, cấm chỉ huy trong 5
năm và giáng cấp. Trong khi chờ đợi ra Tòa án
Quân sự ông thuyên chuyển về làm Trưởng phòng
Thanh tra SĐ21BB. Bỗng nhiên, cả tướng tá vùng
Đồng bằng Sông Cửu Long kinh ngạc vì... lệnh từ
Sài Gòn xuống phong cho ông MVT làm Tư lệnh SĐ21BB,
qua mặt hàng chục Đại tá kỳ cựu, kể cả Đại tá
Nguyễn văn Kiểm đang là quyền Tư lệnh Sư đoàn này
và Đại tá Lâm Chánh Ngôn, Tham mưu trưởng, từng là
cấp chỉ huy trực tiếp của MVT. Người ta cũng nói
là ông MVT đã có... vấn đề với quan thầy cũ,
Tướng Nguyễn văn Minh, lúc đó đã về làm Tư lệnh
Quân Khu Thủ Đô thế cho Phó Đô đốc Chung Tấn Cang
trở lại làm Tư lệnh Hải Quân. Ông MVT đang có các
quan thầy mới nắm quyền hạn và vận mệnh quốc
gia và quân đội... nên đề nghị của Giám Sát Viện
đã bị vất vào sọt rác.
Đêm đó, ở tư dinh
Tướng Hưng, sau buổi cơm Ông Hưng đi nghỉ, ông MVT ở
lại cùng tôi chuyện trò ở cái băng ngồi trước
dinh ngó ra công viên mũi tàu, tôi chưa hỏi thì ông
MVT đã nói: –”Tôi biết khi ở trường học anh là
học trò giỏi nhưng vào quân đội anh trung thực
quá nên không tiến xa được. Phải có ông thầy, bà
cô.” Và ông tự động nói vì sao ông... chinh phục
được Tướng Minh lúc trước và các ông... tướng
cầm quyền lúc đó. Ông nói trong tử vi, thân và
mệnh của ông “không có sao chính, nhưng ba vì sao
mang chữ “không” đều đắc địa, sách nói là “thân
mệnh đồng cung vô chính diện” nhưng được cách
“đắc tam không” và vì vậy nên ông sẽ lên tướng
không bao lâu nữa. Quả thực chỉ mấy tuần sau ông
được phong tướng. Tôi khen ngợi ông là người có
chí lớn và thực hiện được mộng làm tướng mà
lúc trước, khi còn ở SĐ5BB, lúc nào ông cũng cầm
quyển sách “Học Làm Tướng” –không rõ tác giả–
trong tay mỗi khi tôi gặp ông. Tôi tin tưởng rằng
nếu chế độ Cộng Hòa miền Nam còn tồn tại, chỉ
vài năm sau ông MVT sẽ thăng đến cấp tướng hai ba
sao hay giữ chức vụ cao trong chính phủ và quân
đội –tổng trưởng hay tư lệnh quân đoàn, vùng
chiến thuật. Còn Tướng Hưng và cả Tướng Lưỡng
đã bị các sao lớn Tử Vi, Tham Lang và Phá Quân
án mất bóng rồi. Các ông đã bị “triệt” rồi...
Tướng Hưng không biết có biết hay không... nhưng
Tướng Lưỡng đã biết. Sau này định cư ở HK, khi ông
còn sinh tiền, tôi hân hạnh được điện đàm nhiều
lần với ông, một lần ông nói rõ vì sao lúc đó
ông bị bạc đãi và nghi ngờ... tuy vẫn được sử
dụng vì chưa... có người thay thế. Các tướng trẻ
lúc đó đang được tín cẩn là các ông Lân, Đảo,
Nhật, Vỹ và Trường.
Thời điểm đó là sau
khi quân CSBV vừa đánh chiếm Ban Mê Thuột, Tướng
Hưng và tôi mấy đêm liền bàn về việc tại sao
chúng tấn công Ban Mê Thuột và nghĩ rằng CSBV
thực hiện chủ trương mà tôi đã trình bày cùng
ông lần trước là chúng tấn công suốt dọc QL–19
từ Ban Mê Thuột xuống tận Ninh Hòa ra bờ duyên
hải và lập CPLTMNVN thành một quốc gia trái độn
từ phía bắc Nha Trang trở ra đến Bến Hải. Nhưng…
hông phải. Có thể là chúng làm chưa xong con
đường Trường Sơn Đông vì bị nghẽn ở Quận Đức
Lập, Tỉnh Quảng Đức, làm trở ngại cho việc việc
chuyển quân từ Khe Sanh vào Phước Long và Lộc Ninh
là vùng tập trung gần nhất để đánh thẳng vào
Sài Gòn… vì vậy chúng tấn công Ban Mê Thuột,
chiếm Tỉnh Quảng Đức như đã chiếm Tỉnh Phước
Long đầu năm 1974 –theo như ước tính của Đại tá
Trịnh Tiếu, Trưởng phòng 2 BTL/QĐII & V2CT. Tình
hình tiến triển quá nhanh làm cho tất cả mọi
người ngạc nhiên và bỡ ngỡ, vì những quyết định
của TT Nguyễn văn Thiệu, kể cả CSBV... vì chúng
dự trù sẽ giải phóng... được miền Nam ít nhất
là đến năm 1977, kể cả Hoa Kỳ... vì hình như chưa
đủ thời điểm... Kissinger dự trù mất miền Nam mà
Hoa Kỳ không mang tiếng phản bội bỏ rơi miền Nam
mà sau này một sĩ quan CIA từng làm việc ở Sài
Gòn, Frank Snepp, gọi là “decent interval”, khoảng
cách thích nghi. Gom lại là chuyện TT Thiệu ra
lệnh bỏ Vùng 2 Chiến Thuật và Vùng 1 Chiến
Thuật. Thôi thì về các quyết định này và hậu
quả ra sao ai cũng biết rồi, tưởng không nên nhắc
lại ở đây.
Từ ngày 20 tháng 4, 1975, Tướng
Hưng muốn cho tôi về Sài Gòn tìm hiểu thực rõ
ràng tình hình chính trị và quân sự sau khi
Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư lệnh BTL/HQ QĐIII & V3CT
và Tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 KQVN
bị... mất tích ở Sân bay Ninh Thuận và Tướng Lê
Minh Đảo đang đánh nhau dữ dội và chận đứng quân
CSBV ở Long Khánh. Nhưng đường bộ bị cả mấy Sư
đoàn của CSBV thuộc cánh quân 232 của Lê Đức Anh
mới thành lập cắt đứt ở vùng Tân Trụ, Tỉnh Long
An, từ mấy tuần trước, nên không về được. SĐ7BB
không thể giải tỏa được. Chờ cả tuần liền. Cuối
cùng, đêm 27/4/1975, sau buổi cơm tối, Tướng Hưng
cùng tôi ngồi trước nhà nói chuyện…. Sài Gòn đã
thay chủ, từ tay TT Thiệu sang Phó TT Trần văn
Hương và nghe đâu sẽ chuyển sang tay Đại tướng Dương
văn Minh... Ông nói ngày hôm sau, sau khi đi thăm mấy
đơn vị trở về, ông sẽ cho trực thăng chỉ huy của
ông đưa tôi về Sài Gòn. Ngay lúc đó ông chỉ thị
Trung úy Tùng, Sĩ quan Tùy viên, mang ra hai khẩu
tiểu liên Tiệp khắc do một đơn vị trưởng biếu ông
ở chiến trường An Lộc. Loại súng này khi xếp lại
nhỏ như khẩu súng lục, băng đạn 79 viên, bắn từng
loạt hay từng phát cũng được. Ông chỉ vào một
trong hai cây tiểu liên đó và nói: “Tặng Dưỡng
một cây, nếu tụi VC hôm nào xuất hiện ở công viên
trước nhà, tràn vào, nhớ bắn cho đến viên đạn
cuối cùng. Còn tôi, tôi sẽ chừa lại... bốn
viên...” Tôi hiểu ngay và cướp lời ông: –”Không! Anh
chỉ... có quyền chừa lại... một viên thôi...” Im
lặng. Không biết ông Trung úy Tùng có nghe hay
không....
Hôm sau, 28/4/1975 trực thăng của ông
chở tôi về Sài Gòn, đáp xuống sân cờ BTTM. Khi đó
hình như Đại tướng Dương văn Minh đang được bàn giao
vai trò lãnh đạo... lịch sử về sự sụp đổ miền
Nam.
Chỉ mấy ngày sau ngày 30/4/1975, tôi
nghe tin Tướng Lê văn Hưng đã tuẫn tiết. Hình như
không phải bằng cây tiểu liên Tiệp khắc…. Nhưng
bằng súng gì hay bằng cách nào thì cũng đã
thành Thần.
VĂN NGUYÊN DƯỠNG
Hạ Uy Di, ngày 20/4/2012
Book marks: LGT | TSTG | KỲ–1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | KỲ–12 | PL | Đầu trang
KỲ–12
Tướng
LÊ VĂN HƯNG &
Những sự thực ở Chiến trường AN LỘC
trong Mùa Hè Đỏ
Lửa 1972; cont'd...
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Kỳ–12
BẢN ĐỒ & HÌNH ẢNH
1. Bản đồ # 1: Sơ đồ
tổng quát Thị xã An Lộc.
2. Bản đồ # 2: Sơ
đồ phối trí lực lượng phòng thủ.
3. Ảnh #
3: Nghĩa trang Liên đoàn 81 BKD.
4. Bản đồ 4:
An Lộc sau khi CSBV tấn công đợt 1.
5. Ảnh #
5: Phòng 2 BTL/HQ/SĐ5BB bị một chiếc dù tiếp liệu
rớt sập nóc.
6. Bản đồ # 6: Sau khi CSBV
tấn công đợt 3.
7. Sơ đồ # 7: Các hướng
phản công của lực lượng phòng thủ ngày 8/6/1972.
8. Sơ đồ # 8: Toàn diện mặt trận Bình Long.
9. Sơ đồ # 9: Vị trí chiến xa CSBV bị hạ trong
An Lộc.
10. Ảnh số 10: TT Nguyễn văn Thiệu
viếng An Lộc ngày 7/7/1972.
11. Hai ảnh các
chiếc vòng An Lộc.
GHI CHÚ:
Bản đồ và ảnh tìm trong mấy tài lệu cũ lâu
rồi. Chụp sao lại đưa vào bài viết. Mong các nơi
nhận in ấn dựa vào tài liệu này vẽ lại các bản
đồ. Về ảnh, xin sưu tầm ở các nguồn tài liệu
khác.
*Bài thơ này dài, không nhớ tựa, chỉ
nhớ đoạn thơ dưới đây:
Ngọn đồi A–1 ấy
Nhìn vào ai chẳng thấy
Dáng anh em tôi nằm...
Nền của viện bảo tàng
Móng xây vào máu lửa,
Trong đoàn người tham quan
Bao nhiêu bà dóa bụa?
Book marks: LGT | TSTG | KỲ–1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | KỲ–12 | PL | Đầu trang
Phụ lục
Bức thư của cố
Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng – Nguyên Tư lệnh SĐND–QLVNCH
gửi Tác giả Nguyễn Văn Dưỡng, cựu
Trung tá ngành Quân Báo – Nguyên Trưởng P2 SĐ5BB–QLVNCH
|
Hình nền: An Lộc sau lũy tre xanh. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Đoàn Hữu Định chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, February 15, 2017
Cập nhật ngày Thứ Ba, March 19, 2019 –
Thêm thư Tướng LQL
Ban Kỹ Thuật Khóa
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang