Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Lịch sử Chiến tranh VN
Chủ đề: Tướng Lê Văn Hưng
Tác giả: James E Parker Jr.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Không chê người đáng khen
Không khen người đáng
chê
James E Parker Jr., tác giả
cuốn sách “Last Man Out – A
Personal Account of the Vietnam War”, là một
giới chức tình báo của CIA rời khỏi Việt Nam cuối cùng vào ngày 1
tháng 5 (1975) sau mười năm phục vụ, giai đoạn đầu với vai trò một
quân nhân, và giai đoạn sau trong ngành tình báo Hoa Kỳ. Trong cuộc
chiến tranh Việt Nam, tác giả tự hào là “I was among the first men
in and I was the last man out” và cuốn sách trên được Đô Đốc Elmo
Zumwalt, vị Tư Lệnh Hải Quân Hoa Kỳ trẻ tuổi nhất trong lịch sử hiện
đại, đánh giá là “sống động và thuyết phục.... Một bổ sung quan
trọng cho nền văn học kỷ nguyên Việt Nam.” Được biết thêm, Đô Đốc
Elmo Zumwalt trong thời kỳ cuộc chiến Việt Nam leo thang là chỉ huy
trưởng Chiến Dịch SEALORDS (Southeast Asia Lake Ocean River and
Delta Strategy) phát xuất từ Căn Cứ Năm Căn (Cà Mau). Và qua thời
“Việt Nam hóa Chiến tranh, “ông đề xuất và thi hành kế hoạch ACTO
(Accelerate Turnover to the Vietnam) nhằm chuyển giao và trang bị
quân cụ hải quân nhanh chóng cho Việt Nam (Theo “Tự Điển Chiến Tranh
Việt Nam” của Nguyễn Kỳ Phong).
Đặc biệt trong “Last Man Out” rải rác
trong nhiều chương, tác giả đề cập, qua ghi chép và nhận xét, đến
nhiều nhân vật quân sự tên tuổi mà ông có nhiều cơ hội và thời gian
làm việc chung, như Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Hồ
Ngọc Cẩn. Tác giả mô tả tướng Nguyễn Khoa Nam điềm đạm, làm việc mẫn
cán, chu toàn trọng trách tướng chỉ huy.... Tướng Trần Văn Hai thâm
trầm, khép kín, hút thuốc nhiều, và có vẻ ít nhiều định kiến với các
cố vấn, giới chức Mỹ. Nhưng vị tướng này có tài quân sự, đã cho tác
giả biết trước vào ngày 22 tháng 4 là Sài Gòn đã bị Cộng Sản bao vây
rồi sẽ “mất trong 7 ngày” sau đó, căn cứ theo sự thẩm định và ước
đoán tình hình quân sự và những biến chuyển chính trị rất xấu cho
miền Nam vào lúc bấy giờ. Tướng Hai nghiêm mặt, nâng cao ly cà phê
được đặt trong chiếc bình giữ ấm, mời tác giả cụng ly để cầu nguyện
cho những chiến sĩ đã hy sinh và chúc lành cho nhau.... Tác giả dành
cho Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn (trong sách in là Canh, có lẽ tác giả quên
cách viết chữ Cẩn) sự cảm mến nồng hậu. Trước khi làm tỉnh trưởng
Chương Thiện, Đại Tá Cẩn đã nổi tiếng với những chiến công, nhất là
những trận đánh giải vây cho An Lộc, và một phần bên mặt bị thương,
dù đã giải phẫu chỉnh hình vẫn còn để lại vết sẹo dài dọc theo hàm.
Tác giả nhận xét Đại Tá Cẩn là “lính của lính, can trường và thanh
liêm” (he was a soldier’s soldier, brave and incorruptible).
Riêng Tướng Lê Văn Hưng, tác giả James E.
Parker, Jr. ghi lại nhiều chi tiết hơn.
Trong suốt thời gian
về làm việc tại vùng châu thổ Cửu Long (Vùng 4), chủ yếu tại Cần Thơ
và các tỉnh lân cận, tác giả do vai trò “case officer” trong ngành
CIA nên luôn có dịp gặp Tướng Hưng. Ngày đầu tiên diện kiến ông
Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, tác giả “hơi lấy làm lạ” về cách
đánh giặc và điều quân của Tướng Hưng là “thủ nhiều hơn công” khi
đôi bên trao đổi và thảo luận, về kế hoạch quân sự trong vùng. “Tại
sao lại đánh một trận chiến đang thua?” tác giả thắc mắc thì tướng
Hưng cười và hỏi lại: “Tôi còn có những lựa chọn gì nữa đâu?” rồi
chậm rãi nói tiếp – “Đây là đất nước của tôi.”
Sau nhiều
tháng liên tục làm việc để lập mạng lưới tình báo tại vùng châu thổ,
tác giả ghi nhận tướng Hưng dành rất nhiều thời giờ cho việc trận
mạc: Sáng sớm thường đáp trực thăng đi thị sát và trao đổi với các
đơn vị trưởng địa phương. Trở về họp tổng kết tại Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn
và thỉnh thoảng họp khẩn về đêm. Càng về sau tác giả mới hiểu ra
thêm tổng quan (outlook) của một ông tướng Việt Nam trong cuộc chiến
giữa những người Việt Nam ngay trên quê hương của mình. Tướng Hưng
tin rằng sự chiến đấu thực sự cho vùng châu thổ đang diễn tiến ở
những nơi khác, có thể trong các cuộc họp hành ở Sài Gòn. Vả lại, là
một người theo đạo Phật, ông tin vào định mệnh, những gì xảy ra với
những hậu quả gì đem đến đều là sự an bài, xếp đặt trong vạn vật cả.
Tuy nhiên, tháng 2 năm 1975, theo đòi hỏi của cấp trên từ Cần
Thơ và Sài Gòn, Tướng Hưng đã phát lệnh tấn công một lực lượng quân
sự trọng yếu của Cộng Sản tại mạn đông của tỉnh Chương Thiện, nằm
trong một mật khu lâu đời thuộc rừng U Minh – Theo tác giả, đây là
chiến dịch động binh lớn nhất và khổ cực nhất của Tướng Hưng với
những điều kiện khó khăn và phương tiện hạn hẹp. Chỉ còn cách tấn
công địch theo lối “liệu cơm mà gắp mắm” thiếu hụt đủ thứ: phi vụ
không quân hạn chế nên không vận chuyển kịp thời các quân cụ, khí
giới nặng, điều động nhanh các đơn vị chiến đấu tấn kích thần tốc.
Quân đội Hoa Kỳ tuy để lại nhiều súng đại bác nhưng thiếu đạn, còn
nhiều mìn claymore nhưng không có đủ bộ phận khởi động (activators),
còn nhiều loại đạn dược, nhưng ngòi nổ đã tịt! Tuy vậy nhờ sự chỉ
huy tài giỏi, sự can trường và thiện chiến của quân lực Việt Nam
Cộng Hòa, lực lượng cộng sản Bắc Việt đã bị đẩy lùi sâu vào rừng
U-Minh khi kết thúc chiến dịch. Trận đánh lớn như vậy hẳn nhiên
chiến trường tàn cuộc phải tang tóc, sự chết chóc và thương tật cả
đôi bên phải nhiều. Tác giả ngậm ngùi ghi chép tâm trạng Tướng Hưng
trong hoàn cảnh tàn cuộc chiến đó: General Hưng was not sure if he
had, in fact, secured the net advantage. He had used much of his
limited resources. For what? He suffered extensive casualties. Tướng
Hưng không biết chắc là trong thực tế mình có thắng lợi thực sự hay
không. Ông ta gần như đã xả láng những gì còn có trong tay. Để cho
gì đây? Ông đã chịu đựng bao thứ tai ương.
Trong con người võ
tướng còn có một văn nhân. Tác giả đã sống với Tướng Hưng những buổi
chiều đằm thắm: hỏi thăm chuyện gia đình, bàn chuyện nước Mỹ, chuyện
thời sự, thảo luận văn chương. Kiến thức ông tướng uyên bác, nhiều
nhà văn và tác phẩm văn chương Mỹ ông đề cập phần tác giả còn chưa
đọc tới dù rằng là “mọt sách” đọc không dưới hai ba cuốn sách mỗi
tuần. Còn Tướng Hưng ưa kể chuyện lịch sử Việt Nam và Chiến tranh
Đông Dương. Ông ăn nói cân nhắc, từ tốn, luôn tươi cười, ngay cả
những khi tranh luận các vấn đề quan trọng. Tướng Hưng có được những
nét tự tin đặc biệt và quanh người ông như toát ra vẻ thanh thản,
trầm tĩnh. Tánh tình khả ái, rất dễ gây được cảm tình của mọi người
từ ông tướng đã thu phục “con tim” của một điệp viên Mỹ, tạo thành
tình bạn thân thiết giữa hai người.
Và tác giả đã dành riêng
phần lời bạt (Epilogue) để kể lại cái chết bi tráng, thương cảm của
tướng Lê Văn Hưng. Dưới đây là phần dịch của Lời Bạt.
Ngày 30
tháng 4 năm 1975, đúng lúc 7 giờ tối, Tướng Hưng, Cựu Tư Lệnh Sư
Đoàn 21 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cũng là người bạn của
tôi, đã nhắn gọi vợ ông đến văn phòng làm việc tại Cần Thơ. Tướng
Hưng cho vợ biết là có mười người dân địa phương đến thỉnh cầu ông
đừng chống trả với lực lượng Việt Cộng đang tiến quân vô thành phố.
Họ nói bọn Cộng Sản sẽ pháo kích nát Cần Thơ thành đống gạch vụn và
gây thương vong cho nhiều dân lành. Tướng Hưng nói với vợ rằng ông
hiểu rõ chuyện đó và đồng ý sẽ không để thành phố Cần Thơ biến thành
một bãi chiến trường tuyệt vọng. Ông cũng cho biết kế hoạch khẩn cấp
rút lui cùng một số thuộc hạ vào một mật khu xa xôi vùng châu thổ đã
hẹn trước, nơi sự sống khó tồn tại. Đầu hàng giặc không phải là một
giải pháp lựa chọn.
Tướng Hưng cũng không hề nghĩ tới việc
diện kiến và thảo luận với một quan chức Việt Cộng trách nhiệm trong
vùng, Thượng Tá Hoàng Văn Thạch, để bàn giao vùng Châu thổ Nam Bộ
cho Cộng Sản. Ông không bỏ nước để thoát thân. Ông có một
trách
nhiệm với những quân nhân đã dành mạng sống của họ ở lại vị trí trấn
thủ. Ông đã ở lại bằng một lựa chọn vinh dự. Ông phải tự quyết định
sinh mạng của mình.
Vợ của Tướng Hưng bật khóc và năn nỉ ông
hãy suy tính lại. “Tại sao mình không thể bỏ ra ngoại quốc giống như
những người khác?,” bà hỏi chồng. Tướng Hưng lập lại lần nữa với vợ
về trách nhiệm riêng đối với xứ sở và binh lính. Ông ôn tồn và chậm
rãi nối tiếp: “Mình đừng để anh bị mất lòng kiên định. Giờ đây cứ
đánh tiếp cũng chỉ đem lại rắc rối và mất mát không những cho gia
đình và bà con mình, mà còn cho binh lính và dân lành nữa. Và anh
không muốn thấy mặt thằng Cộng Sản nào hết.”
Rồi Tướng Hưng
đứng dậy, ôm vợ vào lòng, và rớt nước mắt. Sau cùng, ông nói cùng
vợ: “Lẹ lên đi mình, tới mời Má và dẫn các con vô đây gặp anh.” Khi
người Má vợ và các con bước vô văn phòng làm việc của ông rồi, Tướng
Hưng nói lời chia tay và cúi xuống hôn từng đứa con. Bên ngoài văn
phòng, nhiều sĩ quan và binh lính thuộc cấp lần lượt kéo tới, đứng
sắp hàng ngoài sân, chờ đợi lệnh.
Tướng Hưng tuyên bố việc
chiến đấu đã chấm dứt. Ông nói, nước đã mất là do lãnh đạo kém tại
Sài Gòn, và xin thuộc cấp tha thứ lỗi cho ông, nếu như cá nhân ông
đã có những lỗi lầm nào đó. Bầu không khí xung quanh nặng nề. “Tôi
xin chấp nhận cái chết. Vĩnh biệt các anh em,”Tướng Hưng dứt câu.
Tướng Hưng đưa tay lên chào và đưa tay bắt từng người một. Ông yêu
cầu mọi người ra về. Một vài quân nhân vẫn đứng tại chỗ không chịu
lui bước, nên tướng Hưng buộc lòng phải bước tới đẩy và giục họ về.
Rồi ông bảo vợ đừng có nài nỉ thêm điều gì nữa và chỉ một mình bước
vô văn phòng làm việc. Chỉ trong khoảnh khắc sau đó vang lên một
tiếng súng nổ. Tướng Hưng đã tự sát bằng súng. (Hết trích)
Sau phần Lời Bạt, và xếp cuối trang sách “Last Man Out” James E.
Parker Jr. đã chọn bài thơ của một chiến binh Mỹ ẩn danh (Làm tại
Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam, khoảng năm 1969). Từ và ý bài thơ
hoa mỹ, lãng mạn, và phảng phất siêu thoát, nhưng dứt bằng một câu
thơ đầy hào khí tang bồng hồ thỉ như khí tiết của những chiến sĩ,
hiệp khách Đông Phương:
Do
not stand by my grave and weep:
I am not there. I do not
sleep....
I am a thousand winds that blow
I am the diamond’s
glint on snow
I am the sunlight on ripened grain
I am the
gentle autumn’s rain
When you awake in the morning’s hush
I am
the swift uplifting rush
Of quiet birds in circle flight
Do
not stand by my grave and cry:
I am not there. I did not die.
Tạm dịch nghĩa:
Đừng đứng
bên mộ anh và nhỏ lệ:
Anh không ở trong mộ này. Anh không ngủ
đâu em.
Anh là ngàn ngọn gió thổi khắp phương trời
Anh là kim
cương lấp lánh trên tuyết lạnh
Anh là ánh nắng nhuộm vàng hạt lúa
chín
Anh là giọt mưa của trời thu êm ả
Khi em thức giấc lúc
ban mai thinh lặng
Anh là lực xua đàn chim vụt bay cao
Những
cánh chim lặng lẽ lượn những đường vòng
Đừng đứng bên mộ anh và
khóc lóc:
Anh không ở trong mộ này. Anh không chết đâu em.
Bài thơ không tựa và tác giả ẩn danh trên, tác giả James E.
Parker Jr. xếp liền ngay sau phần mô tả cái chết của Tướng Hưng để
xem như vòng hoa tang cho một ông tướng cốt cách hào hoa. Bởi vì
trong đời thường và trong quân ngũ, tướng Hưng vẫn không giấu được
ngay cả dưới lớp quân phục những nét nho nhã và dáng hào hoa của một
người đàn ông. Nhiều người nhận xét, Tướng Lê Văn Hưng “có tướng
quan văn hơn là võ tướng,” chẳng qua ông quan văn này phải khoác
chiến y, áo giáp đỡ đạn trong thời chiến và trên chiến trường mà
thôi! Tướng Hưng cũng có tiếng là “người chịu chơi,” nhất là thời
còn trai trẻ, sĩ quan còn mang lon cấp úy, cấp tá, nhiều phen “quậy
tới bến” sau chiến trận được về lại hậu cứ nghỉ ngơi. Ôi, đó là
những năm anh còn trẻ của một người trai thời ly loạn sống nay chết
mai. Thiết nghĩ không ai quá khắt khe đối với ông tướng.
Nhưng rồi ông tướng không mấy năm sau đó cũng có cơ hội, gặp thời
thế để trả nợ chí trai và làm đẹp non sông: Khí tiết Lê Văn Hưng đã
thăng hoa giữa chiến trường Bình Long và hoa anh hùng Lê Văn Hưng đã
nở đẹp tại phòng tuyến An Lộc. Và rồi hấp hối theo vận nước, phút
cuối Lê Tướng Quân đã chọn cái chết bi hùng để trở thành bất tử
trong lịch sử và quân sử Việt Nam.
Với dụng ý vinh danh và
tưởng niệm tướng Lê Văn Hưng, nơi trang cuối của tác phẩm “Last Man
Out,” tác giả James E Parker, Jr. chính vì vậy đã xếp bài thơ không
tựa, không tên tác giả với câu thơ chấm dứt:
I am not there.
I did not die.
Và sau chót, một câu lập ngôn được xem như
quân huấn của danh tướng Douglas MacArthur: “Duty, Honor, Country.”
http://www.viettribune.com/vt/index.php?id=4746
Do not
stand at my grave and weep is a poem written in 1932 by Mary
Elizabeth Frye
Do not stand
at my grave and weep,
I am not there; I do not sleep.
I am a
thousand winds that blow,
I am the diamond glints on snow,
I
am the sun on ripened grain,
I am the gentle autumn rain.
When
you awaken in the morning’s hush
I am the swift uplifting rush
Of quiet birds in circling flight.
I am the soft starlight at
night.
Do not stand at my grave and cry,
I am not there; I did
not die.
James E Parker Jr
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Tổ Quốc Ghi Ơn. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by Quỳnh Lan chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, February 15, 2017
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang