Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
lính tâm sự
Tác giả:
MĐ Trương Văn Út (Út Bạch Lan)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Thế
là tôi âm thầm giã từ đôi mắt đen láy “u uẩn chiều lung lạc” của
cô láng giềng người em gái nhỏ lên đường vào quân ngũ! Tôi nhập
trường Võ Bị Đà Lạt vào tháng 12 năm 1965. Tính đến nay (2014)
chỉ còn một năm nữa là một phần hai của thế kỷ. Năm mươi năm trôi
qua cũng khá dài so với đời của một con người. Chặng đường “Binh
Nghiệp” tuy không dài lắm đối với thiên lý tuế nguyệt và gió bụi
thời gian. Nhưng với tôi thân phận phàm nhân “bị” cuốn trôi lăn
ngập chìm trong biển lửa, máu, nước mắt, chiến tranh và hoài niệm
cảnh cũ, người xưa với “thương hải biến vi tang điền”... là định
mệnh ư? Chưa phải là thiên lý du du bỉ phương, nhưng có lẽ vừa đủ
để ký ức đong đầy những kỷ niệm mà nét thời gian hằng chuyển
chuyện nhật tân... lại chồng chất nhật... nhật tân... tưởng chừng
đôi lúc như đã lãng quên, bôi xoá nhạt nhòa đâu đó! Nhưng “nó”
vẫn còn lảng vảng quanh đây như hiện tiền chưa chịu phôi phai với
nhiên khứ lai hề, thiên thu giả mộng, mà mỗi khi nhắc đến thì dĩ
vãng lại hiện ra như một đoạn phim sống thực còn lưu trữ tận
trong tiềm thức của chính mình. Nửa đời oan nghiệt, lẫn lộn tiếc
nuối, chua xót cho thân phận của một thế hệ “Sinh Bất Phùng
Thời”! Hai năm trong Quân Trường, tám năm với Chiến Trường, ba
mươi chín năm đời “tù tội” và lưu vong xứ người... cảm cảnh:
“Quê Hương khuất bóng hoàng hôn,
Dậy lên khói sóng cho buồn lòng ai”!
Tổ Quốc là “tổ quốc” của người, Dân Tộc
là “dân tộc” của người, Tổ Tiên là “tiên tổ” cũng của người, đất
đai mồ mả lạ quắt, lạ quơ! Còn lại cho riêng trong tôi vẫn là
dòng sông ký ức một thời với Quân Trường và Chiến Trường.
– Quân Trường, nơi đó tôi có “đàn anh,
đàn em: Khoá 21 (K21), Khoá 22 (K22), Khoá 23 (K23) và các sĩ
quan Cán Bộ, sĩ quan Tham Mưu Hành Chánh được gọi là ‘Đồng Môn’
cùng đã đổ mồ hôi như nhau, cùng dìu dắt nhau trên ngưỡng của
binh nghiệp với biết bao nhiêu ân tình nghĩa lụy in hằn thành kỷ
niệm có mấy ai quên?!”
– Chiến Trường, nơi đó tôi có đồng đội
cùng đồng cam cộng khổ với máu và nước mắt qua những tháng năm
miệt mài khói lửa... mà sự sống và cái chết chỉ cách nhau một sợi
tóc, “cái” còn, “cái” mất như bọt nước chóng tan vỡ tưạ phù du.
Nhưng rất thực và siêu nhiên mỗi lần vuốt mắt cho bạn bè đồng đội
đã ngã xuống với vết đạn cày sâu ghim trong thân thể hãy còn chút
hơi ấm và đang lạnh dần, hồn thiêng như u uất vướng víu, lẩn quất
đâu đây rờn rợn dưới làn gió âm u thổi qua và đạn pháo của quân
thù đang nổ vang rền trên chiến địa!
Tháng 12 Năm 1967:
Tốt nghiệp K22 VBQGVN, tôi trình diện
Bộ Tư Lệnh LLĐB và được bổ nhiệm về TĐ81BCND cùng hai người bạn
cùng khóa. Hãnh diện sung sướng biết bao khi trình diện vị Tiểu
Đoàn Trưởng Lê Như Tú Thiếu tá K11 VBĐL, rồi được giới thiệu TĐP
Đại úy Nguyễn Quang Vinh K14, Đại úy Bình Ban Ba K17, Đại úy Táo
Ban Truyền Tin K20, Đại úy Hưởng Ban An Ninh K19, ĐĐT ĐĐ1 Trung
úy Thăng K20, ĐĐ6 Trung úy Tuấn K20, ĐĐ3 Trung úy Lâu K21... còn
nhiều nữa kể không hết. Tôi cảm thấy ấm lòng vì ngây thơ với ý
nghĩ ngộ nghĩnh: may quá, mình may mắn về tiểu đoàn khét tiếng
này vì “dân” Đà Lạt không hà, chắc mẩm thế nào cũng được bao che
và nâng đỡ! Nhưng tôi đã lầm to! Dù các Niên Trưởng có “phe đảng”
bao che cho mình như thế nào chăng nữa, thì có tài thánh cũng
không ngăn chận được súng đạn vô tình, và cho dù Niên Trưởng có
quyền thế cũng không nâng đỡ được nếu mình tỏ ra kém tài chỉ huy,
hèn nhát và khiếp nhược trước quân thù, nhất là trước mặt thuộc
cấp trong tình huống dầu sôi lửa bỏng! Chỉ có một tuần lễ sau,
ngay đêm giao thừa Tết Mậu Thân (1968), Thiếu tá Tú Tiểu Đoàn
Trưởng (K11) tử trận, Đại úy Tiểu Đoàn Phó Vinh (K14) bị thương
nặng không còn khả năng tác chiến và hai người bạn cùng khóa K22
của tôi phút chốc cũng đã bỏ bạn bè, đồng đội... hồn bay về nơi
đâu khi tiết Xuân thì hãy còn khoe sắc lụa mượt mà trên những đọt
chồi non mơn mởn và nụ mấy Mai vàng đang lung linh rung nhẹ trước
gió sớm đầu mùa! lại thêm một Đại Đội Trưởng bị tử thương và rồi
lại thêm Đại Đội Trưởng nữa bị thương mất một chân! Cũng may Đại
Đội Phó (ĐĐ3) là niên trưởng Nguyễn Đăng Lâu (K21) lên thay thế
chỉ huy, điều động tác chiến!
Thời gian chỉ có bốn tháng kể từ ngày
ra trường, tôi đã trải qua ba cuộc hành quân chớp nhoáng, cường
độ khốc liệt, đẫm máu tươi trên ba vùng chiến thuật II, I và III
với những cuộc hành quân: “Giải tỏa thị xã Nha Trang, Thung Lũng
A–shao, A–lưới, Giải tỏa Mặt trận Cây Quéo – Cây Thị...” thay đổi
bốn vị ĐĐT đến vị ĐĐT thứ năm là niên trưởng Nguyễn Văn Lân
(K17). Anh Lân (xin phép tôi gọi bằng Anh) từ trại Lực Lượng Đặc
Biệt biên phòng Plei–mơ–reng về đây, dáng người Anh cao dong
dỏng, gương mặt trẻ măng như sinh viên đại học dù nước da rám
nắng, ứng xử với ngôn ngữ nhã nhặn, dịu dàng, lịch sự với cả cấp
trên lẫn người dưới. Khi nhận bàn giao xong, Anh bảo tôi giới
thiệu đơn vị và quân nhân các cấp cho Anh, sau đó gọi tôi vào
phòng riêng căn dặn: “Út đã ở đơn vị này từ ngày ra trường cho
đến bây giờ, Út giúp cho Anh trông coi đơn vị, có gì trở ngại hay
cần những quyết định quan trọng báo cho Anh biết. Nếu đơn vị
dưỡng quân ở hậu cứ, ngày thường Anh tà tà rong chơi, Út cùng anh
em sinh hoạt như: huấn luyện, chiến tranh chính trị, bảo trì vũ
khí quân trang–quân dụng, chú trọng vấn đề lãnh đạo chỉ huy cho
các cấp trưởng, vào những ngày cuối tuần, Anh cho xả trại 100%,
riêng Anh thì Anh tự chính mình cấm trại 100%. Út có thể sử dụng
xe Jeep của Anh cùng các sĩ quan, binh sĩ đi chơi. Nhưng nhớ giữ
kỷ luật đừng đánh lộn đánh lạo làm mang tiếng xấu cho đơn vị”.
Nhưng rồi “tai nạn” xảy ra một vụ bắn lộn. Anh Lân nghe báo cáo,
vội phóng ra đồn Quân Cảnh Nha Trang thì lại gặp Ông Đồn Trưởng
là Đại úy Trương Văn Cao (K18) thế là mọi việc được “xử” êm xuôi
trong tình “Huynh Đệ Chi Binh” với vài lời khiển trách nhẹ nhàng
của hai Ông niên trưởng: “... mới ra trường chưa nứt mắt mà bắt
đầu làm trò khỉ rồi!”
Tiếp theo... đơn vị tham dự hai cuộc
hành quân xâm nhập Chiến Khu C, Chiến Khu Đ, giải tỏa núi Bà Đen,
núi Heo, núi Cậu... Anh Lân đã trao truyền cho tôi những kinh
nghiệm máu xương của chiến trường. Chính Anh là người đã khuôn
đúc những viên gạch vững chắc để tôi vững bước trên con đường
khói lửa chiến chinh sau này. Anh chỉ chỉ huy Đại Đội 3 Biệt Cách
Nhảy Dù (ĐĐ3BCND) chưa đầy một năm thì được chỉ định giữ chức vụ
Tiểu Đoàn Phó cho Thiếu tá Trần Phương Quế (K10). Sĩ quan khác
đổi về thay thế Anh, tôi vẫn là Đại Đội Phó ĐĐ3BCND. Ba tháng
sau, Anh gọi tôi lên Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn cười cười nói: “Chuẩn
bị tâm tư nhận lệnh phạt đó em”! Thì ra Anh Lân và các niên
trưởng khác đã hết lời thuyết phục TĐT bổ nhiệm tôi quyền
ĐĐT/ĐĐ5/BCND khi tôi vừa tròn 23 tuổi, một Đại Đội Trưởng “măng
non” miệng còn hôi sữa, chưa có “bề dầy” chiến trường so với các
Đại Đội Trưởng khác cùng đơn vị. Sau có vài tiếng thị phi phàn
nàn, dèm pha của một vài sĩ quan cấp trung úy thâm niên hơn tôi:
“phe đảng...!” Đảng gì đây? “Đảng Tự Thắng” để chỉ huy là châm
ngôn của “Dòng Trường Mẹ Võ Bị Đà Lạt”?!
Tháng 12 Năm 1969:
Đơn vị của tôi được cải danh là “Đại
Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù”, thống thuộc quản trị hành chánh của Lữ
Đoàn II Nhảy Dù. Sau hai tháng thụ huấn khóa viễn thám ở “lò Cừ”
Dục Mỹ, Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, một số hạ sĩ quan được gửi
đi học mật mã truyền tin, tình báo... thì lại bắt đầu tham dự
những cuộc hành quân cùng với các đơn vị khác. Phương thức và kỹ
thuật tác chiến của hai binh chủng có nhiều khác biệt. Bên 81
Biệt Cách Dù không bao giờ sử dụng pháo yểm mà hoàn toàn lệ thuộc
vào không yểm. Nhảy Dù thì phối hợp cả hai trong bất cứ điều kiện
cần thiết của chiến truờng. Tôi bỡ ngỡ bối rối vì là một đại đội
biệt lập, đơn vị trưởng phải phối hợp trực tiếp với Lữ Đoàn hoặc
Sư Đoàn và lo liệu mọi bề! May mắn thay, “lù khù có ông Cù độ
mạng”, Thiếu tá Trần Đăng Khôi (K16) Trưởng Ban Ba hành quân của
LĐIIND trạc trên dưới 30 tuổi, dáng người thanh nhã với ống bíp
[pipe] Havana trên tay, bụng hơi phệ, nếu nói khẳng khái thì mọi
điều hợp hành quân đều do Anh thiết kế... tôi tham dự chiến dịch
“Lùng và Diệt Địch” kế hoạch của Tướng Westmoreland và Tướng Đỗ
Cao Trí. Cuộc hành quân “Toàn Thắng” vùng Tây Ninh, Phước Long và
Campuchia. Tôi loạng quạng, lờ quờ ngu ngơ đến nỗi Anh Khôi phải
gọi vào trình diện riêng trong hầm hành quân của Lữ Đoàn (TOC)
moral với thái độ và giọng nói từ tốn, chậm rãi cố cho tôi hiểu:
“... báo cáo diễn tiến hành quân, báo cáo tổn thất, báo cáo tình
hình địch... Anh còn quá luộm thuộm, nhất là phối hợp Pháo binh
Nhảy Dù và Trực Thăng võ trang... Anh nên nhớ rằng có rất nhiều
cặp mắt đang nhìn vào anh và họ thèm rỏ dãi chỗ của anh. Điều
quan trọng nhất là chúng ta đang phối hợp hành quân với Sư Đoàn I
Không Kỵ Hoa Kỳ, chỉ một lời báo cáo của cố vấn Mỹ bên cạnh anh,
thì anh bị trả về đơn vị gốc của anh ngay!”
Tôi yên lặng thẫn thờ ngồi nghe! Anh
lại tiếp lời: “Thôi được, tôi nói sơ sơ rồi ngày mai anh bay với
tôi”! Hành Quân Phối Hợp GAP (Ground & Air Preparation) là kỹ
thuật dùng Pháo Binh và Air Strike cùng một lúc để dọn bãi đáp
(LZ) hay bãi bốc (PZ), điều phối hành quân sơ xuất hay không
chính xác là pháo binh bắn rớt phi cơ, hoặc phi cơ nã Rocket vào
đầu quân bộ chiến thì cả đám đi chỗ khác để “ngồi chơi xơi nước”
muôn đời lục quân Việt Nam! Anh còn sắp xếp thời giờ tôi gặp các
trưởng ban: Ban 4 Tiếp Liệu, Ban 1 Quản Trị quân số, Ban 2 Tình
Hình bạn–địch... để nắm vững dữ kiện trước khi lên C&C thả toán
viễn thám hay trung đội trinh sát. Như vậy trên những bước đường
chập chững của hai binh chủng BCD và ND tôi đã quá may mắn được
hai “Đàn Anh” đỡ đầu, hướng dẫn và bao che cho đến khi đủ lông,
đủ cánh! Nói lên lời “biết ơn” thì khách sáo quá, tôi chỉ xin hứa
cái đầu “mũ nồi Võ Bị” và hai cầu vai Green Beret và Red Hat là
cố gắng sống trọn tình nghĩa. Biết nói sao cho vừa?!
Năm 1972 – Đường Vào Binh Lửa:
Nhắc đến 1972 là phải nói đến “Mùa Hè
Đỏ Lửa” đã có “nhà văn Quân Đội” Phan Nhật Nam (K18), Niên Trưởng
Đoàn Phương Hải (K19), Niên Trưởng Huỳnh Văn Phú (K19) viết quá
nhiều rồi, lại còn thêm hằng vạn trang sách báo viết về “Chiến
Trận Mùa Hè” bằng máu, nước mắt và thân xác của đồng đội thuộc
tất cả Quân Binh Chủng đã ngã xuống và biết bao nhiêu đồng bào
trong chiến nạn đã may mắn sống xót, lê lết tấm thân thương tật
trở về xóm làng điêu tàn tan hoang nhà cửa, ruộng vườn xơ xác...
sau cuộc hành quân giải toả, nên tôi chỉ gói ghém ngắn gọn những
gì còn nhớ như một có “Lễ” là đầu của giềng mối Nhân Luân trong
đó “nói” nên lời tình tự với Võ Bị Đà Lạt và những “Chiến Binh
Kiệt Xuất” đã không hổ danh Tự Thắng Để Chỉ Huy thiện xảo phát
huy hết tất cả tài năng ứng chiến và quyền biến trên khắp mặt
trận khốc liệt nhất ở giai đoạn Mùa Hè 1972, tiêu biểu như chỉ
một An Lộc thôi đã:
An Lộc quê hương của loài nai
Xanh xanh rừng cao su chạy dài.
Thấp
thoáng trên đường quê đất đỏ
Em nhỏ tung
tăng chân bước đến trường làng.
Chị duyên dáng áo vàng khoe nắng sớm
Mẹ hiền từ quảy gánh buổi chợ đông
Năm
Bảy Hai, mùa Hạ chí trời trong
Bắc quân
đến: Công Trường Năm, Bảy, Chín...
Điện Biên, Sao Vàng, Tank, Pháo, Bình
Long...
Hơn năm vạn quân vây kín trùng
trùng...
An Lộc thoi thóp dưới mãn thiên
mưa pháo!
Dân kinh hãi tìm đường lánh
nạn!
Bỏ làng
vượt lửa ngục trần gian!
Giặc điên cuồng
nã pháo bắn tan hoang
Thị xã thân yêu
tan tác thảm sầu!
Em nhỏ tan xác vở học
trò đẫm máu!
Cô giáo trẻ với tình yêu phấn, bảng
Xác
nơi nào hàng phượng trổ đầy hoa?
Màu của
hoa hay máu thắm chan hoà?
Đêm mưa gió
nghe oan hồn ê... a... trong lớp học!
Tiểu Đoàn Sáu Dù vỡ, vòng vây xiết chặt
Đồi Gió tan tành tràn ngập bóng Bắc Quân
Đỉnh Charlie ôm xác người Anh Hào
Nguyễn
Đình Bảo hy sinh đền nợ nước!
Liên Đội Hổ Xám lao vào trận địa
Cứu dân lành trước họng súng Bắc quân
Giặc bạo tàn bắn giết tấn công
Máu các
Anh đổ đất Bình Long thêm đỏ!
Hoàng hôn xuống nắng tà vương mộ chí
Thiếu nữ u buồn nhỏ lệ đề Thi
Lời Thơ
lòng cảm kích chân thành
Trong chiến
trận tình Quân Dân thắm thiết!
“An Lộc địa sử ghi chiến tích,
Biệt Kích Dù vị quốc vong thân”!
Giặc
pháo hậu xung biển người lớp lớp
Quyết
tràn qua tàn sát Quân Dân Ta.
Đại tá Vỹ bắn hạ chiến xa tại tuyến đầu
Quân phòng thủ vượt hào diệt Tank lẫm liệt!
Lửa cháy rực bốn phương trời An Lộc
Bóng
tử thần thấp thoáng điểm oan hồn
Nghe tiếng pháo đưa người qua cõi chết!
Những phi tuần đánh bom thiêu đốt xác
Hoả pháo thổi tung địa đạo chiến hào
Vòng đai phòng thủ đạn xới cày vỡ đất
Ánh sáng hoả châu soi leo lét ngoài
biên
Như nến lung linh đưa tiễn những
linh hồn
Sinh đất Bắc vào Nam tìm huyệt
mộ!
An Lộc du du Thiên bất dung quỷ dữ
Quân Dân khôi khôi chiến đấu phi
thường!
Tướng Hưng điều quân tử thủ kiên
cường
Địch bỏ lại chiến trường xác Tank
cháy nám
Tháng Sáu mưa đầu mùa rơi rớt.
Hàng mộ hôm qua đã lợp cỏ non
Xác người nằm, hồn vẫn sắt son
Giữ vững
An Lộc địa danh vào Lịch Sử.
Đỉnh, Tiểu
Đoàn Sáu Dù lướt qua An Lộc
Biệt Kích Dù chiếm lại Đồng Long
Tiều Đoàn Tám Dù, Biệt Động Quân phản công
Chiến Đoàn càn quét giải vây An Lộc
Tháng Tám rừng cao su sang Thu thay lá
Đất đỏ, mưa phùn thị xã vẫn còn đây
Lời thơ ngây em bé nói: “Mai này...
Khôn
lớn con sẽ oai hùng như An Lộc!”.
(Hoàng Minh Uyên)
Sau chiến thắng có những vinh quang cho
những Huynh–Đệ được tưởng thưởng vinh thăng thì cũng có những đau
thương như xé rách tâm hồn vì những Anh Em vừa xanh cỏ để tôi
“ta” được đỏ ngực!
Tháng 3/1972, đơn vị ĐĐ2TSND được triệt
xuất khỏi đồn điền Memot trở về hậu cứ Long Bình chờ lệnh. Hai
ngày sau lên C130 trực chỉ Kontum. Xuống phi trường “tái ngộ”
ngay với NT Lân, Anh đang giữ chức vụ Lữ Đoàn Phó LĐ81BCD vừa
được triệt xuất ra khỏi vùng Tam Biên. Anh kéo tôi ra nói vội
vàng vài ba câu trước khi lên C130 về Sài Gòn: “Út! Em phải hết
sức thận trọng nhớ và áp dụng kỹ thuật tác chiến của Biệt Cách Dù
để tránh tổn thất. Sư Đoàn Thép 320 của chúng nó đã áp sát Kontum
với trọng pháo 130 và tăng T54 nữa đó!”
Hai ngày sau cả tôi dẫn cả Đại Đội lên
trực thăng vận ngay trên đỉnh 1049 (Căn Cứ Delta) cách hơn 10km
về hướng tây Căn Cứ Võ Định BCH/LĐIIND thì bị Việt cộng “phục
kích độn thổ” ngay tức khắc! “Hand by hand”, Đại úy Budard hét
lên trong máy báo cáo với cấp chỉ huy của hắn trong tiếng súng nổ
vang trời! Tôi lại nghe trong máy của tôi tiếng của Thiếu tá
Nguyễn Văn Thành tự “Thành Râu” (K19) phụ tá hành quân của Lữ
Đoàn từ chiếc trực thăng C&C do Đại úy Phạm Công Cẩn (K21) Trung
Tâm Hành Quân Phi Đoàn 229, Thiếu tá Lê Văn Bút (K16) Phi Đoàn
Trưởng) đang vần vũ trên không phận vùng đồi delta:
– Út Bạch Lan, cho tôi biết cái gì đang
xảy ra?
– Đích
thân chờ một chút, tôi bị phục kích độn thổ!
Lại có tiếng réo của NT Nguyễn Trọng
Nhi (K20) Trưởng Ban 3 Lữ Đoàn:
– Út Bạch Lan, báo cáo tình hình ngay,
207 đang ngồi đây chờ (207 là Đại tá Trần Quốc Lịch LĐT/LĐIIND)!
Tôi “ne pas”! Để mặc cho họ chờ, thì
chờ...?! Tôi làm gì có thì giờ để báo với cáo, tay đâu còn mà ôm
hai ba cái ống liên hợp để “tường trình” cung cách quí phái thưa
bẩm với trình “Đích Thân” như hồi còn làm “học sinh” trong Trường
Võ Bị “Royal...?!” Tại “hiện trường” tôi và mấy ông Tây (cố vấn
Mỹ) đang cận chiến “face to face” vật lộn với “vi xi” tưng bừng
banh xác pháo, chúng tôi ném lựu đạn xuống hầm đếm 1–2–3... chưa
tới 6 thì chúng quăng ngược trở lên, thầy trò “hồi bộ” bò lăn bò
càng te tua! Mọi người sốt ruột lo lắng cho tôi, nhất là NT Thành
Râu trên trực thăng C&C 24/24, NT Nhi cứ năm ba phút rống lên hỏi
ra sao rồi, NT Cẩn thì hét to trong máy:
– UBL qua tần số UHF, tôi sẽ cho biết
tình hình chung quanh của UBL. UBL đang bị bao vây rồi đó, chúng
nó đông như kiến, nói với Tây (CV Mỹ) xin khẩn cấp Trực Thăng Võ
Trang (Cobra) trang bị M79, ngồi với tôi có NT Thành, ở dưới đất
có NT Nhi lo Pháo rồi. Nghe rõ không?
Trước áp lực nặng nề của địch quân càng
lúc càng thậm chí nguy! Nhưng tôi vẫn cảm thấy yên tâm vì trên
trời dưới đất lúc nào cũng có những “Ông thần hộ mạng” là những
Niên Trưởng đã một thời là “Hung Thần” hét ra lửa, mửa ra khói
của những Sinh Viên Sĩ Quan khóa đàn anh trong trường mẹ, đã thị
uy dũng truyền thống phạt chúng tôi khoá đàn em tơi tả như cái
mền rách bươm! Nay đang trên trời ban ngày thì “Thành Râu19” với
“Công Cẩn21”, ban đêm thì “Thẩm Quyền Bút16”, dưới đất thì “Trọng
Nhi20” sáng trưa chiều tối thường trực “on” trên tần số, kề bên
có NT “Ngọc Ngà19” TĐP TĐ2ND, Lê Thơm (K22) ngày đêm ghìm súng
chờ “giặc từ ngoài Bắc... dzô đây... dzô đây... bàn tay vấy máu
đồng bào...”!
Hai ngày sau CCDelta tạm lắng dịu vì có phi pháo yểm trợ, tôi tạm
được một chút nghỉ “dưỡng quân”, ngậm điếu thuốc, hớp một hớp cà
phê, tôi chợt nhớ đến NT Khôi giờ này TĐ7ND của Anh đang trên
đường vào vùng chiến địa cùng với TĐ11ND. Nhớ đến NT Khôi vì hôm
nay bom, đạn pháo nổ tung xác giặc trên đồi mà tôi đã phối hợp
hữu hiệu với cố vấn Mỹ và Pháo Binh Nhảy Dù áp dụng kỹ thuật GAP
từ NT Trần Đăng Khôi đã “om” cho tôi hai năm về trước.
Một tuần lễ sau, TĐ11ND vào thay TĐ2ND
ở CC Charlie, cách phía bắc CC Delta khoảng hơn một cây số. TĐT
Nguyễn Đình Bảo (K14) TĐ11ND, TĐP/NT Mễ (K18), Ban3/NT Đoàn
Phương Hải (K19), ĐĐT113/Hùng Mập (K22), ĐĐT112/Hùng Móm (K22),
ĐĐT111/Thinh (ĐĐP của TS2) vừa được bổ nhiệm.
TĐ7ND vào thay thế TS2ND ở Delta,
TĐT/TĐ7ND là NT Khôi (K16), TĐP/TĐ7ND là NT Nguyễn Lô (K18),
Ban3/NT Em (K19), ba ĐĐT nòng cốt Đăng (K22), Hải (K22), Cao
(K22)...
Trinh
Sát 2 Nhảy Dù được bốc về CC Võ Định “dưỡng quân” hai ngày nằm
dưới giao thông hào tránh “sơn pháo 130”, sau đó lại được bốc thả
vào CC Charlie tăng cường cho TĐ11ND. Vừa đặt chân xuống bãi đáp
nằm bên cạnh sườn đồi Charlie thì NT Hải chờ sẵn đó rồi:
– Út theo tôi lên gặp Đích Thân cái đã!
Trong căn hầm tối mù mù với ánh đèn pin
vừa đủ soi bản đồ, NT Nguyễn Đình Bảo nói:
– Út giúp cho tôi tăng cường phía Bắc
với Hùng Mập, phía Nam có Hùng Móm, phía Đông có Thinh, phía Tây
tương đối không lo ngại vì phải qua một khe núi sâu khoảng 100
mét!
Tôi vâng
lệnh đeo ba–lô, súng đạn lên đường gặp Hùng Mập đang ngồi chàng
hảng dưới gốc cây bên cạnh hố cá nhân như Thổ Địa trấn trạch,
“thằng ma cà rồng” này cùng ĐĐE22 Võ Bị Đà Lạt với tôi, nó là dân
“Bắc Kỳ ri cư” nên mồm chửi giòn giã “địt bố, địt...” tùm lum
hiến dâng “món ngon vật lạ” khó nuốt... tôi hỏi nó:
– Cái địt... đồi này tên gì vậy Hùng
mập?
– Đồi
Bắc... đồi bên kia (Charlie) là đồi 1515.
Tôi ra lệnh nghỉ ngơi, ăn uống đồng
thời chỉ định ba toán viễn thám sẽ xuất hành đêm nay. “thằng”
Hùng mập cười khìn khịt trong cổ họng, đầu lắc qua lắc lại có ý
chế giễu:
–
Địt mẹ, Tank 54 nó nằm đầy ở dưới chân đồi mấy ngày nay, tao
không hiểu sao nó đéo thèm bò lên, nghe mày lệnh lạt cho các toán
viễn thám của mày bung rộng lục soát mà tao lạnh toát mồ hôi!
Đúng như lời Hùng mập bông đùa chiều
nay, đêm hôm đó ba toán VT báo cáo y chang với vài tấm ảnh T54
chụp được bằng máy hình hồng ngoại tuyến. Tôi được lệnh trở lại
CC Charlie để qua hướng Tây đóng quân trên ngọn đồi thấp hơn
Charlie về phía tây khoảng 150 mét. Nhưng muốn qua đó phải vượt
qua khe núi đá dựng đứng sâu 100 mét, phải mất 3 tiếng đồng hồ
toàn bộ Đại Đội mới lên được đỉnh đồi với hai toán viễn thám đã
thám sát trước. Chưa kịp nghỉ chân và bố trí quân thì bị Bắc quân
“Tapi” ngay!
Đại úy Budard (CV/TS2ND) hét trong máy với Đại úy Muffy
(CV/TĐ11ND): “Help... Help... do or die... do or die...!”
Đại tá Mike (CV/LĐIIND) xen vào tần số:
“Budard... listen to me... calm down... I will give somethings
right now... calm down... ok... ok...!”
Chúng nó tràn lên như kiến, tôi hét
Budard: “Be careful... don’t shoot to my soldiers back...!”
Năm phút sau John Paul Van (CV/QĐ2) với
chiếc Log và chiếc C&C của NT Cẩn cùng Đại tá Lịch, NT Thành đã
có mặt trên không phận. Lệnh của ĐT Lịch:
– UBL! step by step Romeo–Juliet... you
understand what I mean...?
– I got... it...!!!
Tôi áp dụng phương pháp “rút lui nhảy
cóc” vì rút lui đồng loạt sẽ bị địch tràn ngập ngay và mặc cho
cấp trên điều động thế nào tôi không có “quởn” nghĩ tới... chỉ
thấy sau lưng của tôi là cả một biển lửa giống như trong phim “We
Are The Soldier” hằng loạt Bom Napal từ những phi tuần trên không
dội xuống đốt cháy vạn vật như “giời cao” huỷ diệt sinh linh quả
địa cầu tròn trịa này. Kinh hồn và khiếp hãi! Phải bỏ lại hai
toán VT và hơn 20 HSQ–BS, một số chết tại chỗ, số bị thương nặng
nhẹ... tan tác...! Thôi đành xin lỗi các bạn, “không phải tại anh
cũng không phải tại em, tại trời xui khiến nên chúng mình xa
nhau...” tử biệt sinh ly mỗi giây phút, mỗi giờ và mỗi ngày.
Chinh chiến mà, có mấy ai trở lại?!
Ngày hôm sau TS2ND được bốc ra khỏi
Charlie sau một đêm cùng TĐ11ND nằm vắt giò lên miệng hầm nghe
tiếng “mưa rơi” từ hai Pass B52 cách Charlie chừng 300 mét. Sự
việc đã phá lệ duy nhất trong Lịch Sử Chiến Trường Thế Giới và
chỉ có ở Charlie, VN 1972 vì khoảng cách an toàn để B52 dội bom
tối thiểu phải 1000 mét vòng đai tránh thiệt hại cho quân ta. Tôi
ngồi trên chiếc trực thăng Mỹ cuối cùng rời Charlie, không một
vẫy tay chào, không một lời giã từ “Đồi Bắc” nơi đó có Hùng Mập
E22, “Đồi 1515” có các NT thân yêu của tôi mà chỉ cách đây hai
tuần lễ còn ăn nhậu mệt nghỉ tại CLB/TĐ11ND với NT Bảo, NT Mễ, NT
Hải, Hùng Móm, Thinh... Vài ngày hôm sau số phận Charlie kết
thúc, để người Anh đáng kính Cố Đại tá Nguyễn Đình Bảo của CC
Nguyễn Huệ–Long Bình nay có vinh Danh “Người Ở Lại Charlie” qua
dòng nhạc xót xa tiếc nuối của Nhật Trường! Tưởng như vậy đã
xong. Nhưng có bao giờ Nhảy Dù biết hai chữ “chấm hết”? Chỉ trừ
khi nhắm mắt “an ngủ” giấc ngàn thu! Có lệnh LĐIIND được Galaxy
C5 tại phi trường Pleiku không vận về Sài Gòn khẩn cấp để “trên
đường ra Quảng Trị”. Trước khi rời khỏi Kontum, QĐ2 “cân hồ” sử
dụng lực lượng Tổng Trừ Bị Nhảy Dù theo kiểu vơ vét cú chót:
TĐ7ND và TS2ND được “có vé trực thăng” của Thiếu tá Lê Văn Bút và
Đại úy Phạm Công Cẩn thuộc PĐ229 bay “tham quan” đỉnh Chu–pao
trước khi về phi trường Pleiku. Nhìn... cũng lại là “dân Đà Lạt”:
NT Lô 18, Đăng 22, Hải 22... đằng vân hạ thổ ngay trên đỉnh
Chu–pao, NT Khôi16, NT Em19 cùng Cao22 dẫn quân “tam bộ nhất...
bắn” xuôi nam, UBL nhảy xuống phía Tây Nam dưới chân đồi, NT Cẩn
(C&C) ban ngày, NT Bút ban đêm. Mạnh ai nấy lo trong tình huống
tứ bề thọ địch “Tam Quốc Chí Tân Thời” An–nam với “Quan Vân
Trường Đà Lạt” đang “lăng ba vi bộ” trên Hoa Dung Lộ có trùng
trùng “giặc từ miền Bắc dzô đây” bố trí quân phục kích và sẵn
sàng “uýnh” Full Contact trận địa chiến... và trong khi Triệu Tử
Long múa thương trường bản trên đỉnh Chu–pao! Rồi nhiệm vụ nào
cũng “thi thố” Xong tuyệt vời!
Đứng xếp hàng chờ lên Phi Cơ C5 (lần
đầu tiên đơn vị Nhảy Dù được không vận bằng C5 của Mỹ) từ thầy
đến trò, từ anh xuống em nhìn nhau với ánh mắt không nói nên lời
vì đã bỏ lại sau lưng bao nhiêu đồng đội cùng thành phố Kontum
với dòng sông Poko có cô “sơn nữ phà ca” mang gùi đi đổi muối!
Đường Vào Quảng Trị:
Có thể ví von là Đà Lạt “du ngoạn” vào
tử địa Quảng Trị! LĐIIND làm mũi dùi chính trên đường chiếm lại
cổ thành Đinh Công Tráng. Thành có dạng hình vuông, sông Thạch
Hãn bao bọc phía Tây uốn quanh một phần phía Bắc, phía Đông là
Làng Tri Bưu, Hạnh Hoa Thôn nơi đóng quân của BTL/SĐ304 CSBV,
phía Nam là nhà thờ La Vang và ngã ba Long Hưng.
“Phái Đoàn Đà Lạt” gồm có:
TĐ5ND/NT Nguyễn Chí Hiếu (K15), NT Bùi
Quyền (K16), NT Chí K20, TĐSĩ K21, NTViệt K23.
TĐ7ND/NT Trần Đăng Khôi(K16), NT Nguyễn
Lô (K18), NT Em K19, ba ĐĐ nòng cốt Đăng, Hải, Cao K22, TV Quyền
K23.
TĐ11ND/NT
Mễ (K18), NT Thành (K19), NT Hải (K19), Hùng Móm (K22), NVN Long
K23.
Tăng
cường: TĐ6ND/NT Nguyễn Văn Đỉnh (K15), NT Tùng K19 và 2 Biệt Đội
81BCD dưới quyền chỉ huy của NTLân (K17)... Như vậy là “dân Đà
Lạt” toàn phần nếu không “tiếu ngạo giang hồ” gọi đó là “Phái
Đoàn Đà Lạt...” thì đã khoa ngôn chi thiện xảo ư từ chăng?! Với
hai mươi bảy (27) ngày đêm phái đoàn được đón tiếp bằng “pháo
bông” rực rỡ mãn thiên hoa đạn liên ti tù tì từ nổ chụp trên đầu
tới cày nát địa đạo không thua gì đêm pháo bông Tết Tây ở Time
Square New York! Chỉ có điều trớ trêu là “nhân sự” trong phái
đoàn thưởng lãm địa pháo, sơn pháo... phải cảnh giác tối đa,
chong súng đỏ mắt, nón sắt che đầu, ẩn nấp dưới giao thông hào
hay hố cá nhân ngập nước bùn sình. Tôi có một kỷ niệm khó quên ở
đây khi dẫn quân đã xâm nhập vào được Quận Châu Thành–Mai Lĩnh,
nín thở ém quân chờ TĐ7ND còn đang bị khựng lại ở ngã ba Long
Hưng, lúc nửa đêm về sáng hôm sau, “Sông Lô” TĐP/TĐ7ND một mình
với hai HSQ mang máy vượt một đoạn đường gần một cây số để bắt
tay với TS2ND trong khi Bắc Quân bủa vòng vây kín, tứ bề thọ địch
và chiến xa T54 của chúng đang tuần tiểu trên đoạn đường này.
Niên Trưởng “Ôn Lệnh Hồ Xung Lô Lọ Rượu” (K18VBĐL) mừng rỡ ôm
chầm Út Bạch Lan tôi (K22VBĐL) cười khằng khặc sảng khoái như
muốn Hồ Trường, hồ rượu ta muốn “trút” về phương mô cho cát bay
đá chạy chôn trăm ngàn xác quân sinh Bắc tử Nam mà chưa cạn một
Hồ Trường! “Ôn Sông Lô” trọ trẹ:
Mạ mi... Ta không ngờ mi mò vô tới đây!
– Chuột mà... Niên Trưởng!
(Huy hiệu
Trinh Sát Dù là con Hải Sư nhưng trông giống như con chuột đầu
Giáp thập nhị chi Tí Sửu Dần Mẹo...)
Vì: Danh Dự – Trách Nhiệm – Tổ Quốc...
mà “đàn anh–đàn em” cùng chung dưới mái Trường Mẹ Võ Bị Đà Lạt
kéo nhau lao vào những cuộc binh đao “chơi hết láng” bằng máu,
nước mắt và thân xác gói Poncho miếng còn, miếng mất! Tôi đã mất
đi một NT Tùng K19, một thằng bạn Hùng Móm cùng khóa, một đàn em
NVN Long K23, và còn nhiều nữa đã bị loại ra khỏi vòng chiến làm
sao mà nhớ hết trong suốt quãng đời chinh chiến được sao? Đáng
tiếc và ngậm ngùi!
Đã có rất nhiều “Cây Viết có tầm cỡ”
viết tả lại những chiến trận Kontum, An Lộc và Quảng Trị với
nhiều công sức truy tầm, nghiên cứu trên tài liệu sách báo. Nhưng
hầu hết họ không và làm sao để có thể “lột tả” diễn đạt được hết
những khốc liệt trên chiến trường mà người chiến binh phải vượt
qua nỗi chết để giành lấy sự sống khi thế chiến đấu ở An Lộc là
Tử Thủ, Quảng Trị là Tử Chiến. Một là Thủ hai là Công, hai tính
chất khác biệt nhau nhiều lắm. Vậy cho nên dù là Thuỷ Quân Lục
Chiến, Nhảy Dù, Biệt Động Quân, 81 Biệt Cách Dù, Bộ Binh, Thiết
Giáp, Không Quân, Hải Quân, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Nhân Dân
Tự Vệ... trong số những đơn vị của toàn thể Quân Lực Việt Nam
Cộng Hoà đã có không ít những “đứa con yêu” của trường Mẹ Võ Bị
Đà Lạt nói riêng và của Tổ Quốc nói chung, đã một mai rơi rụng
như chiếc lá lìa cành dưới những tràng đạn, mưa pháo, lưới đạn
phòng không nổ kinh hoàng làm nên cơn địa chấn và vùng trời đầy
bão lửa cháy rực đỏ thôn làng. Máu xương dân lành đã đổ xuống,
anh em cùng một bọc thai bào sinh ra gọi nhau là “Đồng Bào” lại
tàn sát lẫn nhau. Ôi! Có oan khiên nào hơn! Thua cuộc hay thắng
cuộc? Tôi còn nhớ trong Đệ Nhất Thế Chiến khi Danh tướng FOX đi
ngang ngôi mộ của Napoléon có ghé lại chào và viết một câu trên
mộ bia: “Công Danh–Sự Nghiệp của một con người không phải là lúc
khởi đầu mà là lúc kết thúc.”.
Hay câu viết của NT Lâm Quang Thi:
“Chúng ta thua một trận chiến, chứ chưa phải thua một cuộc
chiến.”
Trải
qua bao thế sự thăng trầm, sau nửa đời người một phần hai thế kỷ,
ngày nay kẻ còn người mất, giàu–nghèo, sang–hèn có khác gì nhau
khi đã có mang chung một “dòng máu Võ Bị”, Nhảy Dù qua ngưỡng của
phi cơ cùng tung cánh dù lộng gió lơ lửng giữa trời không, BĐQ
cùng nhảy ào ra khỏi lòng slick trực thăng lội bãi sình lầy gian
khổ, TQLC đổ quân hay nhảy ùm xuống bờ biển nông sâu lõm bõm lội
vào bờ trước họng súng đang chực chờ khai hoả của Cộng nô, KQ lao
vào lưới đạn phòng không nã hoả tiễn, rải từng tràng đạn liên
thanh, bay sát mục tiêu để “thảy lỗ” từng trái bom nổ bung xác
Bắc quân như những con thiêu thân đang tràn ngập căn cứ quân bạn
hoặc lắc cánh “né đạn” chào nhau hẹn mai tương phùng, hay anh TG
đang ngồi trên pháo tháp chiến xa chợt nghe tiếng cà xịch cà xịch
của SA7 vội lao mình xuống đất và húc trên xác địch mà tấn xa,
khạc đạn.
Quân
Trường chỉ có đổ mồ hôi, nhưng Chiến Trường đổ mồ hôi, máu và
nước mắt! Các cấp tướng lãnh, các Đại Niên Trưởng thì... thì...
đổ mồ hôi “hột” nhiều hơn, bởi “Nhất Tướng Công Thành Vạn Cốt
Khô” cũng phải lau giọt lệ khi nghe tin một khóa đàn em vừa nằm
xuống hay vừa bị mất một quận một tỉnh nào đó. Không biết giọt mồ
hôi hột có nóng hơn giọt máu đào hay không?! Nay ngồi đây với nỗi
nhớ ngập tràn qua ly rượu, hồn mênh mang hồi tưởng lại chiến
trường xưa mà đoạn đường Kontum bỏ lại sau lưng bao Niên Trưởng,
vào An Lộc nằm xuống mấy kẻ “đồng môn”, ra Quảng Trị chôn vùi bao
nhiêu thân bách chiến và đoạn đường nào đốt cả quãng trời xanh?!
Màu xanh đó, bây giờ chỉ còn là “chiếc áo dài Võ Bị” đi bên cạnh
cuộc đời nơi xứ lạ quê người. Võ Bị Đà Lạt còn đây những Anh Em
một thuở Anh Hùng Bảo Quốc – An Dân – Trấn Không – Phòng Vệ Lãnh
Hải giặc Tàu Ô Man thừa gió bẻ măng chứ chưa thật sự dám động
cuộc can qua.
Trương Văn Út
(Mũ Đỏ Út Bạch Lan)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by batkhuat nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, January 2, 2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang