Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự
Truyện
Chủ đề:
lính kể chuyện chiến
trường xưa
Tác giả:
KQ Trương văn
Vinh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Theo thống kê Việt–Mỹ: KQVN chết 10, Mỹ chết 215; KQVN mất tích 4, Mỹ 38; đó là hậu quả sau 42 ngày của cuộc hành quân Lam Sơn 719 vì nhờ “chân lý đây rồi!... Chiến thuật cạ càng lướt thoáng trên ngọn”, thường thường trên cao độ 50 thước với âm thanh gầm thét như luôn luôn có 6 con rồng phun lửa mới áp đảo kẻ địch phải chui rúc, dưới đó, vì bị theo đuổi bởi 32 con mắt diều hâu ráo đảo tìm kiếm địch thủ quanh quẩn đâu đây, vừa ló dạng bóng đen nào thoát ra khỏi chiến xa để đào thoát cũng bị dí 3 đầu mũi 6 nòng phun xuống một trận mưa đạn buộc phải ngã qụy tại chỗ, không có mống nào chạy thoát lưỡi hái tử thần. Ðặc biệt, cánh rừng chồi da beo hình chữ nhựt ngó xuống trục lộ đã bị các nòng súng chia nhau quạt khắp mọi nơi khi chưa có mục tiêu khả nghi nào xuất hiện. Dưới cách đó gần lộ lố nhố vài hầm cá nhân B–40, đất vàng nghệ còn tươi rói, đã bị minigun giã nát tự bấy lâu rồi, cảnh vật nơi chiến địa cùng đoàn xe im lìm bất động như khung hình chết của bãi tha ma, trên đó ngun ngút toả ra dật dờ vài đám khói còn lại trên xác các chiến xa trúng rockets. Nơi đây lính BV đã bỏ chạy ngay sau khi chiếc thứ 2 của Lộc dộng xuống thêm 38 rockets chống Tăng. Bây giờ còn lại cạnh bìa rừng hình chữ nhựt ngó xuống con lộ, đang bị tôi nghi ngờ là vài chiếc PT–76 đang chỉa nòng 76ly xuống con lộ, kềm theo vài khẩu đại liên 14.5ly, nhưng có lẽ không còn ai sống sót. Tôi cũng hiểu ra rằng với lõm nhỏ rừng chồi này đã bị các minigun phun xuống cày nát, tất cả đã chém vè theo bộ binh tùng thiết vào đám rừng già sau lưng. Chúng chạy ra khỏi bìa rừng khi tôi nhìn lại sau đuôi, phát hiện nhưng tầm đạn đạo minigun chiếc 2 chỉa về hướng 1 giờ, nhưng chưa đủ xạ trường sát hại, cũng như Trung sĩ Ðức bắn vói ra sau hướng 5 giờ nhưng cũng trớt hướt, vô tích sự vì đạn đạo không thể tới được. Thế là nhóm này đã thoát nạn để lại một số PT–76 không còn người điều khiển. Cái toán quân BV này khá thông minh nên đào thoát kịp; tôi đang nghe trong tần số Guard, tiếng người Việt ngồi backseater (người “tháp tùng tử” ngồi sau có thể là quan sát viên KQVN, Pháo Binh diện địa, Pháo Binh Dù, TQLC, hoặc sĩ quan Phòng 3) trên FAC Bronco OV–10 cho biết 10 phút nữa phi cơ chiến thuật sẽ đến dập thêm vào đoàn convoy chiến xa này. Vừa làm một pass rải dài 8 hoả tiễn vào bìa rừng ngó xuống con lộ, nhưng tôi đoán quân BV đã bỏ của chạy lấy người, chỉ còn lại vài chiếc PT–76 không người lái với xác người nằm yên trong đó, rồi đây quân Dù sẽ vào khai thác chiến trường và sẽ tìm ra chúng.
Chiếc của Lưu cũng làm một pass y chang
như tôi. Chúng tôi từ giã bãi chiến trường trong không khí yên
lặng, dù rằng để lại vài đám cháy với lớp khói mờ mịt tỏa ra nơi
đó, tuyệt đối không thấy có sự chống trả; chiếc Tiến và Lộc tiếp
tục bao vùng cho Tiểu Đoàn 1 Dù và Tiểu Đoàn 8 ở hướng Bắc,
cạnh đó. Thình lình tôi nhìn rõ 1 chiếc A–6 Intruder, nhờ 2 đầu
cánh chém gió xẹt ra 2 lằn trắng, rồi một loạt bom snack–eye chạm
nổ dữ dội, chiếc thứ 2 nhào xuống cũng salvo như chiếc trước,
nhìn ra sau, khói bom che lấp đoàn convoy. Tôi mở tần số la làng,
cự FAC:
– “Anh
nói 10 phút gì mà nó dội xuống sớm quá vậy... xém chút nữa chúng
tôi ôm lãnh đủ”.
Người backseater trả lời:
– “Thằng pilot nó đã thấy các anh nhờ
vòng tròn cánh quạt sơn màu trắng, nên nó mới cho thả... mà nó lu
bu cũng chẳng nói gì đến tôi... thôi thông cảm đi bạn! Chúng tôi
nhìn xuống thấy 4 chiếc dĩa trắng quay tít như làm ảo thuật trên
nền thảm xanh rêu, rồi khi các anh lấy hướng về A–lưới nó mới
nhào xuống thả... thôi thông cảm nghe bạn”.
Tôi và Lưu về lại Khe Sanh để tái võ
trang và châm đầy xăng nhớt.
Nếu giả thuyết ở nơi đây không phải là
vùng Cao Nguyên rừng núi mà là vùng đồng bằng như vùng Trà Kiệu
trên sông Thu bồn chẳng hạn, thì đây là một dịp may để tiêu diệt
trọn gói khi mà tàn quân bị 3 mũi dùi tấn kích (3 mặt giáp công)
chỉ còn con đường thoát thân duy nhứt là vượt qua sông Thu Bồn:
Phía Tây tấn kích bằng Chi Đoàn/17, phía Nam bằng Tiểu Đoàn/1
Dù, và phía Ðông nguyên một Thiết Đoàn/11. Ðối với Top Gun, chúng
tôi biết phải làm những gì khi Cá đang nằm trên thớt, trong khi
trên cao độ 75 thước, 8 xạ thủ đang đứng xổng lưng ghì tay súng
trong tầm mắt cú vọ mà rải đều trận mưa đạn xuống địch quân trên
một vùng lau sậy trống trải, hoặc toan lội qua sông Thu Bồn! Ðiều
dễ hiểu chúng tôi là những tiên phuông trong lằn tên mũi đạn nên
hiểu được thế trận đồ, vì thế cho nên chúng tôi không phiền trách
những ai có may mắn được ngồi trên bàn giấy khi nhận xét về thế
trận đồ. Khi Lữ Đoàn 1 Ðặc nhiệm gởi chiến lợi phẩm bằng một
thiết vận xa PT–76, trong đó có chở thêm những bánh xe thồ, xe
thùng, và vài cái chảo to đường kính hơn thước, thì Bộ TTM cho
rằng làm gì trong rừng mà có bánh xe Cyc–lô để du lịch, còn khi
nhìn thấy cái chảo to tổ bố nặng trĩu thì nhóm văn phòng này chỉ
há họng và trố mắt khi nhìn thấy cơm cháy còn dính nơi đáy
chảo... không hiểu gì cả? Vì thế sự thiếu hiểu biết này không làm
chúng tôi phiền muộn, khi có ai muốn soi mói châm chọc, ngay đến
Tướng Abrams mà báo chí Tây phương cho là người hùng trong trận
chiến cũng có nhận thức vô cùng lầm lẫn đến nỗi khi đọc dòng chữ
dưới đây làm tôi vô cùng đau xót. Dưới đây, tôi xin đưa ra một
dẫn chứng mà không dám dịch ra tiếng Việt sợ sai lạc:
Cũng trong sách “A Better War”, mục
“Easter Offensive”, trang 332, hàng 25 (During the battles a new
weapon system, the tank killing TOW missile, was flown in from
the United States. Initially, noted Abrams, “I gave twenty to the
Marines and the 1st Division because they were the only troops I
knew of that had stood and fought. I don’t want these things in
the hands of the enemy. And on the Airborne, I told General
Kroesen [that] when General Truong will give me his personal
assurance that they will not be abandoned on the battlefield,
then I’ll Consider it”).
Nằm trên chiếc ghế bố quân đội, tôi co
ro trong chiếc mền không đủ ấm giữa rừng núi Khe Sanh, thế giới
nơi đây, tôi như bị giam hãm thu hẹp dưới 4 góc mùng xám xịt đen
tối, không lối thoát, rồi trăn trở, trằn trọc không sao ngủ được.
Bây giờ tôi phải làm sao đây!? Khi mà chiến tranh đi đôi với tang
tóc! Tôi cầu mong làm sao đừng có xảy ra thảm cảnh đó nữa, hoang
mang lo lắng cho Liên Đoàn của mình! Và nhất là các Phi Đội 233
và 219... cứ miên man suy nghĩ mà không làm sao chợp mắt được, tự
nhủ lòng là từ nay trở đi, phải dấn thân bay tiên phuông trong
lửa đạn, là con Chim đầu đàn phải cất cánh sớm hơn, mà lại về đáp
cũng trễ nhất. Tôi sẽ giao cho Đại úy Kỳ hay Trung úy Tiến, phụ
tá hành quân thỉnh thoảng đi họp thế; tôi dành hết thời gian cho
cuộc hành quân này bằng cách cầm lấy chiếc Trực thăng Võ trang
mà hướng dẫn, đưa đón các cánh Chim non đang lặn hụp dưới bầu
trời mới lạ, xuất phát từ biên giới lúc đi cũng như lúc về, lấy
điểm hẹn từ Trại tù Lao Bảo làm nơi điểm xuất phát. Chỉ có tôi là
người duy nhất hiểu rõ được địa hình nơi đây từ ngọn núi, con
sông đến đồi cao khe suối, những đám rừng nguyên thủy chưa có dấu
chân người, ngọn núi Vôi Cô–rốc vàng óng ánh dưới ánh bình minh.
Nhưng hôm nay bay trở lại, mọi cảnh vật
khai quang trống trải rất nhiều, nhứt là trên trục đường Mòn 559
mà tôi đã bay ngang qua đây không biết bao nhiêu lần, giờ thì quá
trống trải, đường đất Đỏ Cao nguyên đâm chồi, chi chít thêm ra,
màu xanh trùng điệp của cánh rừng già giờ đây đã có quá nhiều
loang lổ, rải rác những nhà to với mái đan bằng Tre Nứa đập dập,
có lẽ là những nhà Kho hay Công binh xưởng chăng? Chỗ Thiếu úy
Huệ đáp xuống thả Toán Thám sát STRATA (1964) vào buổi chiều
chạng vạng, cánh quạt chém vào cây, tôi phải đặt càng bánh xe lên
đầu trục cánh quạt của hắn mà đem hết Phi hành đoàn về, nơi đây,
bây giờ là Hậu cần 611, cũng đã phát hoang trống trải và có cả
ống dẫn dầu băng ngang qua thì phải? Cuộc hành quân mới phát khởi
được 3 ngày (N+3) mà 2 phi hành đoàn đã bị Thiết xa PT–76, cùng
phòng không 37ly bắn nổ tung trên không phận này, dưới đây, ngay
bây giờ là ổ Kiến Lửa! Xe vận tải ngang nhiên di chuyển mà chẳng
hề sợ sệt phi cơ phát hiện nhờ cái Dù điều lệ ROE của trục Ma
Quỷ: Ðoàn xe chạy ban đêm bật đèn mờ và ban ngày ngủ cho đúng
luật ROE, còn như ban ngày khi qua các con suối cạn mà nghe tiếng
phi cơ thì tài xế cứ việc tắt máy nối đuôi chờ thì không phi công
Mỹ nào dám oanh tạc cả (điều này chỉ có quan sát viên người Việt
backseater là nhân chứng sống).
Tôi bóp đầu nặn óc tìm ra chân lý cũng
như tìm ra định luật về chiến thuật để bảo vệ cho con em mình
không còn bị thảm hại... đang miên man tìm ra chân lý. Tối bỗng
nhớ lại ngày xưa khi thành lập Phi Đoàn trực thăng đầu tiên,
người anh cả thiên tài Nguyễn Huy Ánh đã giảng giải danh hiệu
“Thần Chùy” sau khi đặt tên cho PЖ211; đã xưa lắm rồi, khi con
người tìm ra vũ khí để chiến đấu với kẻ thù; người hiệp sĩ khi sử
dụng chiếc Chùy–thung phải có sức mạnh phi thường, tuy đường chùy
vun vút có chậm hơn các vũ khí như gươm, kiếm, mã tấu, thanh
long đao, chĩa ba, thước bảng, roi xích... nhưng tất cả vũ khí
trên khi đụng phải Thần Chùy đều rơi rụng tung toé vào mọi phương
hướng vô định!!!
Tôi lại bóp trán mỉm cười... vỗ mạnh
lại lên trán trong nỗi mừng vô hạn... Chân lý đây rồi! Chân lý
đây rồi!!! Chiến thuật “Ngụy–Âm Ðộn Rừng”. Trong đôi tay tôi đang
có thủ thuật “Song Chùy” làm ra chiến thuật áp đảo đối phương.
Trực thăng võ trang của KQVN là loại bay chậm nhứt, thua cả Cobra
của Mỹ chớ đừng nói chi đến các phi cơ chiến thuật tiềm kích,
nhưng tôi lại đã phát hiện ra một chiến thuật tân kỳ và vô cùng
mầu nhiệm: Có chiến hữu nào đã tham dự chiến trận tại rừng già
chiến khu D, Ðồng Xoài, và rừng cao su Bình Giã thì có thể hình
dung ngay khi bạn đứng giữa rừng già mà chỉ nghe tiếng bành bạch
của cánh quạt chém gió từ xa trên ngọn cây bay đến. Bạn làm sao
xác định được trực thăng từ phương hướng nào bay đến? Và khi nghe
tiếng gầm thét áp đảo của Minigun như con khủng long phun lửa
xuống, thì tự động bạn phải tìm chỗ nào an toàn gần nhứt để trú
ẩn. Nếu là chiến xa thì phải chui xuống pháo tháp mà trú ẩn để
sống còn theo phản xạ tự nhiên của con người. Kết quả này đã
chứng minh hùng hồn qua sự ghi chép trong quân sử Mỹ–Việt (US
Army Center of Military History 1980; Lam Sơn 719 General Nguyễn
Duy Hinh; và Military History Institute of Vietnam) dưới đây là
sự so sánh giữa Sư Ðoàn 101 Không Kỵ và Liên Ðoàn 51 Tác Chiến
theo như tài liệu SOG/MACV, kết quả sau 45 ngày chiến đấu quyết
liệt:
Sư Ðoàn
101 Không Kỵ: 215 chết, 38 mất tích, 114 bị thương.
Liên Ðoàn 51 Tác Chiến: 10 chết, 4 mất
Tích, 11 bị thương – (có phải nhờ “Chiến Thuật ‘độn rừng ngụy
âm?’”).
Liên
Ðoàn 51 Tác Chiến và HQ/Lam Sơn 719
Ngày 22/2/1971 – Cả đêm rồi tôi không
thể chợp mắt được cho dù đã quen dần tiếng ầm vang của 42 khẩu
trọng pháo Mỹ bắn yểm trợ, khuấy rối, mà chỉ mong đợi cho mau
sáng để gởi PHĐ H–34 vào cứu Giang, On, và Sơn. Nhưng ác nghiệt
thay trời hôm nay sương mù giăng đặc sệt như cháo đậu (Pea–Soup).
Ðã 10:00g sáng mà trời vẫn còn mù mịt. Ngay khi trời vừa thoang
thoảng thấy được là tôi phải đem gunship bao vùng cho Ðại Đội
Trinh Sát Dù đang cần mở đường tiếp cứu Ðồi 31; trước khi cất
cánh tôi có liên lạc với sĩ quan điều không tiền tuyến Ðại úy
Không Quân Nghĩa và Trung úy Chính sĩ quan Không Trợ Dù liên lạc
với PHĐ hướng dẫn họ vào hướng nào cho ít nguy hiểm.
Tại BCH Tiền Phương Dù, khi tôi vừa cất
cánh thì một Tiểu Đội tác chiến điện tử Dù đang chờ nơi bãi đáp
bên cạnh một chồng máy Sensor dùng để phát giác đặc công địch.
Những máy này đã giúp cho Trại LLÐB Mỹ thoát khỏi bị bao vây,
ngay sau khi Ðại úy Nguyễn Minh Vui và Thiếu úy Châu Lương Cang
liều mạng đáp xuống Trại Pleime với lối bay chiếc lá cuốn theo
cơn lốc, khi cất cánh dùng chiêu thức “Khủng Long áp đảo”, làm
cho địch ngơ ngác không biết phi cơ từ đâu đến lướt thoáng trên
ngọn cây, dù vậy một binh sĩ mũ nồi xanh cũng bị trúng đạn ngay
đầu, chết liền tại cabin, máu tràn lênh láng trên sàn nhôm.
Bầu trời bắt đầu trong sáng, tôi nghe
tiếng Thiếu úy Bửu đang đáp xuống LZ Tiền Phương Dù. 10 phút sau
tất cả pháo Long Tom 175, 155ly, và 8 inch của Mỹ tiền oanh kích
trước mũi, dọn mở một hành lang dọc trên đường bay. Nhưng quân BV
rất tinh ranh khi nghe loạt pháo đầu là chúng chạy vào hầm ngồi
nghỉ, cho đến khi ngừng pháo kích thì chúng lại chui ra giao
chiến. Tôi cắt đặt 2 chiếc Gunship air cover cho 2 chiếc H–34 của
Bửu và Yên, dù sao Gunship mình tuy có ít hỏa lực nhưng cấp cứu
anh em trong Liên Ðoàn vẫn bảo đảm hơn Mỹ. Tôi rất tin tưởng
Thiếu úy Phạm Vương Thục, một Top Gun rất anh dũng dám sống chết
vì anh em, luôn luôn sẵn sàng hy sinh cho đồng đội, tôi không tin
vào Army Aviation Mỹ vì khi có chiếc nào của Mỹ rơi thì họ bỏ bay
đi tìm cứu đồng đội của họ mà quên anh em mình, như tôi là nhân
chứng cho nhiều hoàn cảnh như vậy.
Tôi nghĩ Ðại úy Nghĩa và Trung úy Chính
Sĩ quan Không Trợ Dù sẽ chỉ dẫn đường bay nước đáp cho Bửu qua cố
vấn của Thiếu úy Giang. Vì phòng không di động trên PT–76 rất
lợi hại hơn các phòng không cố định, 12.7, 14.5, và 37ly nằm rải
rác mọi nơi, nhiều nhứt nơi hướng Đông–Bắc, không nên đáp vào
hướng ấy mà nên đáp từ hướng Tây–Nam xuống LZ, dù sao cũng có
TĐ6ND mới vừa trực thăng vận, tuy bị nhiều thiệt hại cho quân TÐ6
Dù, nhưng Topgun Trần Lê Tiến, Hoàng Ngọc Châu... đã oanh liệt
thay phiên nhau gây thiệt hại nặng nề cho 2 Trung Đoàn cơ động 27
và 24B của Quân đoàn 70B [csbv].
Giang đã trình bày cho Bửu biết, hắn đã
dùng chiến thuật đáp như chiếc lá cuốn trong cơn lốc, nhưng kẹt
nỗi quân BV cứ khi nghe tiếng trực thăng thì họ dội trận địa pháo
tới tấp xuống, vì họ đã có tiền điều chỉnh rất chính xác. Phi
công dù tài giỏi thế nào nhưng khi gần tới đất chừng 15, 20 thước
thì sẽ bị mảnh đạn văng bắn vào bộ phận cánh quạt đuôi, mất điều
khiển phương hướng rồi rơi xuống quay theo counter clock wise,
tại chỗ “undershoot”. Như trường hợp của Giang.
TPC Bửu đã được nói chuyện trực tiếp
với TPC Giang từ trong Đồi 31 và được biết, ngày hôm qua khi bay
vào vùng, Giang đã dùng chiến thuật “lá vàng rơi”, từ trên cao
cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng vì phòng không địch quá
dày đặc nên khi gần đến đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống
gãy đuôi nằm bên cạnh vòng rào phòng thủ ngoài cùng của Lữ Ðoàn
III Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có copilot là Võ Văn On bị sây
sát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn cứ Dù. Nhưng
trước khi bỏ phi cơ, cơ phi Trần Hùng Sơn không quên vác theo cả
cây M60 trên cửa máy bay nữa. Rút kinh nghiệm, hôm nay Bửu bay cạ
càng bánh xe lướt thoang thoáng trên ngọn cây theo chiến thuật
biệt kích razed–mode lướt từ hướng Ðông–Tây đi vào, nhưng làm sao
đừng gây ra tiếng động. Trên đường bay dọc theo Quốc lộ số 9 TPC
Bửu còn nhìn thấy những cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo
binh của Mỹ nơi Khe Sanh bắn rất chính xác và hiệu quả. Gần đến
LZ, Bửu đổi hướng lấy Ðông–Nam, rồi Tây–Bắc để đáp xuống; vừa ló
ra khỏi rặng cây, Trưởng Phi Cơ Bửu đã thấy chiếc Gunship của
TPC Thục bay vòng lại, cùng với tiếng Thục la lên trong máy “Bửu
coi chừng phòng không ở hướng Đông–Nam”. Từ trên phi cơ nhìn
xuống, giữa màu xanh trùng điệp của rừng cây nhiệt đới, ngọn Ðồi
31 đỏ quạch nổi bật với những đốm bụi đất tung lên từng cơn vì
đạn pháo kích đào xới của cộng quân Bắc Việt. Không nao núng, Bửu
vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp xuống; Khi phi cơ còn cách mặt đất độ
15 thước thì trúng mảnh đạn cối 120ly, khắc tinh chống trực
thăng, phi cơ phát hoả, bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ,
cơ phi Em la lên khẩn cấp trong máy:
– “Đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy
bay cháy”.
Cùng lúc Bửu cũng cao tiếng báo động cho chiếc số 2:
– “Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng
xuống nữa” trong khi vẫn bình tĩnh đáp xuống.
May mắn là đạn trúng vào bình xăng sau
đã hết xăng, chỉ còn ít hơi đốt, nên trực thăng không bắt cháy
như chiếc của Thiếu úy An ở Bù Ðốp hôm nào.
Vừa chạm đất, theo phản xạ Bửu nhanh
nhẹn nhảy ra khỏi trực thăng. Mọi người chạy ngược lên đồi về
phía hàng rào phòng thủ thứ nhất của Đại Đội công vụ Dù cách
khoảng 100 thước, để lại một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt,
một binh sĩ điện tử Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết
ngay trên ghế. Trên sàn tàu, đống máy “sensor” vẫn còn nguyên
vẹn, Phi hành đoàn phóng chạy lên đồi theo những tiếng kêu gọi
của binh sĩ Dù “trên đây nè Ðại úy, tụi tôi bắn yểm trợ cho”.
Tất cả dân bay lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc cóc trên
đầu, Lên đến nơi phi hành đoàn thở nhẹ re như bò kéo xe. Dân bay
mà hành quân dưới đất thì phải biết là mệt đến đâu, tôi phải ghi
vào sổ nhựt ký đơn vị và nhớ mãi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm
1971.
Phi hành
đoàn vừa ngồi nghỉ mệt, họ cũng vừa nhìn xuống LZ, nơi chiếc phi
cơ đang đậu hiền lành, thì cũng vừa lúc quân BV tiếp tục giã trận
địa pháo đã điều chỉnh tác xạ, một quả đạn súng cối 120ly rơi
trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy thành một cột trụ khói đen mù
mịt cả một góc trời. Dân bay nhìn con tàu sụm xuống, lòng quặn
lên. Con tàu thân thương đó đã nhân cách hoá, gần gũi với Phi
Đoàn lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn.
Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em
binh sĩ Dù, phi hành đoàn men theo giao thông hào lần về đến ban
chỉ huy Lữ Ðoàn III Dù. Gặp lại phi hành đoàn của Giang, On, Sơn
anh em mừng rỡ thăm hỏi rối rít, PHĐ được giới thiệu với các sĩ
quan trong ban tham mưu Lữ Ðoàn III. Ðầu tiên là Đại tá Thọ Lữ
đoàn trưởng Lữ Ðoàn III, Thiếu tá Ðức Trưởng ban 3, Đại úy Trụ
phụ tá ban 3, Đại úy Nghĩa sĩ quan điều không tiền tuyến, Trung
úy Chính sĩ quan Không trợ Dù, Thiếu úy Long phụ tá ban 2. Về
phía Pháo Binh thì có Trung tá Châu Tiểu đoàn trưởng và Đại úy
Thương Trưởng ban 3 thuộc Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù. Ðại tá Thọ
mừng anh em “mới đến” mỗi người một điếu Havatampa và một ly
Hennessy để lấy lại tinh thần; phi hành đoàn ngạc nhiên vô cùng,
đi đánh giặc, nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy “Thiên thần”
Nhảy Dù vẫn thản nhiên hút xì gà Cuba và uống rượu Mỹ như Trương
Phi tân thời! Quả các Thiên Thần ăn chơi cũng dữ mà đánh giặc
cũng ngầu thật.
Buổi chiều vùng rừng núi trời tối thật
nhanh, dân bay dùng tạm bữa cơm dã chiến với ban tham mưu Lữ Ðoàn
rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù; Tin tức chiến sự mỗi ngày một
căng thẳng hơn vì đối với cộng sản Bắc Việt, sự hiện diện của căn
cứ Ðồi 31 trên hệ thống đường mòn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng
vào yết hầu của chúng. Vì thế cộng quân đưa thêm quân vào tạo áp
lực nặng nề lên căn cứ này với ý định đánh bật căn cứ ra khỏi
sinh lộ của chúng với Trung Đoàn 24B và Trung Đoàn cơ động 27
thuộc Quân đoàn 70B, và một đơn vị chiến xa yểm trợ thuộc Trung
Đoàn 202.
Mệnh
số oan nghiệt của 2 PHЖ219
Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay
tiếp tế nào vào được vì quân BV luôn di động che giấu giàn phòng
không của chúng khiến KQVN và HK không phát huy được ưu thế của
mình. Mỗi sáng, sương mù lại tan rất trễ, mất thời gian tính cho
Không Quân Chiến Thuật can thiệp, chỉ có 2 Phi Tuần F4 đến ném
bom cầu âu vào khu vực khả nghi chung quanh Đồi 31 và thỉnh
thoảng mới có một đợt B–52 rải thảm từ phía nam đường 9 ầm vang
như tiếng sấm rền từ xa xa vọng đến, rồi mọi sự lại chìm vào cõi
âm u của rừng núi trùng điệp. Từ phòng hành quân Pentagon, do
tướng Al Haig làm Chairman, phối kiểm với con mắt nhân chứng của
tôi, tôi cũng có thể quyết đoán được, B–52 Arc Light chỉ yểm trợ
từ ranh giới phía nam đường 9 trở xuống, Trung Đoàn của Ðại tá
Ðiềm di chuyển không đúng lộ đồ của phòng lạnh Pentagon, cũng bị
B–52 đuổi đít thê thảm, (vì họ đánh giặc như bàn cờ trong phòng
lạnh với bản đồ treo trên tường, trước mặt là ly ca–fê đen phì
phào điếu thuốc) còn từ Đường 9 trở về phía Bắc thuộc vùng trách
nhiệm của Gunship AC–130B, còn như ngay chính trục đường–tiến–sát
là đường 9 thì lại của Skypot trách nhiệm, vì thế TÐ8ND tùng
thiết với Thiết Giáp, chỉ di hành trễ mà toan chuẩn bị dừng chân
nghỉ đêm cũng bi Skypot đuổi đít bằng CBU–24, khi nổ bung ra hàng
trăm quả bom nhỏ nổ đều lóm đóm như pháo bông. Hành động này có
2 mục đích:
(1) đuổi đơn vị đặc nhiệm phải mau mau đi cho đúng lộ đồ vào cái
Rọ 604 của trò chơi chiến tranh trong phòng lạnh với lộ đồ bằng
thước chỉ trên bảng, hậu quả TÐ/Phó TÐ8ND bị thương ngày
9/2/1971.
(2)
trắc nghiệm nếu phi hành đoàn trực thăng bị bắn rớt, cứ chạy
xuống hầm quân BV đào sẵn mà núp, AC–130B có thể thả bom CBU–24
trên miệng hầm để chờ cứu cấp, như Ðại Đội Hắc báo đã cứu 7 đoàn
viên UH1 của Mỹ rớt bên Lào.
Tất cả hoả lực này, chúng đều là con
dao 2 lưỡi nếu quân lực VNCH mà thượng phong thì chính chúng sẽ
“làm bộ” thả lầm cho cân bằng lực lượng của cả 2 đối thủ cho trò
chơi chiến tranh rất bẩn thỉu. Thí dụ TT Thiệu ra lệnh rút quân
không chịu tấn kích vào Hậu cần 604, báo hại Sư Đoàn 2 Sao Vàng
nằm chờ phục kích phải chết oan bằng BLU–82s, BLU–82AL, và B–52
Arc Light, làm xóa sổ Sư Đoàn này mà phía Hà Nội cũng không dám
mở miệng, chỉ tội nghiệp cho người lính nhỏ bé của 2 miền Nam–Bắc
từ cấp trung gian trở xuống. Tôi muốn ám chỉ từ cấp Lữ Đoàn,
Trung Đoàn, Liên Đoàn trở xuống người lính quèn là con thiêu
thân, tôi cũng đã đọc một tài liệu mật tại Library of Congress,
siêu chính phủ Mỹ (Permanent Government) cho rằng phải tiêu diệt
tất cả sĩ quan trung gian vì họ là thành phần ưu tú có nguy hại
đến bàn giao Sài Gòn cho Hà Nội phải bị tắm máu, vì theo dự
mưu thì chỉ rỉ máu và Sài Gòn không thành đống gạch vụn khi bàn
giao chuyển tiếp qua 3 vị Tổng thống trong 72 tiếng đồng hồ.
Về phía quân BV quyết tâm bao vây theo
lệnh của thành viên OSS–1945, Võ Nguyên Giáp, chấp nhận đánh trận
xa Tchepone chớ không đánh trận gần như căn cứ Mỹ tại Khe Sanh.
Quân bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt ngày
nhằm quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù theo mưu đồ của
Pentagon phải căng quân Dù ra mà dập trận địa pháo. Những vùng
phía Bắc Đường 9 thì chỉ có Gunship AC–130B yểm trợ, nhưng họ chỉ
ưu tiên cho BÐQ vì đơn vị này đang bị áp lực cực mạnh. Còn quân
Dù chỉ có dựa vào một nhúm Gunships Phi Đội 213, nhưng phần
nhiều dành cover cho tản thương và tiếp tế, chỉ có yểm trợ tiếp
cận (air closed supports) khi quân Dù bị PT–76 hoặc T–54 đe doạ.
Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, tất cả 2
đoàn viên H–34 từ Ðồi 31 đã nhận được lệnh và khởi sự di chuyển
ra các hầm cứu thương sát bãi đáp chờ đến trưa khi lớp sương mù
buổi sáng vừa tan đi, đích thân Phi Đội 219 với 3 chiếc H–34 và
3 Gunship của Phi Đội 213 sẽ yểm trợ một cách ngoạn mục theo kế
hoạch rescue của tôi. Rút kinh nghiệm vừa qua tại Landing Zone
North và South của BÐQ, tại sao trực thăng Mỹ rớt như chiếc lá
mùa Thu? Tại sao phía Mỹ chịu quá nhiều thiệt hại hơn VN? Góp
nhặt thực tế lấy ra trong các chiến trận, do các cố vấn Mỹ cũng
như Trung tá Robert F Molinelli, Tiểu đoàn trưởng TÐ2/LÐ17/SÐ101
Không Kỵ – Ðại úy Farrell, Phi Đội trưởng, Gunship–Cobra C7/17,
và Warrant Officer Joel Dozhier đại diện Phi Đội DMZ/Dust–Off
cùng debriefing với Topgun trực thăng VN là tôi tại Hàm Nghi, Khe
Sanh, để ghi chép vào Học viện Quân sự (Military History
Institute of Vietnam) tuy rằng gunship KQVN chậm hơn, hoả lực ít
hơn nhưng thực tế rất hiệu quả như:
– (1) Nhanh chóng áp đảo địch quân
không thể ngóc đầu lên để chống cự, tại chiến trường Lam Sơn 719,
trong khi AH–1G Cobra phải làm vòng phi đạo tiềm kích mất thời
gian tính, nên địch có rộng thời giờ chuẩn bị trận địa.
– (2) Phát hiện địch trước và tác xạ
phủ đầu trước buộc địch phải kiếm nơi trú ẩn theo phản ứng tự
nhiên của con người.
– (3) Nhiều minigun có xạ thủ tác xạ
bao vùng (air cover) là một khắc tinh khống chế dí đầu đối thủ
trên các thiết xa PT–76 phải nằm rạp xuống, chỉ cần một chiếc
gunship lấy tí cao độ bắn rockets chống tăng để hủy diệt dễ hơn
bắn một con Nai đang chạy; nếu nơi này địch quá đông ta sẽ yểm
trợ thêm hoả tiễn chống biển người.
– (4) Chướng ngại vật thiên nhiên như
đồi núi, ngách đá, trên tàn cây (độn rừng), và cao độ rà sát áp
đảo, ngụy hóa âm thanh làm cho địch ngơ ngác không biết sát thủ
từ hướng nào bay đến từ trên ngọn cây, nếu ngoan cố sẽ bị minigun
tiêu diệt trước khi mở mắt nhìn thấy sát thủ vừa bay thoáng qua.
– (5) Có nhiều con mắt Cú vọ như diều
hâu của các xạ thủ đầy kinh nghiệm chiến trận không thể bỏ sót
những con mồi đang nằm trong tầm mắt.
Tại TOC dưới hầm Hàm Nghi, tôi đã bàn
thảo với ba Đại tá Cockerham, Battreallda, cùng Tham mưu phó Hành
Quân/QÐI, xin được 20 phút ngừng tất cả hỏa lực pháo binh tác xạ
cũng như không yểm, để chúng tôi làm cuộc đột kích lấy yếu tố bất
ngờ cứu tất cả 2 phi hành đoàn H–34 và thương binh Dù. Sau một
hồi lâu bàn thảo suy tính cân nhắc, rồi các đại tá này mới miễn
cưỡng chịu chấp thuận. Vòng chờ của các hợp đoàn chúng tôi, lấy
vùng trời A–Lưới, 15 phút làm điểm tập hợp như là một vòng chờ
cho cuộc phi diễn bay vào khán đài Ðồi 31. Cuộc rescue này do sự
quyết định của tôi chỉ trong vòng có 5 phút chóp nhoáng trong
vòng 20 phút cho cuộc hành quân phải hoàn thành. Giờ G và Phút P
sẽ cho TOC biết ngay sau khi sương mù tan tại vùng hành quân.
Tôi sẽ đích thân cho TOC biết sau; sự
cấp cứu chỉ cần 5 phút đột xuất trong chóp nhoáng là phải thi
hành cho xong:
– 3 gunship sẽ bay sát ngọn cây cách
nhau 5 giây echelon trái, tầm đạn cuồng sát trên đầu địch 75
thước, trong vị thế cường kích. Ðiểm xuất phát TÐ8 Dù, từ điểm
chạm tuyến của Đại Đội Trinh Sát Dù, bay thẳng về hướng Tây–Bắc,
thẳng đến sườn trái của Ðồi 31, trong lúc 3 H–34 ở cách sau 45
giây với cao độ 150 thước song song với mặt rừng, 3 H–34 theo sau
bay thẳng một mạch tới Bunker gần LZ để bốc tất cả đoàn viên
cùng thương binh, dưới sự bao vùng của 6 bầu lửa minigun cover
4,000 viên/phút, rải đều như trận mưa rào nặng hột, lấy Ðồi 31
làm tâm điểm, chia đều khoảng cách trên chu vi oanh kích, tuyệt
đối không sử dụng rockets chống Tăng mà chỉ dùng khi hữu sự, dồn
nỗ lực rescue càng nhanh càng tốt; chỉ trừ khi lính BV phản ứng
phóng ra khỏi hầm trú ẩn và chịu chấp nhận nghinh chiến thì đã bị
bất khả dụng vì không tránh khỏi bị thương tích với trên 100,000
cái đinh sắt ghim vào người họ vào lúc cao điểm khi H–34 đang đáp
xuống.
– Từ
điểm xuất phát trên đầu 2 Ðại Đội Trinh Sát Dù bay thẳng đến Ðồi
31 là 4 cây số, theo sau 50 giây trên cao độ 150 thước cách mặt
rừng 3 H–34 bay thẳng đến Bunker để đón tất cả 2 phđ và thương
binh, vì đạn M–60 trên H–34 không nhiều nên chỉ tác xạ khuấy rối
(neutralization) khi thấy 2 gunship kè hai bên phụt xuống bằng
hỏa tiễn chống biển người, có nghĩa khi cơ phi trên H–34 thấy
từng cụm khói đỏ hồng phụt ra từ 2 gunship kè hai bên, lúc đó cơ
phi hãy tác xạ tự vệ. Chiéc gun số 2, 3 sẽ dùng hoả tiễn chống
biển người để chống trả; coi như rockets chống Tăng của Lead Trần
Lê Tiến [Trung úy Tiến và tôi là 2 người đầu tiên xác định
gunship với USAF, và S/I.P UH1 với 1st Army Aviation] chỉ để dành
khi hữu sự mà không dùng càng tốt. Cái quan trọng nhứt là bốc
thật nhanh đồng đội và thương binh Dù ra, vì đây không phải mục
tiêu cần phải tiêu diệt; thực ra rockets chỉ là những hoả lực tự
vệ, Minigun mới vô cùng lợi hại như dĩ vãng đã chứng minh.
– Tôi sẽ bay C&C cùng với sĩ quan tham
mưu Tiền Phương Dù, sử dụng tối đa M–18 cùng M–60 bắn xuống vào
những nơi mà sĩ quan Tham muu Dù nghi ngờ để phụ thêm hoả lực lúc
cao điểm. Thế là chúng tôi sẽ hướng dẫn 3 chiếc gunships trang bị
14 rockets chống Tăng, 28 rockets chống biển người, dẹp
pod–rockets 19 thay vào pod–7 cho nhẹ và trang bị tối đa 12,000
viên 7.62ly minigun cho dễ linh động khi phải nhào lộn tác xạ;
Trung úy Trần Lê Tiến sẽ lead 3 gun bay thẳng vào, trên ngọn cây,
từ đám rừng già trước mặt, trên đầu 2 Đại Đội Trinh Sát Dù; khi
bay qua khỏi vị trí Dù 45 giây thì bắt đầu khai hỏa: 6 xạ thủ
đứng sõng lưng chồm ra ngoài rảo con mắt diều hâu dội mưa xuống
4,000 viên/phút, nhưng phải rút kinh nghiệm khi tăng khi giảm
cường độ để duy trì hệ thống control–box không bị overcharge, bay
thẳng một mạch đến bên trái Ðồi 31, lúc này Lead gun quẹo gắt
qua phải lên cao độ bao vùng, kế tiếp chiếc 2 và 3 cùng lên cao
độ, kè hai bên H–34 vừa mới tới mà phụt rockets chống biển người
xuống bao vùng chung quanh. Tuyệt đối khai thác chướng ngại vật
thiên nhiên, tàn cây, ngách núi, cùng khe đá, phải chủ động khống
chế đối phương bằng hỏa lực cường tập, gầm thét, áp đảo bằng
minigun là chính, không cho phép địch ngóc đầu lên chống trả; chỉ
sử dụng rockets khi địch quân dám xuất đầu lộ diện chịu chơi.
Nếu có chiến xa cũng bắn chụp lên phủ đầu không cho chúng ló đầu
ra khỏi pháo tháp bắn trả.
– Lead Trần Lê Tiến thấy cần thì một
mình lấy cao độ hủy diệt nó, trong khi 6 miniguns vẫn tiếp tục
nhả đạn bao vùng, nhưng tốt hơn tha cho nó mà dành hỏa lực chỉ để
rescue mà thôi. Ðiều quan trọng là cứu phi hành đoàn và thương
binh là hoàn thành phi vụ với sự mãn nguyện đối với chúng ta
100%. Hợp đoàn của chúng tôi sẽ phối họp bao vùng, không cần hoả
yểm của Mỹ vì cũng chẳng ích lợi gì ở vùng núi cao hiểm trở
này, như Mỹ đã tiền oanh kích một cách vô ích dưới sự chứng kiến
của chúng tôi, mà còn báo động cho địch ở vị thế sẵn sàng chiến
đấu, hơn nữa lại còn làm cho địch biết trước rồi núp vào các hầm
hố kiên cố cùng làm mất thế chủ động và bất ngờ. Rơi vào thế bị
động như Mỹ. Ðộng thái này có nghĩa không cho phép địch ở vị thế
thượng phong chuẩn bị sẵn sàng phản kích mà ta phải giành có
quyền chọn thế thượng phong. Trong chiến trận ai giành được thế
chủ động thì người đó nắm chắc phần thắng.
– Trung úy Tiến sẽ cover để vào vừa tải
thương binh Dù đồng thời bốc 2 phi hành đoàn ra trong vòng 5 phút
tối đa. Trên vùng trời Ðồi 31, 3 chiếc gunships khai thác tối đa,
lấy Ðồi 31 làm tâm điểm chia đều cover trên châu vi hình tròn mà
mưa xuống không chừa chỗ nào để địch không có thể chòi ra bắn
trả, vào lúc cao điểm khi H–34 vừa đáp thì được bao phủ kín mít
bằng cả trăm ngàn mũi tên đinh sắt ghim xuống. Nên chắc chắn một
điều, hãy quên rockets mà chỉ chú trọng đến mưa đạn minigun, phải
dí đầu mấy tay súng không cho phép địch chường mặt, tôi nghĩ
chúng ta có thể làm được. Cuộc Rescue này rockets chỉ là hỏa lực
tự vệ không cần thiết khi phải ứng xử.
– Nhưng khốn nạn thay, trời không chiều
lòng người, tạo nên một buổi sáng sương mù tan quá trễ. Lợi dụng
trong khi sương mù bao phủ, các Trung Đoàn BV bôn tẩu với ý định
lấy thịt đè người bằng xa luân chiến càn quét chỉ một Tiểu Đoàn
3 Dù trừ (300 tay súng mà thôi). Trung Đoàn chạm trán đầu tiên là
24B cùng với Trung Đoàn 27 cơ động ở hướng Tây–Bắc, chính nó vừa
làm thiệt hại cho TÐ 6 Dù, ngay sau khi đổ bộ xuống để tiếp cứu
Ðồi 31, tiếp theo đó 2 Trung Đoàn 102 và 88 đang chuẩn bị tham
chiến từ hướng Đông–Bắc thuộc Quân đoàn 70B, có Trung Đoàn chiến
xa 202 yểm trợ. Chúng quyết thanh toán Ðồi 31 với bất cứ giá
nào.
Kế hoạch
rescue của tôi hoàn toàn bị đình động, khi bất thần 42 khẩu trọng
pháo của Mỹ ở Khe Sanh đã đồng loạt tác xạ vào chung quanh Ðồi 31
vì áp lực của địch vô cùng dữ dội, trước sự vô cùng ngạc nhiên
của chúng tôi, như vừa thỏa thuận buổi hợp sáng nay.
Bây giờ, nơi Bunker Ðồi 31, 2 PHĐ cùng
vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong một hầm trú ẩn. Ðến
trưa khi 2 PHĐ bắt đầu nghe tiếng máy nổ quen thuộc xa xa thì cũng
là lúc địch khởi đầu trận, nói theo danh từ quân BV là “Trận địa
pháo” dồn dập lên chung quanh Ðồi 31. Than ôi! Ðúng là “mưu sự
tại nhân thành sự tại thiên”, Quân BV đã lợi dụng sương mù chuẩn
bị một lực lượng hết sức hùng hậu, đông như kiến mong sẽ chụp 300
Thiên Thần Mũ Đỏ chống đỡ; vì dân bay đã thấy trước qua lỗ châu
mai từ trong hầm cứu thương nhìn qua bên kia đồi đối diện, cách
nhau một cái yên ngựa, 2 PHĐ thấy rõ hai chiếc thiết xa PT–76 còn
T–54 không leo lên được nên từ dưới chân đồi bắn trực xạ lên Ðồi,
cả Lữ Đoàn III Nhảy Dù, mà chỉ có 300 chiến sĩ chống giữ. Quân
BV thuộc Trung Đoàn 24B/304 và thêm 2 Trung Đoàn 9 và 66 sắp sửa
tham chiến, chúng đang bôn tập từ hướng Đông–Bắc tới.
Bây giờ Trung Ðoàn 24B đang tiến lên
xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc theo sau chung
quanh nhắm đỉnh Đồi 31 mà nhả đạn; còn Trung Đoàn cơ động 27 đang
án ngữ hướng Tây chận TÐ6ND ở bên sườn tây. Những tia lửa nòng
súng phụt ra từ các PT–76 và T–54 thuộc Trung Ðoàn chiến xa 202.
Dưới Bunker, dân bay thụp đầu xuống cùng nhìn nhau như nhắc nhớ
câu mà anh em trong Phi Đoàn thường nói với nhau mỗi khi lên
đường hành quân “Trời kêu ai nấy dạ, đạn tránh người chớ người
không thể tránh đạn!” Ngồi trên ghế lái C&C như đỉa phải vôi,
tôi không ngờ quân BV mạnh và nhiều đơn vị cấp Trung Đoàn đến
thế, chúng âm mưu tấn công như bầy kiến tha hột cơm, làm sao quân
Dù phòng thủ của ta chỉ có 300 tay súng chống đỡ? Có cả thiết vận
xa PT–76 và chiến xa T–54 từ dưới chân núi bắn trực xạ lên.
Ngoài kia, trong từng giao thông hào
binh sĩ Dù chống trả mãnh liệt, nhất là những pháo thủ pháo đội C
trên Căn cứ 31, với những khẩu pháo đã bị hỏng bộ máy nhắm vì
pháo kích 152ly xuyên phá của địch, họ phải hạ nòng đại bác để
bắn trực xạ thẳng vào thiết xa PT–76 địch bên kia đồi và trong
những loạt đạn đầu tiên đã hạ ngay được 2 chiếc PT–76. Nhưng để
trả giá cho hành động dũng cảm này nhiều binh sĩ Dù đã nằm xuống,
có người nằm chết vắt trên những khẩu pháo của họ, trong số này
có cả Pháo đội trưởng Nguyễn văn Ðương, người đã là niềm hứng
khởi cho một nhạc phẩm nổi tiếng sau đó. Anh em Dù vui sướng reo
mừng trong hầm bên này; không ngờ, chỉ một lúc sau 2 thiết xa
PT–76 khác ở phía sau tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền
đồi rồi lại hướng súng đại bác về Đồi 31 mà bắn! Còn những chiếc
T–54 không leo lên được thì sủa bậy bạ lên phía trên đồi để hù
dọa các Thiên Thần Mũ Đỏ. Sau vài loạt đạn, một Phi Tuần 2 chiếc
F4 Phantom xuất hiện nhào xuống oanh tạc vào đội hình Trung Ðoàn
24B, và lại phá hủy thêm 2 PT–76 nữa. Nhưng chẳng may một chiếc
F–4 bị trúng phòng không 37ly xì khói, phi công đang nhảy dù, thế
là tất cả phi cơ Mỹ đều bỏ lại và dồn nỗ lực vào rescue chiếc
F–4, người quan sát viên Việt ngồi ghế sau thuộc Phi Đoàn 110
của FAC Bronco OV–10 đành thở ra lắc đầu ngao ngán.
Trong tiếng bom đạn tơi bời, dân bay
mừng rỡ vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H–34
thương yêu đang vần vũ trên cao cùng chiếc UH–1 C&C của con chim
đầu đàn nguyện không bỏ anh em không bỏ bạn bè, đang vang vọng
trên đó như lo lắng cho số phận những đồng đội của mình. Cho đến
khoảng 5:00g chiều thì quân BV tràn lên chiếm được đồi. Chúng
lùng xục từng hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết
không thể làm gì hơn, 2 PHĐ tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi
hầm, và chịu cảnh hàng binh.
Về phía KQ, Bửu, Khánh, On, và Sơn bị
trói bằng dây điện thoại và ngay tức khắc bị dẫn giải ra Bắc băng
đường 92B chung với tất cả tù binh khác, vì sợ B–52 trải thảm.
Không thấy Giang và Em đâu; anh em KQ tìm hỏi nhau, họ bắt đầu
thăm hỏi các SQ và binh sĩ Dù trên đường bị áp tải. Cuối cùng họ
gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh Giang khi
cộng quân kêu các anh ra đầu hàng. Ðến lần thứ 3 các anh vẫn
không chịu ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm;
anh Long chỉ bị thương nhẹ nên chúng bắt theo còn anh Giang vì bị
thương nặng gãy cả 2 chân không đi được nên bị chúng bỏ lại và
chết ở trong hầm. Về phần cơ phi Em thì bị lạc đạn trúng bụng đổ
ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi anh Em cứ 2 tay ôm bụng giữ lấy
ruột mà không hề được băng bó vết thương nên đi được một quãng,
không chịu được đau đớn anh Em gục chết ở bên đường.
Thế là PĐ–219 ghi thêm vào quân sử của
LÐ/51/TC thêm một thiệt hại 2 phi hành đoàn trên chiến trường Hạ
Lào; trong đó anh Giang và Em đã vĩnh viễn ở lại trên trái đồi
oan nghiệt này. Ngọn Đồi quyết tử 31; những người còn lại của 2
phi hành đoàn đó là Bửu, Khánh, On, và Sơn thì sa vào tay địch,
bị đưa đến những bến bờ vô định, biết còn có ngày về hay không?
KQ Trương văn Vinh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tqh chuyển
Đăng ngày Thứ Hai, February 17, 2025
Ban Kỹ Thuật
Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang