Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự Truyện
Chủ đề:
lính kể
Tác giả: KQ Đào Vũ Anh Hùng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Gọi là để tưởng nhớ những vì sao Không Quân.
–Đào Vũ Anh Hùng.
Đó
là buổi sáng trời rất đẹp của ngày 26 tháng 2, năm
1962.
Tôi đạp xe từ Phú Nhuận lên nhà sách Khai
Trí tìm mua vài quyển Toán, chạy ngang Dinh Độc Lập.
Khi vừa qua khỏi ngã tư Hồng Thập Tự – Công Lý, bỗng
giật bắn mình, nghe phủ ào qua đầu một tiếng gầm
xé thinh không cực lớn và thật gần, ngay trên những
ngọn cây sao cao vút bên vệ đường. Tôi thật không biết
chuyện gì xảy ra, kinh hoảng đâm xe lủi vào lề, nhảy
xuống. Tôi đứng dưới một gốc sao nhìn lên trời, nơi
vừa giáng xuống tiếng gầm như trời sập và tim đập
loạn.
Loáng thoáng qua vòm cây, tôi thấy một
chiếc máy bay khu trục xé gió bay rất thấp phía sông
Sài Gòn hướng về Dinh Độc Lập. Nó vút lên cao, nghiêng
đôi cánh sắt, lượn gắt một vòng nữa rồi quay lại...
Tôi không hiểu chuyện gì xảy ra, hết hồn quẳng vội
chiếc xe, ngồi bệt xuống đất, nép vào gốc cây nhìn
lên cái bụng sơn trắng của chiếc phi cơ với những
trái bom thon dài sáng bạc được nhả ra, loang loáng
lướt qua vòm cây, rơi xéo xuống cánh trái dinh ông
Diệm. Rồi tiếng nổ, khói bụi bốc lên. Súng phòng
không từ trong dinh và từ phía bến Bạch Đằng giòn
giã nổ lụp bụp trên trời từng cụm khói đuổi theo
con chim sắt. Tôi thấy thêm một chiếc khác bay cao và
bay xa hơn, phía bến Bạch Đằng, cũng đang bị săn
đuổi, chao liệng như chim hâu len lách giữa những cụm
khói nở hoa đen trên nền trời xanh ngọc bích.
Buổi sáng lịch sử, hai phi công Phạm Phú Quốc và
Nguyễn Văn Cử oanh kích Dinh Độc Lập tôi tình cờ
chứng kiến từ phút giây đầu. Trước đó, năm 1960,
cũng chính ngay cổng Dinh Độc Lập, tôi đã chứng kiến
cuộc nổi dậy ngắn ngủi của quân Dù do các Trung tá
Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Triệu Hồng chủ xướng và
thất bại, người thì chết, người phải lưu vong.
Năm cuối cùng của chế độ nhà Ngô, tôi ở trong
Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, tham gia phong trào tranh
đấu Phật Giáo, bị mật vụ của Dương Văn Hiếu thuộc
Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt giam cho đến
ngày cách mạng 1/11/63, có lẽ vì ảnh hưởng tinh
thần Quốc–Cử và vì không khí đấu tranh sôi bùng
nhiệt huyết tuổi hai mươi. Sau này tôi gia nhập Không
Quân, không biết có phải vì hình ảnh hai chiếc khu
trục sáng ngày hôm đó, cùng những cái tên tôi cho
rằng rất đẹp và hùng can dự vào những biến cố làm
đổi thay lịch sử – tên tuổi những phi công Nguyễn Văn
Cử, Phạm Phú Quốc, Phan Phụng Tiên, Huỳnh Minh
Đường... hay hình ảnh ông Kỳ trong bộ đồ bay đen với
huy hiệu Thần Phong in trên bìa báo Paris Match đã ảnh
hưởng sâu đậm đến quyết định tương lai của tôi. Những
người danh tiếng trên, tôi chỉ không biết phi công
Huỳnh Minh Đường. Còn các nhân vật Nguyễn Văn Cử,
Phạm Phú Quốc, Phan Phụng Tiên, tôi biết là do chơi
với Tâm, Phúc, em ông Cử, với Phạm Phú Đê, em ông
Quốc, và Phó Quốc Uy, em vợ Tướng Tiên.
Tôi
vốn yêu những mái tóc trung niên bạc mà đẹp, có nét
giang hồ từng trải, hào hoa nghệ sĩ như mái tóc Phan
Phụng Tiên, Hoàng Hải Thủy, hay Tướng Nguyễn Văn
Hiếu... Nên khi gặp Tướng Tiên lần đầu, tôi thấy rất
gần gũi, bởi mái tóc bạc của ông, và bởi ông là
một trong những người hùng tham gia cuộc đảo chính
hụt ngày nào. Lúc đó là năm 1973, ông làm tư lệnh Sư
Đoàn 5 Không Quân và tôi được biệt phái về Sài Gòn,
đặc trách thành lập Biệt Đội Trực Thăng Dạ Thám
bảo vệ vòng đai thủ đô và các vùng phụ cận, sau
mùa Hè đỏ lửa 1972.
Thời gian đó, Việt cộng
mở chiến dịch vừa đánh vừa đàm song song với hòa
hội Paris. Sài Gòn là mục tiêu của những cuộc pháo
kích để khủng bố và gây tiếng vang. Tôi thành lập
Biệt Đội Night Hawk, đêm đêm bay những phi vụ tuần
thám, rọi đèn củ soát những nơi nghi ngờ có đặc
công Việt cộng xâm nhập hay xạ kích vào những “trận
địa pháo” do địch đặt súng cối hay hỏa tiễn nhắm
vào Sài Gòn từ các vùng ven đô như Tân Bình, Vĩnh
Lộc, Nhà Bè, Thủ Đức, Gia Định, Thủ Thiêm, Hóc Môn,
Bình Chánh, Nhơn Trạch, Gò Vấp, v.v. Tôi được chỉ
định trông coi Biệt Đội Trực Thăng Dạ Thám vì trước
đó, đã thành công trong nhiệm vụ thành lập Biệt Đội
Trực Thăng Võ Trang yểm trợ Đặc Khu Rừng Sác, hộ
tống các giang thuyền Hải Quân, áp tải tàu bè, các
thương thuyền di chuyển trên sông Lòng Tàu từ Sài Gòn ra
Vũng Tàu và ngược lại, can thiệp ngăn chặn các cuộc
phục kích của Việt cộng...
Biệt Đội thuộc
quân số Sư Đoàn 3 KQ ở Biên Hòa nhưng nhận lệnh chỉ
huy và điều động của nhiều cấp bộ khác nhau: Bộ Tư
Lệnh Biệt Khu Thủ đô (Chuẩn tướng Lý Bá Hỷ), Bộ Tư
Lệnh Không Quân (Thiếu tướng Võ Xuân Lành, Tư lệnh
phó). Phòng Đặc Trách Trực Thăng BTL/KQ. Sư Đoàn 3 KQ,
và Không Đoàn 33 Chiến Thuật có nhiệm vụ yểm trợ
Biệt Đội. Vị thế của tôi rất tế nhị và phức tạp
giữa các cơ cấu quyền lực đó. Chiều chiều chúng tôi
đem phi cơ vào Tân Sơn Nhất, đêm bay, sáng hôm sau đem
tầu về trả Biên Hòa.
Cũng vì mỗi đêm phải
vào Tân Sơn Nhất, chúng tôi được cho một phòng trực
với đầy đủ tiện nghi, máy lạnh, giường nệm... Tôi
lên gặp Chuẩn tướng Phan Phụng Tiên, xin cho Biệt Đội
mỗi tháng mười ngàn đồng mua cà phê, nước ngọt để
các phi hành đoàn giải khát. Ông ký giấy cho liền
và hỏi, “Mười ngàn đủ không?” Rồi không đợi tôi trả
lời, ông nói luôn, “Tôi biết trực thăng các cậu khổ
bỏ sừ!”. Tôi cười, nói một câu cám ơn, chào rồi ra
về.
Tướng Tiên lấy bà Hoàn – Phó Thị Ngọc
Hoàn – chị ruột của một người bạn rất thân của tôi,
Phó Quốc Uy, cũng là em cố Đại tá Phó Quốc Chụ,
một trong số 9 sĩ quan bị trực thăng Mỹ “bắn lầm”
ngày 1/6/1968 sau cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân,
trước cửa trường Phước Đức, số 266 đường Khổng Tử,
Chợ Lớn, có sáu vị Đại tá QLVNCH tử thương. Năm
1982, vợ chồng Uy vượt biển đến định cư ở Orlando,
chỗ Chuẩn tướng Tiên và Trung tá Phó Quốc Dũng tự
Dũng “Mù” (vì ông đeo kính cận hạng nặng), thuộc
Khối Yểm Trợ Hành Quân SĐ5KQ, tôi kéo cả nhà qua
thăm. Đó là lần tôi gặp lại Tướng Phan Phụng Tiên kể
từ sau ngày rời Biệt Đội Night Hawk đi học khóa Chỉ
Huy Tham Mưu rồi trở lại Phi Đoàn. Anh em nói chuyện
xưa, nói đến những ngày cuối cùng, đến giây phút
cuối cùng rời bỏ Sài Gòn. Chính lúc đó tôi mới biết
chỉ chút xíu nữa tôi có thể cũng kẹt ở lại hoặc
bị bắn rớt ngay sáng ngày 29/4, bên hông Câu lạc bộ
Huỳnh Hữu Bạc, khi tôi hẹn Tướng Kỳ để tôi bay về
đón vợ con rồi trở lại Nhà Bè trong vòng 30 phút,
rồi sẽ đưa anh em xuống Cần Thơ theo lời ông dặn...
Tướng Tiên nói:
– Sáng hôm đó, anh ngồi
trong phòng Hành quân với ông Lành. Phòng Thủ gọi
máy báo có chiếc trực thăng đáp sân Câu lạc bộ
Huỳnh Hữu Bạc. Ông Lành nói, đừng để pilot gây ra
“panic”. Cả anh lẫn ông Lành đều nghĩ thằng quản lý
Câu lạc bộ đem máy bay về đón vợ con nó. Ông Lành ra
lệnh cho Phòng Thủ hãy bắt giữ phi hành đoàn lại,
không cho cất cánh, nếu trái lệnh, cứ bắn hạ...
Tôi thú vị với những điều ông vừa kể:
–
Anh biết không, chính em lái chiếc phi cơ đó, đáp
xuống Huỳnh Hữu Bạc.
Ông cười:
– Cậu hên
dấy! Anh thấy ông Lành rất serious.
Sau này tôi
còn xuống Orlando thăm ông lần thứ nhì. Ông vẫn “kỹ”
như ngày xưa, trong nhà không có lấy một hạt bụi. Hồ
tắm che lưới, lá cây không rớt được xuống hồ. Chị
Hoàn ghé tai tôi:
– Anh ấy không cho chị nấu
nướng trong nhà. Chị phải đặt một cái bếp ở garage,
em thấy có khổ không?
Cái nhà đó là của vợ
chồng Tuấn để cho bố mẹ ở. Vợ chồng Tuấn–Vân ở
Dallas vì Tuấn làm việc tại đây. Trong lúc chuyện
trò, ông kể cho tôi nghe chuyện ông bị thổ ra hàng
chậu máu, phải qua Pháp tĩnh dưỡng sau khi bán cái
cửa tiệm buôn vỏ xe hơi ở Cali.
– Anh già rồi,
trong người không được khỏe. Không ngờ đến cái tuổi
này mình xuống sức quá.
Ông bà Tiên về chơi
Dallas hai lần, ở nhà Tuấn. Tôi vẫn thường qua ăn cơm
với ông, đem sách truyện cho ông đọc, dẫn ông đi thăm
bạn bè hoặc hai anh em tha thẩn trong khu thương xá,
nói với nhau đủ thứ chuyện, nhất là chuyện Không
Quân. Ông có vẻ thích Dallas, muốn về Dallas và hẹn
nếu bán được cái nhà ở Orlando cho cháu Tuấn, sẽ
dọn lên trên này.
Nhưng ông vĩnh viễn không bao
giờ trở lại thành phố Dallas nữa. Ông bà Tiên về ở
với vợ chồng ông Dũng Mù, là anh vợ và cũng là
bạn thiếu thời của ông Tiên. Lần này đúng là ông
“ngã” xuống, theo nghĩa bóng. Và rồi tối thứ Bảy
21/11/1995, ông “ngã xuống” thật, theo nghĩa đen, sau
bữa ăn vui vẻ ở nhà cháu Uyển, con gái vợ chồng
Uy–Thảo, “Bác Tiên ăn hết bát mì lớn, chuyện trò
mãi với chúng cháu tới gần nửa đêm, rất vui vẻ,
không có một triệu chứng gì... Bác về, vào phòng
tắm, ngã, đi luôn...”
Nghe tin ông chết đường
đột. Tôi điếng lặng đi một lúc... Cuối tháng 9/1995,
tôi qua San Francisco, gặp Tuấn trong đám cưới con trai
lớn của Uy–Thảo lấy cháu Quỳnh Anh, ái nữ của ông
Hiệp Cồ, trưởng trường Quân sự ngày xưa. Tôi hỏi thăm
tình trạng sức khỏe Tướng Tiên. Tuấn nói, “Bố cháu
dạo này cũng khỏe.” Tôi nghe, không mấy yên tâm vì ông
về Dallas lần trước, có vẻ mệt mỏi, khá mệt mỏi.
Ông không còn nhậm lẹ, ngại gió máy, quấn cái khăn
phu–la quanh cổ và thỉnh thoảng ho húng hắng. Ông có
dáng của một người đã về già, dù rằng mắt còn
sáng, gương mặt còn rắn rỏi. Dáng của một con hổ
nhớ rừng, trầm mặc, u hoài tưởng tiếc thời oanh
liệt.
*
* *
Thời gian trông coi Biệt
Đội Night Hawk, tôi gặp Tướng Tiên có vài lần. Nhưng
với Tướng Võ Xuân Lành, Tư lệnh phó Không Quân thì
tôi gặp thường hơn và có cơ hội hiểu tính tình ông
nhiều hơn. Trước đây, tôi chỉ được nghe biết về ông
qua những “huyền thoại”. Hoặc thỉnh thoảng về Bộ Tư
Lệnh, ghé Câu lạc bộ uống nước với Thế Phong hay
Phạm Hồ, thấy ông hay ngồi trầm ngâm một mình một
bàn, gói kín, lầm lì khắc khổ trong bộ treillis với
ngôi sao thêu chỉ đen trên cổ áo rất khó nhận ra cấp
bậc.
Như đã nói, Tướng Lành trách nhiệm giám
trợ Biệt Đội Night Hawk do tôi chỉ huy. Ông liên lạc
hàng ngày với Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ đô, theo dõi
hoạt động của Biệt Đội và giải quyết các vấn đề
trên cấp Tư lệnh. Nhưng thực ra, ông không phải giải
quyết gì vì tôi hàng tuần họp và giải quyết trực
tiếp với BTL/BKTĐ hoặc với Khối Đặc Trách Trực Thăng
của Đại tá Trần Minh Thiện.
Là Biệt đội
trưởng, tôi có nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy và điều
động hoa tiêu, hàng ngày theo dõi các phi vụ, giải
quyết các trở ngại hay các vấn đề liên quan đến công
tác hành quân, dự các phiên họp hoặc thuyết trình
Quân báo, báo cáo phi xuất với Không Đoàn 33, với
phòng Đặc trách Trực thăng, Bộ Tư Lệnh KQ, Biệt Khu
Thủ đô, và Không Đoàn 43 Chiến Thuật. Cương vị tôi
hết sức tế nhị và phức tạp, chắc chắn không thể
tránh được những đụng chạm với các đơn vị bạn.
Biết thế nào cũng có chuyện xảy ra, nên tôi hết sức
giữ gìn và kêu gọi hoa tiêu phải tuyệt đối tôn trọng
kỷ luật phi hành, tôn trọng các tiêu lệnh hành quân
và an phi. Tôi buộc hoa tiêu phải ghi tất cả mọi sự
việc, mọi biến cố xảy ra trong đêm, thật đầy đủ chi
tiết và các diễn tiến trong sổ Nhật ký Hành quân,
phòng khi dùng đến.
Quả nhiên, những điều lo xa
không phải vô ích. Trong một cuộc họp hàng tháng tại
Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ đô, dưới sự chủ tọa của
Chuẩn tướng Lý Bá Hỷ, các sĩ quan đại diện đơn vị
của Tiểu Khu Gia Định, các Chi Khu, các đơn vị biệt
lập... Khi giải thích lý do tại sao quân bạn bị bắn
lầm, tọa độ xạ kích cho sai, phi cơ cất cánh trễ
giờ, bay ra ngoài địa giới, chỉ điểm pháo binh không
chính xác, v.v. tất cả đều quy lỗi về phía phi hành
đoàn. Những lời cáo buộc đều mang tính cách chung
chung, không ai đưa ra một bằng chứng cụ thể nào, rõ
ràng là muốn trút bỏ trách nhiệm lên Không Quân một
cách khơi khơi, theo kiểu “khẩu thuyết vô bằng!”...
Tôi lên bục thuyết trình sau cùng, với sổ Nhật
ký Hành quân trong tay. Tôi cảm ơn các sĩ quan bạn về
những điều họ vừa cho biết, xin lỗi và nhận trách
nhiệm tất cả những “bê bối”, những lỗi lầm lớn nhỏ
đó, nếu quả thực do hoa tiêu gây ra. Tôi trình bày tất
cả những sự việc được ghi nhận trên giấy trắng mực
đen, những sự kiện có thật, không một lời biện minh,
để mọi người dự họp toàn quyền thẩm định mức độ
xác thực và giá trị mỗi biến cố.
Tôi lật
từng trang giấy, đọc to và rõ ràng những vụ việc
xảy ra, với tên tuổi của từng vị sĩ quan “ngồi
thùng”, đi theo trực thăng dạ thám (mà chúng tôi gọi
đùa là phi vụ “soi ếch”), với cấp bậc, số quân, đơn
vị, tọa độ, cùng đầy đủ chi tiết sự việc xảy ra
trong đêm:
– Ngày....., Trung uý....., số quân.....
lên tầu yêu cầu muốn bay đi đâu thì bay, hết giờ cứ
việc bay về, để ông nằm ngủ.
– Ngày.....,
Thiếu uý....., số quân..... không biết coi bản đồ,
hỏi, được cho biết là sĩ quan Ban 1, đi thế ông sĩ
quan Ban 3 “bận công việc” không đi bay được.
–
Ngày....., Đại uý....., số quân..... dắt theo một cô
gái, năn nỉ xin cho đi bay cùng, để xem “Sài Gòn By
Night” ra thế nào?
– Ngày....., Đại uý....., số
quân..... lên tầu ói mửa đầy sàn vì say rượu. Phi
hành đoàn phải hủy bỏ phi vụ bởi không người thay
thế.
– Ngày....., Chi Khu....., Phi cơ xuống đón
sĩ quan tháp tùng, bị trong đồn bắn lên không cho đáp
vì “Máy bay làm ồn không ngủ được!”, v.v. và v.v.
Sau phần thuyết trình của tôi, cử tọa im phăng
phắc. Không khí ngột ngạt thấy rõ. Chuẩn tướng Lý
Bá Hỷ không nói một lời. Ông cám ơn tôi và cho giải
tán buổi họp ngay lập tức. Thiếu tá Phong Già, sĩ
quan Liên lạc KQ tại BKTĐ chạy theo níu lấy tôi nhăn
nhó:
– Ông làm mạnh quá, kẹt tôi!
Tôi
cười:
– Nếu họ không đổ rác lên đầu Không Quân,
tôi bao giờ đem những chuyện ấy ra nói công khai? Ông
cần xăng nhớt đã đành, nhưng đây là vấn đề danh dự
của Không Quân...
Các người anh em không có
chuyện báo cáo trong cuộc họp, đã đem ra nói khơi
khơi làm quà cho ông tướng mà không ý thức như thế
là bôi bác danh dự chúng tôi, những thằng Không Quân
“chân không tới đất, cật chẳng tới trời”!
Ngay
sáng hôm sau, Đại tá Trần Minh Thiện gọi tôi vào Bộ
Tư Lệnh Không Quân trình diện. Vừa thấy tôi, ông cười,
hỏi:
– Anh biết tôi cho đòi anh vô đây có chuyện
chi không?
Tôi nhìn vị chỉ huy trưởng cũ hiền
như Bụt của mình ngày xưa, nói tỉnh:
– Đại tá
phạt tôi vì chuyện bên Biệt Khu Thủ đô ngày hôm qua
chứ gì?
– Anh làm gì mà phạt? Mấy ông Cố vấn
Mỹ đi họp về khen anh lắm đó! Thôi, vào đây.
Tôi theo ông bước qua một phòng làm việc khác trong
Khối Đặc trách. Đó là văn phòng của một Đại tá Cố
vấn Mỹ. Tôi đứng nghiêm chào. Ông Đại tá đứng dậy,
bước vòng qua bàn bắt tay tôi. Ông cho biết sáng hôm
qua có dự cuộc họp ở BKTĐ, chứng kiến cuộc trần
thuyết của tôi. Ông có headset nghe thông dịch nên hiểu
tất cả, về, nói chuyện với Đại tá Thiện. Ông khen
tôi thẳng thắn dám nói sự thật và tặng tôi mấy
thùng bia Budweiser đem về cho Biệt Đội để tỏ lòng
yêu mến.
Tướng Lành cũng biết chuyện này. Môt
hôm gặp tôi trong Câu Lạc Bộ, ông hỏi, “Mấy thùng bia
các anh uống hết chưa?” Đó là lần đầu tiên tôi thấy
ông cười vui một cách rộng rãi. Vì biết ban ngày tôi
không đi bay, ông yêu cầu tôi huấn luyện ông bay trực
thăng một tuần vài giờ. Trong tất cả những phi vụ
huấn luyện đó, lần nào cũng có đàn anh Lưu Văn Trâm
thuộc phòng Đặc trách đi theo.
Tôi thường đưa
Tướng Lành đi bay tập ở những nơi gần Sài Gòn và có
an ninh, như vùng Thủ Đức hay Chi Khu Nhà Bè. Ông Trâm
ngồi thùng, mỗi lần thấy tôi để Tướng Lành đáp vào
các “confined area” – một trảng cỏ có cây cao chung
quanh hoặc bãi đáp nhỏ hẹp có rào giây kẽm gai – ông
Trâm có vẻ nhột, ngồi sau cứ thấp thỏm, sợ ra mặt,
lén vỗ vai tôi, ra hiệu bảo tôi nắm cần lái, đỡ cho
ông tướng. Tôi biết đàn anh Lưu Văn Trâm sợ là phải.
Nó giống như cảm giác một người lái Honda chở một
người ngồi sau. Anh ngồi lái muốn phóng lạng thế
nào cũng không sợ vì mình kiểm soát dược mình,
nhưng anh ngồi sau thì teo bu–di, la chói lói... Tôi cố
tình muốn trêu ông Trâm, để Tướng Lành muốn bay thế
nào thì bay, đáp sao thì đáp. Tôi đốt điếu thuốc,
hút phì phèo và gếch chân lên thành cửa cockpit ngắm
trời mây cho ông Trâm lộn ruột chơi, nhất là những
lúc Tướng Lành vô cận tiến đáp rụt rè vào cái ô
nhỏ xíu rào kẽm gai ở Nhà Bè.
Tướng Lành
rất tỉnh. Ông bay vững hơn Đại tá Tường “Mực” và
không nói nhiều, không đòi... uýnh “thầy” như ông
Tường, mỗi khi bay ẩu, bị “thầy” chụp cần lái. Đi
bay huấn luyện cho Đại tá Tường, ai cũng ớn. Mấy ông
Staffs các Phi Đoàn Trực thăng ở Biên Hòa, từ ông Lai,
Cửu, Luân, Ức, Vân, Lộc, Trọng... ông nào cũng “né”.
Cuối cùng họ “bán cái”, đùn cho tôi. Ông Lai dụ tôi:
– Tôi biết ở đây chỉ có anh là Đại tá Tường
không dám “uýnh” vì ổng nể anh hơn tụi tui. Trực
thăng mà ổng làm như khu trục, bay ào ào ghê thấy
bà. Mình chụp cần lái, ổng cung tay thúc cùi chỏ,
“Bộ mày chê tao không biết bay sao mà làm tàng?”. Tụi
tui thằng nào cũng rầu thúi ruột. Còn anh, tôi “bảo
đảm” ông Tường không dám đụng tới anh đâu!
Chẳng hiểu tôi nghe bùi tai hay tò mò muốn biết sếp
lớn dữ cỡ nào, bèn nhận lời. Buổi sáng xách nón
bay ra phi đạo, check tàu xong, tôi ngồi nghe nhạc đợi
sếp. Phi vụ huấn luyện ghi 8:30g cất cánh. Gần 9:00g
vẫn chưa thấy sếp ra. Tôi gọi máy xin hủy bỏ phi vụ.
Cậu sĩ quan trực hốt hoảng yêu cầu tôi đợi thêm vài
phút.
Mười phút sau xe Jeep đưa ông Tường ra phi
đạo. Thấy ông, tôi giả vờ cầm nón bay leo xuống,
nói:
– Trời đất!... Sao Đại tá giờ này mới
ra? Tôi gọi Đồng Nai hủy bỏ phi vụ rồi.
–
Rồi!... Cái gì mà càm ràm, bày đặt làm khó tôi?
Đoạn ông cười lớn:
– Ủa, mà sao hôm nay anh
bay? Bộ mấy thằng kia tụi nó ghét tôi lắm sao?
– Ghét thì không ai dám ghét nhưng ông “uýnh” đau
quá, họ sợ.
– Cha! Ngon lành ha? Vậy chớ anh
không sợ sao?
– Sợ chứ. Bởi thế tôi phải nói
trước với Đại tá, tôi nhỏ con, ông làm ơn tha cho
đừng đánh, tội nghiệp. Ông đánh là tôi bỏ bay, đi
thưa cảnh sát liền một khi...!
Đại tá Tường
cười khà khà:
– Thưa cảnh sát, uýnh theo cảnh
sát. Mấy thằng kia khôn tổ mẹ. Tôi mà dám đánh anh?
Đứa nào nói vậy?
Có lẽ tôi là người duy nhất
bay huấn luyện cho ông Tường Mực mà không bị đánh.
Trái lại, ông còn có vẻ thích đi bay với tôi để nói
chuyện lăng nhăng.
Đại tá Nguyễn Văn Tường và
Đại tá Trần Minh Thiện có lẽ là sĩ quan cao cấp
Không Quân chết sớm nhất ở Mỹ, từ năm 1976, 1977.
Tướng Lành chết bởi bệng ung thư xương năm 1982 ở San
Jose.
*
* *
San Jose, có hai ông tướng
Không Quân đã ra đi. Đó là Thiếu tướng Võ Xuân Lành
và rồi Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính. Tướng Tính là Tư
lệnh Sư Đoàn 3 KQ, tôi làm việc dưới quyền ông. Phải
nói, đời tôi có diễm phúc được làm việc dưới quyền
hai vị sĩ quan chỉ huy ngành tác chiến mà hiền hậu
dễ thương như những ông thánh. Đó là Đại tá Trần
Minh Thiện, ông “Thánh Denis”, và Chuẩn tướng Huỳnh
Bá Tính, người hiền trong những cấp chỉ huy hiền số
một của Không Quân.
Tôi du học về, chọn Phi
Đoàn 215 ở Nha Trang, lúc đó mới rời vào từ Đà
Nẵng được vài tháng, do Thiếu tá Thiện làm Phi đoàn
trưởng. Tôi đeo lon Chuẩn uý vào trình diện, thấy ông
người Nam, có nụ cười hết sức nhân hậu, cũng yên
tâm. Lúc đó Phi Đoàn còn bay H–34, to con, kềnh càng,
và... bẩn phát sợ. Bên trường bay, phi cơ Mỹ sạch như
lau, nên khi nhìn thấy máy bay của Việt Nam cũ kỹ
già nua, dầu mỡ, bùn đất dính bệt từ càng cho tới
nóc, tôi thật nản. Người bay ckeck–ride cho tôi đầu
tiên là Thiếu tá Thiện. Ông dẫn tôi ra bãi đậu, thấy
tôi đeo găng mà còn rón rén sợ bẩn, ông cười, leo lên
làm tiền phi. Tôi leo theo ông, chỉ sợ trượt chân té
gãy cổ! Ông chỉ một cái ống trên nóc phi cơ, hỏi
tôi:
– Cái này tiếng Mỹ kêu bằng gì?
Hồi đó phi cơ lèo tèo mươi chiếc, hư hỏng nằm ụ đến
một nửa, bay hành quân còn chưa đủ, lấy đâu mà huấn
luyện, nên bỏ lâu không bay dễ quên và lựng bựng. Tôi
nhìn cái ống cong cong chìa ra đằng trước, biết nó
là cái ống lấy áp xuất gió cho đồng hồ phi tốc
nhưng lú lẫn, bị hỏi bất chợt, không tài nào nhớ ra
tiếng Mỹ là gì, ấp úng trả lời:
– Thưa, là
cái “Pi–Tốt”
Nói xong tôi mới biết mình cả
quỷnh. Thiếu tá Thiện cười điềm đạm:
– Nó là
cái Pivot chứ, quên rồi sao?
Lúc xuống đất
kiểm soát thân tàu, ông lại khảo tôi mục khác:
– Anh biết trực thăng có cái bánh đuôi dùng để
làm gì không?
– Dạ, để... đáp!
Bánh xe
của phi cơ là để đáp thì đúng quá rồi, ai mà không
biết. Nhưng ông Thiện hỏi tôi câu đó là hỏi về một
công dụng khác chứ đâu phải để nghe tôi trả lời một
câu bà già trẻ con cũng biết, cần gì phải là Pilot?
Ông nói:
– Cái bánh đuôi là để mấy ông
Pilot... đái!
Sau này tôi mới biết là ông không
hề nói rỡn về công dụng của cái bánh đuôi! Để Pilot
đái và để... chó ghếch chân lên đái!
Tôi phục
vụ dưới quyền Đại tá Trần Minh Thiện một thời gian
ngắn nhưng cũng đủ biết thêm về ông trên một vài
phương diện khác. Thí dụ như ông còn là một nhạc sĩ
chơi nhạc cho phòng trà, đầy nghệ sĩ tính. Bà Thiện
rất đẹp và có dáng nét quý phái, mệnh phụ. Ông
rời Phi Đoàn 215 về Bộ Tư Lệnh năm nào tôi quên nhưng
kỷ niệm cuối đáng ghi nhớ với ông ở Phi Đoàn là câu
chuyện thơ thẩn khiến từ đó ông để ý và khoái tôi.
Chuyện thế này, một hôm họp Phi Đoàn, ông cảnh giác
các hoa tiêu đi bay phải tuyệt đối tuân theo luật An
Phi, trên trời cũng như dưới đất, bất cứ lúc nào.
Ông nhắc lại các luật lệ và đưa ý kiến nếu làm
được thơ hay vè cho dễ nhớ để làm khẩu hiệu thì
tốt.
Tôi ngồi dưới, nghe ông nói tới đâu là
làm một câu thơ tới đó, đầy đủ tất cả mọi điều ông
nói đến. Khi chấm dứt cuộc họp, tôi đứng lên yêu cầu
để tôi đọc bài thơ “An Phi Trực Thăng” đó cho Phi Đoàn
nghe. Ông Thiện rất thích bài thơ này, bảo tôi đưa cho
Tạ Duy Quý cho vào Bản Tin An Phi hàng tháng của
Không Đoàn 62. Bài thơ lục bát dã chiến tôi còn nhớ
như sau:
Tiền phi không kỹ là liều
Nhớt xăng
không đủ là tiêu cuộc đời
Trên trời dưới đất ai ơi
RPM giữ kẻo rơi thật phiền
Cân bằng là lẽ tự
nhiên
Đừng bay bướm quá, đừng tin mình tài
Cánh
mềm chém cũng thành hai
Mây mưa gió bão hỏi ai
dám cừ?
Khi lên, lúc xuống từ từ
Bay cao vợ
đợi, em chờ biết không?
*
* *
Chuẩn
tướng Huỳnh Bá Tính người Nam, gốc Phật Giáo Hòa
Hảo. Ông là một cấp chỉ huy thật hiền, thương lính
và dễ dãi với binh lính. Tôi đổi về Biên Hòa cuối
năm 1971, là những ngày sôi động chiến tình mặt trận
ngoại biên mà Sư Đoàn 3 KQ phải gánh vác. Sau đó là
trận An Lộc, Bình Long... Cái địa thế của Vùng III,
vùng đất trấn giữ những con đường bôn tập của địch
nhằm xâm nhập Sài Gòn, là gánh nặng luôn luôn trĩu
oằn trên đôi vai những lực lượng quân sự Quân đoàn,
trong đó Sư Đoàn 3 KQ đóng vai trò quan trọng.
Tôi đã thấy cảnh Tướng Tính mất ăn mất ngủ giữa
cái thời nồng độ chiến tranh lên tới mức ngặt nghèo
đó. Nhiều khi tôi nhìn ông, bất giác sinh niềm ái
ngại. Ông cao, gầy mảnh khảnh, nói mau và lớn giọng,
bước đi thoăn thoắt, giải quyết vấn đề rột rột theo
lối nhà binh nhưng không hiểu sao, nhìn ông, tôi vẫn
không thể nghĩ đó là hình ảnh một ông tướng nắm
quyền quân sự, điều động cả một Sư Đoàn tác chiến
Không Quân. Ông giống một người điền chủ, hay một ông
giáo hiền lành hơn một người lính chiến đấu.
Tôi nhớ có lần, một hạ sĩ quan kỳ cựu, cơ phi của
Phi Đoàn tôi bị Quân Cảnh giam xe vì đi Honda trong căn
cứ không có thẻ chủ quyền. Đương sự năn nỉ tôi xin
Tướng Tính tha. Tôi tìm loanh quanh, rồi đến gặp
thẳng ông tại tư thất. Tôi lên lầu. Ông đang nghỉ trưa,
mặc bộ pijama sọc đỏ ra tiếp tôi ngoài hành lang. Ông
hỏi:
– Gì nữa đây, ông Hùng?
– Tôi có
thằng em, bị Quân Cảnh giam xe vì không có giấy tờ.
Xin tướng tha cho nó, tội nghiệp.
Ông cầm lá
đơn, liếc xem qua, hỏi:
– Biết xe không có giấy
tờ sao còn mua cho rắc rối?
Tôi làm sao trả
lời được câu hỏi của ông, nên cười trừ. Ông viết lên
lá đơn mấy chữ, đưa cho tôi:
– Biểu nó chạy
thì chạy ngoài đường, đừng chạy trong căn cứ, Quân
Cảnh bắt nữa rán chịu!
Tôi suýt bật cười vì
câu mắng nhẹ nhàng của ông.
Tướng Tính là một
cấp chỉ huy có trách nhiệm đối với thuộc cấp và
là con người ngay thẳng, đạo đức. Tôi đã chứng kiến
ông lúc vui, buồn, hờn giận rất “người”. Như lúc ông
tức giận chửi thề trong buổi trưa chinook đón những
tù binh VNCH do Việt cộng trao đổi, từ Lộc Ninh về
đáp Biên Hòa. Một tù binh ta bị Việt cộng từ dưới
đất bắn lên, chết ngay trong lòng chiếc phi cơ khi đang
bay trên Quốc lộ 13, khúc Bầu Bàng. Phi cơ bay thấp
500 bộ và theo đường do chúng thỏa thuận với Ủy Ban
Liên Hợp Quân Sự, cam kết bảo đảm an toàn.
Ông
gọi máy kêu Quân Cảnh bảo vệ an ninh cho “mấy thằng
Việt cộng chó đẻ” kẻo bị đám đông dân chúng, thanh
niên học sinh đang tụ tập nơi bãi đậu đón tù binh
trở về, phẫn nộ đánh trả thù. Những ngày long đong
bay vào An Lộc, ông lên Lai Khê, ăn cơm gạo sấy thịt
hộp với chúng tôi, đứng nơi bìa rừng cao su mong
ngóng những chuyến bay từ An Lộc trở ra, như mẹ mong
con. Ông căn dặn chúng tôi bay cẩn thận, rán xong phi
vụ trở về an toàn. Nhiều lần tôi bắt gặp ông quay
đi, che giấu những giọt nước mắt lăn trên đôi má hóp,
mỗi lần có tin một phi hành đoàn hy sinh trong vùng
bão lửa kinh hồn ấy.
Những ngày Phước Long bị
vây hãm, ông mặc áo giáp, đội nón sắt, bay với
chúng tôi qua Long Bình theo dõi cuộc hành quân, cùng
với Tướng Hiếu bên Quân Đoàn. Hôm thả Biệt kích 81
vào Phước Long, ngày 4/1/1975, ông điện thoại gọi
chúng tôi qua Quân Đoàn họp với Tướng Hiếu và Đại
tá Công lúc nửa đêm hôm trước, đến hơn hai giờ sáng
mới trở về Sư Đoàn thảo kế hoạch hành quân KQ.
Tướng Tính giao cho Đại tá Lê, Tham mưu phó Hành Quân
điều động khu trục yểm trợ cuộc đổ quân ngày hôm
sau. Phải hiểu tầm mức quan trọng của việc giải cứu
Phước Long như thế nào khi Tướng Tính quyết định
dành 60 phi xuất cho mặt trận, để lại vỏn vẹn có 3
phi xuất cover cho toàn vùng.
Buổi sáng, có lẽ
đêm qua không ngủ, Tướng Tính xuống Phi Đoàn tìm tôi
rất sớm. Ông cầm máy Motorola gọi “Đồng Nai 3” là
danh hiệu Đại tá Lê nhưng không thấy trả lời. Đại tá
Lê đã lấy xe bỏ về Sài Gòn ngay sau cuộc họp đêm hôm
trước! Tướng Tính giận điên lên. Ông chửi thề và bảo
tôi cho anh em cất cánh. Sáng hôm đó, chúng tôi không
thấy bóng một chiếc khu trục nào lên vùng. Tôi vẫn
cho trực thăng xuống, đáp ngay trên đầu Việt cộng.
Mỗi tổ tam tam Việt cộng bị xích chung vào một cỗ
đại liên nằm chờ quân ta dưới hố, không bắn trước.
Biệt Kích ngồi trên tầu dí súng vào tận mặt lính
Bắc Việt nảy cò, máu óc bắn tung toé lên phi cơ.
Phước Long mất, Bộ Tổng Tham Mưu cử 5 ông tướng xuống
điều tra.
Tướng Tính họp các đơn vị trưởng,
dặn dò:
– Trên xuống điều tra, tôi trách nhiện
hoàn toàn. Nếu ra tòa Quân sự hay đi tù, tôi đi. Chỉ
xin mấy ông một điều, đừng làm chuyện bạy bạ đổ lỗi
lẫn cho nhau. Mấy ông nghe rõ chưa?
Đại tá Vũ
Quang Triệu, xước danh “Pilot Thái Bình” mà Dương Hùng
Cường mô tả là “lái máy bay trước khi biết lái xe
đạp”, Không đoàn trưởng Không Đoàn 43 Chiến thuật yêu
cầu tôi đại diện Không Đoàn làm “luật sư” trong buổi
điều trần trước Hội đồng Tướng lãnh. Đại tá Phan
Văn Huấn, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù,
có một Thiếu uý tùy viên đi theo, vào phòng họp sau
cùng. Ông xin được nói trước và hiên ngang nói những
lời khí phách:
– Mất Phước Long, lý do tại
sao, quý vị cũng như chúng tôi đều biết nhưng không ai
muốn nói ra. Phần Biệt Kích 81, chúng tôi vào chỗ
chết đã đành, bởi nghề nghiệp chúng tôi là tìm chỗ
chết để đi vào. Riêng với anh em Không Quân, các phi
hành đoàn trực thăng đã làm quá bổn phận của họ,
chết lây với chúng tôi thật tội nghiệp. Nay đưa họ ra
tòa là điều tôi cho là vô lý. Nếu có lỗi làm mất
Phước Long, tôi nhận lỗi. Xin quý vị ở lại tiếp tục
họp và cho tôi biết kết quả. Tôi xin phép được ra về
vì còn nhiều việc phải làm.
Đại tá Huấn
đứng nghiêm chào và quay ngoắt đi ra. Ông đến như cơn
gió và ông đi cũng như cơn gió. Ông xuất hiện chưa
đầy 5 phút, nói một lời ngắn ngủi nhưng tôi ghi nhớ
mãi cái giây phút lịch sử và hình ảnh đó của ông.
Hội đồng Tướng lãnh ra về, giao việc điều tra cho
Đại tá Nguyễn Huy Lợi, nha Quân Pháp, ở lại làm
việc. Tôi đã làm trọn vai trò “luật sư”, biện hộ cho
Không Đoàn 43 Chiến Thuật. Ngày di tản, gặp lại Đại
tá Nguyễn Huy Lợi trên boong tàu Mỹ, trước đông anh
em, ông đã khen tôi không tiếc lời về việc tôi đã dám
nói ra sự thật vụ mất Phước Long.
Vụ án
Phước Long sau đó hoàn toàn chìm xuồng. Tôi nhắc lại
việc trên để thấy tư cách và lòng nhân hậu của
Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính mà ngậm ngùi tưởng nhớ
đến ông. Nhớ ngày cuối ở Biên Hòa, ông họp các Phi
đoàn trưởng, chỉ thị lập danh sách và cho tất cả
vợ con hoa tiêu về Sài Gòn, Bộ Tư Lệnh sẽ thu xếp
việc di tản. Các ông Triệu, Luân, Lộc ngày nào cũng
rủ tôi qua nhà Tướng Tính xem có động tịnh gì về
vấn đề đi, ở ra sao vì thấy Tướng Tính lại đem vợ
con lên Biên Hòa. Ngày 26/41975, ông họp chúng tôi, nói
thẳng:
– Vợ con tôi đi rồi, do Cố vấn Mỹ lo
giùm. Sáng nay tôi chỉ kịp chạy vào DAO vẫy tay
chào, không được hôn từ giã... Không ai lo cho ai đâu.
Các anh tính liệu cách nào thì tính, nhưng đừng để
tụi nhỏ chúng nó “panic”!
Tôi đem Phi Đoàn di
tản về Tân Sơn Nhất tối 27/41975 khi Biên Hòa bị pháo
bằng hỏa tiễn 130ly. Sáng 28, Tướng Tính gọi tôi lên
Biên Hòa, nằm trong hầm TOC chịu pháo với ông. Buổi
trưa, tôi lái chiếc pick–up về nhà lấy cái nồi cơm
điện National cho anh em pha cà phê và lấy chiếc áo
bay để thay đổi, đoạn xin ông cho tôi về Tân Sơn Nhất,
e anh em tưởng tôi “doọt”, bỏ đơn vị, sẽ tan hàng
hết. Sáng ngày 29, Trung tá Trọng, Phi đoàn trưởng
Phi Đoàn 221 đáp xuống Nhà Bè gặp tôi. Trọng nằm
vật trên vỉ sắt lót phi đạo, gửi anh em PĐ221 cho tôi
dẫn bay ra biển. Anh ôm mặt khóc, nhất định quay về
với vợ con. Anh bảo Trung sĩ Kiên, tài xế của Đại
tá Triệu trao cho tôi một tập hồ sơ sĩ quan dầy cộm,
nói Đại tá Triệu “bàn giao” Không Đoàn cho tôi và cho
biết Đại tá Triệu đã theo Tướng Tính ra Vũng Tàu,
di tản. Sau này tôi được biết Trung tá Trọng ở lại,
đi học tập, và chết trong tù.
Đó là ngày
cuối tôi chia xa Tướng Tính. Năm 1985, tôi gặp lại ông
ở San Jose, tình cờ, nơi nhà Tướng Lâm Quang Thi trong
ngày lễ Độc Lập Hoa kỳ. Gặp lại ông, tôi mừng và
ông cũng rất vui. Ông vẫn xuề xòa, dáng dấp không
khác mấy ngày xưa. Ít năm sau, ông mất.
*
* *
Tôi viết những dòng này, do xúc động bởi cái
chết của Chuẩn tướng Phan Phụng Tiên, nhân đó nhắc
đến hai ông tướng Không Quân cùng một vài người Không
Quân đã không còn hiện diện trên cõi đời này nữa...
để ngậm ngùi trước nỗi nghiệt ngã của thời gian,
dần dần cướp mất của chúng ta những mảnh tinh cầu
làm nên khối thể Không Quân còn lại nơi hải ngoại sau
cuộc bèo mây tan tác.
Hôm gặp Tướng Minh trong
tiệc cưới hai cháu Quốc Đăng và Quỳnh Anh, con trai
Phó Quốc Uy và ái nữ của ông Lê Trọng Hiệp tức
Hiệp “Cồ” trưởng trường Quân sự ngày xưa – ở San
Francisco – thấy ông sắc diện hồng hào, phương phi hơn
lần gặp trước, tôi cảm động, đã nói với ông một
lời có vẻ như đùa nhưng vô cùng thành thật:
–
Thôi qua đây chúng tôi chỉ còn trông vào có mình Trung
tướng thôi đấy. Xin ngài hãy bảo trọng mình vàng,
kẻo anh em chúng tôi buồn lắm.
Ông Minh cười
sảng khoái:
– Trời kêu ai nấy dạ, toa. Mình
biết làm sao mà nói? Con người có số...
Vâng,
tôi tin con người có số. Như Tướng Tiên chết đi, chị
Hoàn gọi qua Cali hỏi chuyện thầy bói. Ông hiện hồn
về nói rõ ràng là ông tới số chết thì phải chết,
không có điều gì phải thắc mắc khiếu nại, coi bói
phí tiền. Ông đã chuẩn bị đâu đấy cho cuộc “tử quy”
của ông. Ông Dũng Mù kể:
– Lúc ông ấy còn
sống, hai anh em nghiên cứu về huyền bí của con
người, bao nhiêu sách vở như “Hành Trình Về Phương
Đông” đều mua đọc và thảo luận. Ông ấy hiện về luôn,
nói lúc chết đâu có biết là mình chết? Mãi hôm sau
rước thầy về tụng kinh, mới biết nhưng không đau khổ
gì cả. Ông Tiên nói rằng được bà cụ anh và anh Chụ
về đón. Xuống dưới đó, ở một cái “level” rất thoải
mái, gặp lại đông đủ bạn bè xưa. Gặp cả ông Đề đốc
họ Hoàng nữa, họp hành chính trị chính em vui ghê
lắm... Ông ấy đúng là “sinh vi tướng, tử vi thần”.
Sau hôm hỏa thiêu, ông thường nhập vào cô Hoàn, nói
nhiều chuyện, nhưng “điện” yếu dần đi, ông ấy bảo có
lẽ phải lâu lắm mới về lại được.
*
* *
Đành rằng mỗi người có một số mạng, không ai
cưỡng lại được. Nhưng tôi không chịu nổi cứ ngày một
vắng thưa dần những người yêu mến, hoảng kinh lên,
thấy mình càng ngày càng cô đơn giữa đám nhân loại
quá nhiều ma cạo. Tháng 9/1996, Không Quân mất liên
tiếp một lúc ba cánh chim: Chuẩn tướng Nguyễn Đức
Khánh, Đại tá Đặng Duy Lạc, và Trung tá Dàng Thiện
Ngươn. Anh em đưa tiễn ông Lạc đến nơi an nghỉ cuối
cùng rất đông, đầy đủ lễ nghi, quan tài phủ quốc
kỳ, thôi cũng gọi là chết vui và may mắn bởi ra đi
sớm còn được anh em lo chu đáo, chết muộn màng dễ
gì được vậy.
Hồi trong năm nghe Nguyên Vũ từ
Pháp về cho biết ông Đạo Cù Trần Tam Tiệp ở Paris,
khi không chui vào nhà thương, hôn mê hàng tuần lễ, tôi
sợ, cứ hồi hộp nghe ngóng... Sau đó thở phào ra
trước tin ông Đạo đã hồi dương, trở về Paris “sống
chung hòa bình” với hai chị em bà comtesse già độc
thân. Tôi gửi cho ông tấm thiệp, thay lời chúc bằng
lời năn nỉ, “Lạy ông trăm lạy, ông làm ơn sống lâu lâu
một chút, đừng đi vội... Đời mà thiếu ông, tôi mất
vui..!”
Đào Vũ Anh Hùng
(Dallas 10–96)
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by tđp chuyển
Đăng ngày Thứ
Ba, June 3, 2025
tkd. Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH