Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự truyện
Chủ đề:
lính kể
Tác giả:
Trần Ngọc Nguyên Vũ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời Tác giả: Thân kính gởi về "Thần Phong Nguyễn Ngọc Khoa,
Trung tá Lê Bá Định, Đại tá Nguyễn Văn Bá, cùng những người mà
tên tuổi đã đi vào huyền thoại trong quân sử".
–Trần Ngọc Nguyên Vũ
Những
đoản khúc mùa Đông.
Chiều nay, một buổi chiều Đông
buốt giá. Những cơn bão tuyết cuối mùa kéo về phủ kín cả bầu
trời phố núi. Ngồi bên lò sưởi nhìn ngọn lửa hồng bập bùng
nhảy múa như những bước luân vũ dìu tôi về một vùng dĩ vãng
xa xăm nào đó... Rồi những hình ảnh nhạt nhòa của ngày xưa,
cứ ẩn hiện trong đầu tôi như những bông hoa tuyết đang quay
cuồng theo từng cơn gió giật bên ngoài. Hình ảnh hào hùng
của những người bạn đồng minh, đồng ngũ chợt đến, chợt đi
qua đời tôi như bóng mây, nhưng tất cả đều để lại trong tôi
những kỷ niệm sâu đậm không bao giờ phai nhạt.
Mà kỷ
niệm thì bao giờ cũng bắt đầu từ một khoảng thời gian và
trong một khoảng không gian nào đó của con người, và trong
cuộc đời của chúng ta, trải qua suốt một thời chinh chiến,
đã có biết bao nhiêu là dấu vết được ghi khắc trong lòng,
biết chọn một dấu vết nào để dàn trải tâm tình... Thôi thì
cứ chọn cái thuở ban đầu của lần nhập cuộc, để góp thêm một
dòng điệp khúc cho “bản trường ca” trong chiến sử...
Đơn vị đầu đời:
... Cầm tờ sự vụ lệnh trong tay, tôi
chạy vào căn cứ Tân Sơn Nhứt, tới chiếc cổng có rào cản quấn
bằng dây kẽm gai chắn ngang, tôi dừng xe lại. Một người lính
từ trong chiếc chòi canh cũ kỹ thò đầu ra hỏi:
–
“Thiếu uý muốn gặp ai.”
Tôi nói với anh ta là tôi vào
trình diện đơn vị trưởng.
Anh lính gác bước vội ra,
đứng thẳng người nện gót giầy đinh kêu đánh cốp một cái, dơ
tay chào tôi, rồi chạy lại kéo rào cản cười nói:
–
“Dạ Thiếu uý cứ đi thẳng, văn phòng ổng ở trong hangar phía
tay trái.”
Tôi cám ơn người lính trẻ rồi từ từ chạy
xe vào. Dọc đường, nhìn về phía tay mặt, tôi thấy rải rác
những chiếc AD6, hai bên cánh nặng trĩu bom và hỏa tiễn, nằm
phơi mình trong ánh nắng. Tôi dừng xe lại, ngắm nhìn những
“con chiến mã” mà tôi sắp sửa được cưỡi nó, mà như ngửi thấy
mùi vị của chiến tranh phảng phất đâu đây. Nhìn đồng hồ tay
thấy chỉ 11:15g, tôi sợ mình đến trễ, nên vội phóng xe vào
hangar. Vừa dựng xe xong, còn đang ngơ ngáo nhìn quanh không
biết phòng của Sếp ở đâu, thì một ông đại uý trông trẻ măng,
mặc bộ đồ bay đen, trên ngực áo đeo tấm huy hiệu “Thần
Phong”, bên tay áo thêm một cái “badge” nhỏ thêu hình chiếc
AD6, dưới có đề chữ “83 SAG”, cùng khẩu “P38” đeo xệ bên
hông, trông thật “gồ ghề, oai phong lẫm liệt” từ trong bước
ra. Tôi đứng nghiêm giơ tay chào. Ông không chào lại mà
khoát tay nói:
– Lần sau khỏi chào nghe, tôi là
Thành, mới về hả?
– Dạ.
Ông vỗ vai tôi thân
mật nói:
– Ở đây mọi người gọi tôi là “Thành Cóc”,
“nick name” của cậu là gì?
– Dạ “Cà Chớn”.
Ông
phì cười để lộ ra hàm răng khểnh trông thật có duyên:
– Hì hì... trông cậu đẹp trai hiền lành thế này sao lại
lấy cái tên dữ dằn ấy?
– Dạ, tại “mấy thằng bạn cà
chớn” dưới miệt Biên Hòa thấy em đẹp trai hơn tụi nó, nên
tụi nó ganh, và đặt cho em cái “nick” này để ém tài.
– Hà hà... cậu đấu nghe cũng được lắm. Để mai mốt có dịp,
tôi giới thiệu cậu với “Không quân tứ quái”. Mà cậu biết họ
là những ai không?
– Dạ em mới về nước, chỉ mới nghe
đại danh: “Nhất Luyến, nhì Phiên, tam An, tứ Hợi”, nhưng
chưa được hân hạnh diện kiến.
Ông lại cười hì...
hì... giục tôi lên xe:
– Thôi được rồi, lên xe đi,
mình đi ăn trưa.
Tôi ngập ngừng nói với ông là tôi
chưa trình ký SVL thuyên chuyển. Ông cười nói:
– Đi
bay hết cả rồi. Ăn trưa về tôi dẫn cậu vào gặp Sếp, và đi
lãnh đồ trang bị cá nhân.
Tôi leo lên chiếc xe “Jeep”
mui trần, theo ông đi ăn trưa, quên luôn vụ gặp đơn vị
trưởng. Khi chạy ngang qua cổng, ông ngừng xe ngoắc 1 anh
lính phòng thủ lại hỏi:
– Ăn uống gì chưa?
–
Dạ rồi Đại uý. Em vừa xuống ca trực.
– Tốt, vậy cậu
đi theo coi dùm cái xe cho tụi này ăn trưa.
Anh lính
trẻ cười toe toét nhảy lên ngồi băng sau. Ông chạy xe thẳng
ra cổng Phi Long, 2 người lính quân cảnh đứng nghiêm giơ tay
chào theo đúng “quân phong quân kỷ”. Tôi liếc nhìn ông bằng
tia mắt thán phục, rồi ngả người gác chân lên thành xe, và
cảm thấy hãnh diện mỗi khi có người quay qua nhìn chúng tôi.
Buổi trưa hôm ấy, ông bao tôi một chầu ăn trưa tại nhà hàng
Maxim, trên đường Tự Do.
Đó là kỷ niệm đầu đời một
người lính của tôi, sau khi trải qua những ngày tháng rèn
luyện ở quân trường, rồi trường bay, để được lột xác từ một
anh “bạch diện thư sinh” thành một “người lính chiến”. Tôi
quen ông “Thành Cóc” cũng kể từ ngày đó... Những ngày tháng
sau này, cuộc đời bay bổng của tôi dính liền với ông cùng
những nhân vật của huyền thoại như Lưu Kim Cương (Khểnh),
Nguyễn Ngọc Khoa (Đen), Nguyễn Văn Tường (Mực), Nguyễn Huy
Cương (Khào), Huỳnh Văn Vui, Nguyễn Ngọc Thức, Nguyễn Quý
Chấn, Lê Mộng Hoan, Cung, Việt, Thái Phương Thủy, Huỳnh
Thanh Minh, Trần Mạnh Khôi, Tạ Thượng Tứ, Trần Thanh Liêm,
và một người không phải là dân không quân nhưng lại rất gắn
bó với KQ, đó là ông “Cò Quận 5 Trung tá Lê Ngọc Trụ”, theo
với định mệnh thăng trầm trong cuộc chiến, cho đến ngày Biệt
Đoàn giải tán... Sau này mỗi khi cầm khúc bánh mì leo lên
chiếc phi cơ chất đầy bom đạn, nghĩ đến bữa ăn trưa thịnh
soạn tại nhà hàng Maxim ngày nào (mặc dù là ông ký sổ), tôi
lại thấy bâng khuâng... Tôi ngửa mặt nhìn trời, như muốn gởi
theo những đám mây trắng đang lững lờ trôi, một lời cám ơn
đến ông “Thành Cóc”.
Ông “Thành Cóc” ơi! Khi đọc được
những dòng tâm tình này, ông có nhớ gì không??? Còn tôi, tôi
nhớ rất rõ những lần theo ông đi biệt phái “Nakhon Phanom”
trên Bắc Thái... Những buổi chiều ngồi trong chiếc quán lá
bên gềnh đá, cạnh bờ sông Mekong, bên kia bờ là buôn Takhet
của vương quốc Lào, với những cuộn khói ảo huyền lan tỏa
trong không gian như đưa hồn tráng sĩ về nhập thể cùng với
Phù Dung Tiên Tử... Tôi thấy ông ném tia nhìn khinh bạc
xuống dòng sông, nơi có những tấm thân trần nõn nà của các
cô “Noòng Sảo” đang nô đùa trong lòng nước bạc, để chia sẻ
cùng anh em những nỗi âu lo về chuyến vượt biên ban đêm...
Và những đêm trăng mờ huyền hoặc, chúng mình cùng xuyên mây
vượt đỉnh Trường Sơn Tây, qua thung lũng Trường Sơn Đông,
bay sâu vào vùng đất địch... Từ trên cao độ, nhìn những tia
đạn lửa vút lên như những “ngôi sao băng ngược” mà thấy lạnh
người, để khi về đáp, còn mang theo những hình ảnh hãi hùng
vào trong giấc ngủ liêu trai... Tôi cũng không thể nào quên
được những giây phút lâng lâng, cùng ông, và Khôi (Công Tử)
ngồi dưới ánh đèn màu bên ly rượu, thả hồn vào tiếng nhạc,
rồi đưa bước chân bồng bềnh theo tấm thân mềm mại của kiều
nữ giai nhân, để quên đi những nỗi nhọc nhằn, nguy hiểm
trong những chuyến bay đùa giỡn với tử thần. Nửa khuya trước
khi ra về, ông gọi chị “Tài Pán” đem quyển sổ dầy cộm cho
chúng mình ký tên, và giành cái vinh dự được trả tiền cho
anh Khoa (Đen) và “Ông Cò Quận 5” dạo ấy.
Rồi một
buổi trưa nào buồn hiu hắt với những đám mây nặng trĩu tâm
tình của vùng núi đồi trầm lặng, trên sân bay Cam Ly. Chúng
ta cùng ghé vai khiêng chiếc quan tài của người trai anh
dũng đã hy sinh, Trung uý Trương Văn Đồng, vừa được thiên
táng giữa vòm trời lửa đạn, để trả lại những kỷ vật của anh
về với vòng tay ấp ủ ngàn đời của Mẹ Việt Nam yêu dấu....
Tôi cũng còn nhớ “những kiện hàng bất đắc dĩ” được bí
mật đem vào phi trường NKP. Nửa đêm hôm ấy, Huỳnh Thanh Minh
cùng “Cung củ đậu”, Việt, dựng anh em dậy để “luận truyện
giang hồ...” Rồi trên đường về, khi bay ngang Savanakhet để
vào “in bound” không phận nhà, 4 chiếc khu trục AD5 sơn màu
rằn ri, không cờ hiệu, bị 1 Phi Tuần 2 chiếc F102 Delta Wing
của người bạn đồng minh, không biết cất cánh từ đâu, bay lên
nghênh cản. Dẫn độ phe ta một đoạn đường... Và những lời xin
lỗi của “Trung Tâm Kiểm Báo Tiger” cho sự nhầm lẫn “chết
người” này.
Tôi vẫn còn nhớ đến cái chết tức tưởi của
Trung tá Tuấn, khi chiếc xe jeep của ông đậu trước nhà bị
gài lựu đạn nổ tung. Mang theo những bí ẩn không bao giờ
được bạch hóa trên trang quân sử...
... Và làm sao
tôi quên được lần ông Tường (Mực) dẫn anh em ra “nằm valy”,
trải nệm tại phi trường Đà Nẵng, vào thời kỳ biến động miền
Trung. Tôi bay số 2 cho Trung uý Việt, trong phi vụ “tuần
phòng võ trang” trên bầu trời Đà Nẵng. Đang bay thì bị 2
chiếc phản lực F8 Crusader của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ
bay lên nghênh cản, ép chúng tôi phải bay ra biển. Việt nhất
định đòi ăn thua đủ, ông thần này thuộc dân “Pensacola”,
trông lầm lỳ và rất “Hot”. Nhưng chưa đầy 30 giây sau đó,
chúng tôi được Panama chuyển một mật lệnh kêu chúng tôi phải
đáp gấp. Sau khi đáp, tôi thay bộ đồ bay định ra phố ăn tô
“bún bò xóm mả” cho ấm bụng, nhưng phi trường ở trong tình
trạng “cấm trại” nên không ra cổng được. Còn đang đứng xớ rớ
thì gặp Trung uý Dục, trưởng phòng An Ninh KQ Đà Nẵng, tôi
dựa hơi, khều Dục chở ra phố. Khi trở về, vừa vào đến căn
cứ, tôi thấy cả biệt đội đang quay máy sửa soạn cất cánh.
Tôi hoảng hồn phóng lên chiếc phi cơ còn lại, mặc nguyên bộ
đồ dân sự, chân đi dép cao su, để đầu trần, bay theo ông
Tường về Tân Sơn Nhứt. Khi vào cận phi bên cánh phải, ông
quay qua nhìn tôi, cặp mắt trợn trừng như muốn tóe lửa. Lần
đó tưởng thế nào cũng bị lãnh củ, nhưng thấy ông không nói
gì tôi mừng húm. Ông Tường ơi! Có phải vì muốn phạt tôi, mà
trong lúc bay về Sài Gòn ông đã cho Phi Tuần bình phi ở cao
độ 12,000 bộ, làm tôi lạnh teo...
Và còn nhiều lắm,
làm sao kể hết... Cho đến cái phút quay lưng, tôi thấy ông
cùng ông Hưng (phệ) quắc mắt, thốt lên một lời thề cho ngày
trở lại. Ông “Thành Cóc” và ông Hưng ơi, lời thề đó có còn
vang vọng trong lòng hay đã phôi pha???
Tết Mậu Thân!
Vùng trời hỏa tuyến:
... Hàng năm cứ mỗi độ Xuân về,
lòng tôi lại dấy lên những kỷ niệm bi thảm của ngày đầu Xuân
năm ấy, ngày đầu Xuân của cái Tết Mậu Thân với tiếng bom đạn
nổ vang trời thay cho tiếng pháo...
6:00g sáng ngày
Mồng Một Tết, tôi cùng Nguyễn Du thi hành phi vụ tuần thám
võ trang “Đà Nẵng Quảng Ngãi Đà Nẵng”. Chúng tôi cất cánh
sớm hơn giờ dự trù, hy vọng về đáp sớm để còn bay 1 phi vụ
không hành về Sài Gòn ăn Tết với gia đình. Khi vừa lên cao
độ bình phi thì chúng tôi phát hiện một đoàn người từ hướng
núi tiến ra bờ sông Hàn, và như đang định bơi qua sông để
vào Đà Nẵng. Mới đầu chúng tôi tưởng là dân chúng đi trẩy
hội Tết, nên bay xuống thật thấp để làm một cú “bay thấp”
chúc Tết mừng Xuân. Nhưng vừa xuống khoảng 100 thước thì ở
dưới bắn lên tới tấp. Chúng tôi hoảng hồn phóng vút lên lấy
cao độ, rồi báo cáo về Panama là có 1 đoàn quân Cộng sản
đang vượt sông Hàn để vào Đà Nẵng. Panama không dám quyết
định, yêu cầu chúng tôi làm vòng chờ trên cao độ đợi xin
lệnh Quân Đoàn I. Đoàn người ở dưới biết là đã bị lộ nên ào
hết xuống sông để qua bờ bên kia. Nguyễn Du tính nóng như
lửa, hối thúc tôi phải hành động ngay, vì nếu để đám quân
này qua được bờ sông thì chúng sẽ lẩn vào nhà dân chúng, và
tình thế sẽ trở nên rất nguy hiểm. 2 chiếc khu trục A1 cùng
song hành lao xuống thật thấp, oanh kích trực xạ vào đoàn
quân Cộng sản. Từng chùm hỏa tiễn từ 2 chiếc khu trục cơ
phóng vụt ra, cày tan mặt đất. Xác người vỡ nát, thịt xương
bắn tung lên. Những viên đại bác 20ly công phá, xuyên thủng
những tấm bia thịt đang ngụp lặn giữa dòng sông. Xác địch
nổi lềnh bềnh như xác quân Mãn Thanh, mặt nước đỏ ngầu như
nước sông Hồng mùa Xuân năm Kỷ Dậu. Chỉ trong khoảng thời
gian chưa đầy 15 phút, hai chiếc khu trục A1 đã trút hết hỏa
tiễn và đại bác 20ly, tiêu diệt gần một nửa số người trong
đoàn quân xung kích của địch. Đám người còn lại quay đầu
chạy ngược vào phía núi. Lúc đó thì Panama mới liên lạc cho
biết lệnh Quân Đoàn là phải ngăn chặn đoàn quân này bằng mọi
giá. Chúng tôi cho Panama biết là phi vụ đã hoàn tất. Trên
vùng cũng vừa có Thiên Phong 11 của PĐ110 tiếp tục công việc
theo dõi, và 1 Phi Tuần Phi Hổ của Đoàn Toại và Trịnh Đức Tự
cũng vừa lên kịp để thay thế cho chúng tôi về đáp.
Khi về đến Phi Đoàn, chúng tôi thấy toàn bộ chỉ huy của KĐ41
chiến thuật cùng Phi đoàn trưởng, Phi đoàn phó, Truởng Phòng
Hành Quân, và các nhân viên phi hành của PĐ516 đều có mặt
đầy đủ. Chỉ thiếu có mấy viên Cố vấn Hoa Kỳ. Đặc biệt có quý
phu nhân của Trung tá Tư lệnh KĐ, Thiếu tá Liên đoàn trưởng
LĐ41/Tác Chiến cùng Đại uý Phi đoàn trưởng PĐ516 tíu tít sắp
bánh chưng, giò chả, và kẹo mứt trên bàn để mời những người
lính chiến KQ ăn Tết tại chỗ. Tiếng chuông điện thoại reo
tới tấp, và trên bảng phi lệnh chi chít những phi vụ chờ cất
cánh. Lệnh cấm trại 100% được ban hành, lúc bấy giờ chúng
tôi mới biết là Việt cộng tổng công kích toàn lãnh thổ miền
Nam Việt Nam.
Rồi đến ngày Mồng 3 Tết... Tôi còn nhớ
rất rõ hình ảnh chiếc L19/PĐ110 của Thiếu uý Dương Như Chót
và Trung uý Nguyễn Tuấn Dị từ trên cao lạng xuống như 1
chiếc lá rơi, đáp trên phi đạo, lao về phía tôi rồi 1 cánh
tay thò ra chụp lấy tôi kéo thốc lên. Chiếc phi cơ quay đầu
180˚, hai bánh xe cà trên mặt nhựa đến tóe khói và muốn bốc
lửa. Chiếc L19 phóng tới bốc mình lên, mang theo người phi
công khu trục bị bắn gẫy cánh, vừa làm crashed ngay đầu sân
bay của phi trường Quảng Ngãi, trước những con mắt lạc thần
của đám quân cuồng khấu.
Những ngày đầu Xuân của cái
Tết Mậu Thân năm ấy, trong 1 hoàn cảnh rất tình cờ, mà
Nguyễn Du và tôi đã cứu được thành phố Đà Nẵng thoát khỏi
thảm họa do đám người cuồng tín gây ra như ở Huế và các
thành phố khác. Sau này khi đang ở PleiKu, tôi nghe tin
Nguyễn Du cùng Trịnh Đức Tự đã hy sinh, tôi chỉ biết cúi đầu
thắp một nén nhang lòng, để tưởng nhớ đến những tri kỷ không
được cùng nhau đi trọn một đoạn đường.
Biên Hòa! Vùng
trời xứ Bưởi:
... Kể từ ngày rời Biệt Đoàn 83, tôi
bắt đầu dấn thân vào con “đường gió bụi”, với những lần
thuyên chuyển như cánh chim di tới mùa, xoải cánh ngược xuôi
khắp 4 vùng chiến thuật.
Còn nhớ sau Tết Mậu Thân một
thời gian, vào khoảng đầu năm 1969, tôi gánh hai cái “chiến
thương bội tinh”, khăn gói quả mướp, giã từ miền hỏa tuyến,
lên đường xuôi Nam về vùng trời xứ Bưởi, trình diện Thiếu tá
Hoàng Thanh Nhã. Ông Sếp mới của tôi gốc Đà Lạt, khổ người
mảnh mai, ăn nói nhỏ nhẹ, dáng điệu từ tốn như một tiểu thư
khuê các. Nếu ông không mặc bộ đồ bay cùng khẩu súng ngắn
đeo xệ bên hông, thì người ta khó có thể ngờ ông là Chỉ huy
trưởng một đơn vị tác chiến lừng danh của KQVNCH. Phi Đoàn
“Phượng Hoàng 514”, vốn là thối thân của “Đệ Nhất Phi Đoàn
Khu Trục” của không lực, với những nhân vật mà mới chỉ nghe
nhắc đến tên thôi, cũng đủ làm khiếp vía “giang hồ hai đạo
Hắc Bạch”, như Phạm Long Sửu, Võ Xuân Lành, Nguyễn Quang
Tri, Nguyễn Văn Long, Phạm Phú Quốc, Nguyễn văn Cử, Lê Văn
Thảo...
Đổi về đây một thời gian, tôi thấy thương cái
vùng đất hiền hòa mà phải chịu một định mệnh khắt khe của
cuộc chiến này. Biên Hòa! Vùng đất vừa chua vừa ngọt như
những trái bưởi thanh bưởi ổi. Nơi có con sông bên lở bên
bồi, cùng những chuyến đò ngang của các cô gái mặc áo bà ba,
với đôi mắt buồn vời vợi như đám mây trời lờ lững, gánh nặng
trên vai những “cuộc tình không trọn” của một thời ly
loạn...
Giang sơn nào anh hùng nấy... Ở Biên Hòa cũng
có đầy dẫy những “Kỳ Nhân Quái Kiệt” của KQ như Lê Văn Thảo
(Nâu), Hiệp sĩ Say Nguyễn Văn Phong, Lê Như Hoàn, Lê Quốc
Hùng, Phạm Đăng Cường, Dan Hoài Bửu, Nguyễn Tiến Thành,
Nguyễn Quan Vĩnh (Kều), Cao Minh Châu, Lê Thanh Hồng Vân,
Nguyễn Quốc Hưng (Phệ), Đàm Thượng Vũ, Nguyễn Đạm Thuyên,
Nguyễn Đình Lộc, Kiếm Khách Lê Hải, Phạm Bửu Quang (Quái
Khách PBQuang được giới giang hồ xưng tụng là Ông Vua Lỳ),
Trương Phùng, Ấn Đen, Sơn (Đị), Trần Thế Vinh, Nguyễn Ngọc
Lành, Đào Văn Lập, Ẩn Cọp, Tám Soi (1 Quái Kiệt từ Bộ Binh
biệt phái qua KQ)... Còn nhiều nữa, và 1 Quái Kiệt của PĐ518
là Đại uý Phạm Ngọc Hà, người KQ mang “Đệ Ngũ đẳng huyền đai
Nhu Đạo”, đã để lại cho tôi nhiều kỷ niệm khó quên. Phạm Đại
Hiệp ngoài những chiến tích lẫy lừng được ghi trong quân sử,
còn có những hành tung cực kỳ bí mật ngoài đời, biến hóa
khôn lường, chẳng khác gì những câu truyện thần thoại trong
“1001 đêm của Ả Rập”. Tên của anh và tôi giống y chang, chỉ
khác cái họ, nên anh thường gọi tôi bằng cái tên nghe thật
thân thương: “Hà ta!” Ý chừng anh muốn dụ tôi nhập băng với
anh chăng? Mỗi lần nghe anh gọi như vậy thì tôi lại “né”
anh.
Nhưng dường như giữa tôi và anh đã có những sợi
dây ràng buộc vô hình nào đó trong một phần của cuộc sống.
Tất cả đều là những truyện thật tình cờ, coi như cái “duyên
giang hồ” trong tình đồng đội. Tôi còn nhớ một lần vì mải
“binh”, xém chút nữa là trễ giờ TOT, nhìn đồng hồ chỉ còn 20
phút, tôi hoảng hồn vơ vội tấm bản đồ rồi kéo Trung uý Điền
phóng ra ngoài bãi đậu. Vừa mở máy xong, tôi tống mạnh tay
ga, chiếc phi cơ nhổm đít, quạt tung bình nước lạnh đổ vỡ
tung toé, và thổi bay mấy người anh em cơ trưởng đứng gần
đó. Cứ thế tôi phóng ra phi đạo xin cất cánh. Lên trời gặp
ông “FAC vui tính” vừa tìm ra một “Hot Target”. Sau khi đánh
dấu mục tiêu ông phán:
– “Phượng Hoàng 41, bạn cứ
phang ngay vào ổ con chuồn chuồn đó cho tôi, coi chừng phòng
không.”
Tôi và Điền nhập cuộc, vào vòng bắn, nhào
lộn, quay cuồng trong khói lửa một hồi, vừa “đi” rốc két vừa
“táp pi” bom nổ... FAC khen tới tấp. Kết quả ghi nhận có
nhiều tiếng nổ phụ. Khi về đáp, vừa leo ra khỏi phi cơ, tôi
thấy anh em phi đạo chạy tới vây lấy hai chiếc khu trục. Tôi
giật mình tưởng anh em ra “đòi nợ máu”. Nhưng khi nhìn thấy
mọi người ngước mắt đếm những lỗ đạn quanh thân tàu, có
người lấy tay xoa những vết đạn như đang ve vuốt “vết
thương” của người tình, tôi thấy lòng mình chùng xuống. Tôi
khoác vai một anh lính trẻ đứng cạnh nói:
– Hồi nãy
bậy quá, cho tôi gởi lời xin lỗi anh em nghe.
Anh
lính cười nói:
– Đại uý và trung uý đi hành quân bị
lãnh đạn, mà còn về đáp an toàn là tụi này mừng rồi. Nhằm
nhò gì ba cái lẻ tẻ đó. Có điều bữa nay anh em không được
uống nước lạnh. Hì... hì...
– Thôi để chiều nay tôi
mời anh em ra quán thịt rừng Tân Vạn để tạ lỗi. Mình uống
“Ông già chống gậy” thay cho nước lạnh, chịu không?
Anh lính cười toe rồi kể cho tôi nghe chuyện Đại uý Phạm
Ngọc Hà “đổ vỏ ốc” cho tôi:
– Hồi nãy Đại uý đi
khoảng 20 phút sau thì ông Hà bên 518 về đáp, chưa kịp về
Phi Đoàn đã bị Trung tá Hoài lôi lên văn phòng “xát xà bông”
tối tăm mặt mũi. Tội nghiệp lúc ổng đi ra, trông xiêu vẹo
như “gà mắc dây thung”.
Tôi cười bóp chặt vai anh
nói:
– Chiều nay tôi sẽ mời ổng đi luôn để uống “ly
rượu tạ lỗi”.
Về tới Phi Đoàn, sau khi ghi “chiến
tích” trên sổ trực của PĐ và cùng Trung uý Điền giải trình
phi vụ xong, tôi vào gặp “Sếp” trình bày tự sự, rồi xin ông
“yểm trợ” chút đỉnh cho bữa nhậu sắp tới. Ông nghe xong ngồi
ngả người ra ghế, nhìn tôi cười, trông “hiền như Bụt”:
– Anh em phi đạo làm việc rất cực nhọc, cậu không nên
làm như vậy. Thôi được rồi, bữa nhậu chiều nay để tôi lo,
tôi sẽ kéo ông Hoài đi luôn thể.
Nghe ông nói mời
“Ông Hoài” đi luôn thể, tôi giật mình. Nhưng cũng đành cám
ơn ông, miệng nở một nụ cười như mếu......
Tôi nằm
nhà thương Cộng Hòa được mấy ngày thì một “biến cố” quan
trọng xảy đến với tôi. Nhà thương CH ngày ấy, đất hẹp người
đông, nên sĩ quan cấp uý cứ 4 ông “share” một phòng. Phòng
tôi nằm thuộc hạng sang, khách hàng toàn thứ dữ. Tôi nằm
giường dưới. Bên trên, một Đại Hiệp Biệt Động Quân mang
“Hồng Đai VoViNam” để lại cặp giò ngoài chiến địa. Giường
đối diện, tầng trên 1 ông Trung uý Dù trẻ măng, đầu quấn
băng trắng xóa chằng chịt, đã hiên ngang hiến hai con mắt
cho đại cuộc, được giang hồ phong tặng tước hiệu “Hiệp Sĩ
Mù”. Tầng dưới là giang sơn của ông Chuẩn uý họ Tạ, vừa hạ
san chưa đầy 1 tháng, dẫn trung đội đi hành quân đạp phải
mìn bẫy, không thiệt hại gì nhiều, chỉ mất có “hai hòn” nơi
hạ bộ. Cô y tá xinh đẹp mỗi khi đến thay băng, thường gọi
ông là “Tạ Công Công” [*]. Hôm tôi nhập phòng, mọi người
trong phòng đón tôi bằng những cử chỉ ân tình làm ấm lòng
người chiến sĩ. “Hiệp sĩ mù” nói với tôi:
– “Hồi còn
hai con mắt, tôi đọc Dương Hùng Cường, và thích nhất nhân
vật ‘Pi Lốt Thái Bình’. Anh là dân KQ vậy tôi tặng anh cái
mỹ hiệu này xin đừng từ chối”.
Tôi cười nói với anh
là tôi thì OK, chỉ sợ ông Dương H. Cường ông ấy kiện.
“Hiệp Sĩ Mù” cất giọng cười sảng khoái. Thế là trên
giang hồ tôi có thêm một cái tên mới. Một buổi trưa, tôi
đang nằm mơ mơ màng màng nghĩ đến ngày xuất viện thì nghe
tiếng “Tạ Công Công” khẽ gọi:
– Ê “Pi Lốt Thái Bình”,
có người đẹp tới thăm kìa.
Tôi còn ngái ngủ vẫn quay
lưng ra ngoài. Tôi nghe giọng nói nhỏ nhẹ của người con gái:
– Dạ, xin lỗi đây có phải là phòng Đại uý Hà không ạ?
Tiếng “Tạ Công Công” thanh thoát cất lên:
– Ổng
nằm bên kia kìa.
Tôi nhỏm người dậy nhìn ra ngoài.
Một người con gái trẻ đẹp, tay xách giỏ trái cây, đứng bên
khung cửa. Bốn mắt nhìn nhau sao thấy ngỡ ngàng. Thì ra cô
lầm tôi với người bạn trai của cô là Đại uý Phạm Ngọc Hà.
Nhìn bộ điệu lính quýnh của người con gái, tôi thấy mình
phải làm một cái gì để gỡ cái thế rối này cho nàng. Tôi giơ
tay chỉ chiếc ghế cạnh chiếc bàn bên đầu giường, rồi cười
nói:
– Vâng, tôi là Hà PĐ514, bạn của Đại uý Hà bên
518. Mời cô ngồi chơi. Xin lỗi cô là...
Mặt người con
gái hơi hồng lên, nàng ngập ngừng nói:
– Dạ em là
Liên. Nghe các anh Lê Thanh Hồng Vân và Phạm Văn Thặng nói
là anh Hà nằm Cộng Hòa, em cứ tưởng là Hà bạn em, nên...
Hiệp Sĩ Mù từ giường bên ngồi dậy nói chõ xuống:
– Thì Hà nào cũng là Hà cả. Tôi từng thấy nhiều cuộc gặp gỡ
tình cờ, nhưng chưa nghe trường hợp nào kỳ thú như lần này.
Cám ơn cô Liên đã đến thăm anh Hà và chúng tôi. Nằm ở đây
hàng ngày nhìn ra ngoài hành lang, tuy không thấy gì, nhưng
chỉ nghe giọng nói, tiếng cười vui tươi vọng tới, cũng đủ
thấy ấm lòng.
Có lẽ hình ảnh bi hùng của những người
lính trước mắt, và câu nói như mũi dao nhọn xoáy vào tim của
Hiệp Sĩ Mù, đã làm mềm lòng người em gái hậu phương, nên
Liên ngồi xuống sắp trái cây lên bàn mời chúng tôi. Rồi mỗi
người góp một câu khiến bầu không khí trong phòng vui nhộn
hẳn lên. Liên lấy lại sự vui tươi ban đầu, cười nói líu lo
thăm hỏi từng người. Nhìn Liên tôi như thấy cả ngàn cánh hoa
đào tung bay trong gió...
Rồi tôi xuất viện, Sếp cho
nghỉ 2 tuần dưỡng bệnh. Trong 2 tuần lễ này, ngày nào Liên
cũng về Sài Gòn thăm tôi. Chúng tôi hưởng trọn vẹn những
“ngày vui qua mau”. Nhưng rồi 2 tuần nghỉ phép cũng như cơn
gió thoảng... Hết phép trở về Biên Hòa, tôi lại tiếp tục
cuộc đời của một “chinh nhân”, và tôi không còn gặp lại Liên
nữa. Người con gái đã đến và đi qua đời tôi như một giấc
liêu trai, nhưng đã để lại cho tôi những hương vị tuyệt vời
của một cuộc tình thoáng qua trong thời chiến... Có những
điều bí ẩn trong cuộc sống mà chúng ta không hiểu nổi; người
con gái mà tôi chọn làm người bạn đời của mình cho đến bây
giờ cũng tên Liên.
Ngày tôi rời Biên Hòa để đi “trấn
thủ lưu đồn”, thì cái “duyên đồng đội” của tôi và anh cũng
chắp cánh bay xa. Anh Phạm Ngọc Hà ơi! Kể từ ngày đó, tôi
không có dịp gặp lại anh, nhưng tôi vẫn theo dõi những chiến
tích lẫy lừng của anh ngoài chiến trận. Bây giờ xin anh cho
tôi được gọi anh bằng cái tên “Hà ta!” thân thương ngày nào
nhé. Gọi nó để nhớ đến người bạn một thời tung hoành trong
bão lửa.
PleiKu! Vùng đất trích:
... Lịch sử
của cuộc chiến là một bức tranh khổng lồ, mà mỗi người trong
chúng ta chỉ có thể nhìn nó từ một góc cạnh rất nhỏ trong
cuộc đời của mình. Có những góc cạnh mà người đứng nhìn
tưởng như mình đang lạc vào một “chiều không gian” khác biệt
nào đó, để bất chợt bắt gặp một bông lan rừng nhô ra từ khe
đá rong rêu, chênh vênh bên ghềnh thác... Cũng từ cái góc
cạnh đặc biệt này, niềm hoài niệm đã đưa tôi trở lại với
PleiKu vào một buổi chiều âm u sương khói.....
Từng
tảng mây đen nặng nề từ đỉnh Trường Sơn chậm chạp kéo về
giăng kín cả bầu trời phố núi, như báo hiệu cho một cơn dông
lớn sắp đến. Trung tá Nguyễn Văn Bá KĐT/KĐ72CT, cùng Thiếu
tá Lê Bá Định Phi đoàn trưởng và chúng tôi, những phi công
của Phi Đoàn “Thái Dương 530” tân lập, đứng quây quần bên
những chiếc lò sưởi dã chiến được làm bằng những chiếc thùng
“phuy” xăng, ngoài hangar của LĐ60BT&TL cạnh phi đạo, cùng
Thiếu tướng Kỳ trò chuyện tâm tình. Là một đơn vị nhỏ thuộc
cấp “Phi Đoàn”, mà được Tướng Kỳ ghé thăm, tháp tùng ông là
những nhân vật gạo cội của quân chủng như Tướng Minh TLKQ,
Đại tá Tần TMP/Hành Quân, Đại tá Tiên TL/KĐ33/CT, ở vào thời
điểm cuối năm 1970... thì không phải chỉ là vinh dự cho đơn
vị, mà còn là một niềm hãnh diện riêng cho nguời lính chiến
nơi vùng trời biên trấn. Đang nghe vị cựu Tư lệnh/KQ kể
chuyện, chúng tôi bỗng thấy xe cứu thương và xe cứu hỏa hụ
còi inh ỏi chạy ra ngoài phi đạo. Từ chiếc vòi rồng của xe
cứu hỏa phóng ra một lớp “bọt foam” trắng xóa, phủ kín một
quãng sân bay. Nhìn về hướng Đông, chúng tôi thấy 2 chiếc
phi cơ phản lực đang trên đường cận tiến phi đạo 27. Bằng
những con mắt nhà nghề, chúng tôi nhận ra ngay đó là hai
chiếc F100 đang dìu nhau hạ cánh khẩn cấp. Chiếc số 1 thả
bánh đáp, chiếc số 2 bám sát bên cánh trái không thấy ra
“gear”, chắc là bị bể ống thủy điều. Cả 2 chiếc thẳng tiến
tới phi đạo và ở một cao độ vừa đủ để làm crash.
Bỗng
chiếc số 1 bốc mình lên, trong lúc chiếc số 2 “crashed” thật
chính xác ngay trên lớp “bọt foam”. Tất cả chúng tôi đều nín
thở, theo dõi chiếc phi cơ lâm nạn lướt trên mặt phi đạo,
vừa mong cho người phi công lâm nạn được an toàn, vừa thầm
cảm phục tài nghệ của anh. Ra khỏi lớp bột chống hỏa trải
lót đường, chiếc phi cơ tiếp tục lướt tới với một tốc độ khá
nhanh. Tướng Kỳ quay qua nói với Thiếu tá Hồ Đăng Trí, sĩ
quan tùy viên của ông, chạy xe ra phi đạo, và nếu điều kiện
an phi cho phép, thì chở người phi công lâm nạn tới gặp
Tướng Kỳ để ông mời anh một ly rượu mừng. Thiếu tá Trí chưa
kịp quay lưng thì tất cả mọi người đứng trong hangar đều
trợn mắt, há mồm nhìn chiếc phi cơ cày trên mặt nhựa. Những
tia lửa từ bụng phi cơ xẹt ra, bắn tung tóe như một cây pháo
bông, rồi đâm thẳng vào ụ đất cuối đường bay, cạnh trạm tiếp
liên của hãng “Hàng Không Việt Nam”. Một cột lửa bùng lên,
rồi chiếc ghế ngồi của người phi công phóng vút lên cao,
nhưng dù chưa kịp mở, thì chiếc ghế đã rơi ngay vào đống lửa
bập bùng... Chiếc phi cơ số 1 vòng lại, bay sát mặt phi đạo,
lắc cánh, quằn quại gầm thét như một con mãnh hổ lạc bầy,
làm một vòng quay 360˚ trên đầu ngọn lửa, như để gởi lời
chào vĩnh biệt tới người bạn đồng hành vừa nằm xuống, rồi
vụt bốc lên như cây pháo thăng thiên, cô đơn lao mình vun
vút, lẩn khuất sau những đám mây tang, để lại bầu trời hoang
lạnh những âm thanh phản hồi, gầm gừ như tiếng sấm đầu mùa
mưa... Mọi việc xảy ra quá nhanh, quá bi tráng, làm chúng
tôi không kịp đón nhận nó. Trên gương mặt phong trần của
những người trai dạn dầy chinh chiến, hằn lên những nét kinh
hoàng. Gương mặt Tướng Kỳ đanh lại, cặp mắt ông trừng trừng
nhìn vào khoảng không gian vô tận, như bất chợt gặp lại
những hình ảnh hãi hùng ngày nào, khi ông còn bay những “phi
vụ cò trắng” vượt biên, hằng đêm bay sâu trên vùng đất
địch... Anh phi công phản lực F100 ơi, từ chiến trận nào anh
trở về đây để được hỏa táng trên miền đất lạ. Dù rằng không
có một lễ nghi quân cách, dù rằng không có những vòng hoa
tang phúng điếu, và tiếng kèn truy điệu cho anh, nhưng ở đây
đã có những tấm chân tình của tri kỷ, đang thành kính cúi
đầu chiêm bái anh linh người tráng sĩ vừa hy sinh... Bây giờ
là 6:00g chiều, từ một nơi cách xa quê hương anh cả một đại
dương ngút ngàn sóng nước, không có một người thân, không có
bạn bè, mà chỉ có chúng tôi, những người cùng chung một
chiến tuyến với anh, xin nguyện cầu cho anh đêm nay xoải
cánh an toàn, bay về cõi vĩnh hằng cao diệu vợi...
Chén rượu giang hồ đậm tình tri kỷ:
Đối với những
người lính chiến như chúng tôi, dù ở đơn vị hay cấp bậc nào
đi chăng nữa, thì cuộc sống cũng vô cùng bấp bênh và ngắn
ngủi. Mới chỉ buổi sáng đây thôi, còn thấy anh ồn ào cùng
chúng bạn, để đến đêm về, ở một nơi nào đó có ánh đèn mờ ảo
như muốn che giấu những nỗi kinh hoàng trong lửa đạn, đã
thấy bùng lên câu thơ:
“Đêm tráng sĩ qua sông lần
vĩnh biệt
Tưởng đang còn tiệc rượu lúc tàn canh”.
Cho nên dù chỉ là một lần gặp gỡ tình cờ, cũng sẽ đem lại
cho chúng tôi những kỷ niệm chập chùng khó quên... Còn nhớ
một lần tôi cùng Thặng (Fulro), Long (lăng quăng), và Phúc
(cháy), đến dự đêm dạ vũ “Mây bốn phương trời” tại câu lạc
bộ Huỳnh Hữu Bạc trong căn cứ KQ Tân Sơn Nhứt. Trong đêm vui
này, một số phi công nghênh cản F4C từ hàng không mẫu hạm
Midway cũng được mời về tham dự. Vừa bước vào phòng đã thấy
ông Hưng (phệ) chạy ra đón. Rồi ông dẫn chúng tôi lại ngồi
cùng bàn với những “người khách đặc biệt” này. Tất cả đều
đứng lên trong khi ông Hưng giới thiệu:
– “Đây là
những hoa tiêu F4C thuộc Không Đoàn nghênh cản ngoài Hạm Đội
số 7.”
Rồi quay qua chúng tôi, ông nói với họ:
– “Còn đây là những phi công khu trục oanh tạc A1 của
KLVNCH.”
Chúng tôi trao đổi với nhau những tia nhìn đầy
thiện cảm, cùng những cái siết tay chặt chẽ thân tình như đã
quen nhau tự thuở nào... Một ông đại uý trẻ măng, mặc bộ đồ
bay màu cam, nắm tay tôi nói:
– Chúng tôi được nghe
rất nhiều huyền thoại về các bạn, những phi công can đảm,
chiến đấu hào hùng trong những điều kiện cực kỳ khó khăn và
nguy hiểm. Đêm nay được gặp, thật là vinh hạnh.
Tôi
bóp chặt tay anh cười nói:
– Chúng tôi cũng rất
ngưỡng mộ các bạn, những “MiG Killer” của Hải Không Quân Hoa
Kỳ, hàng ngày vẫn bình thản “Đạp sóng đại dương lướt gió
ngàn”, quần thảo với phi cơ và hỏa tiễn địch trên vòm trời
lửa đạn.
Rồi những giọng cười như con lốc xoáy, bốc
lên theo hơi rượu của những con người mà mới chỉ một lần đầu
gặp gỡ, đã thấy “mến nhau qua phong độ, trọng nhau vì tài”.
Anh Khoa (Đen) hai tay xách hai chai Martel cổ lùn lừng lững
đi tới, anh cất giọng hào sảng nói:
– Đêm nay các cậu
phải uống cho thật say đó nghe.
Tôi tiếp lời anh:
– “Say như tráng sĩ
say hào khí
Tưới rượu hư không gột chiến bào
Trượng
phu cất tiếng cười vang dội
Bầu trời rung chuyển cả trăng
sao.”
Anh
ngửa mặt cười sảng khoái, rồi mở chai rót rượu. Thặng
(Fulro) với tay bấm nút chai soda, tưới những tia nước sủi
bọt trắng xóa vào những chiếc ly thủy tinh. Tôi cười nói với
Thặng:
– Rót nữa đi bạn:
“Rót
cho rượu tuôn như suối dồn thác đổ
Đã tiễn đưa đâu mà nói
trường đình.”
Tất cả đều nâng ly, ngửa cổ uống cạn ly rượu giang hồ,
và nhìn nhau bằng những tia nhìn long lanh qua ánh mắt, rồi
cùng cất tiếng cười vang, át cả tiếng nhạc của đêm liên
hoan. Đêm nay còn có thứ ngôn ngữ nào diễn tả nổi tấm chân
tình của tri kỷ, và còn có men rượu nào sánh được với “men
hào khí” của chinh nhân. Bởi vì:
“Ngày
mai vào trận ai nào biết
Tráng sĩ quay cuồng bom đạn rơi”...
Anh Khoa thân kính! Đã lâu lắm rồi, kể từ đêm tao ngộ
với những cánh chim trời phiêu bạt tụ về, cùng anh bàn
chuyện “chiến chinh” lần đó, chúng mình chưa một lần gặp lại
nhau, nhưng em vẫn nhớ cái dáng dấp hiên ngang quen thuộc
thuở nào của “người tráng sĩ cô đơn lạc nẻo dòng đời” khi
anh cùng Thượng sĩ N. V. Nhất đáp chiếc “Thần Phong 01”
xuống Pleiku vào 1 buổi sáng mù sương, để gặp Trung tá Lê Bá
Định và Trung tá Nguyễn văn Bá. Cuộc gặp gỡ bí mật của những
con người “giang hồ quen thói vẫy vùng” tuy thật ngắn ngủi,
nhưng cũng đã làm “nghiêng ngả cả giải giang hà dưới gót
chân”....
Ngày tháng vẫn lạnh lùng trôi... Tôi quên
thế nào được hình ảnh chiếc H34/PĐ219 của Đại uý Nguyễn văn
Thắng lừng lững từ trên không như một khối sắt khổng lồ lao
mình xuống cơn bão lửa... Rồi anh Nghĩa (già) từ trong lòng
phi cơ phóng ra, vội vã tháo dây dù cho tôi, vác tôi lên vai
chạy dưới làn mưa đạn của quân thù tại chiến trường Benhet
ngày nào....
Tôi cũng còn nhớ rất rõ âm thanh tắc
nghẹn trên tần số của Thiếu tá Hồng Khắc San, người Phi tuần
trưởng gan lỳ của Phi Tuần Thái Dương 51, khi chiếc số 2 của
anh, Thiếu uý Dương Huỳnh Kỳ, trầm mình trong ngọn lửa mịt
mùng theo với dàn bom napalm hai bên cánh, và thân xác người
phi công tài hoa son trẻ của Phi Đoàn 530 đã được hỏa táng
ngay trên Đỉnh Charlie... Cùng trong khoảng thời gian và
không gian đó, một cánh dù bung nở, mang theo người phi công
của Phi Tuần kế tiếp, Thái Dương 61, từ chiếc phi cơ bốc
cháy trên vòm trời lửa đạn, về với những người bạn Nhảy Dù,
Biệt Động Quân đang quần thảo với địch quân nơi chiến địa
của mùa Hè rực lửa năm xưa... Rồi chiếc UH1/PĐ229 của Trung
uý Tuấn (Bocassa), Trung uý Xuân (tóc đỏ) bay tới, nghiêng
ngả như con thuyền ngụp lặn trong cơn phong ba bão táp giữa
biển khơi, thả sợi dây thừng cho tôi nắm lấy. Khoảng cách
giữa sự sống và sự chết chỉ cách nhau chưa đầy một gang tay,
mà sao tôi thấy nó dài như cả vạn dặm đường...
Trong
giây phút tưởng chừng như tuyệt vọng đó, thì một phép lạ
chợt đến. Người cơ phi xạ thủ dũng cảm của phi hành đoàn
trực thăng cấp cứu, từ trong khoang tàu hiện ra như một
“Thiên Thần”, leo xuống sợi dây lơ lửng giữa trời, thòng
cánh tay rắn chắc cho tôi nắm lấy, và chúng tôi cùng đong
đưa theo sợi dây, trước cặp mắt ngơ ngác của tử thần. Rồi cứ
thế, chiếc phi cơ “cứu tử” đưa tôi về căn cứ Võ Định, nơi có
đơn vị tiền phương của Lữ Đoàn Dù trấn đóng. Sau khi thả tôi
nằm trên tấm poncho dưới đất, các anh, những “Hiệp Sĩ không
gian” của vùng trời biên trấn, lại lạnh lùng quay lưng cất
cánh, không để cho tôi có dịp gởi đến các anh một lời chào
tạm biệt.....
Tôi quên thế nào được những cử chỉ vỗ
về, chăm sóc của những người bạn đồng ngũ ngoài chiến
trường. Thiếu tá Phạm Bính, PĐT/PĐ215 rót những liều thuốc
tê vào tai tôi: “Rán một chút nghe cưng, sắp xong rồi.” khi
anh nắm chặt lấy hai cánh tay tôi cho Bác sĩ Hiệp, người y
sĩ trẻ của Binh chủng Nhảy Dù, khâu sống vết thương trên
trán. Trong cơn mê mơ hồ thảng thốt, tôi nghe có tiếng cười
đùa trao đổi giữa Thiếu tá Huỳnh Hải–Hổ, người đang đè hai
chân tôi, và vị bác sĩ trẻ:
– Cẩn thận nghe Bác sĩ,
đừng để vết thẹo quá lớn trên gương mặt đẹp trai của tráng
sĩ.
– Vâng, tôi chưa thấy người lính trận nào lại có
một làn da trắng và mịn màng như ông thiếu tá này.
Rồi những ngày chinh chiến qua đi... Đã có biết bao nhiêu
người bạn lạnh lùng quay lưng vượt “dòng sông định mệnh”, để
lại cho đời những luyến tiếc nhớ thương. Và cũng có biết bao
nhiêu người bạn mới chỉ nghe danh, hoặc chỉ qua một lần gặp
gỡ, mà tình tri kỷ đã đậm đà đến tận thiên thu...
Bây
giờ ngồi đây giữa cảnh đời luân lạc, tôi nhớ đến những người
của ngày xưa đó, mà thấy lòng mình chùng xuống. Giờ này các
anh đang ở đâu, có phải các anh đang cô đơn xoải cánh dưới
bầu trời dông bão, hay đã dừng chân nơi chốn lạ, và đêm về
các anh có nghe được những ưu tư khắc khoải thầm lặng của cố
nhân?!!
“Còn tôi
vẫn nhớ ngày hôm ấy
Nhớ cả khung trời mây trắng bay
Rồi đây trên phiến thời gian cũ
Tôi sẽ mang theo những
tháng ngày”.
Trần Ngọc Nguyên Vũ
Tác giả ghi chú:
[*] Công Công:
Ngày xưa người ta gọi những viên hoạn quan, thái giám là “Công
Công”.
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by cathy chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, June 12, 2025
tkd. Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH