Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang
Thi–Văn
Chủ đề:
Văn Chương VN
Tác giả:
Trần Quốc Bảo
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Hàn
Thi là thơ của Việt Nam, (thể: 7 chữ, 8 câu; hoặc thể:
5 chữ, 4 câu) làm theo Hàn luật.
Để tìm hiểu về Hàn thi,
xin mời ôn lại đôi dòng lịch sử và văn học sử Việt Nam sau đây:
Từ Chữ
viết đến Hàn luật, Hàn thi
Chữ quốc ngữ: Nước Việt
Nam hiện nay có ký tự riêng, gọi là chữ quốc ngữ, nguồn gốc từ mẫu
tự La–tinh. Chữ quốc ngữ bắt đầu có vào đầu thế kỷ 16, do các Giáo
sĩ Công giáo người Bồ đào Nha tới Việt Nam giảng đạo; như các Linh
Mục: Francisco de Pina (?), Gaspar d’Amaral (1549–1646); Antonio
Barbosa (1594–1647), các ngài dùng chữ La–tinh phiên âm tiếng Việt,
để dậy cho tín hữu ghi chép kinh sách. Cách sáng chế chữ nghĩa thời
ấy, thoạt đầu thô sơ, sau được Linh mục Đắc–Lộ (Alexandre De Rhode:
1591–1660) bổ khuyết đầy đủ hơn. Việc hoàn chỉnh chữ Việt như hiện
nay, còn là công lớn của hai Giám mục người Pháp, Pigneau de Béhaine
(1741–1799) và Taberd (1794–1840). Việc phổ biến rộng rãi và cổ súy
người Việt dùng quốc ngữ, vào cuối thế kỷ 19, là công đầu của các
ông Truơng Vĩnh Ký (1837–1898) và Huỳnh tịnh Của (tức Paulus Của,
1834–1907).
Chữ Hán: Trước khi có quốc ngữ, Việt nam có loại
chữ nào? Đó là câu hỏi cho đến nay vẫn còn đang tìm hiểu.
– Có nhà ngôn ngữ học, xét qua các nét di
tích trên cổ vật, những hình thù cong queo, tương tự như dấu hỏi,
dấu ngã, hoặc chữ S, chữ C (? ~ S C), mà luận rằng, thời cổ đại, dân
tộc Hồng Bàng đã có chữ riêng, gọi là “chữ nòng nọc”.
– Lại có nhà khảo cứu, nghiệm qua cổ vật
thấy vẽ những hình thù 4 cạnh, như: 口日目回... mà suy đoán, tự ngàn xưa
Việt Nam ta có lối viết chữ hình vuông, chính loại chữ đó, biến cải
dần theo dòng nhân sinh, mà thành ra chữ Hán của Tàu sau này. Dù
sao, những suy luận trên vẫn còn trong nghiên cứu tìm tòi, chưa xác
quyết.
Còn về
lịch sử cận đại của Việt Nam, phần văn học, ghi nhận kể từ đời nhà
Lý (1010–1225) trở về sau, ta đã có thơ văn, diễn ý và ký tự bằng
chữ Hán. Bài thơ tiêu biểu đầu tiên, là bài “Nam Quốc Sơn Hà” của
danh tướng Lý Thường Kiệt (1036–1105) viết, khi phá quân Nhà Tống
(Tầu) ở sông Như Nguyệt (tức sông Cầu). Suốt thời kỳ văn học phôi
thai đó, từ chiếu chỉ của nhà Vua, đến thơ văn và các giấy tờ hành
chánh, việc thi cử, cùng giao dịch xã hội trong nước, hết thảy đều
dùng Hán tự cả.
Chữ Nôm, (Nôm là “nam” nói trại ra) Để viết tiếng
Việt Nam, tiền nhân ta đã chế ra chữ nôm, bằng cách dùng nguyên chữ
Hán đọc âm thành tiếng Việt; hoặc ghép đôi ba chữ Hán lại với nhau
để gợi âm và nghiã cho tiếng Việt. Chữ nôm xuất hiện trước thế kỷ 13
và thịnh hành nhất vào đời nhà Trần (1293–1341).
Hàn Thi: Vào cuối thế kỷ
13, nền văn học nước ta bộc phát phong trào dùng quốc văn, các sĩ
phu đua nhau sáng tác thơ văn bằng tiếng Việt Nam, riêng bộ môn thơ,
thì dựa theo ca dao hoặc bắt chước cách thức của thơ Tầu mà làm, chứ
không có luật lệ nào cả. Đến sau này, đời vua Trần Nhân Tôn
(1279–1284), có ông Hàn Thuyên (tức Nguyễn Thuyên) là người đầu tiên
dùng chữ Nôm mà làm thơ phú, ông lại nghiên cứu các bài thơ Tầu, đời
nhà Đường (618–907) dựa theo đó, mà đặt ra “Luật Thơ thất ngôn bát
cú” cho nền văn học nước ta. (Từ luật thơ căn bản thất ngôn bát cú,
cải đổi ra luật thơ tứ cú hoặc thơ ngũ ngôn, v.v.)
Việt Nam Văn học Sử yếu (Dương Quảng Hàm,
trang 118) chép về Hàn Thuyên như sau:
– “Ông Hàn Thuyên, vốn họ Nguyễn,
người huyện Thanh Lâm, Tỉnh Hải Dương. Đậu Thái học sinh về đời vua
Trần Thái Tôn (1225–1257). Mùa Thu, tháng 8, năm 1282, ông đang làm
hình bộ thượng thư, có con ngạc ngư (cá sấu), đến sông Phú Lương
(tức sông Nhị Hà). Vua sai ông làm bài văn vất xuống sông. Cá sấu tự
đi. Vua cho việc ấy giống việc Hàn Dũ đuổi cá sấu bên Tầu, nên cho
ông đổi họ là ‘Hàn’”.
Cũng việc này, Việt Nam Sử Lược, (Trần
Trọng Kim – Quyển 1, trang 131) ghi rằng: “Ông Nguyễn Thuyên
khởi đầu dùng chữ nôm mà làm thơ phú, ông có tiếng tài làm văn như
ông Hàn Dũ bên Tàu ngày xưa. Bởi vậy vua cho đổi họ là Hàn. Về sau
người mình theo lối ấy mà làm thơ gọi là Hàn luật”.
Người Việt xưa hoặc nay, làm thơ diễn ý
bằng chữ Hán, chữ nôm hoặc chữ quốc ngữ, mà áp dụng theo Hàn luật
thì gọi là “Thơ Hàn luật”, hoặc “Hàn
thi”. Điều đó lịch sử Việt Nam và các Nhà Văn học tiền
bối, đã ghi chép rõ ràng; (như trích dẫn trên) không nên cứ theo
thói quen mà gọi lầm là thơ Đường luật hoặc Đường thi.
Kết luận: Ta nên phân
biệt rõ ràng, Đường thi là thơ của Tầu và Hàn
thi là thơ của Việt Nam.
A – Đường thi, hoặc Thơ Đường, là
những bài thơ xưa (cổ thi) của các thi nhân người Tầu
(khoảng 2300 người), sáng tác vào đời nhà Đường (618–907) (còn lưu
lại đời sau khoảng 48,900 bài thơ).
B – Thơ Đường luật, là thơ của
người Tầu (các thế hệ sau đời Đường) làm theo thể Đường
luật – di sản văn hóa của Trung hoa.
C – Hàn thi, là thơ của người Việt
Nam, làm theo Hàn luật. Các thể thơ Hàn luật của Việt Nam,
(thể: thất ngôn bát cú; hoặc thể: ngũ ngôn tứ tuyệt) có từ đời ông
Hàn Thuyên (1282). (Mặc dù Hàn Thuyên dựa vào Đường Luật mà chế ra
Hàn luật, song việc kết nạp tinh hoa văn học ngoại vi, vào nền văn
hóa của một quốc gia, là điều mặc nhiên, nền văn hóa của bất kỳ Nước
nào trên thế giới, cũng đều có ảnh hưởng, dung nạp bão hòa với nhau
như vậy).
Trần Quốc Bảo
Richmond, Virginia
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
Dù T–10
SĐND–QLVNCH
dùng trong thời chiến
|
Hình nền: Lũy Tre Làng. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tqb chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật,
September 15, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang