Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản
mạn Văn Nghệ Sĩ Miền Nam–VN
Chủ đề:
QH30–T4Đ
Tác giả:
Phạm Văn Duyệt
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Sau
khi cưỡng chiếm Sài Gòn, tập đoàn cộng sản đã thực hiện chính
sách đối xử dã man tàn bạo với đồng bào miền Nam. Hậu quả là bao
gia đình chịu cảnh tan nát đau thương, khổ lụy ngút ngàn. Một
trong những thành phần bị đọa đày thê thảm nhất là giới văn nghệ
sĩ. Sách báo còn thiêu hủy đốt cháy huống chi là con người. Mấy
ai mà tránh được sự trả thù ác hiểm của quân cướp nước.
Bài này xin điểm lại mười cái chết oan
khiên của văn nghệ sĩ trong khoảng thập niên đầu sau 75 như nén
hương lòng tưởng niệm những người vị quốc vong thân đã từng góp
công sức xây dựng nền văn học nghệ thuật nhân bản cho nửa nước
thân yêu.
1.
VŨ HOÀNG CHƯƠNG (1916–1976)
Đỗ Tú Tài 1937. Học Luật và Toán dang
dở. Xuất bản chừng 20 Thi Phẩm và Kịch
Thơ. Di cư vào Sài Gòn
1954 hành nghề dạy học. Đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc 2 lần. Chủ
Tịch Văn Bút Việt Nam.
Những năm dạy ở trường Chu Văn An rất
được học trò mến mộ.
Trong tập truyện Chốn Cũ, Nhà văn Song
Thao kể lại: Thầy đi quanh lớp bằng những bước chân nhẹ nhàng,
đầu nghểnh cao, mắt xa vắng, giảng bài bằng cái giọng nhừa nhựa
thanh thanh. Có những lúc mắt Thầy như nhắm hẳn lại, đầu lắc lắc
từng chặp. Giây phút ấy Thầy như thoát hồn bay về một trời thơ
nào đó. Thầy say thơ. Thầy ngâm thơ như người đồng thiếp. Như
không có Thầy. Như không có trò. Như không phải là một lớp học.
Chỉ có một cõi thơ lồng lộng bát ngát. Chúng tôi cũng thấm thơ.
Vô cùng nồng nàn là những dòng thơ đất Việt. Chỉ có tiếng chuông
báo hết giờ học mới có thể kéo thầy trò ra khỏi cơn mê văn
chương.
Một
cựu học sinh khác là Phạm Công Bạch cũng viết bài: Tại Sao Vũ
Hoàng Chương bị bắt vào tù Khám Lớn?
– Vì Thơ vè mỉa mai chế độ: sau 75
nhiều thơ nhạc chế diễu chế độ mới lan truyền khắp mọi nơi. Đặc
biệt là hai câu mà lắm người cho rằng Vũ Hoàng Chương là tác giả:
Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý
Đồng Khởi ra đời mất Tự Do
– Chê thơ Tố Hữu: theo bài đăng trên
“net” của Sông Lô viết về Vũ Hoàng Chương nhận xét thơ Tố Hữu:
Sau 75, một phái đoàn từ bắc vô Sài Gòn
có mời Vũ Hoàng Chương tham dự trong đêm “họp mặt văn nghệ”. Đề
tài đưa ra là hai câu thơ Tố Hữu khóc Stalin chết năm 1953:
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình, thương một, thương ông thương mười
Cán bộ như Xuân Diệu, Huy Cận, Thanh
Nghị, Vũ Đình Liên, Hoài Thanh đều ca ngợi. Riêng Vũ Hoàng Chương
phát biểu: Tố Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng bà mẹ
Việt Nam, muốn bà dùng mối u hoài của Nhà thơ để dạy con trẻ yêu
cụ Stalin thay cho mình. Chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của
thi ca, nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việt Nam có cùng tâm cảnh
với mình không, có chung một mối cảm xúc hay không?
Tôi biết chắc là không. Bởi từ đoạn
trên của mấy câu lục bát này trong bài “Đời đời nhớ ông”, Tố Hữu
đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:
Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin
Chắc chắn là không có bà mẹ Việt Nam
nào, kể cả bà Tố Hữu mà thốt được những lời như vậy một cách chân
thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực của
hai câu ta đang mổ xẻ.
Một tình tự không chân thực, dù được
luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không
phải là thơ đẹp, thơ hay mà chỉ là thơ khéo làm, đó chỉ là thơ
thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ
nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là khi
có đòi hỏi một tuyên truyền nào đó. Tố Hữu nếu khóc lấy, có lẽ là
khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà mẹ Việt Nam trong bài đã khóc
tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm.
Theo Sông Lô, Vũ Hoàng Chương chính là
người của tự do không phải qụy lụy trước bất cứ áp lực nào. Nhà
thơ đã thế hiện khí khái tinh thần “uy vũ bất năng khuất”.
– Nhà văn Mai Thảo có bài “Mấy Tháng
Cuối Cùng Với Vũ Hoàng Chương”: Sau 75, Họ Vũ dời nhà về sống với
vợ con Đinh Hùng (em Bà Chương) ở Gác Bút, Khánh Hội. Hỏi tại sao
không dùng lại tên Gác Mây của căn lầu vùng Phú Nhuận vừa rời bỏ,
Thi sĩ cười, hóm hỉnh: “Đổi đời, giờ là Gác Bút mới đúng. Vì Hà
Nội nó bắt ta gác hết bút lên rồi, đâu còn cho viết nữa”.
Từ cộng sản chiếm miền Nam, hơn ba
triệu người đều “nói” Vũ Hoàng Chương. Thấy nhau là “Lũ chúng ta
lạc loài năm bảy đứa”. Gặp nhau là “Lũ chúng ta đầu thai lầm thế
kỷ”. Đó cũng là thêm một lý do gây tai họa cho Ông.
Theo Mai Thảo, đám Nhà thơ miền Bắc đặc
biệt đố kỵ Vũ Hoàng Chương chỉ vì trời thơ hai miền hào quang Ông
át lấn mọi hào quang khác. Mặc cảm tự ti khiến họ ghen ghét Ông
như Vì Sao Bắc Đẩu của thi ca miền Nam rồi đưa tới hệ lụy cho
việc bắt giữ.
– Mai Thảo viết theo lời kể của Bà Chương: 9:30 sáng 13/4/76 Vũ
bị cảm lạnh còn đắp chăn không ngồi dậy được. 4 xe jeep đầy nhóc
áo vàng mang súng ống như cho một cuộc hành quân lớn, ầm ầm vượt
cầu Calmette phóng thẳng phường Cây Bàng và ngưng lại trước con
hẻm nhỏ dẫn vào nhà Thi sĩ. Bọn công an trên 20 đứa tới tấp nhảy
xuống xe. Khoảnh khắc vây kín Gác Bút. Chúng chạy rầm rập, trí
súng, mai phục theo tư thế chiến đấu.
Vũ bị đánh thức trong giấc ngủ chập
chờn. Ông gắng gượng ngồi dậy, lấy áo gấm mặc vào, xếp bằng thật
thẳng giữa chiếu, bất động như một pho tượng.
Bọn quỷ dữ ở lại lục soát trên hai
tiếng đồng hồ. Ông không thèm nói với chúng lời nào. Chúng hỏi,
Ông không trả lời, chỉ thoáng nhún vai rồi ngồi yên. Sau đó, hai
thằng lực lưỡng nhất hùng hổ tiến lại xốc nách Ông lôi lên xe đưa
vào khám Chí Hòa giam cầm cùng với một số trí thức khác kể cả Bác
sĩ Phan Huy Quát. Vì thương mến họ Vũ mà cựu Thủ tướng đã tận
tình chăm sóc và không hề ngại ngần bưng bô cho Thi sĩ.
Với thân hình gầy yếu sẵn có, lại thêm
thiếu thốn mọi bề, sức lực Ông kiệt dần. Việt cộng biết không thể
sống được bao lâu nên thả Ông về để tránh tiếng bức tử trong tù.
Vài hôm sau thì Ông mất với tâm thái an nhiên tự tại, chẳng vấn
vương tiếc nuối điều gì.
Phải chăng Thi Bá đã chuẩn bị cho cuộc
ra đi cuối cùng qua bài thơ Thôi Hết Băn Khoăn:
Dấu hỏi vây quanh trọn kiếp người
Sên bò nát óc máu thầm rơi
Chiều nay một
dấu than buông dứt
Đinh đóng vào săng,
tiếng trả lời!
2. NGUYỄN MẠNH CÔN (1920–1979)
Viết báo Đông Pháp từ 1939. Đến 1951
dạy học tư. 1956–61 chủ bút báo Chỉ Đạo.
Xuất bản 13 tác phẩm. Có
biệt tài viết truyện khoa học giả tưởng.
Theo Nhà thơ Viên Linh, sách Nguyễn
Mạnh Côn đều phơi bày những kiếp nhân sinh vắng bộ mặt người
trong các xã hội cộng sản.
Nhà văn Mai Thảo cho rằng “Đem Tâm Tình
Viết Lịch Sử và Hòa Bình, Nghĩ Gì, Làm Gì? là hai tác phẩm chủ
yếu của văn học Quốc Gia Việt Nam từ 54 đến 75 và là niềm vinh dự
chung của văn học miền Nam”.
Một số tướng lãnh rất khâm phục luận
thuyết và viễn kiến của Ông.
Sau 75, tên Ông đứng đầu danh sách 45
người nổi tiếng bị việt cộng bắt đi tù.
Để hiểu rõ cuộc đời, tài năng, khí
phách của Nguyễn Mạnh Côn, chúng ta hãy nghiền ngẫm tư liệu quý
giá của Nhà văn Vương Trùng Dương: “Nguyễn Mạnh Côn, Nhà văn Can
Đảm Chọn Cái Chết Trong Tù”: bài tổng hợp ý bạn văn, bạn tù của
Nguyễn Mạnh Côn.
– Tù Nhân Đặng Hoàng Hà: bị giam cùng
buồng với Nguyễn Mạnh Côn: sáng 2/4/79, trước cả ngàn tù nhân và
cán bộ, Anh Côn đứng lên dõng dạc tuyên bố: “Tôi, Nguyễn Mạnh
Côn, Nhà văn chế độ cũ. Chính phủ nói bắt tôi đi ‘học tập’ 3 năm.
Hôm nay đủ hạn đó. Tôi yêu cầu chính phủ trả tự do để tôi về với
gia đình. Kể từ hôm nay tôi không còn là tù nhân. Tôi sẽ không ăn
cơm của trại nữa”. Anh vừa nói xong, toàn trại im phăng phắc. Sau
đó việt cộng căm thù nhốt riêng không cho ăn uống đến nỗi thời
gian sau có lúc Anh kêu la “khát quá! khát quá!” rồi kiệt sức và
chết tháng 6/79.
– Ghi nhận của Nhà báo Ngô Nhân Dụng:
Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn có trí thông minh rất đặc biệt. Tuy sinh
vào thời chiến tranh, không hưởng được nền học vấn có tính cách
chính thức trên ghế nhà trường. Nhưng trí thông minh của Anh rất
bén nhọn, Anh quan tâm tất cả mọi vấn đề trong phạm vi trí thức
của nhân loại.
– Nhà văn Nguyễn Triệu Nam: Nguyễn Mạnh
Côn là văn sĩ có chân tài. Kiến thức phong phú, bút pháp tinh
thông. Văn phong bình dị, trong sáng. Văn mạch sung mãn bất tận.
Văn thái chuyển biến linh hoạt theo từng tình huống. Khi cần thì
viết như một nhà thông thái hoặc như nhà phân tâm học.
– Nhà thơ Viên Linh: 1940 Nguyễn Mạnh
Côn vượt biên tới Hương Cảng để hoạt động trong Việt Nam Quốc Dân
Đảng. Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử có thể kể là giai đoạn hoạt động
thực sự ngoài đời của Anh. 1952 về Hà Nội rồi ra Hải Phòng dạy
học cho đến 1955 thì vào Nam. 1957 đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc
và 1975 được mời vào Ban Giám Khảo giải này.
– Nhà văn Thế Uyên: Nguyễn Mạnh Côn
không lập danh bằng đường võ, có lẽ một phần do thể xác yếu ớt
mặc dù đã có thời anh thử bằng cách nhận chức trung úy đồng hóa
nhưng không dẫn tới đâu cả. Anh cũng không thành công trong khoa
cử nhưng lại thành công trong văn chương và tư duy với lối viết
đầy sáng tạo, đi vào cả “vùng cấm địa” của Cụ Nguyễn Đình Chiểu,
thế giới siêu nhân của khoa học giả tưởng và cả địa hạt tư duy
chính trị có thị kiến viễn kiến với cuốn sách khá dày Hòa Bình,
Nghĩ Gì, Làm Gì?
Anh là thứ cá côn, vùng vẫy thoải mái
một thời trong thế giới chữ nghĩa.
– Họa sĩ Tạ Tỵ: một buổi tối, Nguyễn
Mạnh Côn, mang cấp bậc thiếu úy, tới tìm tôi tại văn phòng đường
Hồng Thập Tự, Thị Nghè.
Anh cho biết được đồng hóa cấp thiếu úy
để phụ trách tờ báo do Bộ Quốc Phòng chủ trương. Anh nhờ tôi
trình bày trang bìa cho báo đó. Là báo Bộ Quốc Phòng nên tôi vui
lòng vẽ giúp mẫu bìa, nhưng Nguyễn Mạnh Côn cũng tế nhị nói với
cấp chỉ huy trả tiền cho tôi, vì báo có ngân khoản riêng để mua
bài của các Nhà văn.
Nhờ báo này mà Nguyễn Mạnh Côn có cơ
hội chứng minh tài năng. Truyện Ba Người Lính Nhảy Dù Lâm Nạn của
anh được đón nhận nồng nhiệt. Anh dùng thuyết tương đối trong
toán học của Einstein để giải minh cho một phương trình vận tốc
trở ngược của thời gian. Câu chuyện vừa ly kỳ vừa khoa học làm
say mê người đọc.
– Nhà văn Tuấn Huy: Năm 1960, Nguyễn
Mạnh Côn làm chủ bút tờ Chỉ Đạo đã ca ngợi văn tài của Duyên Anh
khi đăng những bài viết Hoa Thiên Lý, Con Sáo Của Em Tôi... nói
về tuổi thơ rất hay. Tên tuổi Duyên Anh được sáng giá trong giới
cầm bút Sài Gòn. Điều này nói lên tình bạn giữa hai người (tuy
nhân cách sống của họ không giống nhau, một người hay khoác lác,
một người điềm đạm, lịch sự, tế nhị).
Tuấn Huy phác họa chân dung Nguyễn Mạnh
Côn là Nhà văn Lặng lẽ: Suốt 20 năm cầm bút, Nguyễn Mạnh Côn cứ
từ tốn nhàn nhã như người đi dạo giữa dòng đời. Ông đã nêu lên
những vấn đề thật lớn khiến người đọc phải suy tư – nhưng kìa,
Ông chẳng có vẻ gì quan trọng và vội vàng. Được nhìn Ông ôm mớ
sách báo, đi một mình vào nhà hàng để dùng bữa tối. Ông ngồi
xuống chiếc ghế nơi chỗ bàn khuất. Gọi một món ăn bình dân và ly
rượu chát. Rồi mở cuốn sách ra lặng lẽ đọc. Tôi không hề thấy ở
Ông sự hoạt động náo nức nào của một “chính trị gia” hay một “nhà
lập thuyết”. Ông vẫn là nhà văn lặng lẽ. Làm việc lặng lẽ. Suy tư
lặng lẽ. Sáng tác lặng lẽ. Thưởng thức lặng lẽ và hướng thụ cũng
lặng lẽ...
Lúc
nào Ông cũng trầm ngâm. Ít khi tôi thấy Ông vui hoặc Ông cười.
Nếu có cười thì cũng chỉ là những nụ cười giới hạn. Tôi rất quý
Nguyễn Mạnh Côn qua những tác phẩm của Ông nói lên giai đoạn lịch
sử trong lằn ranh “Quốc/cộng”. (Tuấn Huy, Khởi Hành số 20, tháng
6/98).
– Tù
Nhân Phạm Long với bài “Cặp Kính Của Bác Côn” (Khởi Hành số 20 đã
dẫn): Tôi bị di chuyển đến trại Xuyên Mộc tháng 9/79, có nghe anh
em sĩ quan kể chuyện Nguyễn Mạnh Côn đòi trả tự do. Sau đó bị cô
lập, đem ra đấu tố hạ nhục và cuối cùng chết một cách tức tưởi.
Vào buổi sáng chủ nhật không đi lao
động, một cậu nhỏ tù hình sự tìm tới tôi rồi từ từ mở gói giấy
báo nhỏ, lôi ra cặp kính với chiếc gọng nhựa màu nâu. Anh chàng
nói giọng nghiêm trọng: “Kiếng của Ông Côn đấy. Hôm em đi chôn
Ông bằng xe ‘cải tiến’, em thấy ở trong hòm cặp kiếng này. Em giữ
làm kỷ niệm, nhưng mấy bữa nay đói quá, mấy anh đổi cho em 3
loong gạo”.
Tôi nghe kính của Ông Côn thì lòng chùng xuống. Đúng rồi. Đây là
cặp kính của Bác Côn. Anh Nguyễn Quang Trù rất nhanh nhẹn, trả
giá:
“Một
loong rưỡi thôi!
Cậu nhỏ gật đầu, chịu
liền...”
3.
CHU TỬ (1917–1975)
Một học trò cũ của Chu Tử là Hồ Xưa ghi
lại bài viết “Nhớ Thầy Chu Văn Bình,
Hiệu Trưởng Trường Trung Học
Lê Văn Trung” (nguồn webhoidonghuongtayninh), trong đó có sơ lược
tiểu sử Chu Tử qua lời tự thuật của Thầy.
Mới 13 tuổi gia nhập Việt Nam Quốc Dân
Đảng. Đầu năm 1930 theo Phó Đảng Trưởng Nguyễn Khắc Nhu đi hạ đồn
Hưng Hóa nhưng thất bại rồi mất liên lạc với Đảng.
Cuối thập niên 30 trở thành một trong
vài người hiếm hoi của Sơn Tây đậu Cử Nhân Luật.
Thời thanh niên mở trường tư, học trò
rất đông, nhưng tấm lòng Ông không an phận ở đó.
1954 vào Nam, làm Hiệu Trưởng Trung Học
Tây Ninh. Sau về Sài Gòn lập báo Sống. Vì bất đồng chính kiến,
tòa soạn bị Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Nhóm Phật Giáo cực
đoan tấn công năm 1966 (vanviet.info). Cũng năm này, Ông bị việt
cộng bắn vỡ quai hàm ngay trước nhà. Cùng ngày, Thượng Tọa Thích
Thiện Minh, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên Phật Giáo bị đặt
mìn dưới xe ô tô nhưng may mắn thương tích không trầm trọng.
Chu Tử còn bị trúng đạn ở tay khiến Ông
khó khăn trong việc cầm bút. Viết trở nên chậm chạp, tay run, mỗi
hàng được chừng 3 chữ.
Sau biến cố này, có bạn đọc gởi Chu Tử
câu đối:
Thượng Tọa bể bàn tọa
Chu Bình sứt miệng
bình
– Nhà báo
Trùng Dương nhận xét: Nhật báo Sóng Thần ra đời năm 1971 với chủ
trương chống tham nhũng trong chính quyền và quân đội, hổ trợ cho
cuộc chiến đấu chống cộng bảo vệ vùng đất tự do. Là tờ báo duy
nhất mà tài chánh do các cổ đông thuộc mọi tầng lớp quan tâm tới
vận mệnh đất nước đóng góp.
Giữa thập niên 1960, tình hình miền Nam
khá đen tối: quân đội tranh nhau đảo chánh, tranh chấp ảnh hưởng
của các phe nhóm tôn giáo (đặc biệt là Phật Giáo) và các đảng
phái chính trị, việt cộng thừa nước đục thả câu, gia tăng đánh
phá và ám sát. Do thẳng thắn bộc trực, Chu Tử đã “lùa” các nhân
vật tai mắt không phân biệt đảng phái, ý thức hệ, tôn giáo, giai
cấp mà Ông cho là bất xứng vào mục “Ao Thả Vịt” của Kha Trấn Ác
(bút danh Chu Tử) được rất nhiều người đọc dù họ không biết có
bao nhiêu sự thật trong đó. Tôi vừa phục vừa hãi cho người coi Ao
vì đã làm một việc quá can đảm giữa môi trường hết sức nhố nhăng
đầy súng đạn, thuốc nổ và đầu óc cực đoan, cùng đám việt cộng nằm
vùng đang chực chờ phá hoại.
Bên cạnh giới hâm mộ, cũng lắm người
thù ghét. Có thể nói Chu Tử nằm vào số ít thuộc giới văn chương
báo chí trong ngoài nước được nhiều người biết đến.
Dẫu sao, Chu Tử là Nhà văn Nhà báo
thành công vượt bực. Yêu, Sống, Ghen, Tiền, Loạn bán rất chạy
trên thị trường. Khi làm báo Ông cũng được ca ngợi như chủ báo
hòa đồng thân thiện, hào sảng với anh em.
– Nhà văn Hoàng Hải Thủy nói rằng trong
20 năm làm báo, ông chưa hề gặp chủ báo nào hào hiệp rộng rãi như
Chu Tử đã từng hỏi ông: Anh muốn lấy bao nhiêu tiền nhuận bút và
lệnh cho thủ quỹ chi trả ngay không chút chần chừ.
– Nhà văn Võ Phiến, tác giả Tổng Quan
Văn Học bình luận chi ly: “Chu Tử viết truyện được nhiều người
khoái, mà làm báo cũng khiến lắm người khoái quá trời. Người ta
khoái ông, khoái cái phong cách ông trong cuộc sống cũng như
trong văn chương.”
Tiểu thuyết ông có những nhân vật ngang
tàng, bướng bỉnh, hoặc hào sảng, khí phách.
Qua báo chí, với lối viết đơn giản bộc
trực nên nhiều chuyện và nhân vật Chu Tử thả vào “Ao Thả Vịt”
nghe như thật một trăm phần trăm ấy. Độc giả khoái tỉ, đem ra bàn
tán. Sinh ra thù oán, bất bình. Ân oán giang hồ cũng từ đấy.
Chu Tử tựa hồ như viên tướng giữa trận
tiền, tả xung hữu đột, đánh đông dẹp tây, ủng hộ cánh này, húc đổ
phe kia, gây nên sóng gió.
Theo Võ Phiến, Chu Tử bắt tay viết cuối
thời Đệ Nhứt cộng Hòa. Ông đến với độc giả như một khuôn mặt mới
mẻ trẻ trung, đột ngột, xông xáo, ngổ ngáo. Trong lớp trẻ sau này
có biết bao nhiêu người – cả đọc lẫn viết – mê ông. Truyện ông
thành công. Báo ông thành công. Lối viết của ông có ảnh hưởng
rộng rãi. Sau ông, lắm kẻ cũng trổ tài hô hào, đập phá. Nhưng
chưa ai qua mặt được ông. Vì ông không phải chỉ chịu chơi trên
trang giấy bằng ngòi bút mà bằng cả cuộc đời. Ông sống như Ông
viết: làm tiền ào ạt, vung tiền cũng dữ dằn, ăn chơi cờ bạc hưởng
lạc đến nơi đến chốn, không ngại lao mình vào những hoạt động táo
tợn, đụng độ với những nhân vật thế lực, nhiều lần trong đời ông
đã đối đầu với súng đạn và sau rốt kết liễu cuộc đời bằng súng
đạn.
Về cái
chết của Chu Tử, Hồ Xưa ghi lại ý của ba nhà thơ:
1. Viên Linh: Định mệnh nào tai ác đã
thù hằn đeo đuổi để hại cho bằng được con người khốn khổ tài hoa
ấy. Trong quãng giờ khắc điêu linh bất hạnh của quê hương, và
bằng cung cách gớm ghê thảm khốc dành cho một hình hài yếu đuối
như Chu Tử vào trưa ngày 30/4/75 – khi Ông buồn bã đứng dựa thành
tàu để nhìn Sài Gòn lần cuối. Viên đạn oan khiên nghiệp chướng đã
kết thúc đời Ông. Tôi như nhìn thấy Ông nằm ngay trước mặt, đau
đớn, quằn quại trong vũng máu, kêu rên rồi gọi tên đứa con gái
thương yêu Chu Vị Thủy đã phải cùng mẹ, em và chồng con ở lại...
Chu Sơn, con trai Chu Tử kể lại với
Viên Linh: thi hài Chu Tử được bó vải thả xuống Thái Bình Dương
vào hôm sau. Ông là thuyền nhân đầu tiên chịu thủy táng.
– Nhất Tuấn: có tiếng pháo kích từ bên
bờ sông mé phải bắn qua. Đạn đại bác của xe tăng hay đạn B40, 41
quái quỷ gì đó... rơi lõm bõm trên sông. Một viên bay qua đầu
chúng tôi, rơi trúng vào chiếc tàu to lớn – tàu Việt Nam Thương
Tín chở hàng hóa và hành khách dân sự – đang vùn vụt chạy rất
nhanh ở phía trái. Khói bốc lên nghi ngút trong chốc lát. Sau mới
biết chính quả đạn này đã sát hại Nhà văn Chu Tử...
– Du Tử Lê: Trong sinh hoạt văn học
nghệ thuật miền Nam, 20 năm, nhiều người biết tác giả tiểu thuyết
“Yêu” là Nhà văn Chu Tử, nhưng số lượng người biết Nhà báo Chu Tử
còn nhiều hơn gấp bội. Lý do, ở lãnh vực báo chí, ông đã không
ngừng thổi luồng sinh khí mới cho nền báo chí thời đó vốn hiền
lành, ngại đương đầu với chính quyền hoặc những nhân vật có thế
lực về tôn giáo, chính trị cũng như những tệ nạn xã hội...
Chu Tử sống mang không biết bao nhiêu
ngộ nhận và ân oán. Một người có văn tài và khí phách, sống giữa
đám đông mà lúc nào cũng cô đơn thê thảm, cũng muốn bung phá và
nổi loạn vì cái đớn hèn khiếp nhược ở chung quanh... Tôi nghĩ,
thôi thà Chu Tử chết trầm hà như thế là yên phận...
4. HỒ HỮU TƯỜNG (1910–1980)
1926 du học Pháp, trình luận án Cao Học
Toán. Kết bạn và tham gia hoạt động
chính trị với những nhà ái
quốc lưu vong: Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Phan Văn
Trường, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Hồ Văn Ngà.
Ông theo xu hướng Trotsky chỉ trích
hoạt động của đảng cộng sản Đông Dương, công kích chủ nghĩa
Stalin, cổ xúy đường lối của Đệ Tứ Quốc Tế. Rồi 1939 tuyên bố từ
bỏ Đệ Tứ và chủ nghĩa Mác.
Theo Bà Phan Thị Trọng Tuyến trả lời
phỏng vấn của Đài RFA thì trong những văn kiện lịch sử của đảng
cộng sản Việt Nam, người ta thấy nhắc đến những người Tờ Rốt Kít
trong khoảng trước và sau 45, xem như bọn phản cách mạng chống
lại Đệ Tam Quốc Tế của họ. Đây là phong trào cộng sản do Leon
Trotsky thành lập tại Liên Xô năm 1924, đối lập với cộng sản Đệ
Tam do Lê–nin lãnh đạo.
Trotsky chủ trương cách mạng chống chủ
nghĩa tư bản phải được thực hiện đồng loạt khắp nơi trên thế
giới, trong khi Đệ Tam chủ trương thực hiện từng bước và Liên Xô
là quốc gia đầu tiên, rồi sau đó sẽ lãnh đạo cách mạng thế giới.
Theo Bà Tuyến, chủ trương của Đệ Tứ mang tính dân chủ hơn.
Về mặt lý thuyết thì Stalin chủ trương
tập trung dân chủ, tức là một đảng nắm hết mọi quyền, những đảng
hay khuynh hướng khác phải phục tùng. Theo Trotsky thì tập trung
dân chủ chứ không phải một đảng nắm hết.
Về sau, Đệ Tứ bị Đệ Tam tiêu diệt.
Trotsky phải lưu vong ngay sau khi thành lập và cuối cùng bị ám
sát chết.
Bà
Tuyến nói: “nhóm Đệ Tứ bị những người Đệ Tam, tức Việt Minh, lùng
giết sau cách mạng tháng tám là chuyện có thật”. Stalin đã truy
lùng Trotsky thì Việt Minh cũng không làm gì khác hơn là áp dụng
đường lối đó. Bà Tuyến nói đảng cộng sản chưa bao giờ nhìn nhận
họ đã ra tay sát hại phe Đệ Tứ như Tạ Thu Thâu. Theo Bà, khoảng
400 người Đệ Tứ bị mất tích hoặc giết hại trong giai đoạn 45 khi
họ tham gia kháng chiến chống Pháp.
Năm 1953 Hồ Hữu Tường đề nghị cộng sản
để Việt Nam trung lập, nhưng không được chấp nhận. 1957 bị đày ra
Côn Đảo vì Cố Vấn Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia chống
Tổng Thống Diệm.
1967 đắc cử Dân Biểu Đệ Nhị cộng Hòa và
tiếp tục viết báo.
1978 bị bắt do kiến nghị cộng sản trung
lập hóa Việt Nam. Tháng 6/80 bệnh nặng khó cứu chữa, được cho về
nhà và mất ngay hôm đó.
Đã viết 1,000 bài báo và hơn 30 sách
truyện giá trị.
Trong Hồi Ký 41 Năm Làm Báo, Hồ Hữu
Tường tự nói về mình: “nào là nhà cách mạng, nào là nhà nghệ sĩ,
nào là nhà khoa học, nào là nhà văn, nào là kẻ đam mê tình ái,
nào là tâm hồn tu sĩ, và nào là nhà báo”.
– Nhà văn Thụy Khuê tóm tắt vài điểm
chính về Hồ Hữu Tường:
*Bị tù nhiều lần dưới tất cả các chính
quyền thực dân, quốc gia, cộng sản. Suốt đời chống chiến tranh.
*Con đường Ông đi không có nhiều đồng
hành, bởi tiếng kêu gọi của Ông chỉ là những tiếng kêu trong sa
mạc, không ai nghe mà cũng ít người hiểu.
*Ham mê sách. 6 tuổi đã đọc Nam Phong.
Đọc đâu nhớ đấy. Cha đặt cho cái tên thằng Thuộc vì đọc gì cũng
thuộc.
*Có
dòng dõi Hồ Quý Ly và Hồ Thơm Nguyễn Huệ.
– Tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân nhận
xét trong bài “Hồ Hữu Tường, Như Tôi Nhìn Thấy”: cuộc đời Hồ Hữu
Tường hiện lên một con người vượt thoát hoàn cảnh, có lòng say mê
với chữ nghĩa, một nghị lực khác thường, một tri tuệ năng động,
một sự lạc quan và tự tin hiếm thấy.
Hồ Hữu Tường kể chuyện viết tiểu thuyết
với Khái Hưng (Khái Hưng, người thứ nhất muốn làm nguyên soái của
“văn chương sáng giá”): Khái Hưng rủ tôi cộng tác viết tiểu
thuyết, cốt truyện, triết lý do tôi xây dựng, Khái Hưng lãnh phần
trình bày cho có nghệ thuật. Tôi đã phác họa vài nhân vật và cốt
truyện, đặt tên Gái Nước Nam Làm Gì? Sau về Nam, để tưởng nhớ
Khái Hưng, tôi thử viết tả những người này, trình bày được hai
hình tượng Thu Hương và Chị Tập. Nhưng sự ướm thử ấy cho thấy là
tôi không có tài viết tiểu thuyết, nên không nối tiếp nữa.
– Nhà văn Trần Bảo Định: Hồ Tiên Sinh
vẫn là người hiền của đất Nam Bộ. Ông mãi loay hoay vì canh cánh
thế sự, vì thấy thế cuộc đảo điên theo vận nước đầy vơi dưới thời
thực dân Pháp cai trị và bản thân ông cũng vần xoay... vần xoay
liên hồi. Hồ Tiên Sinh hẳn đã sống trọn vẹn một đời “phi lạc”.
Dẫu vậy Ông đã có cả cuộc đời bộn bề vận hội mà chắc hẳn không
còn gì hối tiếc, bởi Ông đã “chơi tới bến” – sống hết mình với
những sự thế gặp phải trên đường đời.
Trong Phi Lạc Sang Tàu, Hồ Hữu Tường
viết: Nền văn minh trục lợi của Âu Tây là cái văn minh chỉ lo vơ
vét cho lợi được nhiều, chẳng biết điều nhân, chẳng nghĩ đến đức,
không chút đoái hoài việc tu dưỡng loài người ngày càng cao quý
về vật chất lẫn tinh thần mà chỉ lo chèn ép bóc lột sao cho có
lợi nhiều. Văn minh ấy bủa lưới khắp quả địa cầu, không đâu thoát
được. Vì vậy mà sự trúc đổ của nó sẽ làm cả nhân loại bị trúc đổ.
5. PHẠM VĂN SƠN (1915–1978)
Biên khảo nhiều sách sử, trong đó công
phu nhất là Bộ Việt Sử Tân Biên.
Đại tá Sơn ra đi để lại nhiều tiếc
thương cho đồng đội. Đây là lời kể của một số nhân chứng về sự cố
“nhịn đói chịu đau mà chết” của Ông:
– Nguyễn Văn Dưỡng: “Cái Chết của Sử
gia Phạm Văn Sơn”
Từng là thuộc cấp của Ông Sơn. Tôi biết
Ông rất thận trọng, không hề khinh xuất trong nhiệm vụ.
Ông thường nói: “phải cố gắng làm sao
cho mức độ trung thực và chính xác cao chừng nào tốt chừng đó,
như vậy thì những điều mình viết về sử mới có giá trị”.
Với quan điểm cẩn trọng như vậy nên Mùa
Hè Đỏ Lửa lúc mà chiến trường An Lộc còn đang sôi động với những
trận đánh đối tuyến chỉ cách nhau có một con đường, giành nhau
từng góc phố – giữa các đơn vị quân ta và địch – khi mà những cơn
pháo dữ dội của đối phương chưa giảm – khi không một trực thăng
nào đáp xuống lại không sợ tan xác, thế mà Ông đã đích thân bay
vào An Lộc để viết sự thật về cuộc chiến khốc liệt đó, cùng tôi ở
trong hầm chống pháo một đêm, thức trắng để nghe tiếng đạn pháo
cộng quân rơi trên đầu mình, vừa hỏi tôi những sự kiện chi tiết
ghi trong nhật ký hành quân.
Năm 1980 Ông Dưỡng bất ngờ gặp Thầy cũ
ở trại Tân Lập, Vĩnh Phú, lúc chỉ còn là cái bóng âm thầm, một
cái xác sắp mục nát, bất động, câm nín sau chắn song sắt, bên
trong cửa sổ phòng “cách ly”.
Ông trùm kín đầu bằng khăn lông trắng
đã trở vàng cáu bẩn và lấm tấm những vệt máu, mủ. Khăn quấn kín
cổ, chỉ chừa mắt, mũi, miệng để che bớt đi vết lở lói trên mặt
bởi chứng nan y.
Mũi, má Ông đỏ ửng bóng, lông mi rụng
hết. Hai bàn tay sưng tấy, ngón co lại, móng khuyết hay mất hết.
Ông bị tàn phế cấp độ nặng.
Một buổi sáng, quản giáo ra lệnh cho
Ông đem giỏ ra sân mang than đá vào bếp trại. Do kiệt sức, hộc
máu tươi, ngất xỉu, bất tỉnh rồi chết. Cả người nhầy nhụa máu me.
– Trường Xuân Phu Tử Hồ Quang (Hồi Ký
về Đại tá Sử gia Phạm Văn Sơn, https://huongduongtxd.com).
Trong thời gian bị giam giữ, Đại tá Sơn
đã can đảm viết đơn gởi đảng và Nhà Nước nhờ trại chuyển: xin các
Ông hãy xem xét lại cách đối xử với chúng tôi, những hình thức dã
man như vừa qua hoàn toàn không có lợi mà ngược lại rồi đây lịch
sử sẽ ghi thêm vào đấy vết ô nhục ngàn đời (dựa theo lời của tên
Nhàn, trưởng ban thi đua trại).
Đại tá Sơn tuyệt thực trong nhà kỷ
luật, chấp nhận cái chết, vì muốn đòi quyền lợi cho tù nhân chính
trị được hưởng quy chế tù binh. Tuy ước vọng không thành nhưng
cũng giúp cho anh em còn sống được dễ thở hơn.
– Huỳnh Hữu Ủy (Vài Điều Tản Mạn Nhân
Đọc Bài Viết “Cái Chết của Sử gia Phạm Văn Sơn”,
https://dongsongcu.wordpress.com)
Cùng bay vào An Lộc với Đại tá Sơn giữa
lúc đạn pháo địch nổ ầm ì tưởng chừng trực thăng bị bốc cháy, Anh
Ủy nhận xét: Ở Khối Quân Sử, các sĩ quan trẻ hầu hết là vừa xong
đại học, đi lính vì đất nước đang thời chiến loạn. Với loại thuộc
cấp này, Đại tá Sơn chẳng bao giờ tỏ ra là người chỉ huy, chẳng
có chút nào chất quân phiệt, không áp dụng kỷ luật nhà binh mà
ngược lại rất nho nhã, thường hành xử như một nhà văn với đồng
nghiệp cũng là những người cầm bút.
– Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục cho rằng
Phạm Văn Sơn có sử quan rất tiến bộ, vượt hẳn quan điểm duy vật
lịch sử không tưởng của các Sử gia Mác xít lấy đấu tranh giai cấp
làm xương sống để giải thích mọi tiến trình lịch sử.
– Bác sĩ Phạm Hữu Phước: Trích từ “Dòng
Sông Cũ: Hậu Củ Khoai Yên Bái – Hồi Ký về Cái Chết của Đại tá
Phạm Văn Sơn”.
Ở tù cùng trại. Từng khám bệnh Đại tá
Sơn. “Từ thời còn trung học Tăng Bạt Hổ, Bồng Sơn, tôi đã được
đọc ‘Việt Nam Tranh Đấu Sử’ của Phạm Văn Sơn mà xúc động khôn
cùng. Tôi kính trọng, thông cảm, ngã nón bái phục tiền nhân của
tôi đã hy sinh cả cuộc đời và cả yên ấm gia đình chỉ vì lòng yêu
nước vô bờ. Ông viết sử mà lời văn trong sáng, đanh thép, hừng
hực lửa như tấm lòng của tiền nhân. Có đoạn tôi không cầm được
nước mắt.”
“Ông bị bệnh vảy nến (psoriasis) khá nặng, da sần sùi nên nhiều
người tưởng lầm Ông bị bệnh cùi.
Có những buổi tối lạnh lẽo, trạm xá đốt
lửa sưởi ấm và chuyện vãn. Thường mời Đại tá quây quần để nghe
Ông kể chuyện xưa lưu loát, mạch lạc. Ông là cả kho kiến thức về
sử.
Đại tá Sơn
đã sống đúng mẫu mực của một quân nhân với châm ngôn Tổ Quốc –
Danh Dự – Trách Nhiệm. Trước cường quyền và độc tài, Ông không
khiếp sợ van xin, luôn ngẩng cao đầu mà nói với cộng sản ‘các ông
làm như thế là lưu xú uế lại cho muôn đời sau’.”
Với Ông, “Anh hùng tử, khí hùng bất
tử”.
6. HỒ
ĐIỆP (1930–1988)
Di cư vào Nam 1954. Tên thật Nguyễn Thị
Tý. Sau khi phát hiện tài năng thiên phú
của Bà, Đinh Hùng đặt
nghệ danh là Hồ Điệp.
Báo Nghệ Sĩ (https://thoixua.vn) đã
giải thích cái tên được hằng triệu người yêu mến qua bài “Xót xa
thay cho giọng ngâm Hồ Điệp – tài năng nhưng cuộc đời lại quá đỗi
đau thương”: Hồ Điệp nghĩa là Cánh Bướm, ý rằng giọng ca của Bà
nhẹ nhàng, mỏng manh mang lại đầy mầu sắc như những cánh bướm.
Bà thường ngâm thơ trên chương trình
Thi Văn Tao Đàn (Tiếng Nói Thi Văn Miền Tự Do), được đánh giá là
giọng ngâm nổi bật nhất thời đó.
Gần mười giờ đêm cảnh vật xung quanh
yên tĩnh, lắng nghe Hồ Điệp với giọng trầm buồn phảng phất nét
liêu trai tưởng chừng ru ta vào cõi mộng. Ngót 60 năm rồi nhiều
người vẫn còn nghe thoang thoảng đâu đây giọng ngâm có một không
hai của người con gái Sơn Tây qua bài “Gởi Người Dưới Mộ” của
Đinh Hùng:
Trời cuối thu rồi – Em ở đâu?
Nằm trong
đất lạnh chắc em sầu
Thu ơi! đánh thức
hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu
Em mộng về đâu?
Em mất về đâu?
Hằng đêm ta nguyện, ta
cầu
Ấy mầu hương khói là mầu mắt xưa
Em đã về chưa?
Em sắp về chưa?
Trăng sao tắt ngọn đèn
mờ
Ta nằm rỏ lệ, đọc thơ gọi hồn
Giữa đêm trăng bàng bạc, nghe Bà ngâm
nga thánh thót, ai ai cũng đều rùng mình tưởng chừng như hồn lạc
vào cõi âm.
Hồ
Điệp có khuôn mặt phúc hậu, hiền dịu. Nụ cười luôn nở trên môi
khiến nhiều người thương mến. Nhà thơ Nguyễn Phan Cảnh ví von Bà
là Nữ Hoàng Thanh Sắc:
Thanh Sắc vọng mãi Đất Trời
Nghìn thu cánh bướm vỗ hoài Hồn Thơ
Với tài năng ít ai sánh bằng, Bà được
mời diễn ngâm ở Pháp, Thụy Sĩ, Thái Lan, Nhật, Đài Loan. Khán giả
xa quê lâu ngày, tâm hồn nhớ nhà nhớ nước, lắm người không ngăn
được dòng nước mắt nức nở nghẹn ngào khi nghe Bà đưa hồn mình vào
cõi thơ sầu mộng.
Bích Huyền của Đài VOA kể lại trong bài
“Một Thoáng Hương Xưa”: Vào năm 1960 tại cuộc họp một số văn nghệ
sĩ có Vũ Hoàng Chương, Hồ Điệp, Nhà văn Mặc Thu (tác giả Gang
Thép Đợi Chờ và Bát Cơm Bát Máu), Vũ Quân tặng Hồ Điệp, Mặc Thu
hai câu thơ:
Mưa cầm, gió bắc thương Hồ Điệp
Thép
đợi, gang chờ xót Mặc Thu
Nhà thơ Hoàng Hương Trang cho biết Ca
sĩ Thái Hằng (chị em bạn bằng dì với Hồ Điệp) tiết lộ lúc còn nhỏ
Hồ Điệp là cô bé rất xinh đẹp với giọng cười trong như dòng suối
tinh khiết, ngày đó chưa u uẩn và chưa biết buồn viễn xứ. Khi vào
Sài Gòn, Hồ Điệp hay ra quét lá cây trứng cá rụng đầy sân. Cô
thường mặc quần satin tuyết nhung, áo phin trắng nõn, gấu và cổ
tay có thêu rua. Buổi tối đi hát, Cô đeo kiềng vàng, mặc áo nhung
đen rưng rức trơn một mầu, không thêu, không vẽ. Choàng tấm khăn
voan mỏng, chân mang hài cong. Trang điểm sơ sài, tóc bới cao hay
quấn khăn vành dây. Cử chỉ cực kỳ khiêm cung, nhỏ nhẹ với nét đẹp
cổ kính của thục nữ Bắc Hà.
– Phạm Công Luận: “Sài Gòn – Chuyện Đời
của Phố: Chương Trình Ngâm Thơ Tao Đàn”. Theo báo Trẻ số 7 Tập 1
năm 1960, Hồ Điệp có giọng mang phong cách cổ điển, âm hưởng ca
trù, thành công với các bài thất ngôn và lục bát, nhất là các
đoạn thơ trong truyện Kiều, thơ Bà Huyện Thanh Quan, thơ T.T.KH
rất được thính giả hâm mộ.
– Chu Văn Lễ nêu nhận định: giọng ngâm
Hồ Điệp chắc chắn đóng góp phần không nhỏ cho sự phát triển của
bộ môn này và trở thành một phần không thể thiếu trong sinh hoạt
văn hóa nghệ thuật miền Nam.
Sau 1975, Hồ Điệp từ chối trình diễn,
chỉ nhận lời ngâm thơ tại các Chùa hoặc nhà bạn hữu.
Bích Huyền mời chúng ta cùng nghe Trần
Vĩnh Tường, cựu nữ sinh Trưng Vương viết về Hồ Điệp với bài “Cánh
Bướm Bên Trời”:
“Năm 1987, tôi ở trại tị nạn Sin Thai
dành cho người vượt biên đường bộ nằm lẻ loi giữa chân ngọn núi
Danreck, thuộc địa phận Thái Lan, cách biên giới Căm Bốt chừng
1km. Lúc đó tôi đang làm việc cho cơ quan Hồng Thập Tự Quốc Tế,
lo chuyện đưa đón, theo dấu người tị nạn tìm cách đưa họ rải rác
từ những cánh rừng về trại.
Hôm đó chúng tôi nhận được lá thư từ Mỹ
gởi qua nhờ theo dõi tin tức một người thân đã rời Sài Gòn khoảng
đầu 1988. Thư cũng cho biết nhóm này gồm 11 người trong đó có Hồ
Điệp. Đọc xong lòng tôi nghẹn ngào. Phần vì lo, phần vì mừng. Đã
có người đến được trại, nhưng có những bước chân thì vĩnh viễn
ngừng lại ở đâu đó, giữa cánh đồng, nơi khe núi, bên cạnh bụi tre
rừng...
Tôi đi
báo tin cho một số bạn trong trại. Đêm đó ngồi bên nhau, chúng
tôi say sưa nhắc lại những bài thơ, những giọng ngâm của Tao Đàn
ngày trước. Ngoài Hồ Điệp, Giáng Hương, Hoàng Oanh. Bên nam còn
có Tô Kiều Ngân, Quách Đàm, Hoàng Thư.
Con Giáo Sư Nguyễn Sĩ Tế là Nguyễn Sĩ
Độ mang ghi ta đệm nhẹ vài dòng nhạc cho Thu Hà cất tiếng ngâm
bài Gởi Người Dưới Mộ mà Hồ Điệp đã có lần ngâm trên Đài Sài Gòn.
Bài Thơ hay quá đỗi, quá liêu trai, phù
hợp với ánh trăng xanh nhạt rải trên mái tranh, trên từng đám lá
mồng tơi.
Tôi
quay lại nhìn rặng núi tím thẳm đằng kia để lén lau nước mắt...
Ngày qua ngày, mỗi khi có người tị nạn
đến trại, chúng tôi đều hỏi thăm, thế nhưng thời gian trôi đi,
Cánh Bướm vẫn biền biệt bên trời. Không ai có thể ở trong rừng 6
tháng mà sống sót được.
Buổi tối cuối cùng, tôi lên trại Panat
để đi Mỹ, bùi ngùi giây phút chia ly. Mọi người yêu cầu Thu Hà
ngâm lại bài Gởi Người Dưới Mộ.
Bỗng dưng một cánh bướm lẻ loi bay chập
chờn trước mặt. Hết đậu trên phím ghi ta lại nằm yên trên tay Thu
Hà. Mọi người rùng mình ớn lạnh nhìn nhau. Hay là Hồ Điệp cảm
động mối tình chung thủy của thính giả mà bay về đây báo mộng.
Qua Mỹ nhiều năm. Đọc báo không thấy
tin gì về Hồ Điệp cả. Thôi... thôi! Vậy là mây đã tan. Trăng đã
khuyết. Ngọc đã về thật rồi”...
Hoàng Hương Trang cho biết di ảnh Hồ
Điệp được một thính giả thần tượng giọng ngâm của Bà đặt thờ
trong Chùa An Lạc, đường Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn.
Theo NguoiVietBoston, các con của Hồ
Điệp định cư ở Mỹ. Tiến sĩ Nguyễn Quốc Quân về Việt Nam năm 2007
tổ chức cuộc vận động phong trào dân chủ trong nước và bị bắt
giam 6 tháng.
7. MINH KỲ (1930–1975)
Đại úy Cảnh Sát Quốc Gia. Dòng dõi
Hoàng tộc, vai vế ngang hàng Vua Bảo Đại.
Sáng tác hơn 100 nhạc
phẩm rất được ưa chuộng.
Là một trong ba thành viên nhóm Lê Minh
Bằng (Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh Bằng), hoạt động từ 1966 đến 1975 với
chừng 200 ca khúc trữ tình lãng mạn.
Lê Dinh tâm sự: tuổi tác chúng tôi xấp
xỉ nhau, khuynh hướng sáng tác cũng gần giống nhau cho nên dễ kết
thân, đi đến thành lập nhóm, mở lớp nhạc và làm cố vấn cho hãng
đĩa Sóng Nhạc của Ông Nguyễn Tất Oanh. Ba người ở ba miền mà
tương đắc, gắn bó, tri âm tri kỷ gần mười năm. Lê Dinh cho là hữu
duyên thiên lý năng tương ngộ.
Chỉ nghe qua câu chuyện 3 Nữ Sinh Viên
Đại Học Khoa Học (Mai, Bích, Dung) trong buổi tao phùng gặp gỡ Lê
Minh Bằng tại bãi biển Vũng Tàu là đủ thán phục tài năng của nhóm
này khi ngay sau đó họ cảm tác Linh Hồn Tượng Đá:
Trên dốc đá tôi tình cờ quen nàng
Ngồi bên nhau, gọi tên nhau để rồi xa nhau
Em đã đến và đã đến như áng mây
Như cánh
chim bay qua bầu trời
Ôi hình hài một
vài giờ vui...
Tôi đứng đó như hình một pho tượng
Chờ ai đây, đợi ai đây và tìm ai đây
Nghe nuối tiếc gào thét giữa muôn sóng khơi
Nghe trái tim rung lên bồi hồi
Chắc gì
gặp lại lần thứ hai...
Theo Lê Dinh, Minh Kỳ làm nhạc xuất
sắc, nhanh và hay. Các tác phẩm cho ra đời đều rất tuyệt vời,
chạm đến nỗi lòng người nghe.
Ca sĩ Hoàng Oanh ca ngợi nhạc Minh Kỳ
tha thiết, trìu mến. Giai điệu đơn giản, uyển chuyển, dễ đàn, dễ
hát. Nét nhạc trong sáng, bình dị.
– Ca sĩ Thái Châu cảm thấy may mắn khi
được tiếp xúc nhiều lần với Minh Kỳ: Tôi từng gặp anh để trao đổi
về ca khúc Cát Bụi và học hát bài này sao cho cảm xúc. Tôi xem
anh như người Thầy và nhớ mãi khoảnh khắc anh trầm ngâm động viên
“chú rán hát cho hay, cho tốt”. Nhờ Anh mà tôi học được rất nhiều
kỹ năng trong ca hát lẫn cuộc sống.
– Ca sĩ Quỳnh Giao nói rằng nét tài hoa
của Minh Kỳ không chỉ ở những tác phẩm Ông viết cho mình mà là sự
đáp ứng thị hiếu của mọi tầng lớp quần chúng. Cuối thập niên
1960, chiến tranh lan rộng, gái quê vào thành thị tìm việc làm,
thanh niên giã từ học đường thi hành quân dịch. Thính giả bấy giờ
muốn nghe và hát những bài ca có lời giản dị, nét nhạc dễ nghe dễ
hát, tiết điệu nhịp nhàng... dễ đếm: đấy là thời kỳ những bài
nhịp Bolero ra đời. Minh Kỳ đáp ứng với Biệt Kinh Kỳ:
Bạn ơi! Quan hà xin cạn chén ly bôi
Ngày mai tôi đã, đã đi xa rồi...
Rồi đây
mai ngày ai hỏi đến tên tôi
Bạn ơi! hãy
nói khoác chiến y rồi...
Có lẽ chưa bao giờ một bài hát lại ăn
khách tới mức đó. Hằng tuần trên làn sóng điện khi trực tiếp
truyền thanh buổi thi hát mỗi sáng chủ nhật tại rạp Quốc Thanh,
thì có ít nhất 3 thí sinh chọn bài này để thi. Nhạc sĩ Dương
Thiệu Tước đi chấm thi, tuần nào về cũng than là nghe Biệt Kinh
Kỳ nhiều quá đến phát thuộc lòng!
Cái lạ là nhạc Minh Kỳ vẫn uyển chuyển
dù viết ở thể loại nào. Câu cú rất hệ thống và tài tình nhất là
lời ca đượm tính cách “kể chuyện” thật hấp dẫn.
– Nhà văn Phạm Tín An Ninh có bài “Cái
Chết Oan Khuất của Nhạc sĩ Minh Kỳ”:
“Tôi và Minh Kỳ cùng trại tù An Dưỡng.
Tôi ở nhà 1, Anh nhà 3.
Một đêm cuối tháng 8/75, khoảng 9:30
tối, toàn trại đang chìm trong bóng đêm, cả ngàn người tù nằm
thao thức chờ đợi những bất trắc sẽ đến với số phận mình. Bỗng
một tiếng nổ long trời, kèm theo tiếng la thất thanh, còi báo
động, loa phóng thanh lệnh cho tất cả ‘cải tạo viên’ nằm yên tại
chỗ, kẻ nào bước ra khỏi nhà sẽ bị bắn bỏ.
Khi chúng tôi chưa hết hoang mang, thì
tiếng xích sắt xe tăng T54 tràn vào trại rít lên từng chặp, chia
nhau bao vây từng căn nhà. Hằng loạt bộ đội, súng gắn lưỡi lê,
mặt tên nào cũng đằng đằng sát khí túa vào từng nhà, kéo cơ bẩm
lên đạn, quát tháo tù nhân đứng ngay tại chỗ, 2 tay để trên đầu.
Chúng tôi chịu bất động như vậy cho đến
gần 10 giờ trưa thì thấy mấy anh em tù khiêng số người bị thương
lên trạm xá. Hôm sau tất cả tù nhân được đưa lên hội trường và bị
‘nghiêm khắc’ cảnh cáo là có bọn phản động trong các anh đã giấu
giếm vũ khí, mang lựu đạn Mỹ vào để phá hoại thành quả ‘kách
mạng’.
Một số
bạn tù kể lại: nhà 3 chứa khoảng 80 tù nhân. Khi ấy tổ của Minh
Kỳ đang họp phân công nấu bếp ngày mai, thì quả lựu đạn được
quăng vào vách tôn ngay phía sau làm 3 người chết và 8 bị thương.
Minh Kỳ thương tích rất nặng ở ngực, bụng và cổ. Anh chết từ từ
cho đến lúc tắt thở.
Ai cũng biết là trái lựu đạn giết chết
Minh Kỳ cùng những bạn tù khác là do chính bọn việt cộng quăng từ
khu vực ban trực trại phía bên kia hàng rào cách chừng hơn 5 mét.
Tro cốt Ông được lưu giữ tại nhà hài
cốt Giáo Xứ Tân Định.”
8. HỒ ĐÌNH PHƯƠNG (1927–1979)
Xuất bản hơn 10 Tập Thơ. 100 nhạc phẩm
của hơn 20 Nhạc sĩ danh tiếng được
Ông viết lời hay phổ từ thơ
Ông. Từng làm Phó Tỉnh Trưởng Ninh Thuận sau khi đỗ đầu khóa Đốc
Sự Hành Chánh.
Sau 75 bị tù 2 năm rồi vượt biên cùng
vợ con và mất tích trên Biển Đông năm 1979.
– Ca sĩ Quỳnh Giao không ngần ngại chút
nào khi nói rằng chưa ai qua mặt Hồ Đình Phương trong lời từ về
một địa danh, một thành phố. “Nhớ về Đà Lạt” hay “Nhớ Nha Trang”
đều do Ông đặt lời làm người nghe thấy yêu những thành phố này
biết dường nào.
– Theo Du Tử Lê thống kê thì trong
khoảng 200 ca khúc Nhạc sĩ Hoàng Trọng để lại cho đời, người ta
đếm trên dưới 50 bài do Hồ Đình Phương đặt lời hay lấy từ thơ
Ông.
Một bài
hát rất nổi tiếng được nhiều người ưa thích là Con Đường Xưa Em
Đi.
– Theo Phù
Sa (Con Đường Xưa Em Đi – Chuyện Tình của Nhạc sĩ Châu Kỳ và Châu
Thị Đàng, hoainiem.org): Bà Đàng kể thời điểm 1967–68 Bà làm kế
toán, còn Hồ Đình Phương là Phó Giám Đốc nhà máy giấy Tân Mai,
Biên Hòa. Phía sau có con đường nhỏ băng qua cánh đồng lúa mà Bà
thường đi lại để về nhà. Chứng kiến cảnh ngộ đó, Hồ Đình Phương
đặt lời cho bài hát rồi Châu Kỳ phổ nhạc vào năm 69 với ca từ
thanh thoát, dịu dàng, truyền cảm, chan chứa tình yêu. Thật không
uổng phí thì giờ để hồn lắng đọng mà nghe lại bài này:
Con đường xưa em đi
Vàng lên mái tóc thề
Ngõ hồn dâng tái tê
Anh làm thơ vu quy
Khách qua đường lắng
nghe
Chuyện tình ta đã ghi
Những mùa trăng vu quy
Vì mưa gió không
về
Chiến trường anh bước đi
Có nàng hoen đôi mi
Ngóng theo đường
vắng hoe
Hỏi còn ai cố tri
Em ơi, nhìn gió lên khơi
Lòng có trông vời
Một người xa cuối trời
Nơi đây phiên gác canh dài
E ấp đôi lời
mình còn nhớ thương hoài
Em ơi, mầu áo phong sương
Mình ước huy hoàng
Được bàn tay chính
nàng
Dâng hoa, dâng hết ân tình
Tình đến bao giờ
Hỏi đường xưa mà nhớ
Con đường xưa em đi
Thời gian có quên gì
Đá mòn kia vẫn ghi
Ghi một đêm trăng thanh
Quán bên đường
vắng tanh
Chỉ còn em với anh
Lời nhạc êm tai tha thiết như vậy mà
từng bị cấm. Thử hỏi có đáng tiếc lắm không?
– Nhạc sĩ/Nhà Phê bình Âm nhạc Nguyễn
Quang Long đã gởi Zing.vn bài viết bày tỏ quan điểm về việc Cục
Nghệ Thuật Biểu Diễn ban hành quyết định vào giữa tháng 3/2017
cấm lưu hành Con Đường Xưa Em Đi và 4 nhạc phẩm khác với lý do
bài hát không đúng với bản gốc. Nhạc sĩ nói rằng “đã cấp phép rồi
lại cấm sẽ gây tác dụng ngược”.
“Trước tiên phải nhìn nhận những ca
khúc sáng tác trước 75 tại miền Nam là phần tạo nên diện mạo của
nền âm nhạc mới Việt Nam thế kỷ 20.
Bên cạnh nhạc trẻ và nhạc trữ tình,
những nhạc sĩ trong giai đoạn này đã góp phần sáng tạo nên dòng
nhạc chúng ta vẫn gọi là Bolero, phù hợp với tâm tư, tình cảm và
nhu cầu thẩm mỹ âm nhạc của số đông người Việt.
Đây chính là yếu tố khiến nhiều ca khúc
thời kỳ này có sức sống và lan tỏa mạnh mẽ.
Theo Nhạc sĩ Long, việc Cục cấm hát 5
ca khúc ít nhiều gây bất ngờ trong giới nghệ sĩ và công luận. Sự
việc càng trở nên rối khi những lý do viện dẫn để cấm chưa thực
sự khiến công chúng tâm phục. Điều này vô tình tạo nên làn sóng
phản ứng và đẩy vụ việc thành tâm điểm dư luận kéo dài qua nhiều
tuần.
Trong
khi đó, theo tiết lộ của một nhà quản lý với báo chí ‘chiến
trường’ ở đây là chiến trường nào khi nói về Con Đường Xưa Em Đi?
Bà Đàng từng chia sẻ: việc sử dụng từ
‘chiến trường’ hay ‘phiên gác’ chỉ là để phù hợp với hoàn cảnh
lúc bấy giờ, tác giả chỉ mượn những hình ảnh này nói thay tâm tư
tình cảm nhớ mong về tình yêu đôi lứa.
Cần nhìn nhận việc cấm 5 ca khúc này
chỉ là hình thức. Thực chất hiệu quả của việc cấm cũng như không,
bởi lẽ những ca khúc ấy đã có đủ thời gian sống trong lòng công
chúng”.
Cho
đến ngày 15/4/17 thì quyết định cấm đã được thu hồi.
9. THỤC VŨ (1932–1976)
Tên thật Vũ Văn Sâm. Trung tá ngành Tâm
Lý Chiến. 1969 tiếp nối Đinh Hùng và
Tô Kiều Ngân phụ trách Thi
Văn Tao Đàn, đổi thành Thi Nhạc Giao Duyên, phối hợp ngâm thơ với
trình bày ca khúc tân nhạc.
Thời gian làm việc ở Trung Tâm Huấn
Luyện Quang Trung, Ông cho ra đời bản hùng ca Quang Trung Hành
Khúc được tân binh thường xuyên hát vang trong những ngày ra thao
trường tập luyện.
1975 bị giam tại trại Tân Hiệp, Biên
Hòa. Tại đây Ông sáng tác nhạc phẩm “Suối Máu” với mấy dòng thơ
cảm đề:
Em ở
Sài Gòn anh ở đây
Đồi pha cát trắng kẽm
gai đầy
Ngẩn ngơ dăm chuyến tàu xuôi
ngược
Để nhớ nhung về che khuất mây
1976 chuyển ra Sơn La rồi mất tại vùng
rừng thiêng nước độc này. Một số bạn hữu kể lại những ngày tù của
Ông:
– Nhà văn
Văn Quang (Mừng Cho Người Chết Trong Nhà Tù “Cải Tạo”): Thục Vũ
đau gan đến vàng mắt nhưng bệnh xá chỉ nhỏ cho vài giọt nước củ
tỏi vào mũi. Bệnh nhân đành nằm chờ chết.
Một buổi sáng Phan Lạc Phúc nước mắt
chảy chậm trên mặt nghẹn ngào cất tiếng: thằng Sâm chết ở bệnh xá
đêm qua rồi.
Tôi lặng người bởi hôm qua lẻn sang thăm Thục Vũ, Anh đưa cho tôi
hai gói thuốc lào nhỏ: “tôi mệt không hút được nữa”.
Sau đó Tô Kiều Ngân nói với tôi lời an
ủi: “Mừng cho nó, từ nay nó không còn biết đói rét và không ai
hành hạ được nó nữa”.
Buổi chiều chạng vạng nơi núi đồi Sơn
La, từ bệnh xá quanh con đường đá nhỏ, vòng theo sườn núi cao vút
chập chùng, “đám tang” di chuyển chậm chạp trông thật đau lòng.
Hai cai tù vác AK đi đầu, kế đến một anh tù cầm vài nén nhang, 4
người khiêng cỗ quan tài mộc. Sau cùng là hai cai tù súng AK. Họ
chuyển động như những bóng ma.
Hơn 30 tù nhân đội rau đứng ngẩn ngơ
dán mắt theo đám ma thê thảm ấy. Phan Lạc Phúc đứng bên tôi không
nói lời nào, quay mặt che giấu nước mắt. Tô Kiều Ngân và mấy bác
sĩ tù nhân trẻ nép sau hàng rào kẽm gai cũng xúc động xót xa
trông như tượng gỗ dõi theo đám tang dần khuất vào cuối con đường
cong phía chân núi.
Một tháng trước khi mất Thục Vũ có bài
“Gởi Sài Gòn”:
Viết bài thơ sau cuối
Ý nhạc tàn theo mây
Hồn anh về bên Chúa
Xác anh gửi phương này
– Nhà thơ Hoàng Ngọc Liên kể lại: sáng
15/11/76 lúc đang phát quang con đường trước trại giam thì “đám
tang” Thục Vũ đi qua. Chúng tôi ngã nón cúi đầu chào người bạn
vừa đột ngột từ trần. Vài tháng sau trên đường gánh tranh về
trại, tôi bất ngờ lạc vào nơi Thục Vũ yên nghỉ. Đó là góc đồi Ban
xã Mường Thái với chừng mười nắm đất mới. Năm 1988 tôi được thả
về Sài Gòn có nghe Chị Lệ Khánh đã lặn lội ra tận đây đem cốt
Chồng vào Nam.
– Nhà thơ Huy Trâm viết: “Dù bị tù tội,
Thục Vũ vẫn say sưa hát. Huy Trâm thuật lại lời Phan Lạc Phúc:
một hôm mưa tầm tã, cả đội lo đi hứng nước thì phải chạy trú tạm
dưới mái tranh, nhưng Thục Vũ trên vai còn vác bó nứa vẫn đứng
hát giữa trời. Mưa xối xả ướt cả áo quần, Anh vẫn mặc. Ta cứ hát.
Phúc mới nói to: Thôi đi Vũ ơi! Rồi ốm bệnh cho mà xem! Thục Vũ
vẫn nghêu ngao hát xong bài rồi mới vào hàng trú mưa. Hát cho
quên sầu... và cũng là lần hát cuối đời. Một tuần sau anh mất”.
Thục Vũ đã có vợ nhưng duyên nợ đưa đẩy
Ông yêu thương Nhà thơ Lệ Khánh. Họ có với nhau một bé trai. Điều
đáng nể là Bà Thục Vũ không ghen tuông ồn ào mà lại đích thân vô
bệnh viện thăm viếng chăm sóc cho người tình của chồng sinh đứa
con đầu lòng.
Vào những năm 1964–66, thi đàn miền Nam bỗng dưng xuất hiện Nhà
thơ nữ gây xôn xao dư luận với 5 Tập Thơ “Em Là Gái Trời Bắt Xấu”
do nhà sách Khai Trí xuất bản lúc mới chừng 20 tuổi.
Lệ Khánh yêu Thục Vũ với những vần thơ
diễm tình làm Ông rung động phổ thành bài ca “Tình Người Hậu
Tuyến”:
Hôm
nay trời vào thu
Đà Lạt lắm sương mù
Cây khô buồn trút lá
Gió ven hồ bay xa
Mây thu lờ lững trôi
Lồng lộng gió lưng đồi
Xin anh đừng giận
dỗi
Viết thư về thăm em
Lệ Khánh để lại hằng trăm bài thơ da
diết. Nơi đây chỉ xin trích nửa bài “Em Là Gái Trời Bắt Xấu” như
là tiêu biểu cho vần thơ của thi nhân xứ Huế đa đoan sầu mộng:
Chiều chủ nhật đợi chờ anh mãi mãi
Sao trễ giờ cho chua xót anh ơi!
Hẹn hò
chi, chừ lỡ dở cả rồi
Tình mới chớm đã
vội vàng lịm tắt
Tôi yêu anh nhưng hoài hoài thắc mắc
Liệu người ta đáp trả lại hay không
Đến
bao giờ dẫm được xác pháo hồng
Áo cưới
đỏ cười vui cô dâu mới
Anh hẹn đúng hai giờ anh sẽ tới
Nhưng sao chừ trời đã tối... anh đâu?
Mưa hôm nay êm như tiếng mưa ngâu
Anh lỡ
hẹn nên chiều buồn rứa đó
Tôi gục mặt khóc thầm bên cửa sổ
Mà cô đơn trời hỡi vẫn cô đơn
Nơi xa xôi
anh có biết tôi buồn
Anh có biết tôi
cười mắt ngấn lệ
Anh lỗi hẹn hay là anh đến trễ
Cho chiều nay đường phố lạnh mưa thu
Và
đêm nay thành thị ướt sương mù
Người con
gái gục đầu thương mệnh bạc.
10. DƯƠNG HÙNG CƯỜNG (1934–1987)
Trung úy Quân chủng Không Quân. Nhà văn
với 3 tác phẩm: Lính Thành Phố,
Buồn Vui Phi Trường, Vĩnh Biệt
Phượng.
Làm
báo lấy bút hiệu Dê Húc Càng. Nổi lên ở Con Ong từ những số báo
đầu với mục Cà Kê Dê Ngỗng, chuyên châm biếm tệ trạng xã hội, tố
cáo bê bối của những nhân vật tai to mặt lớn.
– Nhà văn Nguyễn Thụy Long trước khi
trở thành văn sĩ đã viết: Tôi yêu thích phóng sự “Buồn Vui Phi
Trường” của Dương Hùng Cường và vẫn hy vọng được tiếp xúc với
anh, góp phần vào tờ báo Lý Tưởng của đơn vị.
Tác giả Loan Mắt Nhung từng bị Trung sĩ
Dương Hùng Cường cảnh cáo: “Mày chẳng là gì cả trong quân đội,
một hạt cát, thân phận tối đen, tao đã trải qua rồi, tao nổi
khùng, tao chửi toáng lên, sức mạnh của tao là ngòi bút, tao là
văn sĩ mày biết không? Tao chống bất công ở bất cứ đâu.”
Nguyễn Thụy Long cho thấy phẩm cách
đáng kính trọng, đáng ngợi ca của Dương Hùng Cường. Ông cho rằng
cũng vì tính cương cường chống lại mọi hà hiếp áp bức mà Cường dù
tốt nghiệp chuyên môn ở trường huấn luyện không quân Marrakeck
(Pháp) với lon trung sĩ, nhưng suốt Đệ Nhứt và nửa thời gian Đệ
Nhị cộng Hòa Ông vẫn mang trung sĩ, trong khi các bạn đồng khóa
hầu hết đều lên sĩ quan.
– Tác giả Hồ Đắc Túc có bài Mộ Dương
Hùng Cường – Nơi Mộ Phóng Viên Báo Chí ở Normandie Pháp: “đây là
Khu Vườn Tưởng Niệm gồm 27 bia đá khắc tên gần 2,500 phóng viên
khắp thế giới từ 1944 đến 2019 đã hy sinh vì sứ mạng đưa tin của
họ. Vườn do Tổ Chức Phóng Viên Không Biên Giới (Reporters San
Frontieres) thành lập. Dương Hùng Cường có tên trên mộ bia, cái
chết của Ông được viết: Died in prison, supposedly of a brain
haemorrhage. Arrested by the government in 1975, free sometime
between 1978 & 1981 then arrested again in 1984 with many other
journalists”.
– Nhà văn Trần Ngọc Tự cảm tác bài thơ “Rượu Ngày Giỗ Bạn” nhân
giỗ đầu Cường:
Chén âm dương vỡ giữa đời
Thoảng quanh men rượu ngỡ người bên mâm
Cuồng say thôi cũng âm thầm
Nhắp môi
uống nốt mê lầm phù sinh
– Nhà văn Hồ Nam qua bài: 100 Khuôn Mặt
Văn Nghệ Sĩ, Dương Hùng Cường Người Viết Văn Hài Sinh Nghề Tử
Nghiệp (http://tanmanvanchuongthephong.
blogspot.hung–cuong–nguoi) nêu rõ cuộc đời Cường từ sau 75:
Đi tù đợt đầu về, Cường làm nhiệm vụ
“bế con”, “bửa củi”, “nấu cơm” cho vợ bán cháo phổi (dạy học).
Giữa thời kỳ ăn “bo bo”, chạy từng bữa,
Cường được Trung úy Không Quân Trần Ngọc Tự báo tin: “sếp” Trần
Tam Tiệp ở hải ngoại, nhân danh “Văn Bút Việt Nam” phát động
chiến dịch “Nhà văn từ ngục tù cộng sản viết, gởi bài ra nước
ngoài”, nhuận bút trả bằng những “thùng đồ bộn bạc”.
Cường nói với Tự: Cường không cần nhuận
bút trả bằng thùng đồ, nhưng Cường viết để cho hải ngoại biết
cộng sản... cỡ nào.
Không những viết bài gởi ra hải ngoại,
mà Cường còn rủ các nhà văn khác: Doãn Quốc Sỹ, Hoàng Hải Thủy,
Lý Thụy Ý cùng viết. Hình thành một mặt trận “tự do văn hóa”
khiến cộng sản... hoảng hốt cho công an đàn áp.
Khi bị bắt, Cường hiên ngang nhận:
“không những viết văn để vạch trần tội ác của chế độ cộng sản
việt nam, mà còn cổ động anh em cùng viết văn, thơ tố cáo tội
ác...”
Thời
gian bị bắt, Cường vào khu biệt giam dài dài, nhưng không ngán,
suốt ngày ca vọng cổ tuồng Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà.
Với giọng ca mùi “rệu”, khiến nhiều nữ
tù “vượt biên” say mê, gởi quà thăm nuôi cho Cường lia chia, càng
có quà của các “fan”, Anh càng phấn khích ca hát. Có đêm tới giờ
giới nghiêm vẫn chưa chịu ngủ, cán bộ đe dọa cùm, Anh mới chịu
ngưng ca.
Đêm
cuối đời Cường là đêm mưa to gió lớn, có lúc khu trại giam bị mất
điện, nhưng tiếng ca Cường vẫn cứ mùi mẫn cất lên – như anh sinh
ra để ca vọng cổ vậy.
Sau đêm hôm đó, tới 8 giờ sáng, quản
giáo mở cửa phòng để điểm danh. Một cán bộ gọi số tù của Cường –
mãi không có tiếng trả lời – bèn quát lớn, “ngủ đến 8 giờ không
chịu dậy, sẽ bị cùm đấy”.
Lời dọa nạt không có lời đáp, cán bộ
đập cửa phòng ầm ầm, rồi tức tốc mở cửa, lấy chân đá vào người
Cường, “dậy mau, giỡn mặt với quản giáo hơi nhiều rồi đó!”
Bị lãnh 2, 3 “cú” đá khá mạnh, Cường
vẫn nằm im không cục cựa.
“Thằng này ‘lì’ phải cùm thôi”.
“Cán bộ ơi! Ông nhà văn trúng gió rồi,
mau đưa đi cấp cứu, sao cứ đá hoài vậy. Tù cũng là người, chứ đâu
phải...”.
Nghe
lời cải tạo viên, quản giáo vội vàng kêu “tù” nhà bếp tới, dựng
Cường dậy, đem đi cấp cứu.
“Cán bộ ơi! Ông nhà văn ‘ná thở’ rồi,
còn cấp cứu gì nữa”.
“Hôm qua còn ca vọng cổ om sòm, sao ‘ná
thở’ được.”
“Người Ông tím bầm, chắc bị rắn cắn quá”.
Nhà văn nhà báo tài hoa kết thúc thê
thảm như vậy đó.
Vì trời mưa gió thổi mạnh, rắn lục từ
trên cây đối diện phòng biệt giam rớt xuống, bò vào cắn chết Ông.
– Cô Giáo Ấu Oanh viết bài “Khóc Bạn”
(Nam Kỳ Lục Tỉnh – Hồi Ký, Google
sites).
Ấu
Oanh, hiền thê Ca sĩ Khuất Duy Trác kể chuyện bạn học Vũ Hoàng
Oanh (Vợ Dương Hùng Cường): Ra trường Đại Học Sư Phạm 1964, rồi
kết hôn với Cường năm sau. Họ sinh hạ 6 công chúa trong vòng 10
năm.
1974
Hoàng Oanh tất bật dạy thêm kiếm tiền giúp chồng in tác phẩm thứ
ba: Vĩnh Biệt Phượng. Sách vừa xuất xưởng chưa kịp phân phối ra
ngoài thì mất nước, cả hai Ông vào tù. Để lại gánh nặng gia đình
cho hai Cô Giáo phải đầu tắt mặt tối bon chen với chợ đời, làm
sao nuôi nổi đàn con thơ dại...
Thế rồi một hôm đầu năm 1979, Hoàng
Oanh ngập ngừng tỉ tê: “Ta nói cái này, đừng giựt mình nhé... Ta
có bầu”. Tôi nghe mà hoảng hồn. Hoàng Oanh khai: Hôm Tết rồi đi
thăm Ông Cường trại cho ở lại một đêm... Rồi Hoàng Oanh năn nỉ
dẫn đi phá thai vừa tròn hai tháng vì sợ không ai tin nổi. Ai đời
Cô Giáo chồng đi ở tù mà lại mang bầu. Ai tin. Bà con, bạn bè,
nhà trường... họ sẽ bêu riếu bôi tro trát trấu lên đầu “vợ thằng
ngụy”.
Tôi đem
chuyện kể lại Mẹ. Bà Cụ bình tĩnh tính toán rồi khẳng định Hoàng
Oanh sẽ sinh con trai. Nhờ vậy mà bạn bỏ ý định phá thai. Sau đó
quả thật sinh trai đặt tên Phụng Hoàng (thờ phụng mầu vàng).
Rồi Cường ra tù. Anh liên lạc được với
Nhà văn Trần Tam Tiệp đang ở Pháp. Anh Tiệp gởi những thùng quà
về giúp văn nghệ sĩ còn kẹt lại. Việc này dẫn tới hậu quả là đợt
bắt giam “những tên Biệt Kích Cầm Bút” vào tù.
Năm 1987 Dương Hùng Cường mất tại Phan
Đăng Lưu. Hoàng Oanh đau đớn vật vã than khóc như cảnh ngộ thiếu
phụ năm xưa “Đi Nhận Xác Chồng” của Lê Thị Ý:
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu
Hai năm sau, Hoàng Oanh bị tai nạn xe
không qua khỏi, bỏ lại đàn con thơ 6 đứa bơ vơ.
Phạm Văn Duyệt
Nguồn:
https://hon-viet.co.uk/PhamVanDuyet_MuoiCaiChetOanKhienCuaVanNGheSiMienNam.htm
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Phạm Văn Duyệt chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, April 9,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang