Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
Ngược dòng Thời gian
Chủ đề: Lịch sử
Tác giả:
Văn Nguyên Dưỡng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời giới thiệu: Dưới
đây là bài viết về “CÁI CHẾT CỦA SỬ GIA PHẠM VĂN SƠN” của Văn Nguyên
Dưỡng. Tác gỉả bài viết này cũng là người từng cộng tác với Sử gia
Phạm Văn Sơn, bị giam 13 năm trong các Trại tù CSVN từ Nam ra Bắc,
đã ghi nhận về những ngày cuối cùng của Sử gia trong Trại K2/TÂN
LẬP. Sau khi ra khỏi các Trại tù CSVN năm 1988, Văn Nguyên Dưỡng
sang định cư ở Hoa Kỳ năm 1991. Ông cũng là tác giả của quyển biên
khảo viết bằng Anh ngữ về chiến sử ba–mươi–năm Chiến Tranh Việt Nam
“THE TRAGEDY OF THE VIETNAM WAR” do Nhà XB Hoa Kỳ MCFARLAND ở North
Carolina xuất bản năm 2008. Nhà thơ Cung Trầm Tưởng viết bài nhận
định dài về tác phẩm này sau khi sách được xuất bản. Hồi ký về “Cái
Chết của Sử gia Phạm văm Sơn” cũng được dịch sang Anh ngữ đăng ở
SACEI (Saigon Arts, Literature & Education Institute) Forum 7.
–sacei007@yahoo.com–
tháng 3, năm 2010.
Trước
năm 1975, ở miền Nam, ông Phạm Văn Sơn là một trong rất ít
những vị viết sử.
Bộ sử được nhiều người biết đến nhất của
ông là bộ VIỆT SỬ TÂN BIÊN.
Tôi hân hạnh được làm việc dưới quyền chỉ
huy của ông từ năm 1958 đến 1960.
Thời gian này ông mang cấp bậc
Thiếu tá, giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Trường Quân Báo & Chiến Tranh
Tâm Lý Cây Mai; tôi mang cấp bực Trung úy, là huấn luyện viên và sĩ
quan an ninh của Trường. Chính trong thời gian này, ông đã tu chỉnh
bộ sử nói trên và cho tái bản. Những thì giờ nhàn rỗi, tôi đã tình
nguyện giúp ông. Tôi được ông giới thiệu đến gặp ông Lê Ngọc Trụ,
công chức làm việc ở Thư Viện Quốc Gia –lúc đó còn nằm trên đường
Gia Long– để nhờ hướng dẫn sưu tầm tài liệu. Ông Lê Ngọc Trụ còn là
một học giả, giảng sư Ngữ học của Đại học Văn khoa Sài Gòn, đã chỉ
dẫn cho tôi tìm được khá nhiều tài liệu và sách viết bằng tiếng Pháp
về thời Trịnh–Nguyễn phân tranh. Các tài liệu này cũng như những tài
liệu quý giá khác, giúp cho ông Phạm Văn Sơn tu chỉnh Việt Sử Tân
Biên. Thời gian làm việc với ông, tôi đã học được ở ông nhiều điều
về viết lách.
Năm
1961, trường Cây Mai đổi tên, chỉ còn là trường Quân Báo. Ngành
Chiến Tranh Tâm Lý tách ra riêng, đuợc dạy riêng ở một trường của
ngành này, mới thành lập, ở một địa điểm khác; do đó, Thiếu tá Phạm
Văn Sơn cũng được thuyên chuyển về ngành Chiến Tranh Chính Trị...
Sau đó không lâu, ông được bổ nhậm vào chức vụ Trưởng Ban Quân Sử
của Quân Lực VNCH, thuộc Bộ Tổng Tham Mưu. Ông lần lượt được thăng
đến cấp Đại tá và giữ nhiệm vụ này cho đến trước ngày miền Nam sụp
đổ.
Tôi nghĩ
rằng, với khả năng của ông và dưới sự chỉ đạo của người viết sử sở
trường và kinh nghiệm như ông, hẳn là Ban Quân Sử Quân Lực VNCH đã
viết được những bộ sử chiến tranh VN cận đại quý giá, nhất là binh
sử thời kỳ sau năm 1954 trở đi. Tôi nghĩ như vậy vì tôi biết ông
Phạm Văn Sơn rất thận trọng, không thể khinh xuất trong nhiệm vụ của
mình và càng không thể để cho thuộc cấp khinh xuất. Ngày trước ông
thường bảo tôi: “Phải cố gắng làm sao cho mức độ trung thực và
chính xác cao chừng nào tốt chừng đó, như vậy những điều mình viết
về sử mới mong có thêm một chút giá trị. Việc sưu tập những sự kiện,
chứng tích, tài liệu có độ xác tín cao nhiều chừng nào thì việc so
sánh, nghiên cứu, lượng giá, đối chiếu... dễ chừng nấy”. Đó là
lề lối làm việc nghiêm cẩn, thận trọng của ông. Vì vậy sau này, năm
1972, tôi đã không ngạc nhiên khi chiến trường An Lộc còn đang sôi
động với những trận đánh đối tuyến chỉ cách nhau có một con đường,
giành nhau từng góc phố –giữa các đơn vị VNCH và quân CS Bắc Việt–
khi những cơn pháo kích dữ dội của địch quân chưa giảm, khi không
một chiếc trực thăng nào đáp xuống An Lộc mà không sợ tan xác, tôi
đã thấy ông hiện diện ở chiến trường này để tìm hiểu sự thật viết về
trận chiến khốc liệt đó.
Lúc bấy giờ, tôi là Trưởng Phòng 2, Bộ Tư
Lệnh SĐ5BB –cũng là Bộ Tư lệnh Hành Quân Chiến Trường An Lộc– của
tướng Lê Văn Hưng, đã cung cấp cho Đại tá Phạm Văn Sơn những tài
liệu, sự kiện “sống” nóng bỏng, chính xác và đầy đủ. Tuy
nhiên, muốn viết cho trung thực hơn, ông đã ở lại trong hầm chống
pháo với tôi một đêm thức trắng để nghe tiếng đạn pháo của địch quân
rơi trên đầu mình và xung quanh đâu đó, vừa hỏi tôi thật chi tiết về
những sự kiện ghi trong nhật ký hành quân (mỗi phòng của Bộ Tư Lệnh
Hành Quân đều có) kể cả tài liệu, cung từ tù binh của địch bắt được
trong các trận đánh trước ở đó.
Sau khi ông rời An Lộc, không bao lâu mặt
trận được giải tỏa, tôi đến Bộ Tổng Tham Mưu để gặp ông thì được
biết ông đã ra Quảng Trị làm nhiệm vụ như đã làm ở An Lộc. Như vậy
ông và những sĩ quan thuộc cấp trong Ban Quân Sử đã hiện diện ở khắp
chiến trường lớn để tìm sự thật viết binh sử... Tôi nêu lên những
chi tiết trên đây mong các bạn hình dung được tư cách khả trọng của
một người viết sử chân chính, ông Phạm Văn Sơn, một người đã thành
danh trong giới trí thức VN, để rồi tôi xin kể lại những ngày cuối
cùng bi đát trước cái chết thảm thương của ông trong lao tù, dưới
chế độ bất nhân, tàn độc của CSVN.
Ngày 30/4/75, như mọi người đều biết,
Dương Văn Minh, một tổng thống phi hiến, tuyên bố đầu hàng CS Bắc
Việt vô điều kiện, Quân Lực VNCH bị bức tử, buông súng, tan rã. Một
số tướng lãnh, sĩ quan cấp tá, cấp úy tuẫn tiết. Tất cả những sĩ
quan còn lại ở miền Nam vào lúc đó, bị dồn vào các trại tập trung
tạm trong lãnh thổ miền Nam, cùng với các cấp chỉ huy cảnh sát, công
chức cao cấp, các nhà hoạt động chánh trị trong các đảng phái miền
Nam và các vị tuyên úy Công giáo, Tin Lành và Phật giáo trong
QLVNCH. Một năm sau, CSBV đưa tất cả những người mà họ gọi là có “nợ
máu nhiều nhất với nhân dân” ra miền Bắc, giam giữ và bắt lao
động khổ sai ở những trại giam trong rừng sâu nước độc Thượng du và
Trung du Việt Bắc. Một số sĩ quan và công chức khác còn bị giam giữ
ở các trại cải tạo miền Nam. Tháng 6, năm 1976, đợt tù nhân đầu tiên
bị đưa ra Bắc, trong đó có tôi, bị dồn cứng dưới khoang của những
chiếc tàu thủy cận duyên cỡ nhỏ, loại chuyên chở của quân đội CSBV.
Sau 4 ngày 4 đêm, tàu cập ở Bến Thủy thuộc Vinh. Từ đó vào nửa
khuya, chúng tôi bị chuyển vào bờ, lần này thì bị dồn vào các toa
tàu hỏa dùng để chở súc vật, lên phía Bắc. Ngày 15/6/76 – ngày duy
nhất mà tôi nhớ suốt 13 năm tù– đúng một năm sau ngày tôi đưa đầu
vào cùm ở trường Don Bosco ở Gò Vấp, trên chuyến tàu hỏa nói trên,
qua một kẽ hở thật nhỏ của toa tàu, tôi đã nhìn thấy nhà thương Bạch
Mai và ga Hàng Cỏ, những địa danh của Hà Nội mà tôi đã được đọc qua
trong các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn thuở tuổi học trò. Hai sĩ
quan tù nhân cấp Tá đã ngộp thở chết trong toa chở súc vật, quãng
giữa đường Việt Trì – Yên Bái. Kể từ đó, có thêm hàng trăm tù nhân
đi trên những chuyến tàu định mệnh này đã ngã xuống ở các Trại tù
miền Bắc, vĩnh viễn không còn thấy được những chuyến tàu xuôi Nam...
Trong số những người này có Sử gia Đại Tá Phạm Văn Sơn.
Một số tù nhân trên dưới một ngàn người
trên các toa tàu này được đổ xuống ga Yên Bái; tôi cũng nằm trong số
“tù” này. Từ ga Yên Bái, bộ đội CS dùng xe quân sự Molotova
chuyển chúng tôi theo đường bộ lên Sơn La giam giữ ở các trại giam “quân
quản” dành cho các sĩ quan miền Nam. Tôi ở đó được một năm rồi
bị chuyển sang trại giam công an, cũng ở Sơn La, trong 2 năm nữa.
Năm 1979, trước cuộc chiến ngắn ngủi giữa
Trung Cộng và CSVN không bao lâu, tất cả chúng tôi – những tù nhân
chính trị – ở những trại giam trên các tỉnh biên giới phía Bắc và
Tây Bắc được chuyển về các trại giam vùng Trung Du và các tỉnh phía
nam, tây nam Hà Nội, như các trại giam Tân Lập (Vĩnh Phú), Nam Hà
(Nam Định), Thanh Phong (Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh)... Sự chuyển dồn trại
như vậy làm cho đời sống lao tù chúng tôi đã cơ cực càng cơ cực hơn,
ăn đã đói càng đói hơn, mỗi người không có được đến 4 tấc chiều
ngang để có thể nằm ngửa, phải nằm nghiêng chen chúc lẫn nhau mà ngủ
sau mỗi ngày lao động nặng nhọc, nên phòng giam nào cũng hôi hám,
thiếu ánh sáng, thiếu không khí đến ngộp thở. Bao nhiêu chứng bệnh
ngặt nghèo nguy hiểm đã bộc phát trong anh em chúng tôi, thuốc men
không có để trị bệnh. Mạng sống của mọi người bị Tử Thần rình rập
từng ngày, từng đêm.
Đa số anh em chúng tôi được đưa về trại
giam Tân Lập do công an quản chế, bây giờ đặt dưới sự chỉ huy của
Trung tá Công an Nguyễn Thùy. Tân Lập là một hệ thống trại gồm một
trại chính và nhiều phân trại thường được gọi là K, đánh số từ K1
đến K7, nằm rải rác hai bên bờ một nhánh sông bắt nguồn từ sông Lô,
chảy qua xã Tân Lập, tỉnh Vĩnh Phú. Tôi đến Tân Lập ngày nào năm đó,
đã không còn nhớ nữa, chỉ nhớ là lúc đó trời đã bắt đầu trở lạnh...
Dù vậy, sau mỗi buổi lao động vẫn phải theo mọi người ra những bãi
vắng trên sông này để tắm trước khi về trại. Chính ở các bãi tắm này
chúng tôi mới thấy hình hài khốn khổ của nhau, vì mọi người đều trần
truồng. Trong khi số tù nhân từ Sơn La mới chuyển về, người ngợm còn
chút thịt da, thì, những anh em tù đã ở trại giam K2/Tân Lập từ mấy
năm trước thân thể chỉ còn da bọc xương... Đến hai bên mông là nơi
lý ra phải còn có chút thịt, cũng chỉ thấy có xương xẩu nhô hẳn lên,
trông thật thảm não. Khi tắm ai cũng rét run, vì cái lạnh của trời
và nước làm cho mọi người thấu buốt ruột gan... bởi trong người
không còn năng lượng đề kháng nào nữa.
Tôi nói lên những điều này để chỉ rõ chế
độ quản chế, đối xử với tù nhân chính trị của trại giam Tân Lập cay
nghiệt hơn bất cứ trại giam nào mà chúng tôi đã trải qua trước đó,
mặc dù chúng tôi biết rằng với chế độ tập trung cải tạo, trại giam
là nơi CSVN giết người kín đáo nhất, ít đổ máu nhất, bằng áp đặt khổ
sai vắt sức, bằng bỏ đói trường kỳ... khiến cho tù nhân chết mỏi mòn
vì kiệt sức, vì bệnh hoạn hay vì những lý do mờ ám khác nữa. Không
một ai trong chúng tôi, lúc đó, thoát khỏi sự thách đố của định
mệnh, của cái chết đến bằng nhiều cách ở bất cứ lúc nào. Ở Tân Lập,
Trung tá Nguyễn Thùy và cán bộ Công an trại giam đã làm hơn những
điều chúng tôi đã nghĩ, đã biết. Vì thế các tù nhân chính trị chết
trong các phân trại Tân Lập nhiều hơn bất cứ nơi nào khác. Riêng ở
phân trại K2, mấy tháng mùa đông cuối năm 1979, đầu năm 1980, mỗi
ngày ít nhất cũng có 1 đến 2 tù nhân chết; con số tù nhân đến bệnh
xá (không có một thứ thuốc men nào để trị bệnh), hằng ngày hơn 200
người, mục đích không phải là để xin trị bệnh, nhưng để được khám,
chứng nhận là là “có bệnh” –khỏi đi lao động– được ngày
nào đỡ ngày đó, mặc dầu họ là những người bệnh thực sự cần phải được
điều trị và miễn làm việc... chớ đừng nói là lao động nặng.
Tại K2/Tân Lập, trong hoàn cảnh chung như
vậy, tôi đã gặp lại Đại tá Sử gia Phạm Văn Sơn. Tôi đã nhìn thấy tận
mắt những ngày sống bi đát cuối cùng của đời ông.
Chừng một tháng sau khi đến K2, một buổi
trưa, tôi và một người bạn tù khác cùng đợi đến phiên phải lên phạn
xá gánh cơm về cho anh em trong đội ăn sau buổi lao động; trong khi
chờ đến lượt mình nhận cơm, tôi đã vơ vẩn đến bên ngoài hành lang
của một căn phòng nhỏ cạnh phạn xá. Tôi thấy một người, nhận ra ông,
mà cứ ngỡ là đôi mắt mình đã nhìn lầm. Ông chính là Đại tá Phạm Văn
Sơn, vị chỉ huy trưởng ngày xưa của tôi. Ông chỉ còn là cái bóng âm
thầm, một cái xác sắp mục nát, bất động, câm nín sau chấn song sắt,
bên trong cửa sổ của căn phòng “cách ly”. Duy đôi mắt hiền
hòa thì vẫn tinh anh như thuở nào. Rõ ràng ông đang hiện hữu như một
tĩnh vật có linh hồn sáng suốt, đang nhìn ngắm mọi sự vật đổi thay,
quay cuồng điên đảo với những nhận định xuyên suốt, những ý nghĩ sâu
sắc, cao xa nào đó một cách hữu thức... Vì chính đôi mắt nhìn lắng
sâu và sáng kia là “cửa sổ linh hồn”, cho tôi biết điều đó
về ông.
Tôi nhìn
ông và ông nhìn tôi.
Trong một thoáng, quá khứ như chỗi dậy;
không biết vì mừng rỡ hay vì ngỡ ngàng xúc động, tôi chợt buộc miệng
gọi lên:
– “Thầy”!
Chỉ một tiếng rồi lặng thinh. Tôi còn biết
nói gì hay làm gì hơn khi mà... ai cũng biết rằng mình bất lực trước
hoàn cảnh bất hạnh nào riêng của mỗi người. Mắt ông hình như sáng
hơn, ông đã nhận ra tôi. Trong gương mặt đã biến dạng, sần sùi của
ông, với đôi môi khẽ chớp động, tôi đã nhìn thấy một nụ cười. Ông đã
hiểu rõ tâm trạng của tôi, tuy ông lặng lẽ không nói một lời nào.
Không một dấu hiệu, ông rời song cửa sổ.
Chỉ chưa đầy một phút sau, cánh cửa ra vào của căn phòng nhỏ –đang
khép hờ– mở rộng ra. Ông đứng ở ngưỡng cửa, thẳng thớm như đứng
giữa giang san của mình, một giang san thu hẹp đến thật nhỏ nhoi,
lạnh lẽo, cô đơn... Với thế đứng vững vàng như vậy, ông đã cho tôi ý
nghĩ là, chính nơi này, nơi thật nhỏ nhoi này, là nơi ông đã tìm ra
nguyên ủy, phương trình giải quyết và kết luận cho một nan đề khó
giải quyết nhất, hay ông đang ấp ủ một điều gì thật to tát trong tư
tưởng của ông. Nhận xét của tôi không thể nhầm lẫn vì ngày xưa nhiều
lần tôi đã nhìn vào mắt và tư thế của ông mà đoán đúng những gì ông
định ra lệnh cho tôi hay muốn nói cùng tôi. Ở lần gặp lại này, tôi
cũng cảm nhận được ý nghĩ của ông như thuở đó.
Tôi định bước vào hành lang, tiến đến gần
ông nhưng kịp thấy ông nhìn tôi khẽ lắc đầu. Tôi dừng lại và ghi
nhận đầy đủ hơn tín hiệu của căn bệnh ghê gớm đã và đang tàn phá cơ
thể của ông. Ông đứng thẳng, hai tay chập lại để trước người. Những
ngón tay đan chéo vào nhau. Chỉ nhìn tôi không nói một lời nào. Ngày
đó, trời vẫn lạnh căm. Tuy nhiên, tôi nghĩ không phải vì trời lạnh
mà ông trùm kín đầu bằng một chiếc khăn lông trắng đã trở màu vàng,
bẩn và lấm tấm những vệt máu, mủ. Vòng khăn quấn kín cổ chỉ chừa có
đôi mắt, mũi, miệng và một phần rất nhỏ ở hai bên má. Ông trùm kín
mặt như vậy có lẽ để che bớt đi những vết lở lói trên mặt mình, bởi
chứng bệnh nan y của ông. Thân thể gầy gò nhưng cộm lên vì mặc nhiều
lớp áo quần bên trong. Bên ngoài, ông mặc một chiếc áo mưa màu nhà
binh đã thật cũ, sờn rách một đôi nơi. Chân được bó lại bằng những
mảnh vải quần áo cũ xé ra, dính đầy bụi đất và những vết máu, vết
mủ. Chỉ có một phần mặt mũi và hai tay của ông lộ ra, các phần thân
thể khác không thấy được. Và chỉ có vậy thôi, tôi cũng nhận ra rằng
không phải ông mang chứng lở lói bình thường mà tôi đã từng thấy,
từng biết. Mũi ông đỏ ửng, bóng; hai má cũng vậy, cộng thêm một số
vết lở lói; lông mi ở mắt đã rụng. Hai bàn tay cũng có những vết lở
tấy, nhưng các ngón tay đã co lại, móng tay nhiều ngón đã bị khuyết
lại hay mất hết: Ông bị chứng phong hủi (leprosy) ở thời kỳ trầm
trọng. Vì không có thuốc điều trị và vì điều kiện vệ sinh không thể
có được trong tù nên bệnh phát triển rất nhanh. Đó là lý do tại sao
chỉ mới đi tù trong vòng bốn, năm năm ông đã trở thành người tàn
phế, bị cách ly riêng biệt. Có lẽ người ta gán cho ông chứng bệnh lở
lói là để tránh sự loan truyền căn bệnh cùi trong trại giam. Vả lại
ông bị “cách ly”, chỉ được ra ngoài vào những giờ mọi người
đã đi lao động, không còn ai trong trại, nên ít ai biết rõ. Nhưng
chính ông, ông biết rõ bệnh trạng của ông. Tôi nhìn ông thật lâu,
trong lòng xót xa, không biết phải nói gì, làm gì. Vị sĩ quan cao
cấp chững mực với quân phục chỉnh tề trang nghiêm ngày xưa nay đã
mang hình hài của một người tàn phế mà ai cũng có thể gặp ở đâu đó.
Đôi mắt tôi nói rõ sự thương cảm của tôi đối với ông. Và một lần nữa
ông cười, nụ cười nhăn nhúm với một chiếc răng khểnh trong môi, như
ông muốn nói với tôi rằng: –“Tôi chấp nhận định mệnh của tôi,
nhưng tư tưởng của tôi đã vượt khỏi thân xác nhỏ nhoi tàn phế của
tôi rồi. Anh đừng thương hại cho tôi.”
Sau nụ cười là ánh mắt nhìn tôi sâu hơn.
Trong ánh mắt đó, tôi đã ghi nhận được sự thương xót của ông đối với
tôi. Hình như ông đã nhìn thấy lại người sĩ quan thuộc cấp trẻ tuổi
của ông ở những ngày xưa, còn độc thân, mặt còn non sữa, nhưng sáng
sủa và nhanh nhẹn, đã từng lúc làm ông hài lòng, cùng từng khi khiến
ông phải chỉ bảo... Ngày nay, hắn ta đã trở thành một người cằn cỗi,
gầy ốm, lam lũ với áo quần chùm đụp rách rưới, má hóp, mắt thâm vì
những ngày thiếu ăn, những đêm thiếu ngủ. Hơn thế nữa, hắn ta còn
chưa biết phải làm gì trong cảnh tù đày và trong tương lai.
Tôi chưa biết nói gì thêm, làm gì thêm, ở
buổi gặp lại ông trong hoàn cảnh khốn khổ đó, thì anh bạn cùng tôi
đi lãnh cơm, tìm được tôi, thấy tôi đang đứng “nói chuyện”
với Đại tá Sơn. Anh đến gọi tôi vì cơm anh đã lãnh xong để ngoài sân
phạn xá. Tôi tần ngần một phút nhưng rồi cũng phải theo anh trở lại
phạn xá gánh cơm về cho anh em ăn. Chúng tôi chào từ giã ông, không
thấy ông trả lời. Tôi quay đi, mang theo nỗi buồn thật lớn. Anh bạn
nói với tôi:
– “Đại
tá Sơn đó, ông ta bị chứng bệnh nan y, vừa bị suyễn, bệnh tim và lao
phổi. Ông không hề nói chuyện với ai.”
Tôi trả lời ngắn: –“Ông là boss cũ của
tôi.”
Suốt
ngày hôm đó tôi thẫn thờ vì những ý nghĩ miên man trong đầu óc tôi.
Đêm đó cũng không thể ngủ được. Tôi suy nghĩ về ông và những ngày tù
đày của chính bản thân tôi. Quả thật, trong lần đối thoại bằng mắt ở
buổi gặp lại lạ lùng này, ông đã nói với tôi thật nhiều về thân phận
của ông và của tôi. Tôi biết rõ ông đã vượt khỏi cái thân xác bệnh
hoạn yếu đuối nhỏ nhoi của con người, dẫn phần tâm linh của ông đến
một cõi an bình nào đó, như một tín đồ công giáo tin tưởng sự an bài
của Đấng Tạo Hóa về định mệnh của mình. Hơn thế nữa, trong tư tưởng,
ông không chỉ còn là một người viết sử bình thường, một sĩ quan bình
thường, mà đã trở thành một triết gia lớn biết cả cội nguồn của dân
tộc và tổ quốc. Tâm trí ông đã đi ra ngoài thân thể ông để đến một
khung trời bao la nào đó, cao rộng, hay ít nhất cũng phủ trùm trên
bờ cõi VN. Rõ ràng ông đã tìm được cho ông một lối thoát, sau khi đã
trải qua đau khổ đến tột độ: thể xác nứt nẻ, nhức nhối vì bị gặm
nhấm, rút tỉa bởi con máu độc hại của chứng bệnh nan y; bị bỏ đói
khát lạnh lẽo, cô độc trong một nơi cách biệt đến trở thành câm nín.
Bao nhiêu tháng ngày đau đớn oằn oại mà ông phải chịu đựng từng phút
từng giây đó không đủ để ông trở thành một triết nhân hay sao, vả
lại ông là một người thâm trầm, hiểu sâu học rộng... Dù sao thì ông
cũng đã vượt thoát được đau khổ và tìm ra cho mình một con đường.
Một ngày nào thoát khỏi gông cùm CS, nếu tấm thân tàn phế của ông
còn hơi thở, thì biết đâu khối óc phong phú và tĩnh đạt của ông sẽ
không giúp ông trở nên bất tử trong lòng mọi người, vì những điều
chứa đựng trong đó sẽ có thể cho chúng ta những hiểu biết về lịch sử
Việt Nam – trong thế hệ chúng ta – một cách xác đáng nhất, tường
tận nhất, đáng suy gẫm nhất vì sao chúng ta đã đau khổ triền miên
trong cuộc chiến tranh tàn khốc dai dẳng vừa qua. Hay xa hơn nữa,
biết đâu ông cũng có thể cho chúng ta một triết lý nhân sinh rút tỉa
từ kinh nghiệm bản thân ông, khả dĩ giúp được nhiều người tìm ra sự
an bình trong tâm hồn ở cuộc sống nhiều đau thương này.
Tôi yên tâm phần nào về ông, vì tôi biết,
dù ông là kẻ chiến bại trong cuộc sống, nhưng lại là người chiến
thắng chính bản thân mình. Còn tôi, ông đã nói cho tôi biết bằng ánh
mắt, là ông thương cảm cho tôi, vì hình như ông biết rõ tôi đã và
đang còn mù mờ, quờ quạng trong đáy ngục, trong lưu đày. Tôi chưa
nghĩ gì cho hôm nay và cho ngày mai hơn là phải sợ lao động nặng
nhọc sáng nay hay sợ bị đói lạnh chiều nay. Tâm trí, tư duy của tôi
là một thứ bòng bong.
Tôi phải gặp lại ông, tôi phải học tấm
gương của ông, phải biết nhận chịu cái đau buốt tận xương tủy, để
nghiền ngẫm về lẽ sống và tìm cho mình một con đường thích hợp nhất
mà bước đi. Từ ngày đó tôi định bụng hôm nào thuận tiện tôi sẽ đi
tìm ông, vì ông ở phòng “cách ly” không phải lúc nào cũng
tự tiện mà đến được. Cán bộ Công an trại giam cấm ngặt mọi tù nhân
đến đó. Trong mấy ngày liền, sau các buổi lao động xong về trại, tôi
đi theo các bạn lãnh cơm lên phạn xá, lảng vảng đến gần căn phòng
cách ly mong nhìn thấy ông để đến gặp, nhưng lần nào cũng trở về
không. Rồi một buổi chiều tôi trở lại đó, từ xa tôi đã thấy ông sau
song cửa sổ, mắt đang nhìn ra xa xôi... cao hơn bờ tường rào của
trại trước mặt ông. Tôi muốn nhìn ông cho rõ hơn nên bước thêm mấy
bước nữa rồi dừng lại. Một chập rất lâu, ánh mắt ông vẫn thế, không
thay đổi hướng. Ở hướng đó, mặt trời chiều đã xuống thấp, nắng đã
nhạt, mấy áng mây thật mỏng, ráng hồng, còn vơ vẩn, rồi bỗng như bị
gió giật xé, tan ra. Tôi chợt thấy ông rùng mình. Tôi tự nghĩ: “Chẳng
lẽ mình nhầm hay sao khi nhận xét về ông ở buổi đầu tiên?”
Không do dự nữa, tôi bước đến gần, đứng ngoài sân, trước hành lang,
chào ông và khẽ hỏi:
–“Chào Thầy, hôm nay Thầy có khỏe hơn
không?”
Ông
quay lại nhìn tôi, nhẹ gật đầu nhưng không trả lời. Đôi mắt ông lại
hướng về góc trời có một bóng mây vừa tan, một thoáng như mờ đi, như
nghĩ ngợi, rồi chợt sáng hẳn ra nhìn thẳng hơn vào mắt tôi. Thầy.
Thầy ơi! Tôi đã hiểu rồi. Tôi đã hiểu trong lòng Thầy nghĩ gì và
Thầy muốn gì ở tôi. Lòng tôi trong một phút cảm thấy đau điếng. Tôi
có nên nói đến những điều này cho các bạn nghe hay không? Liệu các
bạn có tin rằng tôi nói bằng sự thật, bằng tấm lòng của tôi hay
không? Thôi thì tôi cứ nói.
Ông đã cảm nhận được định mệnh của ông
rồi. Hơn ai hết, ông hiểu rõ tình trạng sức khỏe của ông. Ông chỉ sợ
mình như ráng mây mong manh kia, sẽ phải tan rã mất đi vội vàng.
Thời gian quý báu không còn nữa đối với ông, ngọn đèn hắt hiu trong
tim ông sắp tắt, nhưng ngọn lửa lớn trong óc ông, đang rực sáng,
không có chỗ thoát ra. Bốn bức tường của nhà giam này thật cay
nghiệt; cái hoài bão của ông, niềm ấp ủ đã hình thành trong tâm não
ông cũng sẽ tan biến mà thôi. Ông không sợ bản thân ông bị tiêu hủy,
ông chỉ sợ những điều đó bị tiêu diệt, tôi nghĩ như vậy. Với ánh mắt
nhìn thẳng vào mắt tôi, tôi nhận ra hình như ông muốn ủy thác cho
tôi một việc gì đó sau này –khi tôi ra khỏi bốn bức tường của trại
giam– chẳng hạn như sẽ thay ông viết lên những gì mà ông muốn để
lại cho những thế hệ tương lai. Nếu quả thật điều này tôi đoán đúng,
tôi cam đành chịu sự thất lễ đối với ông. Dù tôi hiểu ông, nhưng làm
sao tôi có thể hiểu tường tận những gì tách bạch định hình trong tư
tưởng của ông. Ông đã nghĩ gì, ông đã biết những gì –hẳn nhiên là
phải rộng lớn và khúc chiết– ông muốn viết những gì, làm cách nào
tôi có thể biết được. Vả lại, những thứ ấy là những điều mà ông phải
phấn đấu thật cam go với bệnh tật, với chính mình bao nhiêu năm
trời, chịu đựng vô vàn đau đớn tủi nhục từ thể xác đến tâm não mới
có được. Nó là của riêng ông. Làm sao tôi có thể cảm nhận được hết,
khi mức độ thương đau của tôi có hạn; làm sao tôi có thể viết những
điều ấy thành lời.
Sở năng của ông là viết sử. Ngay ở công
việc này, nếu tôi có hiểu biết một đôi điều, thì với khả năng của
tôi, tôi cũng không thể thay ông mà viết nổi hết cái cao xa rộng lớn
của ông, cái sâu sắc phong phú của ông, cái chiết trung tinh túy của
ông, cái kinh nghiệm dồi dào của ông về những gì phức tạp nhất,
nhiêu khê nhất, khuất lấp nhất của lịch sử ở thời đại nhiễu nhương
này. Nếu tôi cần thời gian để có được những ưu điểm trên đây như
ông, thì sẽ bao lâu. Có lẽ suốt đời đến khi nhắm mắt, tôi cũng không
có được. Hôm trước tôi gọi ông bằng “Thầy” để tránh
tiếng gọi cấp bậc đã trở thành “không thích hợp” nữa. Hôm
nay, tôi cũng gọi ông bằng chữ đó, cùng nghĩa. Xét cho cùng, tôi
chưa đáng là học trò của ông trên nhiều phương diện. Tôi đành cam
chịu sự bất lực rồi. Cái hy vọng giữ được cuộc sống của ông thật
mong manh, cái hy vọng giữ sự hiểu biết trong trí não ông cũng không
thể có... Rồi cát bụi sẽ trở về với cát bụi mà thôi... Bỗng nhiên
tôi nghe mấy giọt nước mắt lăn trên má tôi.
Ông nhìn tôi lặng lẽ thở dài rồi quay
đi...
Tôi trở về phòng giam của mình với tâm
trạng buồn bã, mệt mỏi. Tôi muốn làm vui lòng cố nhân, muốn làm tròn
bổn phận với một cấp chỉ huy tôi quý trọng, nhất là khi ông đang ở
trong hoàn cảnh khốn cùng, nhưng tôi biết tôi kém tài, thiếu khả
năng để khả dĩ hoàn thành sự ký ủy của ông.
Sau buổi chiều đó, lại một đêm và nhiều
đêm khác nữa tôi mất ngủ. Dù ông muốn hay không, tôi cũng thương cảm
cho ông, xót xa cho ông. Niềm trắc ẩn của tôi không ngoài việc tôi
biết ông cảm thấy sức khỏe của ông đã cạn, ông biết ông sẽ không thể
– bằng cách nào đó, phổ cập được những gì đó thật hữu ích đã kết
tinh trong não tủy của ông qua những tháng ngày đau khổ. Niềm hy
vọng cuối cùng là ký thác những điều đó cho một ai đó có khả năng,
cũng đã bị giập tắt. Sự cô đơn của ông bây giờ đã hoàn toàn. Tất cả
đã quay lưng lại với ông. Bên ông có lẽ chỉ còn Thượng Đế là vị an
ủi, là vị cứu tinh cuối cùng mà thôi. Con người đã không còn trong
tầm mắt và niềm hy vọng của ông nữa, mãi mãi...
Sau đó không lâu, một buổi tối, bọn cán bộ
trại tổ chức buổi chiếu bóng ngoài trời cho tất cả tù nhân xem ở cái
sân rộng lớn giữa trại. Đêm ấy, trời đầy trăng sáng trong sương đêm
loang loáng của mùa Đông. Hơn một nghìn tù nhân được xếp hàng ngồi
theo đội của mình trong sân. Tuy nhiên, mọi người khi cần thiết cũng
có thể tách ra đứng lên đi tiểu ở một vài nơi mà cán bộ trại giam CS
đã chỉ định trước. Một nơi như vậy nằm bên trong bờ tường của phạn
xá. Đây là cơ hội may mắn cho tôi. Khi phim chiếu được chừng một giờ
–phim gì đó, tôi không còn nhớ– tôi đứng lên đi về phía ở bờ tường
vào phạn xá, đến chỗ đi tiểu. Nhìn không có ai, tôi bước thêm mấy
bước nữa, dừng lại. Chỗ tôi đứng chỉ còn cách căn phòng nơi ông ở
không đầy mươi bước. Tôi không có ý định gặp ông, chỉ muốn nhìn thấy
ông mà thôi, và tôi đã nhìn thấy. Ông đứng bên trong cửa sổ, ở đó có
ánh đèn le lói hắt ra, đang nhìn lên khung trời đầy ánh trăng bàng
bạc trong sương. Giờ đó cũng gần khuya, ông vẫn thức, đứng nhìn
trăng, nhìn trời. Tôi đã hiểu rõ hơn tâm sự của ông. Tôi đứng nhìn
ông một lúc khá lâu, rồi sợ bị bọn cán bộ bắt gặp, tôi quay trở ra
về chỗ ngồi của các bạn cùng đội và không xem gì được nữa ở những
thước phim tuyên truyền còn lại. Tôi lơ đãng ngắm nhìn những vì sao
xa xa, ngắm vầng trăng nhàn nhạt trên nền trời nhiều sương lành
lạnh, diệu vợi, buồn man man.
– “Tin buồn!”
Tin buồn có nghĩa là trong anh em của
chúng tôi có thêm một người vĩnh viễn nằm xuống, cũng có nghĩa là
đội của chúng tôi phải xẻ thêm những tấm ván để đóng chiếc hòm tạm
bợ bọc xác bạn bè, một điều không ai muốn, nhưng ai cũng tình nguyện
làm để biểu lộ lòng thương xót với người đã ra đi. Biết đâu rồi ngày
nào cũng đến lượt mình. Tâm lý trái ngược đa đoan là thế đó.ế đó.
Tôi nghe anh nói xong, định hỏi xem là ai,
nhưng anh đã bảo tôi:
poids” lớn, dùng làm chất đốt ở bếp. Mỗi
lần như vậy, họ đổ than đá ở phần sân ngoài bức tường, trước cửa vào
nhà bếp. Bọn cán bộ ra lệnh cho ông hằng ngày dần dà chuyển hết
những đống than đá đó vào bếp, trừ trường hợp trời mưa, phải chuyển
gấp, chúng cho người phụ. Như vậy, một người bệnh trầm kha như ông
vẫn bị chúng vắt sức lao động đến giọt máu cuối cùng. Hôm nay ông đã
ngã xuống như trăm ngàn nạn nhân khác dưới chủ trương giết người
siêu dã man này trong các trại giam CSVN.
Sau buổi giải lao, tất cả anh em trong đội
cưa xẻ đều biết về cái chết thảm thương của ông. Ông đã mất rồi, đã
về cõi thiên đường, đã mang theo sự chịu đựng và sự hiểu biết của
ông vốn dĩ không hề tưởng là đã có trong con người mang nhục thể.
Cái gì của Thượng Đế trả về cho Thượng Đế.
Người ta ra lệnh xẻ gỗ đóng quan tài cho
ông. Tôi nhận việc ấy với những giọt nước mắt chảy dài trên má. Chỉ
còn một chút đáp đền này thôi, cố nhân ơi...
Văn Nguyên Dưỡng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Trang Thi văn Văn Nguyên Dưỡng
|
Hình nền: Tổ Quốc Ghi Ơn. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E–mail by vnd chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, December 10, 2016
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang