Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Điểm Sách
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời giới thiệu:
Kính thưa quý thầy, cô,
quý niên trưởng và quý bạn,
các bạn đồng môn Khóa 5
SQTB/TĐ+ĐL
Nhân dịp kỷ niệm sáu năm ngày xuất bản quyển
“THE TRAGEDY OF THE VIETNAM” WAR, chúng tôi xin trân trọng giới
thiệu và mong mỏi được sự giúp đỡ của các bậc thầy, các niên
trưởng và các bạn yểm trợ tinh thần chuyển lời giới thiệu đến các
bạn thân của quý vị, nhất là các cộng tác viên hay người liên hệ
về chính trị, văn học hay giáo dục người Hoa Kỳ hay Tây Âu về
quyển sách nói trên.
Trước đây, khi được Nhà XB McFARLAND
xuất bản, tôi thiếu phương tiện tổ chức ra mắt sách. Nhưng sau
sáu năm lưu hành, quyển sách nói trên được các mạng internet
GOOGLE và AMAZONE đánh giá 5-sao -FIVE-STAR BOOK. Là một trong 12
quyển sách viết về Thảm kịch của chiến tranh Việt Nam, (xin xem
GOOGLE SEARCH hay bản sao đính kèm, xin mở computer's full
screen). Là một tác giả Việt Nam, thuộc dạng tỵ nạn chính trị, mà
tác phẩm được sánh ngang với các tác giả ngoại quốc viết tiếng mẹ
đẻ của họ, thế nào tác phẩm của chúng tôi cũng không tránh khỏi
ít nhiều sai lầm, nhưng dù sao nó cũng chứa đựng trọn vẹn sự thật
của cuộc chiến và tâm trạng thương đau của nhiều lớp người từng
chiến đấu bảo vệ nền dân chủ phôi thai và chế độ tự do của miền
NAM. Tôi cũng đề cập đến các trận đánh và đề cao tinh thần, khả
năng chiến đấu chống CSVN anh dũng của QLVNCH. Tôi hãnh diện đã
là một quân nhân trong hàng ngũ đó. Sách nói về chiến cuộc nhưng
cũng nói lên tâm trạng chung của từng lớp lớp người mang quân
phục của QLVNCH. Do đó, chúng tôi hy vọng là sẽ được quý thầy,
cô, quý niên trưởng và quý bạn yểm trợ về tinh thần, giới thiệu
cho quyển sách được lưu hành rộng rãi hơn trong giới trẻ VN lưu
vong và trong thư viện của Đại học Hoa Kỳ và các châu lục khác.
Xin chân thành cám ơn và xin nhận lời chúc thành công lớn hơn
trong cuộc sống lưu vọng nơi xứ người.
Trân trọng và
quý mến,
NGUYỄN VĂN DƯỠNG
hay VĂN NGUYÊN DƯỠNG
1 - Cuộc chiến Việt Nam
thứ hai khởi sự ngay sau khi Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa chào đời
vào một buổi sáng hanh thông cuối tháng mười năm 1956 và chấm dứt
cũng vào một buổi sáng nhưng lần này nắng rực lửa trên bầu trời
thủ đô Sài Gòn: buổi sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975. Kể
từ đó đến nay, trên 33 năm đã trôi qua, một thời gian đủ dài để
những đống tro tàn chiến tranh nguội tan vào lòng đất, nhưng
những cuộc xung đột nó gây ra về chính kiến, ý hệ và những khía
cạnh tinh thần lẫn tình cảm khác vẫn còn nóng bỏng. Nghịch lý này
sở dĩ tồn tại là vì chính bản thân cuộc chiến, nhìn dưới góc độ
Mỹ, chứa đầy những nghịch lý oái ăm, thách thức lý trí và làm đảo
lộn lương tri. Chẳng hạn như cuộc tranh cãi gay gắt đã diễn ra
quanh vụ Giang Tốc đĩnh và những chiến thương bội tinh của ứng cử
viên tổng thống John Kerry vào năm 2004 là một trường hợp điển
hình.
Chưa có một cuộc chiến nào đã để lại trong tâm tư
người Mỹ, đặc biệt là giới cựu quân nhân (3.74 triệu lượt người)
đã chiến đấu ở Việt Nam, một di sản nặng nề như vậy. Người ta đã
tốn không biết bao nhiêu tâm trí để bàn thảo, thường là cãi cọ
với nhau, về cuộc chiến kỳ quặc ấy với một khối lượng những bài
báo, tiểu luận, những cuốn chuyên khảo, những bản phúc trình,
thống kê, duyệt xét lại, kể cả phim ảnh đủ loại liên quan trực
tiếp hay gián tiếp tới chủ đề ấy nhiều đến nỗi không đếm xuể.
Một điểm bất bình thường khác là, trước một khối lượng ấn
liệu đồ sộ như vậy, sự có mặt của những tác phẩm viết bằng tiếng
Anh hoặc được dịch sang tiếng Anh của người Việt Nam, kẻ phải
hứng chịu những hậu quả khốc liệt nhất của cuộc chiến, chỉ như
muối bỏ biển. Và đây là một sơ hở mà hơn một thế lực, thù và bạn,
đã lợi dụng để nói sai, nói xấu về Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) mà
không có sự trả lời đích đáng của người bị gièm pha. Chính vì sự
thiếu sót này mà chúng tôi khẩn thiết và trân trọng kính mời quý
vị độc giả hãy mở rộng vòng tay đón nhận sự ra đời của cuốn khảo
luận công phu, có hệ thống “The Tragedy of the Vietnam War” của
Văn Nguyên Dưỡng. (McFarland&Company Inc. Publishers, 2008 –
www.mcfarlandpub.com)
Tác giả vừa là một nhà thơ có tên
tuổi vừa là một cựu Trung tá phục vụ 21 năm trong Quân lực Việt
Nam Cộng Hòa (QLVNCH). Đây là hai lý do tại sao ông đã bị cộng
sản bỏ tù trong 13 năm và vì vậy, sau khi được trả tự do, ông và
gia đình được chính phủ Mỹ mời sang tỵ nạn chính trị tại Hawaii
kể từ năm 1994. Ở đây, dù tuổi đã cao, ông vẫn quyết tâm cắp sách
trở lại ghế nhà trường, và sau nhiều năm dùi mài kinh sử, ông đã
lấy được mảnh bằng Cao học về Chính trị Học (Master of Arts in
Political Science). Tuy nhiên, mộng ước của ông, như ông đã thổ
lộ với chúng tôi lúc còn ở tù với nhau, không phải để đăng khoa
mà để trang bị cho bản thân mình một cơ sở kiến thức vững vàng,
một lề lối tư duy có hệ thống, biết nối liền những sự kiện tưởng
là tách biệt vào với nhau (connecting the dots) thành một quan hệ
nhân quả, một phương pháp luận khoa học, tức những công cụ học
thuật cần thiết để kiến dựng một cái nhìn lý giải chính xác, vô
tư, quân bình về một vấn đề đã làm ông trăn trở khôn nguôi: Vai
trò và trách nhiệm của người Việt Nam quốc gia chống cộng và của
người đồng minh Hoa Kỳ (HK) của họ trong cuộc chiến Việt Nam vừa
qua.
Như đã nói ở trên, có rất nhiều sự đánh giá thiên
lệch và bất công đối với VNCH, đặc biệt là QLVNCH, rường cột và
lá chắn của quốc gia non trẻ này. Điều trớ trêu là những kẻ đã cố
tình bóp méo chân lý lịch sử lại chính là những thủ phạm chủ chốt
của thảm họa Việt Nam: những Robert McNamara, Roger Hilsman,
Averell Harriman, Henry Kissinger..., những chính khách kế thừa
của chủ thuyết be bờ cộng sản của Harry Truman và đã đề ra những
binh pháp “chiến tranh hạn chế”, “chiến tranh chống nổi dậy” mà
thực chất, như thực tiễn lịch sử đã chỉ cho thấy, chỉ là những
uyển ngữ che giấu một một quan niệm chủ bại ngay từ khởi thủy:
đánh không để thắng, a no-win concept.
Một trong những
cung cách hành xử để chạy tội của tập đoàn ấy là đổ lỗi cho
QLVNCH, xuyên tạc khả năng và tinh thần chiến đấu của quân lực
này và thổi phồng những khuyết điểm có tính kỹ thuật hơn là cơ
bản của nó trong một số trận đánh lớn như trận tổng tấn công tết
Mậu Thân 1968 của cộng sản hay trận đánh Hạ Lào đầu năm 1971 của
QLVNCH chẳng hạn. Xét đến cùng lý, nguyên nhân những sai lầm quân
sự ấy là do chính sách và đường lối chỉ đạo chiến tranh được
hoạch định từ Tòa Nhà Trắng nằm cách xa chiến trường trên mười
ngàn cây số. Một chính sách phân chia trách nhiệm thiếu hợp lý
theo đó QLVNCH được giao nhiệm vụ phòng thủ diện địa, còn Mỹ thì
giành quyền “tìm và diệt” địch, tức quyền tạo dựng một thế chủ
động chiến trường bằng cách đánh thẳng vào hậu cứ địch để “nhổ cỏ
tận gốc.”
Do đó, xét theo quan điểm trên, chính quân đội
Hoa Kỳ phải chịu trách nhiệm về việc đã để cho cộng sản sử dụng
những thánh địa an toàn của chúng để mở những cuộc tấn công thâm
nhập sâu vào hậu tuyến QLVNCH, chứ không phải QLVNCH như họ đã đổ
vấy cho. Nói rõ hơn, để nhất quán với chiến lược “tìm và diệt”
địch của mình, lẽ ra quân đội Hoa Kỳ, chứ không phải QLVNCH, đã
phải tấn công sang Hạ Lào vào đầu năm 1971 hoặc trước đó từ lâu.
Luận cứ này, cũng như luận cứ lẽ ra HK đã phải phong tỏa hải cảng
Hải Phòng ngay từ đầu cuộc chiến để bóp nghẹt một nguồn tiếp sinh
chủ yếu cho nỗ lực chiến tranh của Hà Nội, đã được tác giả nêu
lên mà chúng tôi cho là hợp lý nếu chúng ta giới hạn vấn đề vào
khuôn khổ một cuộc chiến tranh cục bộ và không xét tới những yếu
tố ngoại vi, có tính cách toàn cầu của chính sách Mỹ, chẳng hạn
Mỹ chỉ muốn dùng cuộc chiến Đông Dương thứ hai để vừa răn đe vừa
chiêu dụ Trung cộng về phe mình nhằm cô lập Liên xô, lúc đó đang
là địch thủ đáng gờm nhất của họ.
2 - Hành động
thiếu ngay thẳng của nhà cầm quyền Hoa Kỳ đối với QLVNCH đã tạo
cho giới truyền thông đại chúng và phong trào phản chiến Mỹ một
cái cớ bằng vàng để miệt thị, phỉ báng và coi QLVNCH không xứng
đáng để Hoa Kỳ giúp đỡ. Kết quả là, dưới áp lực không
ngừng gia tăng và được báo chí hướng dẫn của quần chúng nhân dân
mình, chính quyền Hoa Kỳ đã phải cắt đứt viện trợ cho QLVNCH và
khai tử VNCH. Trên thực tế, sự phủi tay này đã xảy ra rất tàn
nhẫn, không những trói tay rồi giao nộp người bạn đồng minh lâu
đời của mình cho cộng sản mà còn bán đứng sự hy sinh để bảo vệ
Thế giới Tự do của hàng trăm ngàn tử sĩ Việt-Mỹ.
Nhưng chủ
đích của chúng tôi không phải để đếm xác chết hay luận về mặt đạo
đức mà về tính phi logic của những lựa chọn chiến lược của Hoa
Kỳ. Chúng tôi chỉ muốn dựa vào những sự kiện có thật để phân
tích, lý giải ngõ hầu tìm ra chân lý lịch sử. Và, để làm việc
này, chúng tôi thấy cần phải đặt vấn đề cho đúng rồi cố tìm giải
đáp cho một câu hỏi then chốt: Tại sao chúng ta đã để thua cuộc
chiến vừa qua?
Một
câu hỏi như vậy ngoài để truy căn vấn đề còn mang hương vị xót xa
của một nuối tiếc lẽ ra chúng ta đã phải, vì chúng ta có thể, để
cuộc chiến chấm dứt một cách bớt tệ hại hơn như nó đã chấm dứt
trên thực tế. Và, chúng tôi nhận thấy ở tác giả Văn Nguyên Dưỡng
sự hội đủ một số điều kiện cần để giúp chúng ta giải đáp câu hỏi
trên. Một, ông đã từ trong lòng cuộc chiến đi ra nên có điều kiện
hiểu nó rõ hơn một người đứng ngoài nghĩ về nó; hai, ở vị trí một
tù binh chiến tranh phải giáp mặt thường xuyên với kẻ thù, ông có
điều kiện nhìn ra chân tướng nó và qua đó hiểu rõ hơn tại sao nó
đã thắng ta; và ba, với sự thủ đắc từ ghế nhà trường một phương
pháp luận khoa học, ông có khả năng phân tích và lý giải vấn đề
một cách chặt chẽ và mạch lạc.
Nói tóm lại, ở vị trí một
chiến sĩ kiêm chứng nhân kiêm nạn nhân kiêm sử gia, ông đã có
được một lợi thế tốt nhất để tạo dựng một cái nhìn tổng hợp sinh
động và chính xác về cuộc chiến.
Trước hết tác giả dẫn ta
về khởi thủy của vấn đề là cuộc chiến tranh Việt Nam thứ nhất
(1946 – 1954) mà một trong những nguyên nhân đầu tiên, theo sử
gia Mỹ John Dellinger, là một động lực tâm lý đã bị dồn nén từ
lâu, tức tinh thần quật khởi của dân tộc Việt Nam quyết đứng lên
giành lại chủ quyền cho đất nước họ từ tay người Pháp. (trang 11)
Thành quả của cuộc đấu tranh này là sự ra đời vào ngày 7/4/1945
của một chính quyền quốc gia độc lập (nội các Trần Trọng Kim) sau
60 năm bị Pháp đô hộ. Quốc gia tân lập này, và sau đó là nước
Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa (ra đời vào ngày 2/9/1945), không được
Pháp công nhận khi họ theo gót quân Anh trở lại Sài Gòn vào ngày
25/9/1945 với ý đồ ngoan cố lập lại chế độ thực dân trên toàn cõi
Đông Dương. Chính vì vậy mà cuộc chiến tranh Việt Nam thứ nhất đã
bùng nổ vào đêm 19/12/1946.
Cuộc chiến này không chỉ đơn
thuần liên hệ đến Việt Nam và Pháp mà còn ảnh hưởng tới nền trật
tự thế giới mới mà Hoa Kỳ đang dày công xây dựng kể từ sau khi
cuộc Thế Chiến thứ hai chấm dứt. Vì vậy Mỹ không thể không quan
tâm tới nó. Có hai lý do để HK ủng hộ Pháp: một, vì Pháp đang là
thành viên quan trọng của khối Liên minh Bắc Đại Tây Dương; hai,
vì HK đã thấy rõ chân tướng làm tay sai cho Đệ tam Quốc tế Cộng
sản của Hồ Chí Minh nên họ dùng cuộc chiến của Pháp như một thứ
chiến tranh ủy nhiệm để ngăn chặn ý đồ nhuộm đỏ toàn cầu của đế
quốc Liên xô.
Nhưng đồng thời họ cũng không muốn Pháp lợi
dụng cuộc chiến này để lập lại chế độ thực dân tại Việt Nam mà họ
cho là sai trái và lỗi thời. Đây là mâu thuẫn đầu tiên của chính
sách về Việt Nam của HK Một mâu thuẫn làm cho sự can dự của họ
thiếu dứt khoát trong nhiều năm. Nhưng trong khi Mỹ chần chừ do
dự thì cộng sản không đứng yên tại chỗ. Sự kiện Mao Trạch Đông
lên nắm quyền tại Trung Hoa lục địa vào tháng 12/1949 và sự kiện
quân đội cộng sản đánh thắng hai binh đoàn Charton và Lepage tại
biên giới Việt-Trung chưa đầy một năm sau đó đã làm thay đổi cục
diện chiến tranh: Quân đội viễn chính Pháp phải chuyển từ thế
công sang thế thủ, với một hệ luận tất yếu là thiết lập vội vàng
vành đai phòng thủ De Lattre De Tassingy tại châu thổ sông Hồng.
Dưới chiêu bài Chiến tranh Cách mạng và Giải phóng Dân tộc,
chính quyền cộng sản Trung Hoa (Trung cộng) liên tục huấn luyện
và viện trợ ồ ạt (bằng vũ khí của Mỹ chiếm được từ tay quân đội
Tưởng Giới Thạch) cho bộ đội của Võ Nguyên Giáp, lúc này đã có
khả năng hiệp đồng hành quân ở cấp liên sư đoàn (cộng sản gọi là
tập đoàn hay đại đoàn) và chuyển từ du kích chiến sang vận động
chiến và trận địa chiến. Tình hình quân sự ngày càng trở nên thất
lợi cho quân đội Pháp, và kể từ năm 1951 trở đi, cộng sản làm chủ
được nửa phần phía bắc của Bắc Việt Nam và biến vùng này thành
một cứ địa vững chắc để từ đó phóng ra những cuộc tấn công quy mô
xuống châu thổ sông Hồng Hà và sang tới Lào. (trang 26)
Thừa thắng xông lên, cộng sản quốc tế mở thêm một mặt trận thứ
hai tại Triều Tiên vào giữa năm 1950 khiến Hoa Kỳ phải nhảy vào
can thiệp và như vậy phải chuyển chú tâm từ Đông Dương lên vùng
Đông Bắc Á. Với sự tiếp tay của Trung cộng, CSVN đã triệt để lợi
dụng thời cơ này để mở rộng địa bàn hoạt động của chúng sang tận
Hạ Lào, nhằm làm phân tán mỏng lực lượng Pháp và như vậy làm vơi
nhẹ đi áp lực của lực lượng này tại những vùng chiến lược khác,
đặc biệt là vùng châu thổ sông Hồng. Cho đến khi cuộc chiến Triều
Tiên chấm dứt vào năm 1953 thì bộ đội Giáp đã đủ mạnh để uy hiếp
đến chính sự sống còn của quân đội viễn chinh Pháp tại Bắc Việt.
Sự kiện này và việc HK bây giờ đã rảnh tay ở Triều Tiên đã làm
cho Việt Nam trở thành mối quan tâm hàng đầu của chính sách đối
ngoại của họ. Tình hình ở đây ngày càng xấu đi, và muốn chấn
chỉnh nó, HK phải có một đường lối can dự tích cực hơn và dứt
khoát hơn là chỉ mỗi năm, như họ đang làm, chi vài trăm triệu
đô-la để trả công người khác đánh giặc giùm mình. Nhưng trên thực
tế, khi biến cố Điện Biên Phủ xảy ra, do cố tật chần chừ và di
luỵ còn nóng bỏng của cơn ác mộng Triều Tiên, HK đã nuốt lời hứa
giúp Pháp giải vây lòng chảo ấy bằng sức mạnh áp đảo của không
quân mình và thay vì vậy, đã chỉ khiêm nhường đóng vai trò một
anh khổng lồ chân đất sét bất lực đứng nhìn con dím Điện Biên Phủ
của Navarre bị gặm ruỗng cho đến chết bởi đàn kiến cỏ của Giáp.
Con dím ấy tắt thở lúc 5 giờ chiều ngày 7/5/1954; chiến thắng này
của cộng sản quốc tế vang dội tới sơn cùng thủy tận của Thế giới
Thứ ba, ở đó người ta lầm lẫn chiến tranh giải phóng dân tộc với
chiến tranh giải phóng giai cấp (vô sản).
Bảy mươi bốn
ngày sau Điện Biên Phủ thất thủ, ngày 20/7/1954, Hiệp định Đình
chỉ Chiến sự ở Việt Nam được ký kết tại Genève. Với quyết định
chia đôi nước Việt Nam, lúc đó đang là một chính thể thống nhất
được phê chuẩn bởi Hiệp ước Elysée ngày 8-3-1949 giữa Pháp và
chính quyền quốc gia của Cựu Hoàng Bảo Đại. Hiệp định Genève năm
1954 là một hình thức công nhận ipso facto của Thế giới Tự do đối
với cái gọi là Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa của CSVN, mặc nhiên nâng
cấp nó từ một tổ chức quyền bính trong bóng tối, sống lén lút ở
rừng rú lên thành một chính thể quốc gia nation-state có chính
phủ, có nhân dân, có lãnh thổ và một thủ đô riêng biệt trước mắt
quốc tế.
Như vậy, Hiệp định Genève 1954 là một nhượng bộ
quan trọng đầu tiên của Thế giới Tự do trước áp lực quân sự của
cộng sản quốc tế. Một nhượng bộ lẽ ra có thể tránh được nếu xét
đến tương quan lực lượng lúc đó ở Đông Nam Á và nếu như chính
quyền Eisenhower đã ưng thuận đề nghị của Pháp là HK hãy sử dụng
hỏa lực ồ ạt của hai trăm pháo đài bay B-29 và khu trục cơ xuất
phát từ Philippines và Hạm đội 7 để hủy diệt đại quân tinh nhuệ
của CSVN đang tập trung quanh Điện Biên Phủ. Đây là một đề nghị
hữu lý và có tính khả thi cao, nhưng quyết mệnh lịch sử muốn
rằng, khi mọi chi tiết của Kế hoạch Kên Kên (Vulture) đã được
hoàn tất và chỉ chờ lệnh khai hỏa, thì bỗng dưng nó bị hủy bỏ vì
Tổng thống Eisenhower vào giờ chót đã nghe theo lời khuyên của
chính phủ Anh. HK đã chùn bước vì sợ một hành động can thiệp quân
sự mạnh mẽ như Kế hoạch Kên Kên sẽ tạo cho Trung cộng cái cớ để
nối lại liên minh với Liên xô và như vậy, theo lý luận của ngoại
trưởng Anh Sir Anthony, sẽ có nguy cơ xảy ra một cuộc đại chiến
thế giới. Một cuộc đại thế chiến mà ông ta cho là HK không nên
gây ra nếu chỉ vì Việt Nam.
Nói tóm lại, chính sách của
Hoa Kỳ kể từ năm 1954 trở đi chủ yếu không phải để tiêu diệt CSVN
mà chỉ coi cuộc chiến Việt Nam như một chiến pháp be bờ cộng sản,
thứ trì hoãn chiến có tính cục bộ, nhằm phục vụ một mục tiêu
chiến lược to lớn hơn: Chia rẽ khối Liên xô - Trung quốc, làm hao
mòn tiềm lực khối này với chính sách cấm vận kinh tế và mậu dịch
uyển chuyển, tinh vi, rồi tìm cách giải quyết từng bước một cuộc
chiến tranh lạnh và giành thắng lợi về phía mình mà không phải
đụng đầu trực tiếp với hai đối thủ khổng lồ trên. Và cuối cùng
Hoa Kỳ đã thắng lớn. Nhưng cái dở của họ là, để được như vậy, họ
đã hy sinh Đông Dương một cách lãng xẹt và không lấy gì làm vẻ
vang cho lắm. Hiểu như với một chính sách phân nhiệm hợp lý với,
và tin tưởng vào, ba chính quyền quốc gia Đông Dương đồng minh
của họ, và với một chiến lược quân sự mạnh dạn, dứt khoát và rạch
ròi hơn, lẽ ra họ đã có thể giữ được Đông Dương và như vậy có thể
đẩy nhanh hơn tiến trình giải thể khối cộng sản quốc tế. Hoặc nếu
làm như vậy thì trong trường hợp đối đế phải rời bỏ bán đảo này,
họ đã không phải ra đi tắc trắch như kiểu Peace with honor của
Nixon và Kissinger hay phải tháo chạy tán loạn như trong ngày
30/4/1975.
3 - Mà nói đến sự phân nhiệm Việt-Mỹ để
điều hành cuộc chiến thì không thể không nói đến một nguyên nhân
cơ bản của sự phá sản chính sách về Việt Nam của Hoa Kỳ và sự sụp
đổ năm 1975 của VNCH. Đó là sự bá quyền trịch thượng,
hống hách, thô bạo, thiển cận, ích kỉ, không tin tưởng vào VNCH
của hơn một chính quyền Hoa Kỳ, khiến xảy ra giữa hai bên một mâu
thuẫn kiểu đồng sàng dị mộng, gây trở ngại rất nhiều cho việc
phối hợp song phương cần có để tiến hành cuộc chiến có hiệu quả.
Mâu thuẫn trên đã trở thành một bất hòa gay gắt vào những năm
1962 và 1963 vì Tổng thống Ngô Đình Diệm tỏ ra muốn độc lập với
HK trong việc quản lý quốc gia và điều hành chiến tranh của mình.
Hậu quả là HK dàn dựng ra vụ Phật giáo đòi treo cờ ở Huế như một
cái cớ để tổ chức cuộc binh biến ngày 1/11/1963 mà mục đích không
chỉ là để lật đổ chính quyền Diệm mà còn để sát hại ông ta và bào
đệ Ngô Đình Nhu. Để truy tìm thủ phạm vụ giết người này, tác giả
đã trích dẫn một câu nói của Tổng thống Lyndon Johnson với Phó
Tổng thống Hubert Humphrey khi ông ta chỉ vào bức chân dung của
ông Diệm: “Chúng ta đã dính tay vào vụ giết ông Diệm. Và giờ đây
bàn tay ấy đang hiện lên trước mắt chúng ta.” (trang 30) Vẫn theo
tác giả, dựa vào những tài liệu khả tín, ba nghi can chính của vụ
thảm sát trên là Averell Harriman, Roger Hilsman và Henry Cabot
Lodge. Nhưng chủ đích của chúng tôi không phải là luận về mặt đạo
đức của một hành động tội ác mà để bàn đến tác hại chính trị của
nó gây ra cho VNCH và Hoa Kỳ.
Trước hết là vấn đề chính
danh và chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống cộng của người
quốc gia, hai yếu tố tâm lý quan trọng để tranh thủ sự hưởng ứng
của người dân Việt Nam. Như mọi người đã biết, một lý do tại sao
Mỹ đã giết ông Diệm vì ông ta chống đối việc Mỹ dự định đổ quân ồ
ạt vào Việt Nam để nắm trọn quyền chỉ đạo chiến tranh theo cung
cách của mình. Và thực tế đã chỉ cho thấy tính đúng đắn của lập
trường quốc gia của ông Diệm: Với sự có mặt ngày càng gia tăng và
càng lộ liễu của quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam. VNCH ngày
càng bị mất chủ quyền và QLVNCH ngày càng trở thành một thứ tùy
phái cho quân đội viễn chinh Mỹ. Cái thế độc lập quốc gia dân tộc
vì thế mà bị tổn thương, khiến cuộc thu phục nhân tâm trở nên khó
khăn rất nhiều.
Ngoài ra, về mặt xã hội, như chúng ta đã
được biết, sự có mặt tại miền Nam Việt Nam của quân đội Mỹ mà
điểm đỉnh lên tới 525,000 người vào tháng 8/1967, rủng rỉnh tiền
bạc (overpaid), ăn uống ê hề (overfed) và nhục cảm mạnh mẽ
(oversexed), cùng với cách sống duy vật buông thả, đã làm băng
hoại trầm trọng truyền thống đạo đức của nền văn hóa Việt Nam. Cả
một đội quân bản địa khổng lồ vô dụng, ăn bám vào chiến tranh,
khai thác những bản năng xấu xa của người lính viễn chính Mỹ sống
xa vợ hay người yêu, cung cấp những dịch vụ mãi dâm, ma túy không
những chỉ ở trong những quán rượu (mọc lên như nấm) mà còn ra tận
bụi bờ, hầm hố của chiến tuyến. Tất cả được tổ chức thành một thứ
công nghiệp của đồi bại và tội ác, ngoài làm mất phẩm giá của nạn
nhân, nhất là nữ giới, còn làm thui chột nhuệ khí của người lính
viễn chinh Mỹ. Như vậy, tác hại đến tiền đồ cuộc chiến của đạo
quân thứ năm này không phải nhỏ.
Một hậu quả khác của việc
Mỹ thanh toán thô bạo chế độ Ngô Đình Diệm là nó làm suy giảm rất
nhiều cảm tình lẫn sự ủng hộ rộng rãi đối với miền Nam Việt Nam
của quốc tế, đặc biệt là Thế giới Thứ ba lúc đó đang chịu ảnh
hưởng không nhỏ của Khối Phi Liên kết. Một thí dụ điển hình về
hậu quả tai hại của lỗi lầm trên của Mỹ đã được tác giả nêu ra ở
trang 89: Ngày 20/11/1963, Thái tử Sihanouk của Căm Bốt tuyên bố
quyết định khước từ mọi viện trợ của HK Kể từ đó, ông ta trở
thành một tiếng nói bài Mỹ hăng hái nhất của Khối Phi Liên kết,
rồi cuối cùng bắt tay với Hà Nội để biến Căm Bốt thành chiếc gai
nhọn đâm vào hông VNCH. Có thể coi đây là món quà HK tặng không
cho Hà Nội.
Về mặt đối nội (của VNCH), việc HK khai tử chế
độ Ngô Đình Diệm đã đẩy miền Nam Việt Nam vào một cơn khủng hoảng
chính trị triền miên với những chính phủ dựng lên rồi đổ ngay sau
đó, khiến VNCH trở thành một con rắn không đầu. Và Washington đã
vội lấy đầu con đại bàng Mỹ gắn vào thân con rắn này để giành
quyền lãnh đạo chiến tranh. Hình ảnh đầu chim mình rắn này minh
họa tính phi lý của chính sách Mỹ. Một chính sách được đề ra bởi
một nhóm người đầu trứng (egghead) thiếu những hiểu biết cơ bản
về Việt Nam (như Robert McNamara đã thú nhận trong quyển hồi ký
mới đây của ông ta) nhưng lại có mặc cảm tự tôn, hống hách, tin
rằng họ có thể giải quyết cuộc chiến Việt Nam theo mô thức Mỹ mà
không cần tham khảo ý kiến của nước chủ nhà (mà họ coi thường).
Hơn nữa, với khuyết tật chủ quan cố hữu, họ còn đánh giá thấp khả
năng và quyết tâm chống trả của CSVN. Một vị Tham mưu Trưởng Lục
quân Hoa Kỳ đã ví địch thủ này như một võ sĩ hạng lông, còn Mỹ là
một võ sĩ siêu nặng. Theo logic của ông ta, cú đấm đầu tiên của
Mỹ chỉ làm nó hơi lung lay, nhưng cú đấm thứ hai sẽ làm nó choáng
váng, và cú đấm thứ ba chắc chắn sẽ đo ván nó. Đại khái sách lược
leo thang chiến tranh từng nấc của Mỹ là như vậy. Thực tế đã chỉ
cho thấy vị tướng này đúng ở điểm một và điểm hai nhưng sai ở
điểm ba: CSVN đã tỏ ra chịu đòn dai hơn như ông ta đã tưởng.
Nhưng nói đúng ra, muốn đo ván nó, Mỹ cần phải bồi tiếp cú đấm
thứ tư nhắm vào cái đầu nó nằm ở Hà Nôi. Một việc mà Mỹ đã không
làm vì thiếu ý chí và lòng dũng cảm. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề
này ở phần sau bài viết.
Ngoài việc không dám như cố Tổng
thống Diệm nói ngược lại người Mỹ, các nhà cầm quyền Việt Nam
thời đó đã tỏ ra không có khả năng và uy tín chính trị lẫn quân
sự để lấp lỗ hổng chính quyền do cái chết của ông Diệm để lại.
Chẳng hạn họ đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng khi quyết định
giải thể Đảng Cần lao Nhân vị của ông Ngô Đình Nhu mà không tạo
lập được một đảng cầm quyền thay thế có cơ sở chính trị và một hệ
thống cán bộ chống cộng hữu hiệu như đảng bị giải thể. Vì vậy,
tác giả đã coi cố Tổng thống Diệm là “một vị lãnh đạo quốc gia
cuối cùng có thế lực nhất của miền Nam Việt Nam và cuộc đảo chính
năm 1963 để trừ khử ông ta và bào đệ Ngô Đình Nhu là một thảm
kịch không chỉ riêng cho miền Nam Việt Nam mà còn cho Hoa Kỳ
nữa.” (trang 90)
Cũng ở trong góc độ trên, tác giả trích dẫn
một câu nói của William Colby, lúc đó đang là Giám đốc Viễn Đông
Sự vụ của Cơ quan Tình báo Trung ương CIA Hoa Kỳ: “Bây giờ mới
thấy là kỳ quặc (incredible) việc chúng ta quyết định trừ khử ông
Diệm mà không cẩn thận xét đến một loại chính quyền nào đó để
thay thế ông ta... Sự rối loạn và hỗn trị (chaos and anarchy)
nhiễm sâu vào cơ cấu chính quyền Việt Nam thời đó và làm nó tan
rã. Theo các cuộc đánh giá, rõ ràng là tình hình xuống dốc rất
nhanh trong năm 1964 và chúng tôi ước tính cộng sản sẽ thắng cuộc
chiến vào năm 1965. Chúng đã bắt đầu di chuyển những đơn vị chiến
đấu của chúng – không chỉ những phần tử thâm nhập - mà còn cả
những binh đoàn tác chiến dọc theo Đường mòn Hồ Chí Minh vào mùa
thu 1964 để xây dựng một lực lượng quân sự nhằm dứt điểm chiến
tranh.” (trang 90)
Mối đe dọa trên của quân đội Bắc Việt
đã là một động cơ thúc đẩy HK phải can thiệp mạnh mẽ hơn và trực
tiếp hơn vào Việt Nam. Theo ông Colby, Tổng thống Johnson vốn là
“một người Texas ngoan cường và cứng rắn nên không thể để cho
thảm họa xảy ra”. Vì vậy, cuộc leo thang quân sự của HK khởi sự
từ thời Kennedy một cách dò chừng và hạn chế (khoảng 20,000
người) nay trở nên dứt khoát và ồ ạt hơn, chạy theo cuộc leo
thang chiến tranh ngày càng mạnh mẽ và quyết tâm của CSVN và cộng
sản quốc tế. Ngày 2/8/1964, Bộ Tư lệnh Thái bình Dương của Hoa Kỳ
báo cáo với Washington là khu trục hạm USS Maddox bị ba hải tốc
đĩnh Bắc Việt tấn công ở hải phận quốc tế thuộc vịnh Bắc Bộ. Hai
ngày sau, ngày 4/8/1964, vào nửa đêm, Washington lại nhận được
báo cáo thứ hai là một hải tốc đĩnh cộng sản vừa tấn công vào hai
khu trục hạm USS maddox và Turner ở cách bờ biển Bắc Việt 55 dặm.
Ngày 5/8/1964, vào lúc 11giờ sáng, để trả đũa, 64 khu trục cơ Hải
quân HK giội bom xuống thành phố Vinh của Bắc Việt, mở đầu cho kế
hoạch hành quân 37- 64 mà cũng là sự tham dự không có tuyên chiến
của HK vào cuộc chiến tranh Việt Nam thứ hai. Hai ngày sau, ngày
7/8/1964, “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ” được Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua
với một đa số kỷ lục (Hạ Nghị viện: 416 – 0, Thương Nghị viện: 88
– 2). (trang 97) Ngày 8/3/1965, hai tiểu đoàn thủy quân Lục chiến
HK đổ bộ lên Đà Nẵng, mở đầu cho sự tham chiến bằng bộ binh của
HK tại Việt Nam. Cho đến hết nhiệm kỳ của Tổng thống Johnson
(ngày 20/1/1969), sự leo thang quân sự của Hoa Kỳ như sau: 82,000
quân cho đến cuối tháng 4/1965; 120,000 quân cho đến cuối tháng
8/1965; 184,000 quân cho đến cuối 1965; 300,000 quân cho đến
tháng 6/1966 và trên 500,000 quân cho đến cuối năm 1967. (trang
103)
Một câu hỏi được đặt ra ở đây là, trước một lực lương
Mỹ đông đảo và hùng hậu như trên, tại sao Bắc Việt có thể gia
tăng áp lực quân sự của chúng tại miền Nam Việt Nam một cách mạnh
mẽ và mau chóng như vậy? Chẳng lẽ do một phép thần thông nào đó
của Hà Nội, đội quân âm binh đó đã bỗng dưng nhô lên từ trong
lòng đất? Theo tác giả, dựa vào sự phân tích của sử gia Mỹ Norman
B. Hannah, nguyên nhân chính của mối đe dọa trên của cộng sản là,
qua việc ký kết Hiệp định Genève 1962 nhằm trung lập hóa nước
Lào, Hoa Kỳ đã bỏ ngõ biên giới Việt-Lào và như vậy đã mặc nhiên
để Hà Nội tự do khai thác và mở mang đường mòn Hồ Chí Minh ngay
trên lãnh thổ Lào thành một hành lang tiếp vận quân bị và nhân
lực quan trọng cho bộ đội miền Nam của chúng. Trong 6 tháng cuối
năm 1964, số quân Bắc Việt xâm nhập lên đến 34,000. Với sự bổ
sung lực lượng này, cộng sản mở một loạt những cuộc tấn công quan
trọng vào các tiền đồn của QLVNCH dọc theo biên giới Cao Nguyên
Trung phần và tại châu thổ sông Cửu Long. Quân du kích Việt cộng
tiến sát tới vòng đai Biệt khu Thủ đô Sài Gòn - Chợ Lớn – Gia
Định và đồng thời mở những cuộc đột kích phá hoại vào các căn cứ
không quân Mỹ ở khắp nước. (trang 98)
Tính đến hết năm
1965, tổng số quân cộng sản tại miền Nam là 120,000, kể cả bốn sư
đoàn chủ lực Bắc Việt, được khối cộng sản quốc tế trang bị những
vũ khí hiện đại và có khả năng chuyển sang vận động chiến. Địa
bàn hoạt động của chúng nay mở rộng trên quy mô toàn quốc, từ
vùng Tây Nguyên Trung phần đến vùng đồng bằng sông Cửu Long, với
những chiến khu được thiết lập tại các tỉnh Biên Hòa, Tây Ninh,
Bình Dương và những mật khu Tam Giác Sắt, Long Nguyên tại Tỉnh
Bình Long và Rừng Sát ở sát Sài Gòn. (trang 104) Tất cả đan kết
thành một trận tuyến da beo, có những đường giao liên chằng chịt
với nhau, và có khả năng đe dọa sự tồn tại của VNCH, lúc đó đang
phải gánh chịu một nhịp độ tổn thất là mỗi tuần mất một tiểu
đoàn. Tuy nhiên, nhờ vào sự tăng cường ồ ạt của QLVNCH lên tới
một triệu quân vào cuối năm 1967 và chiến lược “Lùng và Diệt” của
Đại tướng Mỹ Westmoreland, cuộc tấn công của quân đội cộng sản bị
chặn đứng và những thành phần chủ lực của chúng bị đẩy lui về
những sào huyệt tại Căm Bốt và Lào của chúng.
4 - Mà nói
đến sự hiện diện từ năm này qua năm khác của những sào huyệt ấy
của cộng sản, hay đúng hơn là những thánh địa an toàn, là nói đến
tính cực kỳ phi lý của cuộc chiến tranh Đông Dương thứ hai do Mỹ
tự gây ra cho mình. Trước hết, như đã nói ở trên, việc Mỹ bỏ ngõ
vùng biên giới Việt-Lào kể từ năm 1962 là một thứ hộ chiếu an
toàn (safe conduct) cấp cho Hà Nội để chúng chuyển quân và vũ khí
vào miền Nam Việt Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh nhằm phục vụ mục
tiêu chiến tranh trường kỳ của chúng. Sự kiện này, ngoài giúp cho
chúng rút ngắn thời gian chuyển vận từ sáu tháng xuống còn một
tháng rồi một hai tuần - Đường mòn Hồ Chí Minh vì vậy đã được gọi
là Tốc lộ Sullivan (tên của vị Đại sứ Mỹ tại Lào, một tác giả của
Hiệp định Trung lập hóa Lào) – còn tạo điều kiện cho chúng xây
dựng những hậu cứ để dưỡng quân, bồi đắp những tổn thất rồi từ đó
trở lại đánh phá miền Nam Việt Nam.
Không phải Mỹ không
nhìn thấy hiểm họa này, nhưng chủ quan họ tin là họ có khả năng
hóa giải nó với một chủ trương leo thang quân sự từng nấc, dựa
trên một quan niệm chiến tranh phòng thủ và cục bộ. (trang 91)
Thực tế đã chứng minh ngược lại: Với sự bỏ trống phía Đông Lào
của tuyến tưởng tượng Harriman cho Pathet Lào (xem bản đồ trang
115), với việc tiến hành một cuộc chiến tranh ngầm (tacit war)
bằng cách tung các toán biệt kích vào quấy phá những hậu cứ địch
ở Lào, và với sự không yểm của chiến dịch Sấm Rền (Rolling
Thunder) đã thả xuống Đường mòn Hồ Chí Minh từ năm 1965 đến năm
1968 một khối lượng bom là 643,000 tấn, (trang 106) sách lược
quân sự này của Mỹ đã không ngăn chặn được những làn sóng tiếp
vận của Bắc Việt cho cánh quân miền Nam của chúng.
Lý do
của sự thất bại trên là, dù có dữ dội đến đâu chăng nữa, một
chiến dịch không tập không thể đơn phương giải quyết được chiến
trường, nhất là ở một địa hình rừng núi hiểm trở như vùng Hạ Lào.
Nó cần có sự phối hợp dưới đất của một lực lượng bạn có mặt ở
ngay chiến trường, đủ mạnh để cầm cự những đợt tấn công đầu tiên
của địch, rồi phản kích và truy quét chúng một khi chúng đã bị
không quân bạn gây cho những tổn thất nặng nề. Nói rõ hơn, để
giải tỏa áp lực địch ở miền Nam, lẽ ra Washington đã phải cho
thực hiện kế hoạch của Đại tướng Westmoreland là đánh thẳng vào
đầu của áp lực ấy. Một số điểm chính của kế hoạch này đã được tác
giả trình bày ở những trang 106 và 107: “... Tướng Westmoreland
cho rằng những cuộc ném bom xuống Bắc Việt và Đường mòn Hồ Chí
Minh sẽ không mang đến kết quả khả quan hơn một cuộc phong tỏa
Đường số 9 bằng những lực lượng trên bộ. Ông ta đề nghị Lục quân
Mỹ xâm nhập sâu vào lãnh thổ Lào để cắt đứt huyết lộ tiếp vận cho
cánh quân cộng sản miền Nam Việt Nam của Hà Nội... Kế hoạch của
ông ta là sửa chữa và mở rộng xa lộ quốc tế số 9 từ Quảng Trị ở
phía Bắc VNCH xuyên qua trung bộ của vùng cán chảo Lào đến tận
Savanakhet nằm ở tả ngạn sông Mekong. Ông ta ước tính dùng một
lực lượng tối thiểu là cấp quân đoàn gồm ba sư đoàn để giữ đoạn
đường ấy.Trận tuyến đông-tây của Westmoreland, nếu được
Washington chấp thuận, sẽ nằm thẳng góc với phòng tuyến Harriman
và cắt đứt Đường mòn Hồ Chí Minh ở phần Hạ Lào. Và như vậy cuộc
chiến (chủ yếu) sẽ trở thành một trận thư hùng trên chiến tuyến
đường số 9, và trên thực tế nó sẽ biến thành một cuộc xâm lược
vào nước Lào của cộng sản Bắc Việt.
Kế hoạch Westmoreland
được giới tướng lãnh Mỹ (trong đó có Trung tướng Lewis W. Walt,
lúc đó là Tư lệnh Lực lượng thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ tại Quân
khu I VNCH gồm 73,000 người) đánh giá là hợp lý và khả thi. Nó sẽ
giúp nhổ đi những u ác tính đỏ tại Lào trước khi chúng trở thành
di căn, cắt đứt ống tiếp sinh cho bộ đội miền Nam Việt Nam của Hà
Nội khiến bọn này sẽ héo hon và dễ bị liên quân Việt-Mỹ tiêu diệt
tại chỗ. Và như vậy có khả năng cao là vụ tổng tấn công Tết Mậu
Thân 1968 của cộng sản đã không xảy ra và do đó đã không tạo một
cái cớ cho phong trào phản chiến Mỹ bùng nổ dữ dội và quy mô để
trở thành một nguyên nhân then chốt của sự thất bại chính sách về
Đông Dương của chính quyền Hoa Kỳ.
Xét rộng ra, kế hoạch
Westmoreland (đưa ra vào đầu năm 1966) - nếu cần sẽ được tăng
cường bằng kế hoạch phong tỏa hải cảng Hải Phòng được Đô đốc Tư
lênh Lực lưọng Thái Bình Dương Harry D. Felt đề nghị vào cuối năm
1963 - sẽ bẻ gãy được sách lược chiến tranh trường kỳ vốn là sở
trường của cộng sản nhưng lại là sở đoản của một quốc gia dân chủ
như Mỹ, bởi vì những định chế lâu đời và lòng người dân ở đây
không cho phép chính quyền theo đuổi một cuộc chiến dài lâu như
vậy. Đồng ý là sớm muộn cũng phải có một giải pháp hòa bình cho
cuộc chiến Việt Nam, nhưng nếu được thực thi, Kế hoạch
Westmoreland sẽ giúp cho Hoa Kỳ và VNCH dắt tay nhau bước vào
phòng hội nghị Paris nhất trí hơn, chững chạc hơn, bước vào từ
thế mạnh có được tại chiến trường chứ không phải cung cách đi đêm
lén lút với Lê Đức Thọ của một Kissinger thực dụng đến tráo trở,
vô luân, hấp tấp ký kết một hòa ước bán đứng miền Nam Việt Nam
cho Hà Nội.
Nay, với những tài liệu mật được phổ biến về
sự rạn nứt giữa Liên xô và Trung cộng và về thực lực của CSVN
thời đó, chúng ta thấy cách lý giải trên hợp lý. Cái hợp lý có cơ
sở vững chắc vì xuất phát từ một phân tích đúng đắn thực tiễn
chính trị và tương quan lực lượng lúc đó (1966). Nhưng đầu mối
của bi kịch Việt Nam là những người làm ra chính sách tại
Washington đã không nhìn ra điều hợp lý ấy. Họ là nhóm cố vấn dân
sự thân cận với Tổng thống Mỹ Johnson, những “chuyên gia” có
tiếng nói cuối cùng về Đông Dương nhưng lại có một tầm hiểu biết
rất hạn chế về thực địa này. Họ được giới truyền thông đại chúng
Mỹ gọi là “Nhóm Ăn trưa” (Lunch Bunch), hiểu như nhóm những thực
khách mỗi Thứ ba đến họp với Tổng thống tại Tòa Nhà Trắng để vừa
ăn trưa vừa bàn thảo và đưa ra những quyết định then chốt về cuộc
chiến Đông Dương. Điểm nghịch lý là không có một nhà lãnh đạo
quân sự HK nào, kể cả vị Tướng Tham mưu Trưởng Liên quân hay Tham
mưu Trưởng Quân chủng được mời tham dự những buổi ăn trưa đó.
(trang 92) Về hậu quả của thái độ miệt thị giới quân nhân và
giành lấy độc quyền chỉ đạo cuộc chiến của Nhóm Ăn trưa, sử gia
Mỹ H.R.McMaster viết: “Cuộc chiến thua ngay tại Washington D.C.,
ngay trước khi Mỹ đơn phương tự nhận trách nhiệm tham chiến vào
năm 1965..., trước khi những đơn vị Mỹ đầu tiên được phối trí tại
Việt Nam.” (trang 93)
Nhưng nghĩ cho cùng, nguyên nhân gốc
rễ của cuộc thảm bại là các vị Tổng thống Mỹ kế tiếp nhau kể từ
Tổng thống Kennedy thay vì lựa chọn một phương hướng tấn công
mạnh dạn như Kế hoạch Westmoreland chẳng hạn lại nghe theo những
khuyến cáo về một sách lược chiến tranh phòng thủ cục bộ của
những tham mưu dân sự của họ. Thực chất đây là một lựa chọn chủ
bại dựa trên một giả thuyết sai - nỗi sợ hãi quá đáng – là Trung
cộng sẽ trực tiếp nhảy vào tham chiến nếu chiến tranh mở rộng ra
ngoài biên giới VNCH. Thực tế đã phủ nhận giả thuyết này: Trước
sự leo thang ồ ạt chiến dịch ném bom xuống ngay sát biên giới
Việt-Trung và cuộc phong tỏa hải cảng Hải Phòng năm 1972 của HK,
Trung cộng đã chỉ phản đối lấy lệ chứ không dám mang quân vào
giúp đỡ CSVN. Thứ nữa việc mở rộng chiến tranh trên của Mỹ ra tới
lãnh thổ và lãnh hải Bắc Việt cũng đã không làm cho Trung cộng và
Liên xô ngồi sát lại gần nhau như Nhóm Ăn trưa trước kia đã dự
đoán. lý do của thái độ tự kiềm chế này của Bắc Kinh là vì ưu
tiên hàng đầu của họ lúc đó không phải là cộng sản Việt Nam hay
liên minh với Liên xô mà là hòa hoãn với HK để vừa phát triển
kinh tế vừa chống lại Liên xô.
Ngoài ra còn một lý do khác
tại sao Trung cộng không còn mặn mòi với CSVN như kiểu “môi hở
răng lạnh” trước kia nữa là vì họ đã nhìn ra khuynh hướng thân
Liên Sô của tập đoàn Lê Duẩn – Lê Đức Thọ và ý đồ của bọn này
muốn biến Đông Dương thành một phòng lũy chống Trung cộng của
Liên xô. Đây là một yếu tố quan trọng mà nếu được khai thác linh
động thì có thể giúp HK mở rộng chiến tranh Đông Dương tới mức
tối đa mà không gây ra một cuộc đụng độ trực tiếp với Trung cộng
và vì vậy đã không phải bán rẻ bán đảo này cho CSVN như họ đã
làm.
Có thể có người coi lý giải trên là viễn vông vì họ
cho rằng Mỹ chỉ quan tâm tới lợi ích quốc gia của Mỹ chứ không
thiết tha gì đến sự sống còn của VNCH. Chúng tôi không phủ nhận
tính xác thực hiển nhiên của quan điểm này, nhưng thiết nghĩ cốt
lõi vấn đề không phải ở đó mà là sai lầm HK đã phạm phải vì đã
không hiểu rằng cách tốt nhất để phục vụ lợi ích mình là giúp
VNCH đứng vững cho đến khi đạt được một giải pháp hòa bình cho
cuộc chiến một cách thỏa đáng hơn hòa ước Paris 1973 mà thực chất
chỉ là một sự phủi tay vụng về và phũ phàng, khiến uy tín trước
thế giới của HK bị sứt mẻ rất nhiều, phải đợi đến chiến tranh
vùng Vịnh 1991 mới phục hồi được.
Qua “The Tragedy of the
Vietnam War”, tác giả muốn làm một cuộc khảo sử về một bi kịch
phi lý là chiến tranh Việt Nam của Hoa Kỳ. Cuộc chiến tranh này
phi lý vì nó chủ yếu là một diễn trình nhân quả của những sai lầm
đáng tiếc (tức có thể tránh được) và những cơ hội bị bỏ lỡ mà một
số đã được phân tích ở trên. Chẳng hạn như sai lầm Điện Biên Phủ
1954 với việc hủy bỏ vào giờ chót Kế hoạch Kên Kên; sai lầm trung
lập hóa Lào 1962, khiến HK bị trói tay và không dám cho thực hiện
kế hoạch xẻ ngang Trường Sơn của Westmoreland; sai lầm loại trừ
chính quyền Ngô Đình Diêm mà không tạo dựng được một chính quyền
thay thế hữu hiệu hơn; sai lầm giành độc quyền chỉ đạo chiến
tranh với một quan niệm “đánh không để thắng” hỏng ngay từ căn
bản; và sai lầm không biết khai thác đúng mức và đúng lúc sự rạn
nứt bất khả hàn gắn của khối cộng sản quốc tế, nhất là lúc nội bộ
Trung cộng bị đảo lộn vì cuộc Cách mạng Văn hóa trong thập niên
1960, để giải quyết cuộc chiến Việt Nam có lợi cho mình và đồng
minh.
Hệ quả của chuỗi sai lầm nhân quả trên của Mỹ là sự
bùng nổ của biến cố Tết Mậu Thân 1968 mà nay nhìn lại thì thấy đó
là tiếng gióng đầu tiên của hồi chuông báo tử của VNCH. Vì ý
nghĩa lịch sử của biến cố này mà tác giả đã để dành nguyên chương
9 của sách (trang 115 - 124) để phân tích nguyên nhân và ảnh
hưởng của nó đến tiền đồ cuộc chiến.
5 - Biến cố Tết Mậu
Thân 1968 là do cộng sản khởi xướng trong lúc đã có thỏa thuận
hưu chiến song phương để nhân dân Việt Nam được ăn mừng năm mới
trong hòa bình và được chúng gọi là cuộc “Tổng Công kích và Tổng
Nổi dậy Tết Mậu Thân”. Đây là lý do tại sao chúng đã gây được yếu
tố bất ngờ cho QLVNCH và Quân đội Mỹ ở nhiều nơi trên toàn quốc.
Tuy không tạo được một cuộc tổng nội dậy của nhân dân miền Nam
Việt Nam như chúng đã dự trù, cuộc tổng tấn công quân sự của cộng
sản chứng tỏ chúng đã nắm được thế chủ động mặc dù phải đương đầu
với một lực lượng khổng lồ gồm một triệu quân VNCH và nửa triệu
quân Mỹ và đồng minh. Một nguyên nhân cơ bản của thành tích này
của cộng sản, như đã nói ở trên, là việc Nhóm Ăn trưa của Tòa Nhà
Trắng đã cột buộc đội quân liên minh ấy vào một sách lược chiến
tranh hạn chế và phòng thủ. Còn một nguyên nhân khác nữa: tính
mâu thuẫn tự thân của chủ thuyết “vừa súng vừa bơ” (ám chỉ chương
trình Great Society) của Tổng thống Lyndon Johnson. Mâu thuẫn này
đã khiến Mỹ không dốc toàn lực và toàn tâm được để giải quyết
chóng vánh và thỏa đáng cuộc chiến VN mà ông ta gọi là “cuộc
chiến chó đẻ”.
Về mặt thuần túy quân sự, biến cố Tết Mậu
Thân là một thất bại nặng nề của cộng sản. Trước hết, số tổn thất
chúng phải hứng chịu là 32,000 tử trận và 5000 tù binh, (trang
122) tương đương với quân số của bốn sư đoàn cộng sản. Một tổn
thất mà cho mãi tới bốn năm sau (1972) chúng mới bồi đắp được.
Thứ nữa, dự định chiếm giữ Huế để làm thủ đô cho Chính phủ Cách
mạng Lâm thời miền Nam của chúng không thành hình vì bị liên quân
Việt-Mỹ đánh bật ra khỏi thành phố này sau 24 ngày tạm chiếm nó.
Về thành tích của QLVNCH, tác giả trích dẫn lời tuyên bố của Đại
tướng Westmoreland: “Quân đội miền Nam Việt Nam, cùng với những
thành phần võ trang khác như lực lượng Địa phương quân, Nhân dân
tự vệ và Cảnh sát quốc gia, đã góp công lao lớn nhất để đẩy lui
cuộc tiến công của địch, bởi vì họ phải hứng chịu phần ác liệt
nhất của cuộc tấn công ấy.” (trang 122)
Về lý do tại sao
cộng sản thất bại, tác giả trích dẫn nhận định của Đại tướng
Frederic C. Weyand, một nhân vật có thẩm quyền và uy tín, được
nhiều người kính nể: “Trước hết vì cách tấn công ở khắp nơi và
trong cùng một lúc, họ (quân cộng sản) đã phải phân tán mỏng lực
lượng và (như vậy) đã phải chuốc lấy thất bại ở từng mỗi nơi. Thứ
nữa, và đây là điều quan trọng nhất, họ đã tự tin vào những lời
tuyên truyền của chính mình và nghĩ rằng sẽ có “cuộc tổng nổi dậy
vĩ đại” của nhân dân Việt Nam, lũ lượt chạy sang phía họ. (flock
to their banner) Đồng ý là đã có một cuộc tổng nổi dậy vĩ đại,
nhưng là để chống lại họ thay vì ủng hộ họ. Đại đa số nhân dân
miền Nam Việt Nam không muốn dính dáng gì tới Việt Cộng cả. (Và)
trong suốt quá trình cuộc chiến chưa hề có một cuộc đào ngũ hàng
loạt nào của nhân dân miền Nam. Nhưng có một điều thích thú cần
được ghi nhận là, sau cuộc Tổng Tấn công Tết Mậu Thân, đã có trên
150,000 lính Việt cộng đào ngũ sang phía chúng ta. (trang 124)
Nhưng ý đồ của Hà Nội khi mở cuộc Tổng Tấn công Tết Mậu Thân
1968 chủ yếu không phải để giành chiến thắng quân sự mà để phục
vụ những mục tiêu chính trị và tâm lý như Nghị quyết 14 của Đảng
Lao động (tiền thân của đảng CSVN) chỉ cho thấy. Mục tiêu chính
trị của chúng là nhằm tiến tới bàn hội nghị để thương thuyết về
việc thành lập một “chính phủ trung lập” cho miền Nam Việt Nam
trong đó VNCH phải chia sẻ quyền hành với công cụ Mặt trận Giải
phóng miền Nam của Bắc Việt.
Một lý do khác tại sao cộng
sản đã chọn dịp tết Nguyên Đán 1968 để mở cuộc tấn công là vì,
như Võ Nguyên Giáp đã tuyên bố, đó là thời điểm rất thuận lợi để
Hà Nội khai thác mùa tranh cử tổng thống và phong trào phản chiến
đang bắt đầu nở rộ tại Mỹ. Kết quả là chúng đã thắng lớn trong
mục tiêu này: Biến cố Tết Mậu Thân 1968 đã gây nên một chấn động
tâm lý nơi người dân Mỹ khi họ được chứng kiến trên màn ảnh vô
tuyến truyền hình những cảnh đổ vỡ hoang tàn và chết chóc thê
thảm của cuộc chiến Việt Nam, với những xác lính Việt cộng nằm
ngổn ngang trên đường phố Sài Gòn và ngay trong khuôn viên Tòa
Đại sứ Mỹ trên Đại lộ Thống nhất.
Cuộc tiếp xúc với bộ mặt
thật ghê tởm và buồn thảm của chiến tranh, mà ấn tượng đậm nét
nhất là cảnh những bao xác lính Mỹ (body bags) hiện lên trên màn
ảnh ti-vi, đã làm thay đổi tâm tư người dân Mỹ về chiến tranh, từ
một cảm thức về tính phi lý của nó trở thành ghét nó và chống nó.
Đó là nguyên nhân sâu xa của sự bùng nổ phong trào phản chiến Mỹ
trong năm 1968 với giới thanh niên đại học làm lực lượng xung
kích. Nhưng cuộc phản kháng này không chỉ đơn thuần để chống
chiến tranh mà còn để phủ nhận những giá trị truyền thống nặng
tính thanh giáo của lối sống Mỹ, về xã hội cũng như về tình dục,
như để tóc dài, mặc quần ống loa rách ruới, phụ nữ không đeo nịt
vú hoặc để ngực trần cho con bú nơi công cộng, chủ trương lối
sống “hippy”, tự do luyến ái, “làm tình thay vì tiến hành chiến
tranh”, vân vân và vân vân. Hơn nữa, cuộc phản kháng còn xuất
phát từ một khủng hoảng niềm tin vào giới lãnh đạo chính trị,
thách thức uy quyền chức vị tổng thống và như vậy đe dọa đến thể
chế chính trị Hoa Kỳ.
Với sự hậu thuẫn tích cực của giới
truyền thông đại chúng Mỹ vốn có định kiến với VNCH, phong trào
phản kháng trở thành một thứ đệ tứ quyền có ảnh hưởng quyết định
đến tiền đồ cuộc chiến Việt Nam. Và từ bấy giờ trở đi số phận
VNCH được định đoạt ở trong khuôn viên những trường đại học và
ngoài đường phố những đô thị Mỹ chứ không phải tại chiến trường
Việt Nam. Áp lực quần chúng ngày càng gia tăng, khiến Tổng thống
Johnson phải từ bỏ ý định ra tranh cử nhiệm kỳ thứ hai của mình,
bãi nhiệm Đại tướng Westmoreland, chấp nhận yêu sách mở hòa đàm
tại Paris của Hà Nội và như vậy mở đầu cho sự giải kết khỏi Việt
Nam của Hoa Kỳ.
Nói tóm lại, dựa vào ý kiến của một số sử
gia Mỹ, tác giả kết luận: “... Việc (các nhà lãnh đạo Mỹ) thiếu ý
chí, thiếu một khái niệm về chiến thắng, và việc họ chọn lựa một
chính sách sai lầm về chính trị, đã cuối cùng làm cho nhân dân Mỹ
chống lại cuộc chiến. Trận chiến thực sự mà ông Johnson đã tự
chọn lấy và đã thua là trận chiến chinh phục lòng người dân Mỹ
chứ không phải trận tấn công Tết Mậu Thân tại miền Nam Việt Nam
của cộng sản.” (trang 124)
6 - Phong trào phản chiến Mỹ có
tác dụng của một bàn tay mở nắp chiếc hộp Pandora chứa đầy những
điềm dữ cho cuộc chiến chống cộng tại Đông Dương và cho chính sự
tồn tại của VNCH mà tính chính thống vừa được xác định bởi cuộc
tổng tuyển cử tháng 10/1967, được coi là tự do nhất trong lịch sử
đất nước. Nhưng mối quan tâm hàng đầu của tân Tổng thống Richard
Nixon không phải là tính dân cử hợp hiến của VNCH mà là soạn thảo
một kế hoạch triệt thoái khỏi Việt Nam mà ông gọi là “việc giải
Mỹ hóa tuần tự” (progressive de-Americanization) và tái lập “hòa
bình trong danh dự” cho nước Mỹ.
Nghĩ cho cùng, ông khó mà
làm khác đi được vì hai lý do: Trước hết, ông phải kế thừa một di
sản nặng nề của hai vị tổng thống tiền nhiệm, với một nội tình Mỹ
phân hóa gay gắt sau hai vụ ám sát Thượng Nghị sĩ Robert Kennedy
và nhà đấu tranh nhân quyền Martin Luther King, nên ông chẳng còn
mấy bụng dạ để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ tại Việt Nam;
thứ nữa – đây là một nhân tố quyết định – ông còn phải đối phó
với sự leo thang của một cuộc chiến khác ngay tại nước Mỹ, sự
bùng nổ ngày càng dữ dội và quy mô, chưa từng có trong lịch sử
nước này, của phong trào phản chiến như vừa được nói qua ở trên.
(trang127) Một ảnh hưởng xấu của phong trào này là nó làm dao
động rất nhiều tinh thần chiến đấu của người lính GI Mỹ tại Việt
Nam mà đa số là lính quân dịch và tạo nên một phong trào trốn
tránh nghĩa vụ quân sự, đốt thẻ trưng binh, hoặc nạn đào ngũ hàng
loạt như sau: 250,000 sinh viên trốn đăng ký quân dịch; 1,000,000
công khai chống quân dịch; 25,000 người trong đám này bị kết tội
và 3,000 người bị bỏ tù, và gần 100,000 người khác đào tỵ sang
Mexico, Canada và Thuỵ Điển. (trang 127)
Kế hoạch giải kết
khỏi Việt Nam của Nixon nhắm hai mục tiêu: Một, tăng cường hòa
hoãn với Liên xô (qua việc ký kết Hiệp ước Hạn chế Vũ khí Chiến
lược SALT) và với Trung cộng (qua nỗ lực bình thường hóa quan hệ
ngoại giao với nước này), hy vọng rằng hai quốc gia cộng sản
khổng lồ này sẽ vì thế mà cắt giảm viện trợ cho CSVN của họ,
khiến HK có thể tìm được một giải pháp chấm dứt cuộc chiến Việt
Nam một cách thỏa đáng; hai, đồng bộ với việc làm trên, chuyển
giao trách nhiệm cuộc chiến cho VNCH qua đẩy mạnh chương trình
Việt Nam hóa, song song với việc gia tăng áp lực quân sự lên Bắc
Việt.
Trên thực tế, kế hoạch Nixon thất bại vì dù được hòa
hoãn với HK, Liên xô và Trung cộng vẫn không ngừng tăng viện cho
CSVN và vì chương trình Việt Nam hóa chiến tranh đã bị phá hỏng
ngay từ đầu bởi một chủ trương lệch lạc, để đừng nói là thiếu
thành tâm, của Hoa Kỳ. Sở dĩ chúng tôi nhận định như vậy là vì
với cương vị một thuyết trình viên thường trực và lâu năm của Ủy
ban Liên hợp Việt-Mỹ về hiện đại hóa Không lực VNCH (KLVNCH),
chúng tôi đã hiểu được thực chất của chương trình này.
Trước hết, phía Mỹ nắm quyền quyết định tuyệt đối về nội dung của
chương trình. Chẳng hạn, để đáp ứng yêu cầu của KLVNCH được trang
bị những loại vũ khí hiện đại, thích nghi với chiến tình ngày
càng leo thang từ phía cộng sản, đối tác Mỹ đã chỉ chấp thuận
viện trợ những loại phi cơ cũ kỹ, chậm chạp, khan hiếm cơ phận
thay thế, bảo trì phức tạp, khiến mức khả dụng hành quân bị giảm
sút rất nhiều. Để chứng minh, chúng tôi xin đan cử một vài thí dụ
điển hình. Thay vì yêu cầu được trang bị loại khu trục cơ không
cận yểm (close – air support) A-4 hay A-7, KLVNCH đã chỉ được
cung cấp những loại F-5A, F-5E, A-37 (một huấn luyện cơ hai chỗ,
được một số anh em không quân chúng tôi gọi đùa là máy bay chở bà
xã đi chợ) mà khả năng tác chiến và chở bom đạn thua xa hai loại
A-4 và A-7.
Về không tải, việc hiện đại hóa không kém phần
hài hước. Trên danh nghĩa, KLVNCH được trang bị loại “đại bàng”
C-130, nhưng trên thực tế là loại C-130A già khú đế (sản xuất vào
năm 1954), được vội vã mang ra từ những nghĩa địa không quân, rồi
được phục chế để chuyển giao kịp thời cho KLVNCH. Nghành không
thám cũng chịu chung một số phận hẩm hiu. Nó được mệnh danh là
không thám điện tử - một uyển ngữ nếu nghe từ xa sẽ làm không
quân các nước nghèo thèm nhỏ dãi - hiểu như một cái hộp đen
(black box) điện tử được đặt vào trong bụng một chiếc vận tải cơ
C-47, phế tích của thế chiến thứ hai để lại. Nghịch lý là của
cảnh râu ông cắm cằm bà: Vì tốc độ chậm rì của chiếc máy bay chở
cái hộp nhạy cảm ấy, phi công phải nâng nó lên ở một độ cao an
toàn (trên 10,000 bộ) để tránh bị bắn rơi bởi những nòng cao xạ
ngày một hiện đại và chính xác hơn của cộng sản, nên vì vậy đã
làm giảm sút rất nhiều hiệu năng của chiếc hộp nhìn trộm nghe lén
ấy.
Nay, nếu tính theo phương pháp phân tích phí tổn và
hiệu quả (CEA: Cost and Effectiveness Analysis) thì sẽ thấy tính
phi lý của kế hoạch hiện đại hóa. Giá một chiếc C-47 mua từ nghĩa
địa là 50,000 đô-la (tính theo thời giá 1970), sau khi tân trang
thành EC-47 (C-47 điện tử), tổng phí lên tới 1,200,000 đô-la, gần
bằng giá một phản lực cơ không thám RF-5E. Nếu so với hiệu quả
không thám vừa nêu trên, đây quả là một phí phạm đến mức điên rồ
mà người dân Mỹ đóng thuế phải chịu. Về nghành khu trục, giá một
chiếc A-4 Skyhawk được tân trang tại Singapore là 300,000 đô-la
trong khi giá một F-5E là 1,600,000 đô-la; mà như vừa nêu trên,
loại sau tuy bay nhanh hơn nhưng không thể so sánh với loại trên
về không cận yểm. Còn về mặt nghênh cản trên không (air
interdiction), tốc độ của F-5E là 1.6 Mach trong khi tốc độ của
MIG-21D của Bắc Việt là 2.4 Mach. Sự chênh lệch lớn về tốc độ này
cho thấy ưu thế trên không thuộc về bên nào.
Tình hình
hiện đại hóa của hai binh chủng Lục quân và Hải quân cũng không
khả quan hơn. Chúng tôi xin đan cử một vài thí dụ điển hình. Mãi
đến năm 1969 Bộ binh VNCH mới được trang bị loại súng trường M16
trong khi bộ đội Bắc Việt đã sử dụng loại AK47 hiện đại từ nhiều
năm trước đó. Loại chiến xa M48 chỉ được Mỹ chuyển giao cho Thiết
giáp VNCH vào cuối năm 1972 nhưng lại bị tháo gỡ bộ phận tác xạ
bằng radar, khiến xạ thủ xe tăng Việt Nam phải bắn bằng mắt trần!
Về phía Hải quân VNCH, trận liệt đa số gồm những phế tích của thế
chiến thứ hai, cổ lỗ. chậm chạp, khó thao tác và bảo trì, kể cả
bốn khu trục hạm loại Clark được coi như mũi xung kích trên đại
dương của Hải quân VNCH. Hậu quả là chúng ta đã thua Hải quân
Trung cộng trong trận hải chiến chung quanh đảo Hoàng Sa ngày
19/1/1974 chỉ vì Mỹ đã không muốn trang bị cho chiến hạm của
chúng ta một khả năng pháo chiến thích hợp và dẫn dắt phi cơ bằng
radar - yếu tố này rất quan trọng - để đánh chìm các chiến hạm
địch.
Người ta sẽ thắc mắc hỏi tại sao lại có những chuyện
phi lý như trên. Lý do là vì Mỹ thiếu thành tâm và vì theo truyền
thống chính sách quân viện miễn phí cho các nước đồng minh nghèo
của mình, Mỹ không muốn các nước này có một quân đội đủ mạnh để
tự bảo vệ lấy và như vậy sẽ có khuynh hướng độc lập đối với Mỹ.
Để chứng minh tính phi lý của chính sách quân viện này cho VNCH,
chúng tôi xin đan cử một thí dụ điển hình, vụ vận tải cơ C-130A.
Lầu Năm Góc đã giao nhiệm vụ tân trang loại phi cơ cũ kỹ này (32
chiếc được chuyển giao cho KLVNCH) cho một hãng thầu dân sự Mỹ
đảm nhận. Đối với hãng này, mục tiêu chính là đạt lợi nhuận tối
đa hơn là bảo đảm phẩm chất chương trình. Một số không ít những
chuyên viên họ gửi sang Việt Nam để giúp KLVNCH bảo trì loại phi
cơ ấy là những thợ điện gia dụng, thợ hàn, thợ sửa ống nước, thợ
sửa xe hơi, được tuyển từ ngoài dân sự. Vì vậy, điều tréo cẳng
ngỗng xảy ra là các ông huấn luyện viên Mỹ đã phải nhờ các “học
trò” KLVNCH chỉ dẫn về kỹ thuật bảo trì phi cơ!
Nói tóm
lại, chính sách Việt Nam hóa chiến tranh khó mà thành công với
một chương trình hiện đại hóa QLVNCH khập khiễng như trên. Ngoài
ra, do việc rút ngắn thời gian thực hiện từ bốn năm xuống còn hai
năm rưỡi vì áp lực của phong trào phản chiến Mỹ đòi phải rút quân
ngay về nước và áp lực của quốc hội Hoa Kỳ hối thúc phải ký một
hòa ước với Hà Nội càng sớm càng tốt, chương trình hiện đại hóa
QLVNCH bị dồn nén đến mức trở thành cấp tập và bôi bác – làm cho
xong chuyện để sớm về nước, rồi “quên Nam” (forget Vietnam) và
đeo đuổi tiếp “giấc mơ Mỹ”.
Hậu quả là, vào lúc chương
trình Enhance plus chấm dứt (đầu 1973), QLVNCH bị đặt trước một
thực trạng là quân đội Bắc Việt mạnh hơn QLVNCH cả về nhân lực
lẫn hỏa lực. Trận liệt CSVN cuối năm 1972 gồm 20 sư đoàn bộ binh,
được tùng trợ bởi 20 trung đoàn pháo (6 sư đoàn tương đương);
trong tổng số này, 10 sư đoàn được gửi vào Nam để “hiệp đồng” tác
chiến với 5 sư đoàn Việt Cộng. (trang 132) Vũ khí xử dụng hiện
đại và đa dạng gồm AK47; cối 60ly và 82ly; pháo 75ly, 122ly,
130ly và 152ly; cao xạ 12.7ly, 37ly, hỏa tiễn phòng không SAM 3,
AT 3 và SA 7; tăng T 54, PT 76 và BRT 85. (trang 162)
Trước một lực lượng địch hùng hậu như trên, trận liệt phía đồng
minh cho đến cuối tháng 6/1972 gồm 9 sư đoàn Mỹ (7 Bộ binh +2
thủy quân Lục chiến), khoảng 4 sư đoàn Đại Hàn, Úc, Tân Tây Lan,
và 14 sư đoàn tương đương VNCH (10 Bộ binh + 1 thủy quân Lục
chiến + 1 Dù + 4 Liên đoàn Biệt động quân). Tổng cộng là 27 sư
đoàn, như vậy tương đương với lực lượng tác chiến của CSVN. Nhưng
kể từ tháng 6/1972 trở đi, sau sự ra đi của 13 sư đoàn Mỹ và đồng
minh, cán cân lực lượng đổi thành 14 sư đoàn VNCH chống 26 sư
đoàn CSVN.
Chính sự chênh lệch lực lượng lớn lao này, cộng
với sự cắt giảm quân viện đột ngột và ồ ạt của Mỹ cho VNCH, mới
là nhân tố quyết định của cuộc chiến chứ không phải những cái Hà
Nội rêu rao như tình yêu nước, yêu đảng cao độ của nhân dân, sức
mạnh của ý hệ Mác – Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh, tính đúng đắn của
chiến tranh cách mạng nhân dân, vân vân và vân vân. Bởi vì nói gì
thì nói, số phận cuộc chiến Việt Nam trên thực tế chủ yếu đã được
định đoạt bằng bạo lực thô tháp và trần trụi của súng ống chứ
không phải bằng sức mạnh của thứ vũ khí mềm trên mà Hà Nội đã
huyênh hoang tuyên truyền và đã thuyết phục được một số không ít
người nước ngoài.
Nói cách khác, VNCH thua vì HK đã không
thực tâm giúp QLVNCH hiện đại hóa để có khả năng đối đầu với một
địch thủ được cộng sản quốc tế vũ trang đến tận răng. Thực chất
Việt Nam hóa chiến tranh chỉ là một cái cớ để HK rút ra khỏi ngục
lửa và giao củ khoai nóng (hot potato: vấn đề nan giải) lại cho
người bạn đồng minh bé nhỏ và lâu đời của mình để bạn ta tự xoay
xở lấy. Việt Nam hóa chiến tranh, đối với Kissinger, chỉ là một
màn phụ diễn (sideshow) để Nixon thực hiện cái dự án toàn cầu vĩ
đại của ông ta. Việt Nam hóa chiến tranh chỉ là một thao tác của
tên phù thủy để đổi mầu chiến tranh bằng đổi mầu xác chết.
Về cung cách làm ăn của cặp bài trùng Nixon – Kissinger, tác
giả trích dẫn Michael Maclear, một sử gia Mỹ: “Đó là một Cặp Kỳ
dị, “ưa” giấu giếm những quan điểm, chính sách đường lối của họ
(an Odd Couple with their secretive policy ideas and methods),
khiến không ai rõ đâu là đầu mối, động cơ chủ yếu của những việc
làm liên quan đến Việt Nam của họ”. (trang 134) Riêng về
Kissinger, nhân vật chủ chốt gây ra thảm họa Việt Nam và là một
người có cá tính tự mâu thuẫn với chính mình, tác giả trích dẫn
nhận xét của Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Adam Yarmolinsky:
“(quan điểm của Kissinger) xuất phát từ một nỗi sợ hoang tưởng
(paranoid fear) về phản ứng của cánh hữu Mỹ trước việc rút lui
(khỏi Việt Nam)...và ông ta không sẵn sàng chấp nhận cái ông coi
là một rủi ro nghiêm trọng cho người Mỹ. Song ông ta lại sẵn sàng
hy sinh tính mạng hàng vạn người Mỹ và hàng chục vạn người Việt
Nam để ngăn chặn cái ông thấy đang có nguy cơ trở thành một tai
họa”. (trang 134)
Và thảm họa tập thể đã bắt nguồn từ sự
mâu thuẫn nội tại ấy của một cá nhân. Như trong một bi kịch cổ
điển Hi Lạp. Song với một tiểu dị khủng khiếp: 5 triệu thương
vong Việt (cả Bắc lẫn Nam); ngót 1 triệu thuyền nhân nịch tử trên
đường vượt thoát tìm tự do; hai triệu Khờ Me hiến tế cho giấc mơ
cuồng vĩ của Pol Pot; trên 58,000 trận vong Mỹ, 150,000 thương
binh Mỹ, và một hội chứng Việt Nam hằn in tâm thức. Và trong
triệu triệu vãng sinh ấy, đã mấy ai được mạc mặt, cầu siêu và
khâm liệm? Riêng về phía CSVN, cái chết của hàng trăm ngàn chiến
binh “sinh Bắc tử Nam” đã không được chính quyền Hà Nội thông báo
cho thân nhân họ. Đây là một mảnh chìm hút thẳm của cái cộng sản
gọi là “một cuộc chiến tranh thần thánh”, chỗ ở vô định của những
oan hồn vô danh, những bóng ma u uẩn của một bi kịch khốc tàn và
bội bạc.
7 - Nixon tái đắc cử tổng thống nhiệm kỳ thứ hai
(1969-1973) với một đa số lớn lao (60.7%). Một nguyên nhân của sự
thắng lợi vẻ vang này của ông ta là trong lúc tranh cử ông có hứa
với nhân dân Mỹ là sẽ chấm dứt cuộc chiến Việt Nam và mang quân
lính Mỹ trở về nước trong một tương lai không xa. Nhưng với một
cuộc chiến cực kỳ phức tạp như cuộc chiến Việt Nam, thực hiện
được điều ông hứa không phải dễ dàng. Đối với ông, điều quan yếu
là phải làm như thế nào để có được cái ông gọi là “hòa bình trong
danh dự” (cho nước Mỹ). Và ông đặt “việc bảo vệ uy tín quốc gia”
lên hàng ưu tiên số một (as the foremost priority) để giải quyết
chiến tranh. (trang 128)
Vốn là một người đầy mưu trí, đảm
lược, tự tin và rất lì, lại được hiến kế bởi một Kissinger quỷ
quyệt và tháo vát, Nixon không muốn để những áp lực bên ngoài chi
phối chính sách và đường lối giải kết khỏi Việt Nam của mình. Ông
chủ trương leo thang và mở rộng địa bàn chiến tranh tới mức tối
đa để ép Hà Nội phải nhượng bộ tối đa ở bàn hội nghị. Chẳng hạn
trong khoảng từ tháng 4/1969 đến cuối năm 1972, ông đã ra lệnh
cho Không lực Hoa Kỳ ném bom xuống Bắc Việt Nam, Lào và Căm Bốt
một khối lượng bom là 635,000 tấn, tức tương đương với khối lượng
bom của Chiến dịch Sấm Rền từ 1965 đến 1968. Ngoài ra, ông còn dự
tính cho sử dụng bom nguyên tử nếu Hà Nội ngoan cố. Trên mặt
biển, ngày 8/5/1972, ông cho lệnh Hạm đội 7 Mỹ phong tỏa hải cảng
Hải Phòng bằng thủy lôi để ngăn chặn tầu bè Liên xô đến tiếp viện
cho quân Bắc Việt được ước lượng là 65% tổng số quân viện cho
CSVN của toàn khối cộng sản quốc tế. (trang 166) Điều mà Nhóm Ăn
trưa của Tổng thống Johnson trưóc kia đã lo sợ một cuộc phong tỏa
như vậy sẽ làm bùng nổ thế chiến thứ ba đã không xảy ra.
Với những nước cờ táo bạo trên, cùng với việc mở rộng chiến
trường sang Cam Bốt với cuộc hành quân Toàn Thắng tháng 4/1970
của liên quân Việt-Mỹ và sang Lào với cuộc hành quân Lam Sơn 719
đầu năm 1971 của QLVNCH, và với việc đẩy mạnh Chiến dịch Phượng
Hoàng để tiêu diệt hạ tầng cơ sở tại miền Nam Việt Nam của cộng
sản, có thể nói Nixon là vị tổng thống Mỹ diều hâu nhất kể từ sau
thế chiến thứ hai. Song đây cũng là một nguyên nhân chủ yếu của
sự phá sản sự nghiệp chính trị của ông, bởi vì ông đã không lường
trước được mức độ phản ứng quyết liệt của phong trào phản chiến
HK và của một Quốc hội HK cũng không kém quyết liệt trong đường
lối chống chiến tranh của họ.
Bi kịch Việt Nam trở thành
bi kịch của chính Nixon. Điều trớ trêu là, sau khi được nhân dân
bầu lại với đa số phiếu lớn lao, ông lại bị chính nhân dân phủ
nhận phũ phàng với những cuộc biểu tình tuần hành phản chiến có
hàng trăm ngàn người tham dự, thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội,
giương cao những biểu ngữ gọi ông là “tên đồ tể khát máu”, là
“con heo”. Đây là một mạ lị công khai chưa từng có trong lịch sử
nước Mỹ đối với một vị tổng thống đương quyền: chất độc thải ra
từ cuộc chiến Việt Nam đã nhiễm sâu vào và làm phân rã cơ cấu xã
hội Mỹ.
Tất nhiên CSVN không thể không lợi dụng tình trạng
nước đục ấy để thả câu: chúng thấy rằng đã đến lúc phải đẩy mạnh
kế hoạch thôn tính miền Nam Việt Nam của chúng. Trước hết, để đối
phó với cuộc leo thang chiến tranh không quân tại miền Bắc của
Nixon, Hà Nội cho tăng cường tối đa mạng lưới phòng không gồm
2,000 hỏa tiễn SAM đủ loại, trên 4,000 pháo cao xạ nòng lớn và
200 chiến đấu cơ MIG. (trang 165) Đồng bộ với việc làm này, Hà
Nội đẩy mạnh mức độ xâm lăng và tấn công vào liên quân Việt-Mỹ ở
miền Nam của những sư đoàn Bắc Việt thiện chiến. Ở cao điểm chiến
dịch mùa hè đỏ lửa 1972, chủ lực quân cộng sản tại miền Nam gồm
14 sư đoàn được phân phối như sau: 7 sư tại Quân khu I VNCH;
(trang 143) 3 sư tại Quân khu II VNCH; 4 sư tại Quân khu III
VNCH, gồm 2 Bắc Việt và 2 Việt cộng; (trang 143 - 148) chưa kể 26
trung đoàn biệt lập và chuyên môn tương đương với 6 sư đoàn.
Theo tác giả, cuộc chiến trong giai đoạn Xuân 1969 – Hè 1972
là cuộc đấu trí với hai ngộ nhận giữa Washington và Hà Nội. Nixon
cho rằng sự gia tăng tối đa áp lực quân sự của ông sẽ làm CSVN
chùn bước và phải tìm một giải pháp chính trị cho cuộc chiến.
(trang 135) Nhưng ông đã tính lầm vì quyết tâm của giới lãnh đạo
già nua tại Hà Nội rất mạnh và vì sự tổn thất của Bắc Việt đã
được nhanh chóng bồi đắp bởi mức độ quân viện ồ ạt của khối cộng
sản quốc tế, kể từ năm1970 trở đi là 3.5 tỷ đô-la mỗi năm của
Liên xô và 1 tỷ đô-la mỗi năm của Trung cộng. (trang 131) Ngược
lại, Hà Nội cũng hiểu lầm Nixon vì chúng tin rằng, với sự chống
đối chiến tranh ngày càng mạnh mẽ của nhân dân và Quốc hội Hoa
Kỳ, Nixon sẽ chỉ có những phản ứng lấy lệ trước cuộc leo thang
chiến tranh của chúng. Thêm vào đó, Hà Nội coi việc giảm quân số
Mỹ tại Việt Nam một cách nhanh chóng và ồ ạt của Nixon (25,000
trong tháng 7/1969; 60,000 trong tháng 1/1970; 150,000 bắt đầu từ
tháng 5/1970, và 9 sư đoàn kể từ tháng 6/1972) là một dấu hiệu
nhụt chí của Nixon.
Việc Hà Nội hiểu lầm quyết tâm của
Nixon (nổi tiếng là một tay chơi xì phé lão luyện ở ngoài đời) đã
làm chúng phải trả một giá rất đắt về quân sự. Chỉ riêng trong
chiến dịch Xuân 1972, mức tổn thất của quân Bắc Việt được ước
tính như sau: 60% quân số bị loại ra khỏi vòng chiến, 80% quân
khí, kể cả tăng, pháo cơ động, cao xa và hỏa tiễn bị hủy diệt.
(trang 161) Nhưng cũng như trong trận tổng tấn công Tết Mậu Thân
1968, cộng sản lần này thua về quân sự nhưng thắng về tâm lý:
cuộc leo thang chiến tranh của chúng đã châm ngòi cho phong trào
phản chiến ngoài đường phố và trong khuôn viên Quốc hội HK bùng
nổ trở lại, đòi “hòa bình tức khắc”, khiến Nixon và Kissinger
chẳng còn mấy bụng dạ để giằng co với cộng sản ở bàn hội nghị và
kiên định trong lập trường “đặt việc bảo vệ uy tín quốc gia lên
trên hết” của họ. Cũng như Johnson trước kia, Nixon không thua
trận chiến với cộng sản nhưng thua trận chiến với nhân dân Mỹ.
Hậu quả là sự ra đời vội vã và bôi bác, trong máu và nước mắt,
của đứa con trí tuệ của Kissinger: “Thỏa ước về Chấm dứt Chiến
tranh và Lập lại Hòa bình tại Việt Nam”, được ký kết tại Paris
ngày 20/1/1973.
Trước khi xét đến nội dung của bản thỏa
ước trên, tưởng cũng nên nói đến tiến trình nhân quả của một số
sự kiện then chốt đã thúc sinh ra nó. Khởi sự là quyết định leo
thang chiến tranh của Nixon để ép Hà Nội phải nhượng bộ ở bàn hội
nghị. Quyết định này được bí mật tiến hành vào ngày 18/3/1969 với
Chiến dịch Điểm tâm của Không lực Hoa Kỳ, sử dụng 48 phi xuất
B-52 dội bom xuống 15 căn cứ của quân Bắc Việt rải dọc từ
Tchepone Lào xuống đến vùng Mỏ Vẹt Nam Việt Nam; (trang 131) đồng
thời Nixon cũng ra lệnh cho phục hoạt Chiến dịch Biệt kích Hunt
để đánh phá Đường mòn Hồ Chí Minh. Nhưng sự hiện hữu của chiến
dịch không tập bí mật trên bị phát giác bởi bài báo đăng trên tờ
New York Times ngày 9/5/1969, tạo một cái cớ cho phong trào phản
chiến Mỹ bùng trở lại. Chỉ nội trong tháng 5 này đã có 450 trường
đại học đã đóng cửa để phản đối Nixon. Rồi các cuộc biểu tình
chống chiến tranh liên tiếp xảy ra ở nhiều nơi mà cao điểm là
cuộc biểu tình tuần hành vào ngày 16/11/1969 của 250,000 người
tại Washington, D.C. Ngoài ra còn phải kể đến một sự kiện chống
đối quan trọng khác: sự phổ biến trên báo chí những tài liệu bí
mật của Lầu Năm Góc (Pentagon Papers) vào ngày 3/6/1971, do sự
trở cờ của viên chức quốc phòng Daniel Ellsburg. Sự phát giác
những động cơ tăm tối và bất hợp pháp của những quyết định về
chiến tranh của nhà cầm quyền Mỹ này có tác dụng tức thời là đổ
thêm dầu vào ngọn lửa phản chiến.
Trước một tình trạng xã
hội sục sôi như vậy, Quốc hội HK không thể ngoảnh mặt làm ngơ.
Tiểu ban Tư pháp Hạ Nghị viện mở cuộc điều tra về Chiến dịch Thực
đơn giội bom xuống Căm Bốt của Không lực Hoa Kỳ mà họ cho là vi
phạm qui chế trung lập của quốc gia này. Cuối cùng họ đưa ra
khuyến nghị “buộc tội, xét xử, truất phế” Tổng thống Nixon vì ông
đã “vi phạm hiến quyền khai chiến của Quốc hội” bằng cách đưa ra
“những lời tuyên bố dối trá về sự hiện hữu, tầm mức và bản chất
của chiến dịch giội bom xuống Căm Bốt trên”. (trang 133) Hệ quả
của khuyến nghị này là, dù không được Quốc hội chấp thuận, nó lại
là đầu mối của việc Quốc hội thông qua nghị quyết hủy bỏ Nghị
quyết Vịnh Bắc Bộ 7/8/1964. Đây là một quyết định không những
tước đi cái cớ để HK gây chiến với Bắc Việt, một casus belli, mà
còn phủ nhận chính cơ sở pháp lý của cuộc chiến của Nixon, và đây
là một điềm dữ cho VNCH.
Về phía QLVNCH, giai đoạn 1970 –
1972 được đánh dấu bởi hai sự kiện quan trọng: cuộc hành quân
Toàn Thắng Xuân 1970, nhằm tiêu diệt các hậu cứ CSVN tại Căm Bốt;
Chiến dịch Lam Sơn Xuân 1971 để cắt ngang đường mòn Hồ Chí Minh
tại Hạ Lào; cuộc quyết thủ 66 ngày tại An Lôc (bắt đầu từ ngày
13/4/1972); và cuộc tái chiếm Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa năm
1972.
Với kinh nghiệm nóng hổi của một người lính đã tham
gia hơn một chiến dịch (ông đã cùng với đồng đội quyết thủ tại An
Lộc) và với kỹ năng tinh thông của một sĩ quan quân báo lâu đời,
tác giả đã cống hiến cho người đọc một cuộc giải trình chuyên
sâu, tỉ mỉ, hào hứng về những trận đánh quan trọng trên của
QLVNCH. (toàn chương 11) Trước hết ông phân tích cái sai lầm tai
hại của Bộ Tham mưu Việt-Mỹ là đã tung vào “hang cọp” Hạ Lào
17,000 quân thiện chiến của QLVNCH để đọ sức với ít nhất ba sư
đoàn tinh nhuệ Bắc Việt đang phục chờ trên những điểm cao ở đó.
Chỉ riêng sự chênh lệch lớn lao về quân số hai bên này đã nói lên
tính phi lý của quyết định trên. Tác giả tự hỏi: “làm sao một lực
lượng 17,000 quân VNCH có thể thực hiện nhiệm vụ chết người ấy mà
lẽ ra phải được thực hiện bởi 60,000 quân Mỹ như Đại tưóng
Westmoreland đã dự trù.” (trang 133) Đây là thất bại đầu tiên của
chương trình Việt Nam hóa chiến tranh của Hoa Kỳ. Tuy nhiên,
ngoài sự sai sót trên, QLVNCH đã tỏ ra có một khả năng chiến đấu
kiên cường trong ba trận đánh tại Căm Bốt, An Lộc và Quảng Trị.
Riêng trận đánh Căm Bốt đã được các chuyên gia quân sự đánh giá
là một thần tốc chiến xuất sắc. Bí kíp của những chiến công này
là áp dụng mô thức phối hợp nhuần nhuyễn giữa hỏa lực dưới đất
của QLVNCH và hỏa lực trên không mà phần lớn do Không lực Hoa Kỳ
cung cấp. Tác giả nhận định: “Trong chiến dịch tấn công của cộng
sản, quân sĩ VNCH đã tỏ ra dũng cảm và thiện chiến. Lẽ ra chương
trình Việt Nam hóa đã thành công nếu như HK vẫn tiếp tục yểm trợ
mạnh mẽ QLVNCH bằng không lực và hỏa lực của họ. Hơn nữa, lẽ ra
QLVNCH đã phải được tăng cường ít nhất là 4 hay 5 sư đoàn để thay
thế 11 sư đoàn và những đại đơn vị Đồng minh vừa rút ra khỏi Việt
Nam. Lẽ ra sự tăng cường có tính quyết định này cho QLVNCH đã
phải được thực hiện trước khi có một giải pháp chính trị để bảo
tồn chế độ VNCH. (trang 162 – 163)
Ôi hỡi! Đối với
Kissinger, VNCH chỉ là một “màn phụ diễn” trong mưu đồ toàn cầu
vĩ đại của Nixon mà ông ta là đồng tác giả. Nhưng điều tác giả
muốn nhấn mạnh ở đây là tính phi lý của cuộc chiến Việt Nam của
Mỹ. Chẳng hạn hòa ước Paris của Kissinger đã không phản ánh đúng
thực tiễn chiến trường Việt Nam. Trong cuộc tổng tấn công Xuân Hè
1972 của chúng, mà mục tiêu chính là chiếm và giữ một thị trấn,
Bình Long hay Tây Ninh, để làm thủ đô cho Chính phủ Cách mạng Lâm
thời Miền Nam Việt Nam do Hà Nội vội vã dựng lên để hậu thuẫn cho
những yêu sách chính trị của mình tại bàn hội nghị, cộng sản đã
thua về quân sự nhưng lại thắng về ngoại giao. Trong cuộc đấu trí
giằng co, kỳ kèo, nhiều lúc trở nên hài hước và dị hợm. Lê đức
Thọ đã hạ đối thủ Kissinger của hắn.
8 - “Thỏa ước về Chấm
dứt Chiến tranh và Lập lại Hòa bình tại Việt Nam” (Agreement on
Ending the War and Restoring Peace in Vietnam) được ký kết tại
Paris ngày 20/1/1973 bởi 12 quốc gia và trước sự hiện diện của
Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc. Hiệp định quốc tế này gồm 23 điều,
được chia thành 9 chương, và một nghị định thư gồm 9 điều.
Theo nhận định của các nhà phân tích, điều quan trọng nhất là
điều 2 về thể thức ngưng bắn tại Việt Nam kể từ nửa đêm (giờ GMT)
ngày 27/1/1973 và về việc Mỹ cam kết “chấm dứt mọi hoạt động quân
sự dưới đất, trên không cũng như ngoài biển, kể cả việc thả mìn
xuống lãnh hải, các quân cảng, dân cảng và thủy lộ của Bắc Việt
Nam.” (trang 173) Một cam kết như vậy, theo tác giả, hàm ý Mỹ tự
nhận mình là kẻ xâm lược ở Việt Nam.
Ngoài ra còn một
nghịch lý nữa là điều 7, cấm VNCH nhận quân viện từ bên ngoài và
chỉ được thay thế theo định kỳ các quân dụng hư hỏng của mình
trên căn bản một đổi một, nhưng lại không bắt Bắc Việt phải tuân
thủ những ràng buộc này. Ấy là chưa kể đến việc Kissinger rút lại
vào giờ chót yêu sách của ông đòi Hà Nội phải rút hết khỏi miền
Nam Việt Nam 180,000 quân Bắc Việt. Đây là một nhượng bộ có tính
đầu hàng, đe dọa trực tiếp đến tiền đồ của VNCH và là một nghịch
lý vì theo điều 5, Mỹ phải rút toàn bộ toàn bộ lực lượng của mình
ra khỏi miền Nam Việt Nam trong vòng 60 ngày, kể cả cố vấn quân
sự, chuyên viên kỹ thuật quân sự, vũ khí, quân bị và nhân viên
quân sự liên hệ đến chương trình bình định, trong khi Bắc Việt
lại được quyền duy trì toàn bộ guồng máy chiến tranh tại miền Nam
Việt Nam của chúng.
Những nghịch lý như trên - không thiếu
gì - của bản thỏa ước Paris chỉ là bề nổi của một thâm ý bán đứng
miền Nam Việt Nam cho cộng sản của Nixon và Kissinger. Để hậu
thuẫn cho nhận định này của mình, tác giả trích dẫn lời tuyên bố
ngày 20/1/1973 của Nixon mà ông cho là đã định đoạt trước số phận
VNCH: “...Đã qua rồi cái thời mà Hoa Kỳ tự nhận là của mình cuộc
chiến tranh của một quốc gia khác, hoặc chịu trách nhiệm về tương
lai của họ, hoặc cho là mình phải chỉ dẫn họ phải điều hành ra
sao công việc nội bộ của họ.” (trang 172)
Tưởng cũng nên
nêu thêm một chi tiết khác về cá tính của Nixon, vốn nổi tiếng là
một chính khách nham hiểm. Tác giả trích lời của Winston Lord,
một phụ tá đắc lực của Kissinger tại hòa đàm Paris, liên quan đến
lý do tại sao Nixon đã cho tiến hành chiến dịch Linebacker 2 (Hậu
vệ 2) giội bom xuống Bắc Việt trong suốt 11 ngày liền kể từ ngày
18/12/1972: “Tổng thống cảm thấy cần phải chứng tỏ ông ta không
là một kẻ để thiên hạ coi thường (triffle with), hay phải nói
thẳng ra là ông ta muốn tỏ ra cứng rắn với ông Thiệu – và đây mới
là lý do căn bản (rationale) của chiến dịch ném bom trên.” Thứ
cứng rắn mà theo người ta nhận xét có thể trở thành thô bạo, kiểu
Kissinger, đối với bản thân ông Thiệu, nếu ông này không biết
điều hoặc gây trở ngại cho việc ký kết sắp tới của thỏa ước “hòa
bình trong danh dự” hiểu theo ngữ nghĩa nixonian. Và phải chăng
đây là lý do sâu kín tại sao ông Thiệu đã bật khóc trước
Kissinger tại Dinh Độc Lập? Và phải chăng ông ta khóc vì lo cho
sự an toàn của chính bản thân mình?
Riêng về cung cách
hành sử của Kissinger, một môn đệ của trường phái ngoại giao thực
dụng Metternich, tác giả trích dẫn lời của sử gia Maclear: “Hiển
nhiên, một người thông minh như Kissinger đã phải hiểu rằng (hòa
ước ấy) chỉ là một thứ cao dán cấp thời (band – aid) trước khi
xảy ra trong một thời gian ngắn sự sụp đổ mà ông ta đã biết rõ
trước của cái công trình chúng ta để lại.” (trang 175) Đây cũng
là một cách nói uyển ngữ, nói giảm, nói ý, để khỏi nói thẳng
Kissinger là một người vô liêm sỉ. Vô liêm sỉ đến độ, dù đã biết
rõ như vậy, ông ta vẫn đến Stockholm để hoan hỉ nhận lĩnh giải
thưởng Nobel Hòa bình năm 1973 trong khi đối thủ Lê Đức Thọ của
ông đã khước từ giải này vì hắn coi hòa ước Paris chỉ là một mớ
giấy lộn mà Hà Nội sớm muộn sẽ xé bỏ.
Để kết thúc chương
12 của sách, được ông đặt tên là “Sự phủi tay”, tác giả đưa ra ý
kiến: “Mối quan tâm của giới lãnh đạo Mỹ là sự xâm lược vào các
nước khác trong vùng Đông Nam Á của Trung cộng chứ không phải sự
xâm chiếm miền Nam Việt Nam của cộng sản Bắc Việt. Thiết lập được
quan hệ ngoại giao với Trung cộng sẽ tạm thời kìm hãm được khát
vọng nhuộm đỏ toàn vùng của nước này, nhưng việc sử dụng một nước
Việt Nam thống nhất như một thành trì thường xuyên ngăn chặn sự
xâm lăng xuống hướng Nam của Trung cộng mới là ý đồ sâu kín của
chính quyền Nixon.” (trang 177) Và, để thực hiện ý đồ này, theo
tác giả, Nixon sẽ sẵn sàng, và đã thực sự, giao nộp toàn bộ nước
Việt Nam cho cộng sản Bắc Việt thống trị. Đây là khổ nhục kế còn
trong vòng giả thuyết vì cho tới nay chưa có một tài liệu phổ
biến nào xác định sự hiện hữu của nó. Nhưng nếu đó là sự thực thì
Nixon quả là một chính khách quá nham hiểm và lắt léo.
Riêng chủ quan chúng tôi nghĩ, nếu như Mỹ đã quyết tâm duy trì
cái công thức đã được chứng nghiệm có hiệu quả tại các chiến
trường Quảng Trị, Mỏ Vẹt, Móc Câu, An Lộc 72 là “Quân Lực VNCH +
hỏa lực B-52 Mỹ” hoặc công thức cải tiến “16 sư đoàn QLVNCH (thay
vì 12 sư đoàn như đang có) + hiện đại hóa QLVNCH + hỏa lực B-52
Mỹ. Mỹ đã có thể ung dung rút ra khỏi Việt Nam mà không bị mang
tiếng tắc trách, phủi tay, kiểu đem con bỏ chợ đối với VNCH. Hai
công thức trên, chúng tôi nghĩ, không phải là khó thực hiện đối
với Mỹ về quân sự cững như chính trị nội bộ, nhưng trên thực tế
Mỹ đã không làm như vậy. Và đây là một nghịch lý cơ bản nữa của
cuộc chiến Việt Nam của Mỹ, một cuộc chiến của những cơ hội bị bỏ
lỡ. Và chúng tôi mạnh mẽ tin tưởng không có sự mâu thuẫn giữa đạo
lý và chiến tranh hay giữa sự khôn ngoan và bạo lực. Bởi vì cuộc
chiến Việt Nam của VNCH và của HK là để bảo vệ tư do của một dân
tộc nên nó là một cuộc chiến có chính nghĩa và bạo lực nó sử dụng
là chính đáng.
Tình hình biến chuyển nhanh chóng trong 6
tháng đầu của năm 1973. Mỹ hoàn toàn rút quân theo đúng thời hạn
(ngày 29/3/1973) và chỉ để lại miền Nam Việt Nam một nhân số gồm
8,500 chuyên viên kỹ thuật dân sự, một ít nhân viên Tòa Đại Sứ,
50 quân nhân thuộc Phòng tùy viên Quốc phòng (Defense Attaché
Office, DAO) và một số ít thuộc phái đoàn Mỹ tại Toán Quân sự
Liên hợp Bốn bên (Four – Party Joint Military Team, FPJMT). Cho
đến ngày 29/3/1973, số tù binh Mỹ được Bắc Việt trao trả là 587;
còn tổng số người Mỹ mất tích lúc lâm chiến (Missing in Action,
MIA) là 1913.
Ngày 14/6/1973 Quốc hội Hoa Kỳ thông qua tu
chính án Case – Church ngăn cấm “việc sử dụng mọi tài khoản đã có
hoặc sẽ có vào những hoạt động chiến tranh tại bất cứ nơi nào ở
Đông Dương nếu không được Quốc hội đặc biệt cho phép.” (trang
178) Đây là một quyết định nhằm hạn chế tối đa quyền lực của Tổng
Thống Nixon và như vậy đe dọa đến tính khả thi của môt lời hứa
viết tay với ông Thiệu của ông ta là Hoa Kỳ sẽ trả đũa mãnh liệt
nếu như cộng sản vi phạm nghiêm trọng hòa ước Paris. Trước một
địch thủ thất thế như vậy mà Bắc Việt vẫn án binh bất động vì ba
lý do: một, chúng sợ chạm nọc Nixon, vốn nổi tiếng là người có
bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm và dễ nổi giận sẽ không để cho chúng
muốn làm gì thì làm mà không bị trừng phạt đích đáng; hai, chúng
chưa hết choáng váng bởi hệ quả của trận đòn Hậu vệ 2; và ba,
chúng cần có thời gian để bồi đắp những tổn thất nặng nề mà liên
quân Việt-Mỹ đã gây cho chúng trong chiến dịch Xuân – Hè 1972 vừa
qua. Thành thử trong suốt thời gian từ tháng 3/1973 đến tháng
8/1974 (Nixon từ chức vào ngày 10/8/1974), Bắc Việt chỉ tung ra
một số trận đánh dò dẫm, lớn nhất là cấp trung đoàn, tại một số
địa điểm hẻo lánh của vùng Tây Nguyên Việt Nam.
Các nhà
lãnh đạo cộng sản ở Hà Nội hẳn lòng như mở cờ khi nghe tin Tổng
thống Nixon phải từ chức vào ngày 10/8/1974 vì nếu không làm như
vậy, ông sẽ có nguy cơ bị Quốc hội HK kết tội và truất phế do hậu
quả của vụ tai tiếng Watergate mà ông là người chủ mưu. Chính
sách be bờ cộng sản quốc tế của Tổng thống kế nhiệm Gerald R.
Ford chuyển trọng tâm vào những vùng khác trên thế giới hơn là
Đông Dương. Bắc Việt coi đây như một chỉ dấu Mỹ cho phép chúng
tiếp tục bành trướng xuống hướng Nam trong chừng mực Mỹ có thể
chấp nhận được. Vì vậy, chúng áp dụng chiến lược dò dẫm từng bước
một, kiểu tằm ăn rỗi, ở những nơi chúng nắm ưu thế hầu như tuyệt
đối và Mỹ không còn quan tâm đến nữa. Đó là Lào và Căm Bốt.
Tại Lào, chiến tranh thật ra vẫn tiếp diễn kể từ ngay sau khi
thỏa ước ngừng bắn lần đầu được ký kết vào tháng 1/1973 giữa lực
lượng hoàng gia của Tướng Phoumi Nosovan và liên quân Bắc Việt –
Pathet Lào. Tình hình ngày càng xấu đi, khiến hai bên phải ký kết
bản thỏa ước ngưng chiến thứ hai vào ngày 14/9/1973. Đây cũng chỉ
là một mớ giấy lộn bị Bắc Việt xé bỏ ngay sau khi nó ra đời, với
việc chúng tiếp tục gia tăng áp lực quân sự và lập thêm những
“thánh địa” rải dọc Đường mòn Hồ Chí Minh, nay được mở mang giữa
thanh thiên bạch nhật mà không còn bị không quân và biệt kích Mỹ
đánh phá nữa.
Tại Căm Bốt, tình hình cũng không khả quan
hơn. Được sự yểm trợ hùng hậu của những đại đơn vị Bắc Việt, quân
Khờ Me Đỏ mở hàng loạt những trận tấn công vào quân đội của Tổng
thống Lon Nol khiến ông ta phải ban bố tình trạng khẩn cấp kể từ
ngày 17/3/1973. Chỉ một tháng sau, thủ đô Nam Vang bị vây hãm.
(trang 197) Địa bàn hoạt động của quân Bắc Việt không chỉ đơn
thuần giới hạn vào vùng biên địa phía đông của Căm Bốt mà còn mở
sâu vào nội địa nước này: trên thực tế, quân Bắc Việt đã trở
thành quân đội chiếm đóng, và đây là một sự vi phạm trắng trợn và
nghiêm trọng đến qui chế trung lập của Căm Bốt mà không có một
lời phản đối nào của phe phản chiến Mỹ như họ đã làm trước kia
với Chiến dịch Thực đơn của Tổng thống Nixon mà họ cho là một
cuộc “chiến tranh diệt chủng”.
Tại VNCH, hy vọng của Tổng
thống Thiệu vào sự tái can thiệp mạnh mẽ của HK hầu như tan thành
mây khói với sự từ nhiệm của Nixon và việc tân Tổng thống Ford đề
cử Kissinger làm Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ. Đây là một điều dữ
cho VNCH vì theo lời tiết lộ của ông Thiệu, “Kissinger tin tưởng
chỉ sáu tháng sau ngày ký hòa ước Paris, VNCH sẽ sụp đổ và Mỹ cần
phải bỏ rơi miền Nam Việt Nam càng sớm càng tốt, như cắt bỏ một
cái u đã làm cho Mỹ đau đớn”. (trang 179)
Một bằng chứng
khác về sự phủi tay của Mỹ là cuốn băng ghi âm buổi mạn đàm tại
Tòa Nhà Trắng vào một ngày tháng 8/1972 giữa Nixon và Kissinger.
Trong cuốn băng này, được Trung tâm Nghiên cứu Những Vấn đề Quốc
gia thuộc trường Đại học Virginia kích âm (voice activated), chép
lại và phổ biến vào ngày 8/8/2004, Nixon nói: “Bất luận thế nào,
rất có thể miền Nam Việt Nam sẽ không sống sót được... Năm nay là
năm cực kỳ quan trọng, song chúng ta có thể có một chính sách đối
ngoại đứng vững được không (viable) khi Bắc Việt đã nuốt chửng
miền Nam Việt Nam trong vòng một hay hai năm kể từ đây?...”
Kissiger đáp: “Vậy chúng ta phải tìm ra một công thức nào đó để
giữ cho sự việc trên đừng đổ vỡ trong một hay hai năm nữa; rồi
sau đó, thưa Tổng thống, Việt Nam sẽ trở thành một nơi khỉ ho cò
gáy (backwater) chẳng còn ai muốn quan tâm đến nữa nếu chúng ta
giải quyết nó (cuộc chiến) vào tháng 10 này chẳng hạn”. Như vậy,
theo cách tính của Kissinger, VNCH sẻ sụp đổ vào cuối năm 1974.
Còn theo ước tính của Nixon, vì khởi điểm của khoảng cách thỏa
đáng (decent interval) là đầu năm 1973, VNCH sẽ sụp đổ vào đầu
năm 1975. Vào thời điểm này Nixon đã ở một cự ly an toàn để khỏi
mang tiếng là bỏ rơi VNCH, và nếu nước này có thua trận (như ông
ta đã dự đoán) thì đó là lỗi của họ chứ không phải của Hoa Kỳ.
Ông ta không muốn bị lịch sử phê phán là vị tổng thống thua trận
đầu tiên của nước Mỹ.
9 - Ta có thể đo lường được sự phủi
tay của Mỹ qua mức giảm sút quân viện của họ cho VNCH. Tác giả
trích dẫn lời Trung tướng John Murry, cựu tùy viên Quốc phòng,
DAO tại Sài Gòn: “Quan tâm hàng đầu của tôi (lúc đó) là vấn đề
tiếp vận và giám sát việc sử dụng cấp khoản quân viện một tỷ
đô-la của Chương trình Trợ giúp Việt Nam của Bộ Quốc phòng. Nhưng
việc Quốc hội Hoa Kỳ chỉ chấp thuận 700,000 triệu đô-la trên một
tỷ đô-la ấy chứng tỏ việc Mỹ yểm trợ cho người bạn đồng minh Nam
Việt Nam của mình đang trên đà tàn lụi. (trang 179 – 180) Thật
ra, con số 700,000 triệu đô-la cuối cùng cũng lại bị Thượng Nghị
viện Mỹ rút xuống còn 500,000 triệu đô-la. (tài khóa Quốc phòng
Mỹ năm 1975 bắt đầu từ tháng 7/1975). (trang 182)
Còn một
nhân chứng quan trọng khác về sự chuyển hướng chính sách quân
viện của HK, đó là cựu Đại sứ Graham Martin, được coi như là
“niềm hy vọng cuối cùng” của VNCH. Ngoài việc tiết lộ ông ta đã
gửi về cho Kissinger nhiều công điện nhắc nhở với một giọng điệu
gay gắt (a bit tart) về tính nghiêm trọng của tình hình và khuyên
Kissinger đừng phụ lòng tin của VNCH và phải bảo vệ danh dự của
nước Mỹ, Đại sứ Martin còn cho biết cuộc chiến tranh Trung Đông
năm 1973 là một tai họa cho miền Nam Việt Nam vì HK phải chuyển
phần lớn quân viện của mình sang cho Israel và như vậy phải xếp
VNCH xuống hạng ưu tiên thấp. Vậy mức ưu tiên thấp này là bao
nhiêu? Cựu Tổng thống Thiệu tiết lộ: “Viện trợ kinh tế bị cắt,
viện trợ quân sự bị cắt, và chúng ta không còn phương tiện để
chiến đấu. Tiềm lực của chúng ta bị giảm 60%.” (trang 180) Kể từ
năm 1974 trở đi, theo cách nói nôm na của ông Thiệu, “VNCH phải
đánh giặc theo kiểu con nhà nghèo.”
Trong lúc VNCH bị lâm
cảnh túng thiếu thì Bắc Việt trong hai năm 1973 và 1974 đã nhận
được của Liên xô và Trung cộng một số quân viện là 8 tỷ đô-la. (6
tỷ của Liên Xô và 2 tỷ của Trung cộng) Nhờ vào số quân viện khổng
lồ này và với việc thực thi kế hoạch tổng động viên các nam nữ
thanh niên từ 16 tuổi trở lên, quân đội CSVN trở thành quân đội
quy ước đứng hạng tư trên thế giới về quân số, trang bị và kinh
nghiệm tác chiến. Khoảng 60% quân số và quân bị của quân đội này
được phối trí tại Lào, Căm Bốt và Nam Việt Nam. Theo ước tính của
giới tình báo VNCH và Hoa Kỳ kể từ đầu năm 1973 đến tháng 3/1975,
Hà Nội điều động vào miền Nam Việt Nam khoảng 250,000 quân và
1,349,000 tấn quân bị, thiết bị và đạn dược. Còn theo ước tính
của Đại tá hồi hưu Mỹ Eugene H. Grayson, jr., quân số Bắc Việt ở
trong lãnh thổ và dọc theo biên giới VNCH cho đến cuối năm 1974
là 550,000 người. Một điểm cần được lưu ý nữa là 70% lực lượng
chính qui Việt Cộng (cộng sản miền Nam) là quân Bắc Việt, và như
vậy Hà Nội đã trắng trợn và nghiêm trọng vi phạm điều 7 của hòa
ước Paris. (trang 181)
Nhưng ôi hỡi! Chẳng còn Dick ngồi ở
Tòa Nhà Trắng nữa để ra lệnh trả đũa, như đã mật hứa với ông
Thiệu, với sức mạnh long trời lở đất - thứ ngôn ngữ B-52 mà quân
thù kính nể - của một chiến dịch Hậu vệ 3. Và con cọp giấy Mỹ
đang từ một bức hí họa mua vui bước ra và trở thành một hiện thực
lố bịch. Và cơn bão đỏ nay được thả buông, sấn tới từ phía chân
trời u ám, dưới sự giám sát bất lực của một Ủy hội Quốc tế và
giữa tiếng kêu lẻ loi của một VNCH đang bị dồn vào thế đường
cùng.
10 - So với nhịp độ leo thang từng nấc của Mỹ trong
sáu năm đầu (1961-1966) của cuộc chiến, sự tụt thang của họ kể từ
năm 1973 trở đi đã xảy ra dồn dập và tăng tốc đến chóng mặt.
Những sự kiện của sự tụt thang nhanh chóng này, như việc ép VNCH
ký “đầu hàng thư” Paris ngày 27/1/1973, việc quốc hội Hoa Kỳ
thông qua tu chính án Case – Church ngày 14/6/1973 để trói tay
Nixon, việc cắt giảm phũ phàng quân viện cho VNCH kể từ ngày
1/7/1973 trở đi... tất cả đều là những chỉ dấu của “Hội chứng Bỏ
rơi” (Abandonment Syndrome) (trang 182) đã thâm nhập vào tâm thức
mọi tầng lớp Mỹ, cả giới trí thức thượng lưu lẫn chính khách,
tướng lãnh và viên chức cao cấp của chính quyền.
Cộng sản
hẳn rõ điều trên và cho rằng cờ đã đến tay để phất. Chúng ra quân
tại Thượng Đức và Đại Lộc nằm ở phía tây nam Đà Nẵng vào đầu tuần
tháng 8/1974. Với một lực lượng cấp quân đoàn gồm Sư 304, Sư 324,
1 trung đoàn pháo và 1 trung đoàn tăng. Mục đích của chúng là
khống chế Quốc lộ 14 bằng cách chiếm lấy hai quận lỵ trên và
giang cảng Hội An để cô lập Quân khu I của VNCH. Sau hơn ba tháng
quần thảo với cộng sản, lực lượng VNCH gồm Sư đoàn Dù, hai trung
đoàn của Sư đoàn 3 Bộ binh và một Liên đoàn Biệt đông quân đã bẻ
gãy được kế hoạch trên của địch. Đây là một chiến thắng vẻ vang
của QLVNCH dù họ đã phải tự chiến đấu trong một hoàn cảnh eo hẹp
về đạn dược, quân bị và không có sự yểm trợ của Không lực HK nữa.
Nhưng điều mỉa mai là HK làm như không biết đến thành tích này
của QLVNCH và không có một phản ứng thích ứng chính thức nào
trước sự vi phạm trắng trợn và nghiêm trọng hòa ước Paris của Bắc
Việt.
Được thể làm tới, cộng sản mở cuộc tấn công thứ hai
tại tỉnh Phước Long vào ngày 12/12/1974. Lần này chúng huy động
một lực lượng hùng hậu hơn, gồm Sư 3 và Sư 7 của Quân đoàn 301, 1
trung đoàn pháo, 1 trung đoàn phòng không (rất hữu hiệu), 1 trung
đoàn tăng và một số đơn vị công binh và quân địa phương. Sau khi
chiếm được tất cả những tiền đồn chung quanh tỉnh lỵ Phước Bình
(cách Sài Gòn 100km về hướng bắc), chúng tập trung một lực lượng
20,000 quân để tấn công vào tỉnh lỵ này, được phòng thủ bởi 3,600
quân VNCH. Sự chênh lệch lớn lao về cán cân lực lượng này cùng
với việc QLVNCH không còn quân trừ bị để tiếp viện là hai nhân tố
dẫn đến sự thất thủ của Phước Bình sau bốn tuần chống trả anh
dũng của quân phòng thủ.
Trước sự vi phạm trầm trọng hòa
ước Paris như vậy của CSVN, xảy ra ngay cửa ngõ của Thủ đô Sài
Gòn, phản ứng của phía Hoa Kỳ là như thế nào? Một sư đoàn thủy
quân Lục chiến Mỹ ở Okinawa được đặt trong tình trạng báo động và
hàng không mẫu hạm USS Enterprise cùng với một lực lượng đặc
nhiệm trên đó được lệnh rời khỏi Philippines và tiến gần đến hải
phận Việt Nam. (trang 184) Mục đích của cuộc điều quân này là để
làm gì? Là để hậu thuẫn cho lời tuyên bố xanh rờn của Bộ trưởng
Quốc phòng Hoa Kỳ James Schlesinger: sự vi phạm trên của quân Bắc
Việt chưa phải là “một cuộc tổng tấn công” (an all-out
offensive)! Còn phản ứng của Tổng thống Ford chỉ giới hạn vào
trong khuôn khổ một vài văn thư ngoại giao không hơn không kém.
Bắc Việt hẳn lòng như mở cờ và coi đó như một thứ đèn xanh Mỹ
bật lên cho phép chúng thôn tính toàn Miền Nam Việt Nam. Đồng
thời, qua chuyến công du Hà Nội của Thứ trưởng Quốc phòng Viktor
Kulikov của Liên xô, nước này cũng hối thúc Bắc Việt làm như vậy
để trả đũa lại việc Quốc hội Hoa Kỳ vừa từ chối ban cho Liên xô
qui chế tối ưu huệ quốc về mậu dịch. Nếu quả thật tình như vậy
thì Mỹ lại bỏ lỡ thêm một cơ hội nữa để giải quyết thỏa đáng cuộc
chiến Việt Nam. Hiểu như nếu họ đã thỏa mãn yêu cầu trên của Liên
xô thì nước này đã không bật đèn xanh cho Bắc Việt mở những cuộc
tấn công trong nửa cuối năm 1974 và quý đầu năm 1975 chăng? Sở dĩ
thắc mắc này được nêu ra vì bản chất cuộc chiến Việt Nam của HK
chứa hơn một điều phi lý. Mà chỉ có một cuộc chiến phi lý như vậy
mới có thể đẻ ra những thứ liên minh mặc thị và quái gở ấy của
Hoa Kỳ với kẻ thù Liên xô để xóa bỏ một tiền đồn chống cộng quan
trọng và lâu đời của Thế giới Tự do mà HK đã dày công góp phần
xây dựng.
Năm ngày sau chiến thắng Phước Long, ngày
19/12/1975, Bộ chính Trị Đảng Lao động (tiền thân của Đảng CSVN)
thông qua nghị quyết phát động một cuộc tổng tấn công để dứt điểm
cuộc chiến đã kéo dài trên 20 năm kể từ năm 1954. Trước quyết
định quan trọng như vậy của CSVN. Đại tá Mỹ Harry G. Summers,
Jr., đã nhận định về khả năng can thiệp của Mỹ như sau: “Sau khi
đã rút khỏi miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ khó có thể quay trở lại, và
bất cứ một can thiệp nào của Hoa Kỳ cũng không cứu nổi Sài Gòn
khỏi sụp đổ.” (trang 185) Một lý do của nhận định bi quan này,
theo chúng tôi, là sự có mặt tại miền Nam Việt Nam vào cuối tháng
2/1974 của một lực lượng Bắc Việt rất hùng hậu, gồm 17 sư đoàn bộ
binh, 500 xe tăng (tương đương vói 3 sư đoàn), 500 khẩu pháo
(tương đương với 4 sư đoàn) và 200 súng phòng không đủ cỡ, kể cả
hỏa tiễn địa-không SAM. Ấy là chưa kể đến 40,000 quân Bắc Việt
đang hiệp đồng tác chiến với Khờ Me Đỏ tại Căm Bốt và 50,000 quân
Bắc Việt đang có mặt tại Lào để giúp Pathet Lào lật đổ chính
quyền hoàng gia ở đó.
Với lực lượng hùng hậu như vậy, và
sau khi chiếm được Phước Long mà không thấy Mỹ có phản ứng gì,
cộng sản tung ra trận đánh Tây Nguyên vào ngày 4/3/1975. Chúng
chiếm được đoạn đường Mang Yang – An Khê của quốc lộ 19 nối liền
Kontum và Pleiku với tỉnh Bình Định. Ngày 6/3/1975, chúng cắt đứt
quốc lộ 14 nối liền Pleiku với Ban Mê Thuột, và quốc lộ 21 nối
liền Ban Mê Thuột với vùng duyên hải, và như vậy chúng đã cô lập
được cả vùng Tây Nguyên. Ngày 10/3/1975, hai Sư đoàn 316 và 320
cùng với một số lớn xe tăng và pháo của Bắc Việt mở trận tấn công
vào Ban Mê Thuột, được phòng thủ bởi 4,000 quân VNCH. Tương quan
lực lượng tại chiến trường này giữa quân Bắc Việt và quân VNCH là
5.5 trên 1 về quân số, 2.5 trên 1 về chiến xa và 5 trên 1 về
pháo. Vì vậy việc Ban Mê Thuột rơi vào tay địch ngày 11/3/1975 là
một điều khó có thể tránh được. (trang 188)
Có thể coi sự
thất thủ Ban Mê Thuột như tiếng gióng đầu của hồi chuông báo tử
VNCH giữa sự biệt vô âm tín của một Washington im ắng đến lạ
lùng. Và quyết mệnh lịch sử muốn rằng thế nhân dù sáng suốt đến
mấy đôi khi cũng phạm phải những sai lầm ngớ ngẩn đến chết người.
Chẳng hạn như quyết định đưa ra vào giờ chót của ông Thiệu bắt vị
Tư lệnh Quân đoàn II phải rút toàn bộ quân sĩ dưới quyền ông ra
khỏi vùng Tây Nguyên mà không cho ông ta có đủ thời gian để chuẩn
bị và không xét đến tính khả thi của lệnh ban. Trên thực tế,
Thiếu tướng Phú đã chỉ có 48 tiếng đồng hồ để lập kế hoạch triệt
thoái khổng lồ này. (trang 193)
Quyết định trên của ông
Thiệu thật là ngớ ngẩn, thách thức mọi quy luật điều binh vì hai
lý do đơn giản là không có đường an toàn để triệt thoái và vì
Không lực VNCH không có khả năng vận chuyển một sớm một chiều cả
một quân đoàn khổng lồ gồm 55,000 quân sĩ nên bắt buộc phải dùng
đường bộ để rút lui; nhưng vì con đường 14 nối liền Pleiku với
Ban Mê Thuột đã bị cắt đứt nên phải dùng đường số 7 nối liền
Pleiku với Phú Bổn và Tuy Hòa. Nhưng khốn nỗi vì phải xuyên qua
một địa hình hiểm trở và vì bị bỏ hoang lâu ngày, với lại hai Sư
đoàn 10 và 320 của địch đang gờm sẵn, thoái lộ 7 đích thực là một
tử lộ. Không chỉ riêng đối với người lính chiến Quân đoàn II mà
còn đối với cả những thường dân và thê tróc tử phọc đi theo họ
(khoảng 450,000 người).
Con số khổng lồ này nói lên một
thực trạng tâm lý Việt Nam có từ ngàn đời, đó là tình cảm đại gia
đình sống chết với nhau ở trong bất cứ một tình huống nào, hiểu
nôm na ở đây là “chàng đi đâu, thiếp thì theo đó”. Nếu đây là một
điểm son trong việc củng cố hạnh phúc gia đình trong thời bình,
nó lại là một vật cản tinh thần khó vượt nổi cho những cuộc điều
binh trong chiến tranh. Hơn nữa, cái mà các nhà tâm lý học gọi là
“Hội chứng Gia đình” này (trang191) lại bị tăng kích bởi một nỗi
hoảng sợ bị cộng sản trả thù – hình ảnh nấm mồ tập thể tại Huế
năm 1968 chưa phai nét trong tâm tư người dân Nam Việt Nam - cả
hai hòa nhập vào nhau làm nên một phức cảm mãnh liệt, nổ bung,
hóa cuộc rút quân thành một cuộc di tản lếch thếch thê nhi, lanh
canh soong chảo, lê đi giữa những tiếng khóc trẻ em xen lẫn tiếng
kêu của mẹ chúng, một thứ hỗn mang chu chéo não nùng, kỳ dị, tác
động mạnh đến tinh thần chiến đấu của người lính kiêm chủ gia
đình VNCH.
Rồi hàng ngàn chiếc quân xa, thiết vận xa, xe
đò chở khách bị dồn cục trên suốt một đoạn đuờng dài 8km trước
một chiếc cầu rêu phong, gãy đổ, nằm ở cửa ngõ phía tây thị xã
Hậu Bổn. Rồi hàng chục ngàn họng súng cộng sản gườm sẵn trên
những điểm cao hai bên đường xối xả nhả đạn xuống mục tiêu là nửa
triệu sinh linh mắc nạn, không phân biệt quân dân, nam nữ, già
trẻ, biến đoàn xe thành một “công-voa của máu và nước mắt.”
(trang 195) Bản kết toán nấm mồ tập thể Đường số 7 như sau: 75%
của 45,000 quân rút lui bị tử trận hay mất tích; 60% của 450,000
thường dân di tản bị sát hại. Số tổn thất bên lề (collateral
damage) lớn lao này nói lên tính căm thù khát máu và mù quáng của
quân cộng sản Bắc Việt.
11 - Một nghi vấn được đặt ra là
tại sao một tướng lãnh dày dạn kinh nghiệm chiến trường như ông
Thiệu lại phạm phải một lỗi lầm sơ đẳng về binh pháp như trên.
Phải chăng khi ra lệnh cuộc triệt thoái khỏi vùng Tây Nguyên, ông
ta đã có một lý do khác ngoài lý do quân sự, lý do chính trị
chẳng hạn? Theo tác giả, có một dư luận cho rằng lý do Ông Thiệu
đưa ra quyết định chết người trên là để trả thù việc Mỹ phản bội
VNCH. Vẫn theo dư luận ấy, “ông ta biết thừa nếu bị Mỹ bỏ rơi,
miền Nam Việt Nam chắc chắn sẽ thua trận. Vậy ông ta không muốn
để Mỹ rút ra mà không bị vạ lây. Cách “ăn miếng trả miếng” của
ông ta rất là đơn giản: nếu Mỹ muốn giao miền Nam Việt Nam cho
cộng sản, ông ta sẽ đẩy quá trình này nhanh hơn người ta dự
tưởng.” (trang 193) Trên thưc tế, ông ta đã làm điều này với cung
cách “không ăn thì đạp đổ” của một đứa con hờn giỗi vì bị cha mẹ
ruồng rẫy. Luận cứ này không phải không có cơ sở nếu ta xét đến
phản ứng phẫn nộ, để khỏi nói là ghét cay ghét đắng, trước việc
Mỹ phủi tay mà ông ta biểu lộ trong buổi loan tin ông ta từ chức
trên Vô tuyến Truyền hình đêm 21/4/1975.
Có một dư luận
khác cho rằng việc QLVNCH bỏ Tây Nguyên (và sau đó là quân khu I)
một cách một cách hấp tấp và cẩu thả như vậy là do ý đồ của Trung
tướng Đặng Văn Quang, Cố vấn An ninh Quốc gia của Tổng thống
Thiệu. Theo dư luận này, Tướng Quang nhận chỉ thị của một giới
chức Mỹ là phải hối thúc ông Thiệu đẩy nhanh tiến trình triệt
thoái QLVNCH ra khỏi Quân khu I và Quân khu II; (trang 193) và
nếu họ làm được điều này thì HK sẽ bảo đảm cho bộ ba Thiệu –
Khiêm – Quang và gia đình họ một đời sống an toàn và sung túc tại
nước ngoài.
Sở dĩ những tin như trên được nêu lên ở đây là
vì cuộc chiến Việt Nam, lần đầu và lần thứ hai, có một nét đặc
thù là, ngoài là một cuộc chạm súng nảy lửa ngoài mặt trận, nó
còn là một cuộc chiến của những tin đồn được phóng đi từ những
nguồn gốc mờ ám, vô danh, rồi tràn lan ra mọi nẻo, trên hè phố
những đô thị, đặc biệt là đường Catinat, sau đổi tên thành đường
Tự do dưới thời VNCH. Tại những tụ điểm đông người ở đây, trong
những vũ trường, quán rượu, các quân sư, ký giả, chính khách,
chuyên gia “đấm bóp thời cuộc” được thả giàn tung tin, bàn tán về
đủ mọi vấn đề, từ chiến tình Quảng Trị đến chính tình Dinh Độc
lập và Tòa Đại sứ HK hay Pháp, kể cả hối xuất đồng đô-la hay đồng
phật lăng, vân vân và vân vân. Điều lý thú là một số tin đồn này
ngay sau đó được phát thanh trên đài BBC của Anh Quốc, không
những phản ánh đúng tình hình ngoài mặt trận mà còn tiên đoán khá
chính sác về tương lai cuộc chiến và sự tồn vong của miền Nam
Việt Nam.
Như tình hình những ngày tháng cuối cùng của
cuộc chiến chỉ cho thấy, những tin đồn trên đã làm lung lạc rất
nhiều tinh thần của quân dân VNCH và tạo nên cái khí hậu hoảng
loạn tại Sài Gòn trong tuần lễ chót của tháng 4/1975. Một nguyên
nhân tính chính xác của những tin đồn ấy là cả địch lẫn bạn đã
gài được vào những cơ quan đầu não của chính quyền quốc gia những
“mắt thấy tai nghe” của họ. Nhưng với tiến bộ vượt bực của kỹ
thuật nghe lén nhìn trộm, cuộc chiến Việt Nam thứ hai là sự nhân
lên gấp bội của cuộc chiến Việt Nam lần đầu như đã được mô tả
trong cuốn “Người Mỹ Thầm lặng” của Graham Green về mặt mưu phản
lắt léo của những điệp viên nhị trùng, tam trùng, với những hư
chiêu, đòn nguội, thủ tiêu chìm, phủ liệm dưới màn đêm của những
bí sử có lẽ không bao giờ được phát giác: ai có thể làm cho xác
chết nói lên được.
Trường hợp VNCH cho thấy quy luật “họa
vô đơn chí” không chỉ áp dụng riêng cho phận người mà còn cho cả
vận nước nữa. Trong lúc quân dân miền Nam còn đang bàng hoàng vì
cú sốc Tây Nguyên thì chín ngày sau, ngày 24/3/1975, ông Thiệu
lại ra lệnh rút quân ra khỏi Huế và Quảng Trị mặc dù có sự phản
đối của Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn I. Giống như hiệu ứng
domino, nhưng với một tốc độ nhanh đến chóng mặt, phản ứng dây
chuyền xảy ra tức thời. Cùng trong ngày này, Sư đoàn 2 Bộ binh
VNCH rút ra khỏi Quảng Tín và Quảng Ngãi; ngày 25/3/1975, Chu Lai
rơi vào tay địch; ngày 27/3/1075, tuyến phòng thủ phía tây và tây
nam Đà Nẵng bị bỏ trống và Tòa Lãnh sự HK di tản khỏi nơi đây;
trong cùng ngày ấy, cộng sản bắt đầu nã pháo vào thành phố và phi
trường Đà Nẵng; ba ngày sau, Đà Nẵng thất thủ. Như vậy chỉ trong
chưa đầy hai tuần cộng sản đã chiếm được năm tỉnh của Quân khu I
mà không mất một phần nhỏ nhoi nào của quân lực của chúng. (trang
198)
Một nguyên nhân của sư sụp đổ toàn diện này là hội
chứng bầu đoàn thê tử nói trên, lại bị tăng kích bởi “hội chứng
bị bỏ rơi” khi nghe Tòa Lãnh sự HK rút khỏi Đà Nẵng. Thảm họa Tây
Nguyên tái diễn với kích thước một đại hồng thủy. Tác giả viết:
“Hết lớp người này đến lớp người khác ùn ùn đổ vào Quốc lộ 1,
trên bất cứ một phương tiện chuyên chở nào mà họ có thể sử dụng
được, mang theo một số trữ lương cần thiết để sống sót qua ngày;
và vô tình họ đã họp thành một cuộc di tản khổng lồ của hơn một
triệu người chạy nạn xuống phương nam. Một số khác chạy bằng
đường biển, trên đủ loại tầu bè theo duyên hải về những phương
trời vô định...” (trang 196) Đây là một cuộc bỏ phiếu vĩ đại bằng
chân và bằng thuyền đầu tiên của người dân miền Nam Việt Nam để
phủ nhận một chế độ độc tài đảng trị độc ác đang giăng nanh vuốt
của nó lên nửa phần còn lại của tổ quốc.
Trước một tình
trạng suy sụp tinh thần như vậy và với sự tan rã trong chốc lát
của hai quân đoàn tinh nhuệ của VNCH – do chính tay mình gây ra –
làm sao ông Thiệu có thể lập được tuyến phòng thủ ở vĩ tuyến 12
bắc khả dĩ chặn được cuộc tiến công từ phía bắc của cộng sản như
ông ta đã dự trù? Việc QLVNCH bỏ ngõ hai Quân khu I và II đã cho
phép cộng sản chuyển hai quân đoàn nguyên vẹn của chúng ở đó đến
tăng cường cho cánh quân phương nam của Văn Tiến Dũng, với một
quân số nay lên đến 300,000 người.
Từ một lợi thế quân sự
áp đảo như vậy, Hà Nội tự cho phép chơi lá bài chính trị. Ngày
31/3/1975, với một giọng kẻ cả, chúng tuyên bố sẵn sàng nói
chuyện với “chính quyền Sài Gòn” để tìm một giải pháp chính trị
cho miền Nam với điều kiện không có ông Thiệu. Rõ ràng đây là một
động tác giả để che dấu quyết định của chúng là dùng vũ lực để
thôn tính trọn miền Nam trong một thời gian tối thiểu. Tác giả
trích dẫn một bản phúc trình lên thượng cấp của Trưởng Phân tích
gia CIA Frank Snepp. Theo ông này, Bộ Chính Trị ở Hà Nội đã “họp
bàn và đưa ra một quyết định mới là phải đoạt toàn thắng trong
năm 1975” thay vì hai năm như đã hoạch định, bởi vì “họ đã tình
cờ có được một chiến thắng ngoài dự kiến. (stumbled on an
unforeseen victory) (trang 198) Nói cách khác, chiến thắng này là
do ông Thiệu tặng không cho cộng sản chứ không phải do chính
chúng tự tạo nên. Về sau, cựu Đại sứ của Hà Nội tại Liên Hiệp
Quốc Hà Văn Lâu cũng xác nhận một điều tương tự như Snepp: “Sau
khi Đà Nẵng và Huế thất thủ, ban lãnh đạo chúng tôi đã quyết định
đẩy mạnh việc chuẩn bị để chấm dứt cuộc chiến trước mùa mưa,
nghĩa là nội trong tháng 4/1975.” (trang 198)
Đối với
VNCH, cuộc chiến bước vào giai đoạn chót như một mùa gặt đắng cay
của những lỗi lầm chồng chất từ những năm xưa, do chính mình và
người bạn đồng minh HK khổng lồ tự gây nên. Một cuộc chiến năm
nào còn ngang ngửa, nay trở thành bất cân xứng vì nhiều nguyên
nhân khách quan hơn là chủ quan (sẽ nói ở phần sau).
Trước
hết, về phía cộng sản, để thực thi nghị quyết ngày 31/3/1975 của
Bộ Chính trị (chủ trương dốc toàn lực để dứt điểm cuộc chiến),
công cuộc chuẩn bị cấp tấp, đôn đáo. Tất cả các sư đoàn Bắc Việt,
Việt Cộng, các trung đoàn biệt lập và các đơn vị chuyên môn đang
có mặt tại miền Nam được tập hợp thành những đại đơn vị cấp quân
đoàn, đặt dưới quyền chỉ huy của Quân ủy Trung ương, với Văn Tiến
Dũng là Tư lệnh Chiến trường. (trang 199 và 202)
Thứ nữa,
hầu hết các đơn vị tác chiến và trừ bị, cùng với những quân khí,
trang bị mới được bổ sung, được Hà Nội chuyển gấp vào Nam để tăng
cường cho bộ đội của Dũng. Hàng chục ngàn chiếc quân xa đủ kiểu
cỡ chở đầy quân lương, súng đạn ngày đêm di chuyển trên đường mòn
Hồ Chí Minh và Quốc lộ 1 một cách công khai mà không còn sợ oanh
tạc bởi những B-52 của Hậu vệ 1 và Hậu vệ 2 nữa.
Kết quả
là chỉ trong chốc lát Hà Nội đã huy động được một lực lượng xâm
lược gồm năm quân đoàn chia ra như sau: Quân đoàn I, gồm 3 Sư
312, 320, 338 uy hiếp Sư đoàn 5 Bộ binh của VNCH đang trấn giữ
tỉnh Bình Dương, cách Sài Gòn 50km về phía bắc; Quân đoàn II gồm
4 Sư Sao Vàng, 304, 324B, 325 bắt đầu tấn công vào phòng tuyến
Ninh Thuận, được bảo vệ bởi Lữ đoàn 2 Dù, Liên đoàn 3 Biệt động
quân, và một số tàn quân của Sư đoàn 2 Bộ binh VNCH; Quân đoàn
III gồm 4 Sư 320, 316, 70, 968 khởi sự đánh phá phòng tuyến dọc
theo Quốc lộ 1 ở phía tây Sài Gòn của Sư đoàn 5 Bộ binh VNCH;
Quân đoàn IV, gồm 3 Sư 341, 6, 7 tấn công vào Sư đoàn 18 VNCH
đang bảo vệ tỉnh Long Khánh và thị xã Xuân Lộc cách Sài Gòn 70km
về phía đông bắc; và cuối cùng là một lực lương chiến thuật cấp
quân đoàn cộng, gồm 5 Sư 3, 5, 8, 9 và 27 được huy động để cắt
đứt Quốc lộ 4 và cô lập Sài Gòn với Quân khu IV của VNCH.
Như vậy, để thực hiện Chiến dịch Xuân 1975 của chúng, trước mang
tên Chiến dịch Tây Nguyên, sau đổi thành Chiến dịch Hồ Chí Minh,
cộng sản đã tung vào trận địa một lực lượng là 20 sư đoàn (kể cả
Sư đoàn 1 ở biên giới Việt Nam - Căm Bốt) gồm 280,000 quân tác
chiến, 4,000 xe tăng và 420 khẩu pháo. Nhưng tính gộp cả quân số
yểm trợ hậu cần (tỷ lệ 1 hậu cần/1 tác chiến) thì tổng số quân
cộng sản sử dụng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh là 560,000 người.
(trang 203)
Để đương đầu với đội quân cộng sản khổng lồ
ấy, phía VNCH chỉ còn khả năng huy động 4 sư đoàn ở phía bắc Tiền
Giang, tức 1 chọi 5 về quân số và 1 chọi 4 về hỏa lực. Chính sự
chênh lệch lớn lao về cán cân lực lượng này mới là yếu tố quyết
định ai thắng ai chứ không phải những yếu tố linh tinh khác mà
cộng sản đã huyênh hoang bịa đặt hay HK đã viện ra để đổ lỗi cho
QLVNCH.
Cơn bão đỏ sấn về Thủ đô Sài Gòn, ngày càng tăng
tốc. Tuần đầu tháng 4/1975, Phú Yên, Khánh Hòa và Cam Ranh thất
thủ; tuần thứ hai, ngày 15/4/1975, tuyến Ninh Thuận đổ vỡ; ngay
sau đó, 40,000 quân địch mở trận tấn công vào Xuân Lộc thuộc tỉnh
Long Khánh, được trấn giữ bởi 8,000 quân VNCH. Đây là trận đánh
lớn cuối cùng của QLVNCH trong đó người chiến sĩ quốc gia đã tỏ
ra ngoan cường và dũng cảm. Một trận tỉ thí đẫm máu với địch kéo
dài 12 ngày đêm, bám lấy từng góc phố, từng căn nhà, tuy bất cân
xứng về quân số nhưng đã gây cho địch tổn thất nặng nề là trên
5,000 tử trận và 40 chiến xa bị phá hủy. (trang 206)
Ngày
20/4/1975, theo lệnh của Bộ Tổng Tham mưu QLVNCH, Sư đoàn 18 Bộ
binh phải bỏ ngõ Xuân Lộc, khiến địch được hanh thông tiến về Sài
Gòn. Sau lời tuyên bố từ chức trên Vô tuyến Truyền hình đêm
21/4/1975 của Tổng thống Thiệu, một số yếu điểm ở phía bắc Sài
Gòn như Trảng Bom, Long Bình, Biên Hòa, Thủ Đức, Hóc Môn bị bỏ
ngõ, và chiều ngày 28/4/1975, ba chiếc khu trục cơ A-37 mà cộng
sản mới đoạt được của KLVNCH tại Phan Rang đến oanh tạc phi
trường Tân Sơn Nhất, gây hoang mang tột độ cho quân dân thủ đô
VNCH. Sau những trận đánh cầm cự ngày 29/4/1975 với địch tại cầu
xa lộ Sài Gòn-Biên Hòa, Bình Thạnh, Gò Vấp, Bà Điểm, Hạnh Thông
Tây, Thủ đô Sài Gòn rơi vào tay địch trưa ngày 30/4/1975. Một màn
đêm âm u bắt đầu phủ xuống nửa phần tự do của Tổ quốc kể từ đó.
12 - Song song với “ngày cay đắng cuối cùng” trên của QLVNCH
là một chuỗi những phản ứng dây chuyền về chính trị và ngoại giao
của Hoa Kỳ mà hậu quả là một thứ đầu hàng ủy nhiệm cho VNCH phải
gánh hộ cho mình, Ngày 1/4/1975, Văn phòng DAO được lệnh tiến
hành kế hoạch di tản sang Mỹ khoảng 35,000 người Việt Nam có liên
hệ mật thiết với Mỹ trong cuộc chiến. Do tình hình thúc đẩy, nhịp
độ công tác di tản tăng từ 12 giờ mỗi ngày lên 24 giờ mỗi ngày kể
từ 3/4/1975. Ngày 1/4/1975, tính bí mật của kế hoạch bị đổ vỡ với
tai nạn của chiếc C-5A Galaxy chở mấy trăm trẻ em mồ côi Việt Nam
di tản sang Mỹ rơi xuống ngay sau khi vừa cất cánh, tăng thêm màu
ảm đạm cho cái tang chung của cả một miền Nam mắc nạn và gây
hoang mang rất nhiều trong mọi tầng lớp dân chúng.
Rối
loạn này được bồi tiếp bởi rối loạn khác: Bộ Ngoại giao và Bộ
Quốc phòng HK lục đục với nhau về kế hoạch di tản. Trong khi
Kissinger đang tranh thủ ngoại giao với Hà Nội về một giải pháp
để Mỹ ra đi an toàn và không bị mất mặt, Bộ trưởng Quốc phòng
James Schlesinger cho rằng việc làm của Kissinger là quá chậm và
ra lệnh hối thúc việc rút hết nhân viên dân sự và quân sự Mỹ ra
khỏi Sài Gòn ngay. Hơn nữa, theo Đại sứ Martin, trong khi
Kissinger đã đạt được qua sự trung gian của của Chủ tịch Liên xô
Brezhnev một thỏa thuận với Hà Nội là, để đổi lại điều trên, Hoa
Kỳ sẽ để cho CSVN sử dụng toàn bộ số quân bị Mỹ đã viện trợ cho
VNCH, Schlesinger lại phái người sang Sài Gòn để thu hồi những vũ
khí nặng. Chính vì tin vào thỏa thuận trên mà Martin đã cố tình
trì hoãn cuộc di tản 5,000 kiều dân Mỹ, với hy vọng sẽ có qua
trung gian của Đại sứ Pháp Merillon một giải pháp chính phủ liên
hiệp cho miền Nam Việt Nam và đồng thời cũng tránh gây hoảng loạn
cho QLVNCH mà ông ta sợ là sẽ nổ súng vào những người Mỹ di tản
khi thấy mình bị Mỹ phản bội. (trang 209) Sự thực xảy ra đã chứng
tỏ nỗi lo sợ này là hoang tưởng, và riêng bản thân chúng tôi đã
chứng kiến các Quân cảnh VNCH đứng giữ gìn trật tự và an ninh cho
kiều dân Mỹ lên xe buýt đi Tân Sơn Nhất để di tản khỏi Việt Nam.
Sau chuyến công du “điều nghiên” mà dụng ý là phủi tay và
nhục mạ VNCH của một phái đoàn dân biểu Hoa Kỳ, ngày 17/4/1975,
Quốc hội Hoa Kỳ đã bỏ phiếu bác bỏ đề nghị của Tổng thống Ford bổ
sung 300 triệu đô-la quân viện và khẩn viện 722 triệu đô-la cho
VNCH, nhưng chỉ chấp thuận cho 200 triệu đô-la để dùng cho việc
di tản nhân viên Mỹ.
Ngày 19/4/1975, để đáp ứng yêu sách
loại trừ ông Thiệu của Hà Nội, Kissinger ra lệnh cho Đại sứ
Martin hối thúc ông Thiệu từ chức; đồng thời Trung tá Mỹ Harry G.
Summers, Jr., thuộc Ủy ban Quân sự Liên hợp Bốn bên, đươc Đại sứ
Martin cử đi Hà Nội để bàn với các nhà cầm quyền nơi đây thể thức
rút nhân viên Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam mà theo một nguồn tin
tiết lộ sẽ được hoàn tất trước ngày 1/5/1975. (trang 207)
Ngày 21/4/1975, dưới áp lực của Hoa Kỳ. Tổng thống Thiệu tuyên bố
từ chức trên Vô tuyến Truyền hình với những lời lẽ bộc trực, tố
cáo sự phản bội của Hoa Kỳ. Nhưng ngay đêm hôm sau, ông và Thủ
tướng Trần Thiện Khiêm lại được chính CIA hộ tống và lén lút mang
ra khỏi Việt Nam trên một chiếc DC-6 của Không Quân Mỹ. Sự kiện
này điểm thêm một nét hài hước cho tấn bi kịch Việt Nam.
Ngày 23/4/1975, tức hai ngày sau khi cộng sản chiếm Xuân Lộc,
Tổng thống Ford tuyên bố tại trường Đại học Tulane ỏ New Orleans:
“Ngày hôm nay nước Mỹ đã lấy lại được niềm tự hào thuở tiền
(chiến tranh) Việt Nam của nó. Nhưng chúng ta không thể làm được
điều này bằng cách tham gia trở lại một cuộc chiến đã chấm dứt
đối với chúng ta.” (trang 208) Đây là lời tuyên bố phủi tay đầu
tiên được phát biểu công khai và chính thức bởi một vị tổng thống
Hoa Kỳ. Nó phơi bày khía cạnh xấu xa nhất của chủ nghĩa thực dụng
chính trị Mỹ mà Bộ trưởng Ngoại giao Kissinger là một trong những
người chủ xướng tích cực nhất. Quan điểm của ông ta là dùng chiến
tranh ủy nhiệm để thoái thác trách nhiệm và sử dụng hòa bình như
một hưu chiến tạm để tạo một khoảng cách an toàn cho thanh danh
của nước Mỹ và của chính bản thân ông ta, hiểu như nếu sau đó
miền Nam Việt Nam có rơi vào tay cộng sản thì đó là lỗi của VNCH
chứ không phải lỗi của Hoa Kỳ hay của ông ta.
Cách nói bộc
trực của ông Ford có tác dụng tăng kích tột độ cái không khí
hoang mang đang bao trùm lên cơ quan đầu não của QLVNCH là Bộ
Tổng Tham Mưu. Một não trạng bị sói mòn bởi hội chứng bị bỏ rơi,
nay đâm ra hoảng loạn và tìm đường thoát thân. Cho đến trưa ngày
29/4/1975 thì hầu hết các sĩ quan cấp tướng và sĩ quan trưởng
phòng nơi đó đã rời nhiệm sở để sang tá túc nơi cơ quan DAO kế
cạnh, chờ được Mỹ bốc ra Hạm đội 7. QLVNCH trở thành một con rắn
không đầu, với những đơn vị địa phương tự đề ra kế hoạch hành
động và cuộc chiến ở nhiều nơi trở lại trạng thái năm 1964 sau
khi Tổng thống Diệm bị lật đổ: cuộc chiến của những viên đại úy
(la guerre des capitaines). Ngoài ra, vì hệ thống phối hợp hàng
ngang cũng bị gián đoạn, mỗi đơn vị trở thành một ốc đảo chiến
đấu, không biết tình trạng đơn vị bạn ra sao?
Trước một
tình trạng chung phân rã như vậy, tân Tổng thống Trần văn Hương
chẳng có thể làm gì được để lật ngược thế cờ. Sau sáu ngày chấp
chính thay ông Thiệu, ngày 27/4/1975, ông Hương rút lui; ngày
28/4/1975, Quốc hội VNCH bầu ông Dương văn Minh lên làm tổng
thống, khoảng 5 giờ chiều cùng ngày, như trên đã nói, không quân
cộng sản oanh kích phi trường Tân Sơn Nhất.
Một điều bí
mật mà mọi người ở những quán rượu trên đường Tự Do đều biết là,
với sự tiếp tay tích cực của Đại sứ Merillon và Đại sứ Martin,
ông Minh có nhiệm vụ thương thảo với cộng sản để thành lập một
chính phủ liên hiệp ba thành phần (VNCH – Phe Trung lập – Chính
phủ Cách mạng Lâm thời Việt Cộng) cho miền Nam Việt Nam. Thiện
chí này, do một phái đoàn VNCH đưa ra tại trại David ở Tân Sơn
Nhất sáng ngày 29/4/1975, bị đại diện của chính phủ Việt Cộng bác
bỏ.
Trong khi đó, bầu trời thủ đô Sài Gòn trở nên náo
nhiệt, ồn ào với hết lớp trực thăng này đến lớp trực thăng khác
của Hạm đội 7 Mỹ từ ngoài khơi hối hả bay vào để rồi hối hả chở
đi những kiều dân Mỹ và người Việt thân Mỹ còn kẹt lại. Cảnh này
làm chúng tôi chạnh lòng nhớ lại cảnh sáng ngày 26/10/1956 với
hàng trăm phi cơ Mỹ đủ loại cũng từ Hạm đội 7 ấy bay đến để dương
oai diễu võ - tưởng là vô song – trên bầu trời thủ đô Sài Gòn để
chào mừng sự ra đời của Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa, một tiền đồn
chống cộng Hoa Kỳ vừa góp công dựng lên để bảo vệ Thế giới Tự do.
Tạo hóa rõ khéo “gây chi nghịch hí trường, đến nay chất ngất
trắng tinh xương”. Và, ở một xứ trời nào đó hương hồn ông Diệm
nếu còn vương víu nợ trần ắt phải đổ lệ ròng.
Tám giờ sáng
ngày 30/4/1975 (giờ Sài Gòn), chiếc trực thăng Mỹ cuối cùng chở
Đại sứ Martin cất cánh từ nóc Tòa Đại sứ Mỹ ở đường Thống Nhất,
trực chỉ hướng Hạm đội 7, để lại đằng sau một thành phố đang quằn
quại trong khói lửa và một chế độ Cộng Hòa đang hấp hối. Sự hạ
màn của tấn bi kịch “Ra đi trong hòa bình và danh dự” của Nixon
và Kissinger là như thế đó. Chín giờ rưỡi sáng cùng ngày, Tổng
thống Dương văn Minh tuyên bố trên đài phát thanh về chính sách
hòa hợp hòa giải của tân nội các VNCH và ý định muốn chia sẻ
quyền hành với chính phủ Việt Cộng để tránh một cuộc đổ máu mà
ông cho là không cần thiết nữa.
Chưa đầy hai tiếng sau,
lúc 10:25 giờ sáng, ông Minh lại đưa ra một lời tuyên bố thứ hai,
ra lệnh cho QLVNCH phải buông súng và các cấp chính quyền từ
trung ương xuống địa phương phải chuyển giao quyền hành cho chính
phủ Việt Cộng. (trang 216) Cũng vào thời điểm này, tân thủ tướng
Vũ văn Mẫu tuyên bố trên đài phát thanh một tối hậu thư yêu cầu
Mỹ phải rút ra khỏi Việt Nam trong vòng 48 tiếng. Về sau, trước
khi qua đời, ông Minh có tiết lộ với một thân hữu của ông tại
Paris là lời tuyên bố của ông Mẫu là do Tòa Đại sứ Mỹ thảo ra và
nhờ ông ta cho người đọc hộ để tạo vẻ “danh chính ngôn thuận” cho
việc ra đi của Mỹ, hiểu như khách đi vì bị chủ nhà đuổi chứ không
phải vì khách muốn bỏ rơi chủ nhà. Trò chơi chính trị ấy quả là
tuyệt luân về mặt lắt léo và xảo trá!
Nói tóm lại, nếu
trước kia ông Thiệu với lệnh rút quân cẩu thả của mình đã tặng
không cho cộng sản một nửa đất nước và làm tiêu tùng phân nửa
QLVNCH trong vòng hai tuần lễ, nay ông Minh với sự chấp thuận đầu
hàng vô điều kiện trên đã chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ xóa
tan một chế độ Cộng Hòa đã được dày dựng trong suốt hai mươi năm
trời bằng mồ hôi, nước mắt và máu xương của hàng triệu người quân
và dân miền Nam Việt Nam. Một chế độ sinh ra và lớn lên trong
những điều kiện éo le và gian nguy – hơn một thế lực, kể cả bạn,
đã muốn xóa nó – tuy có những thiếu sót khó tránh được vì hoàn
cảnh chiến tranh liên tục nhưng vẫn gắng xây dựng được những cơ
sở, cấu trúc và lề lối sinh hoạt tự do, dân chủ đầy hứa hẹn cho
tương lai đất nước một khi hòa bình trở lại. Một chế độ, theo một
nhà văn nữ cộng sản, bị “giải phóng” nhưng lại văn minh và nhân
bản hơn rất nhiều cái chế độ đến giải phóng nó. Đại khái bà ta
nói: “Đây mới chính là cái cái xã hội lý tưởng mà chúng ta (những
người miền Bắc) hằng mong tiến tới.”
Thế còn phản ứng của
người lính VNCH trưóc lệnh buông súng của thượng cấp là như thế
nào? Tựu trung, vốn được hun đúc trong một truyền thống thượng
tôn quân kỷ lâu đời, phản ứng của họ là một sự giã từ vũ khí
trong điềm tĩnh, cam nhận pha xen tủi nhục, giữa cái im ắng của
những dòng lệ chảy ngược vào bên trong. Súng được để lại vào giá,
tài liệu mật bị thiêu hủy; bộ quân phục bạc màu chinh chiến được
thay thế bằng một bộ thường phục mới toanh, và họ rời khỏi doanh
trại để ra hòa nhập vào niềm đau chung của dân tộc. Những chứng
chỉ quân nhân bị xé nát như một biểu lộ quay lưng lại với chiến
tranh chứ không phải để phủ nhận cái chân thân người lính quốc
gia dân tộc của mình. Và tuyệt nhiên không có một hành động quay
ngược nòng súng về phía thượng cấp và lẫy cò nào. Hành xử này,
nghĩ cho cùng, chứng tỏ cung cách của một quân đội không chỉ sáng
nét lúc nó thắng trận mà còn cả lúc nó sa cơ lỡ vận nữa.
Nhưng đã hơn một người lính VNCH bật khóc trước cảnh quốc gia suy
vong, trong đó có tác giả, một người đã hiến dâng trọn tuổi thanh
xuân cho cuộc chiến bảo vệ đất nước. Và một số không ít đã tuẫn
tử để giữ khí tiết bản thân và thanh danh Tổ quốc. Có những vị
tướng chết theo thành, như Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh
Quân đoàn IV; Thiếu tướng Phạm văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn II;
Chuẩn tướng Lê văn Hưng, Tư lệnh Phó Quân đoàn IV; Chuẩn tướng Lê
Nguyên Vỹ, Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh; và chuẩn tướng Trần Văn
Hai, Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh. Và còn nhiều sĩ quan, hạ sĩ quan
và binh sĩ đã âm thầm hy sinh, trong đó có hai vị trung tá, ba vị
thiếu tá và một vị đại úy thuộc Phòng Nhì Bộ Tổng Tham mưu, vốn
là những đồng nghiệp thân yêu của tác giả. Tất cả những vị anh
hùng này đã lấy chính xương máu mình để tô thắm cho tượng đài
Thương Tiếc mãi mãi hiển linh trong lòng dân tộc.
13 -
Chương sử ba mươi năm chiến tranh đẫm máu chấm dứt với sự trở lại
của hòa bình trên đôi dép râu của nửa triệu quân phương Bắc thay
vì bằng lá phiếu của một tổng tuyển cử tự do như thỏa ước Quốc tế
Paris đã qui định. Và lịch sử vẫn chưa đi hết cái chu kỳ vận động
biện chứng của nó: nghịch lý trong chiến tranh được nối tiếp bởi
những mâu thuẫn trong hòa bình. Bởi hòa bình này không mang đến
hòa hợp tâm tư và hạnh phúc ấm no cho người dân Việt Nam. Một chế
độ độc tài đảng trị vẫn tiếp tục khoét sâu thêm vết thương còn mở
của dân tộc và bị dân tộc chối bỏ. Và ngược lại, người lính Cộng
Hòa tuy thất trận lại đạt được một chiến công vẻ vang: hình ảnh
thân yêu của họ còn đậm nét trong tâm tư dân tộc.
Là như
vậy nghịch cảnh Việt Nam do cuộc chiến tranh để lại. Thế còn phía
Mỹ sau trên 30 năm cuốn gói ra đi có quên được Nam hay không? Hẳn
là không nếu ta nghĩ đến cuộc tranh cãi gay gắt đã diễn ra quanh
vụ những chiến tích Việt Nam của ứng cử viên tổng thống Kerry
giữa phe Dân chủ và phe Cộng Hòa chẳng hạn. Vụ này chưa kết thúc
thì vụ Tổng thống Bush năm xưa trốn tránh đi tác chiến tại Việt
Nam lại được khêu lên và gây tranh luận ồn ào. Tất cả chỉ cho
thấy vết thương Mỹ vẫn chưa lành, nó còn làm nhức nhối lương tâm
quốc gia và ly tán dân tộc. Nhưng trong chiều hướng ngược lại
quan điểm phản chiến thuở nào: kẻ trước kia lẩn tránh nghĩa vụ
Việt Nam nay cảm thấy xấu hổ; nhưng để lấp liếm mặc cảm, ho cho
bộ hạ phản công dữ dội, tố cáo ông Kerry đã nguỵ tạo thành tích
và gọi ông là “người của Hà Nội”. Phe Kerry phản kích không kém
phần ác liệt với việc họ gọi ông Bush là đồ hèn, đã cậy thế con
ông cháu cha để khỏi bị trưng dụng đi Việt Nam và tuyên dương ông
Kerry là anh hùng và là người yêu nước thực sự kể cả khi ông ta
trở thành một biểu tượng của phong trào phản chiến năm xưa.
Là như vậy sự bộc phát trở lại trên đấu trường chính trị của
cái người Mỹ gọi là “hội chứng Việt Nam”. Còn phe cựu phản chiến
chính hiệu thì đã im hơi lặng tiếng từ lâu vì sợ nói ra thì sẽ bị
há miệng mắc quai (eat crow) trừ một số ít như nam ca sĩ Bob
Dylan và nữ ca sĩ Joan Baez, hai tiếng nói tiêu biểu năm nào cho
cao trào phản chiến – riêng Joan đã đích thân đi Hà Nội để trình
diễn những bài ca phản chiến trước những tù binh tại nhà giam Hỏa
Lò - nay đã bày tỏ ăn năn hối lỗi bằng cách từ chối lời mời tham
dự Liên hoan Quốc tế Âm nhạc vì hòa bình mới đây của Hà Nội.
Tác giả tiếp tục hoàn chỉnh bức tranh nhất lãm của mình với
việc sưu tầm thêm và phân tích những hậu quả cuộc chiến Việt Nam
đối với Hoa Kỳ. Ông không những chỉ trích dẫn những nhận định bi
quan mà còn cả những đánh giá tô hồng về cuộc chiến, như của cựu
cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ Walt W. Rostow: “Nếu bạn cho rằng
mục tiêu (của chúng ta) là giữ cho Đông Nam Á châu được độc lập
thì có thể nói rằng chúng ta đã đạt được mục tiêu đó. Thái Lan,
Malaysia và Singapore – ba nước mà ai cũng muốn chiếm lấy (up for
graps) – đã thoát ra với niềm tự tin và một nền kinh tế vững
mạnh. Thử hỏi họ có thể giữ được nền độc lập của họ không nếu
không có sự trợ giúp của chúng ta?” (trang 221) Theo Rostow, để
đánh giá đúng mức, cuộc chiến Việt Nam phải được đặt trong bối
cảnh toàn vùng Á châu.
Cựu Tham mưu Trưởng Hải quân, Đô
Đốc Elmo R. Zumwalt, Jr., cũng có một nhận định tương tự, nhưng
rõ ràng hơn: “Xét về chiến lược, chúng ta đã tạo khả năng cho các
nước như Thái Lan, Singapore và Malaysia không rơi vào tay cộng
sản.” (trang 122) Nhà bình luận Marc Leepson đồng quan điểm với
một số tướng lãnh và đô đốc Mỹ: “Nước Mỹ đã thắng cuộc chiến Việt
Nam vì nỗ lực quân sự trong suốt tám năm tại nơi đó của chúng ta
đã giúp cho các nước Á châu khác có thời gian tăng cường lực
lượng chống cộng sản của họ. Cộng sản đã chiến thắng tại Việt Nam
vào năm 1975 nhưng các quân cờ domino Á châu khác, trừ Lào và Căm
Bốt, đã không sụp đổ.” (trang 122)
Những nhận định gây
nhiều tranh luận trên, theo tác giả, chỉ là những tiếng nói trong
sa mạc vì chúng không có tính thuyết phục bằng một chiến thắng cụ
thể, rõ ràng. Tuy nhiên, theo một luận điểm khác, việc HK bỏ rơi
miền Nam Việt Nam đã giúp họ giải quyết trước mắt những khó khăn
chính trị và kinh tế nội bộ đang gặp phải, và về lâu về dài sẽ
tạo cho họ có khả năng cải biến một nước Việt Nam thống nhất dưới
quyền cộng sản thành một thành trì chống Trung cộng vững mạnh và
thân Mỹ thông qua một chính sách viện trợ kinh tế, đầu tư, phát
triển mậu dịch do Mỹ chủ xướng. Vẫn theo luận điểm này, “chiến
thắng bằng diễn biến hòa bình vẫn tốt hơn đánh bại chúng bằng
quân sự.” (trang 222)
Riêng chúng tôi thiển nghĩ cách lý
giải của các giới chức quân sự và bình luận gia Mỹ trên là một
suy diễn quá rộng, để đừng nói là lạc đề, lấy cái chung phủ lấp
cái riêng và có hơi hướm của một nguỵ biện để tự bào chữa và lẩn
trách nhiệm. Còn ý định của HK muốn nộp miền Nam Việt Nam cho
cộng sản Bắc Việt với hy vọng chúng sẽ đủ mạnh để chống người
khổng lồ phương bắc, nếu có, thì quả là một khổ nhục kế quá lắt
léo, để đừng nói là bệnh hoạn, phiêu lưu và phản logic. Bởi vì
một nước Việt Nam thống nhất, không cộng sản và là bạn của Mỹ như
Thái Lan hay Đại Hàn sẽ đáp ứng lợi ích của Mỹ tốt hơn một nước
Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam như hiện tại chỉ cho thấy. Ấy
là chưa kể đến cái giá xương máu quá đắt phải trả cho quỷ kế ấy:
Hàng chục ngàn người tù chính trị VNCH ngã gục trong lao tù cộng
sản, một triệu thuyền nhân Việt Nam chết trên đường vượt thoát
tìm tự do, hai triệu người Căm Bốt bị Khờ Me Đỏ thủ tiêu và hàng
trăm ngàn người Lào và H-mông bị Pathet Lào giết hại.
Sau
đây là là bản liệt kê số tổn thất trong cuộc chiến (phía VNCH và
Mỹ):
• Tử trận: trên 200,000 VNCH + 58,000 Mỹ
•
Thương binh: khoảng 600,000 VNCH + 150,000 Mỹ
• Tù binh: 1
triệu VNCH + 766 Mỹ
• Mất tích khi lâm chiến (MIA: Missing
in Action): trên 1,900 người Mỹ.
Mức tổn thất và chiến phí
được ước tính như sau (phía Mỹ):
• 8,612 phi cơ đủ loại bị
tiêu hủy, gồm 3,744 có cánh [fixed wing aircraft] và 4,868 trực
thăng, tính theo đô-la là $12 tỷ
• Tổn phí về đạn dược:
$35 tỷ
• Tổn phí về bom (7.35 triệu tấn, tức gấp đôi khối
lượng sử dụng trong thế chiến 2): $7 tỷ
• Tổn phí về vũ
khí nặng như tăng, pháo howitzers: nhiều tỷ đô-la
• Số
nhiên liệu sử dụng mỗi ngày là 1 triệu tấn, như vậy làm trầm
trọng thêm cơn khủng hoảng nhiên liệu năm 1973 Mỹ đang gặp phải
(trang 223)
Tóm lại, theo ước tính của James A. Donovan,
tổng số chiến phí là $108.6 tỷ, gồm $97.7 tỷ cho Việt Nam và
$10.7 tỷ cho Lào và Căm Bốt. Nhưng theo cựu Bộ trưởng Quốc phòng
Melvin Laird, tổng chiến phí là $236 tỷ, tức $100 tỷ lớn hơn ước
tính của chính phủ và gấp đôi ước tính của Donovan. (trang 223)
Như vậy nếu so sánh với các cuộc chiến tranh trước đó của Mỹ,
chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh tốn kém nhất.
Hậu
quả về kinh tế của cuộc chiến được Donovan phân tích như sau:
“...Chính phủ phải hoãn chi tiêu cho những dự án tối cần thiết về
bệnh viện, trường học, đường xá, hệ thống chuyển vận và các nhà
máy xử lý chất thải... Hơn nữa, vì phải tập trung tài nguyên, kỹ
xảo và năng lực vào cuộc chiến, nước Mỹ đã phải trải qua một cuộc
cạnh tranh gắt gao với các nước khác và năng xuất của nó bắt đầu
giảm sút. Nhưng hậu quả kinh tế lớn nhất của cuộc chiến là làm
nhụt ý chí muốn đóng góp của cải và sức mạnh quân sự của chúng ta
vào việc bảo vệ hòa bình và sự ổn định thế giới.” (trang 223)
Hậu quả về tinh thần của cuộc chiến không kém nặng nề, trước
hết là Hội chứng Việt Nam, đã và đang giày vò lương tri Mỹ, đặc
biệt là giới cựu quân nhân đã tham chiến ở Việt Nam. Đây là chấn
thương tâm thần lớn nhất và lâu nhất trong lịch sử quân đội Hoa
Kỳ, một quân đội tự hào là chưa thua một cuộc chiến nào trước
cuộc chiến Việt Nam của họ. Ngoài ra còn phải kể đến sự khinh
miệt và bất tín nhiệm của quân dân Mỹ đối với các nhà chính trị
của họ mà họ cho là bất tài và đã lừa dối họ khi đẩy họ vào một
cuộc chiến họ cho là vô lý, vô ích và vô vọng.
Chưa bao
giờ xã hội Mỹ lại bị phân cực, rối loạn và sa sút như vậy. Theo
gót những đoàn biểu tình tuần hành phản chiến giương cao biểu ngữ
“make love but not make war” là sự bùng nổ của một cuộc cách mạng
văn hóa, cách mạng tình dục và nạn hút sách ma túy do những người
lính GI trẻ mang về từ Việt Nam và bắt đầu tràn lan ra khắp hè
phố và trong khuôn viên những trường đại học. Nước Hoa Kỳ đã đánh
mất tính trong trắng ngây thơ của nó. Chỉ vì Nam.
Và bức
tường Tưởng niệm Việt Nam vẫn còn ở đó như một trang sử buồn tủi,
nỗi ám ảnh mung lung nhức nhối chỉ có thể được giải tỏa, theo
thiển ý chúng tôi, với việc Hoa Kỳ ráng đi thêm một dặm đường nữa
(an extra mile) là giúp dân tộc Việt Nam giải thể cái chế độ cộng
sản quái gở mà HK đã vì lý do này hay lý do khác để nó áp đặt ách
thống trị lên một cựu quốc gia đồng minh khắng khít của mình.
Thiết tưởng chỉ có một kết thúc thuận lý và thuận tình như vậy
mới có khả năng hóa giải tất cả những nghịch lý HK đã tự tạo nên
cho mình trong suốt mấy chục năm trời can dự vào Việt Nam. Nói
cách khác, cái chu kỳ vận động biện chứng của lịch sử hơn nửa thế
kỷ qua của Việt Nam chỉ thực sự chấm dứt với sự ra đời của một
Tin Mừng tương xứng với sự hy sinh của hàng triệu quân dân
Việt-Mỹ: một chế độ tự do và dân chủ ở Việt Nam.
Trên đây
chúng tôi vừa trình bày một số ý kiến đóng góp khiêm tốn về một
công trình khảo cứu công phu, đồ sộ và có hệ thống là cuốn “The
Tragedy of the Vietnam War” của Văn Nguyên Dưỡng. Một công trình
mà theo chúng tôi, vì cách kiến dựng một cái nhìn tổng hợp ba
chiều chính trị, quân sự và tâm lý về cuộc chiến Việt Nam của nó,
sẽ có một chỗ đứng riêng biệt trong rừng sách viết về đề tài này.
Mà nghĩ cho cùng, cần phải có một cách tiếp cận tổng trạng
(holistic) như vậy thì mới có thể bao quát được hết những góc
cạnh phức tạp của vấn đề, rồi từ đó tìm ra bản chất nó. Và đây
cũng là một lý do tại sao chúng tôi muốn thành khẩn giới thiệu
tác phẩm của Văn Nguyên Dưỡng với độc giả, đặc biệt là các độc
giả Việt Nam và qua đó giải oan cho người lính VNCH về những điều
mà cả thù lẫn bạn cho đến bây giờ, 33 năm sau cuộc chiến chấm
dứt, vẫn tiếp tục bóp méo để vu oan và bôi nhọ họ.
Minnesota cuối năm 2008
Cung Trầm Tưởng
Ghi chú: Tác phẩm “The Tragedy of the Vietnam War” - ISBN 978-0-7864-3285-1 by Văn Nguyễn Dưỡng do nhà xuất bản McFarland& Company, Inc., Publisher, 2008 xuất bản và phát hành, $39.95. Xin độc giả đặt mua sách tại: Tel. 800-253-2187, http://www.mcfarlandpub.com, Email: info@mcfarlandpub.com. Sách cũng có thể đặt mua tại Barnes&Noble bookstore tại địa phương.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những Bài Liên hệ
Điểm
sách:
The Tragedy of The Vietnam
War
Giới thiệu
sách:
The Tragedy of The Vietnam War: A South Vietnamese Officer’s
Analysis
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by Văn Nguyên Dưỡng chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, September 24, 2016
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang