|
Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang Sưu tầm
Chủ đề: Khoa học Không gian
Tác giả: NASA
Ban Kỹ Thuật sưu tầm & phiên
dịch
Bản Việt ngữ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Giàn ăng-ten của nhà máy Viễn thông Không gian Goldstone,
gần
thành phố sa mạc Barstow, thuộc tiểu bang California - Hoa Kỳ
Lời giới thiệu: BKT xin được hân hạnh giới thiệu một bài viết về đề tài Deep Space Network
do Cơ Quan Hàng Không & Không Gian Quốc Gia Hoa Kỳ (NASA) thực hiện. Thiết nghĩ bài viết này cần thiết
cho những Quý vị nào thích tìm hiểu về Không Gian và những Phi thuyền Không gian. Và đây cũng là đề tài bkt
rất ưa chuộng mỗi khi có thì giờ cho ngành KHÔNG GIAN.
Đại ý chính của bài này là bàn một cách rất đại cương về
phương pháp liên lạc giữa con người
trên quả địa cầu và các
Phi thuyền không người lái
đã và đang được Hoa Kỳ & Quốc tế phóng vào không gian để tìm hiểu
Thái Dương Hệ và vũ trụ qua phương tiện
truyền tin xa
[viễn thông]
được gọi là Deep Space
Network,
viết tắt là
DSN,
tạm dịch
Hệ thống Viễn Thông Không
gian Quốc Tế.
DEEP SPACE NETWORK
hay
Hệ thống Viễn Thông Không
gian Quốc Tế là do cơ quan NASA Hoa Kỳ phát minh
để chỉ lo về các dịch vụ trong Không Gian & Vũ trụ. Thật vậy, chỉ
có DSN mới có thể duy trì được sự liên lạc giữa con người và các
phi thuyền trong không gian cách nhau
hàng tỷ tỷ cây số. Và các kỹ sư trên mặt đất dùng DSN để điều
khiển các con thuyền không người lái này đến mục tiêu do NASA
định sẵn...
Kính
mời Quý vị tiếp tục theo dõi đề tài Viễn thông Không
gian hay DEEP SPACE NETWORK dưới đây. Trân trọng.
--BKT.
Khi
ta bốc điện thoại gọi cho bằng hữu ở xa, nó là điều rất khó để
qua mặt được Mạng Lưới Viễn thông Không gian hay Deep Space
Network (DSN) của cơ quan NASA, Hoa Kỳ. Nó là một hệ thống truyền
tin viễn thông lớn nhất và bén nhạy nhất thế giới.
Mạng lưới Viễn thông Không gian - Đây
là những dãy ăng-ten Radio quốc tế khổng lồ của cơ quan NASA dùng
vào việc yểm trợ các sứ mệnh có phi thuyền không gian hoạt động
giữa các hành tinh trong Thái Dương Hệ này, cộng thêm một vài phi
thuyền/vệ tinh đang bay chung quanh quả địa cầu. DSN cũng cung
cấp những dịch vụ đài quan sát thiên văn qua tín hiệu radar và
radio để giúp nhân loại hiểu biết thêm về Thái dương hệ và vũ
trụ.
Mạng lưới
Viễn thông Không gian do phòng Jet Propulsion Laboratory (JPL)
của cơ quan NASA quản trị và điều khiển, và cũng là nơi đã và
đang điều khiển nhiều sứ mệnh không gian không người lái giữa các
hành tinh.
Mạng lưới Viễn thông Không gian bao gồm ba (3) căn cứ được đặt
chung quanh quả địa cầu ở những khoảng cách đều nhau - cách nhau
khoảng 180º theo đường kinh tuyến. Những căn cứ đó là:
Goldstone, gần thành phố sa mạc Barstow, thuộc tiểu bang
California-Hoa Kỳ; căn cứ Madrid thuộc Tây-ban-nha; và căn cứ
thứ 3 gần thủ đô Canberra, Úc-đại-lợi. Những địa điểm chiến lược
này cho phép nhân loại liên lạc được với những phi thuyền không
gian đều đặn không bị gián đoạn trong lúc quả đất xoay vòng liên
tục – trước khi một phi thuyền không gian ở xa lặn dưới đường
chân trời tại một địa điểm của đài Viễn thông Không gian (DSN),
thì lập tức có căn cứ Viễn thông Không gian khác tiếp tục công
việc nhận và chuyển tín hiệu ngay.
Những chiếc ăng-ten của các đài Viễn
thông Không gian là những mắc xích không thể không có đối với các
nhà thám hiểm ngoài quả địa cầu. Những trạm truyền tin này cung
cấp hệ thống liên lạc tối quan trọng để điều động các phi thuyền
không gian của chúng ta và tiếp nhận những hình ảnh mà chúng ta
chưa từng thấy trước đây và những tin tức về khoa học trên quả
đất này, nâng tầm hiểu biết của chúng ta lên cao hơn về vũ trụ,
Thái Dương Hệ, và sau rốt là nơi chúng ta đang sống.
I. Lịch sử
Mạng Lưới VIỄN THÔNG KHÔNG GIAN [DSN]
đã được thành lập vào Ngày 1 tháng 1, năm 1958. Thoạt đầu là do
một số chuyên viên của hãng Jet Propulsion Laboratory, hay JPL –
thời bấy giờ còn là hãng thầu cho quân đội Mỹ – đã lập ra những
trạm theo dõi truyền tin lưu động radio nhỏ-gọn... ở tại các
nước như Nigeria, Singapore, và tiểu bang California–Hoa Kỳ.
Cũng trong tháng 1/1958, quân đội Hoa Kỳ đã phóng lên
quỹ đạo địa cầu vệ tinh Explorer 1 rất thành công. Và những trạm radio nhỏ này
đã nhận được những tín hiệu điện tử từ chiếc vệ tinh đầu tiên
này, những trạm truyền tin đó cũng đã giúp cho các chuyên viên
điều khiển sứ mệnh Explorer 1 chấm được tọa độ của quỹ đạo mà vệ
tinh Explorer 1 đang di chuyển trên đó. Thuở ấy, các quân-binh
chủng Hoa kỳ như Lục quân, Không quân, và Hải quân đều có các
chương trình thám hiểm không gian riêng, và vì thế, vào tháng 10
cùng năm này (1958), cơ quan Hàng không và Không gian dân sự Hoa
Kỳ (NASA) đã được chính thức thành lập và được giao cho công tác
Thám hiểm Không gian. Và NASA từ đó đến nay là cơ quan dân sự duy
nhất trên đất Mỹ chuyên lo về các sứ mệnh và dự án có liên quan
đến Không Gian.
Ngày 3 tháng 12, năm 1958, phòng thí
nghiệm JPL được cải tổ và chuyển giao hẳn cho cơ quan NASA từ bàn
tay của Lục Quân Hoa Kỳ; và được trao trọng trách họa/vẽ kiểu các
phi thuyền không gian không người lái để dùng vào việc thi hành
các chương trình khám phá mặt trăng và những hành tinh trong Thái
Dương Hệ. Không bao lâu sau đó, NASA đã thiết lập khái niệm về
một mạng nhện Viễn thông Không gian hay DEEP SPACE NETWORK, một
căn cứ truyền tin được quản trị và điều hành riêng biệt để chỉ
dùng cho tất cả các dự án/sứ mệnh về Viễn thông Không gian (Deep
Space). Với thể thức này, mỗi một phi vụ không gian sẽ không cần
phải có một hệ thống truyền tin về không gian riêng cho mình nữa.
Hệ thống Viễn thông Không gian (DSN) được giao cho trách nhiệm tự
điều nghiên, phát triển, và điều khiển... ngõ hầu có thể tự mình
yểm trợ cho các khách hàng riêng của nó. Và phương pháp này, DSN
hay Viễn thông Không gian đã nghiễm nhiên trở thành một lãnh đạo
của thế giới trong ngành phát triển truyền tin Viễn thông Không
gian và hàng không không gian.
II. Khả Năng
Mạng lưới Viễn thông Không gian (Deep
Space Network hay DSN) không chỉ có những giàn ăng-ten to tát,
mà nó còn là một hệ thống rất mạnh có thể chỉ huy, theo dõi, và
nghe ngóng về tình trạng an-nguy của các phi thuyền đang bay giữa
các hành tinh trong không gian. VTKG còn có khả năng cao, có thể
thực hiện được các cuộc điều tra về khoa học để thăm dò đặc tính
của những vẩn thạch và bên trong của các hành tinh và những
nguyệt cầu (mặt trăng).
1. Telemetry
[phép Trắc viễn (tđ:
NVKhôn)]
Những
dữ kiện về phép trắc viễn là tổng hợp tin tức về các ngành phổ
thông và khoa học quan yếu được các phi thuyền không gian thu
thập từ những hành tinh xa xôi, mà con người chưa thể đặt chân
đến, gửi về quả địa cầu qua tín hiệu radio. VTKG (DSN) nhận, biến
chế/phân tích, giải mã và phân phối những dữ kiện này.
2. Điều khiển phi thuyền Không gian
Các toán điều khiển các sứ mệnh không
gian sử dụng Hệ thống Chỉ Huy mạng lưới Viễn thông Không gian để
điều khiển những sinh hoạt của một phi thuyền không gian không
người lái. Những mệnh lệnh được gửi đến các con tàu thăm dò không
gian không người lái này được thể hiện dưới hình thức một văn
kiện thảo chương điện toán, và được phi thuyền thi hành dưới thể
thức một loạt các hành động.
3. Theo dõi
Hệ thống theo dõi sát nút của mạng lưới
Viễn thông Không gian cung cấp phương tiện truyền tin hai chiều
giữa các dụng cụ đặt trên địa cầu và một phi thuyền không gian,
thực hiện những cuộc đo đạt, cho phép các chuyên viên điều khiển
phi vụ quyết định được vị trí và tốc độ của phi thuyền một cách
rất chính xác.
4. Khoa học radio
Các giàn ăng-ten của mạng lưới Viễn
thông Không gian được một số những sứ mệnh không gian dùng để
thực hiện những cuộc thí nghiệm khoa học qua những tín hiệu radio
được đánh đi giữa trái đất và một chiếc phi thuyền không gian.
Những thay đổi của những tín hiệu radio giữa việc gửi và nhận có
thể cung cấp rất nhiều tin tức về những hành tinh xa diệu vợi
trong Thái Dương Hệ này. Thí dụ: việc tìm hiểu những vòng tròn
chạy xung quanh Thổ tinh dẫn đến việc khám phá được cơ cấu bên
trong của các hành tinh và những mặt trăng, và việc thử thuyết
tương đối.
5.
Khoa học
Ngoài
vai trò làm trung tâm truyền tin cho các dịch vụ thám hiểm Viễn
thông Không gian không gian, DSN còn là một dụng cụ tân tiến
trong các cuộc điều nghiên khoa học, bao gồm khoa Radio thiên văn
và Radar dùng trong việc vẽ bản đồ của những vẩn thạch bay ngang
trong không gian.
III. Những nhà máy của Mạng Lưới Viễn
thông Không gian
Mỗi một địa điểm trong ba (3) địa điểm
Viễn thông Không gian (DSN), đều được trang bị nhiều ăng-ten to
lớn và được thiết kế để có thể cung cấp tín hiệu truyền tin radio
liên tục, không ngưng nghỉ hay gián đoạn, giữa các phi thuyền không gian và địa
cầu. Tất cả ba nhà máy Viễn thông Không gian này, mỗi nơi đều có
ít nhất 4 trạm ăng-ten, mỗi trạm được trang bị một ăng-ten đĩa to
lớn, hình cong parabol và những hệ thống nhận tín hiệu radio
tuyệt bén nhậy có thể phát hiện được những tín hiệu radio rất yếu
từ một phi thuyền không gian xa xôi diệu vợi.
Những ăng-ten to lớn này là những máy
móc dành hết năng lực vào việc nhận dữ kiện từ phi thuyền không
gian và gửi mệnh lệnh cho phi thuyền không gian. Những giàn
ăng-ten này buộc phải diện-đối-diện chính xác vào chiếc phi
thuyền không gian, vì một giàn ăng-ten chỉ có thể “nhìn thấy” một
phần nhỏ rất li-ti của bầu trời – không không giống như khi ta
nhìn bầu trời qua một ống hút nước ngọt.
Để có thể nghe một tín hiệu không rõ,
được đánh đi từ một phi thuyền không gian, những ăng-ten được
trang bị những bộ khuyếch đại âm thanh, nhưng điều này lại vướng
phải hai vấn đề. Một, phẩm chất tín hiệu sẽ bị giảm vì tiếng ồn
phía sau của chính tín hiệu radio, hay tiếng rè của hầu hết các
sự vật trong vũ trụ tiết ra một cách tự nhiên, bao gồm mặt trời
và trái đất này. Tiếng ồn phía sau (nền) lại được khuyếch đại
cùng với tín hiệu radio nhận được. Hai, máy móc điện tử rất mạnh
trong lúc khuyếch đại âm thanh cho tín hiệu radio nhận được, lại
cộng thêm tiếng ồn của chính những máy điện tử này. Máy Viễn
thông Không gian (DSN) dùng kỹ thuật cao và tối tân, bao gồm việc
làm nguội máy khuyếch đại âm thanh xuống vài độ trên không độ, và
những kỹ thuật đặc biệt để mã hóa những tín hiệu để cho bộ phận
tiếp nhận tín hiệu (của DSN) có thể phân biệt được và tách rời
những tín hiệu lạ.
Các trạm ăng-ten được điều khiển ở xa
từ đài trung tâm tiếp nhận tín hiệu của mỗi nhà máy Viễn thông
Không gian. Các trung tâm được trang bị những hệ thống điện tử để
chỉ thẳng vào và điều khiển các giàn ăng-ten của nhà máy, đánh đi
các mệnh lệnh và thiết lập các dữ kiện về hàng không cho các phi
thuyền không gian.
Một khi những dữ kiện được phân tích
xong tại các nhà máy Viễn thông Không gian, những dữ kiện này sẽ
được gửi về phòng Jet Propulsion Laboratory của cơ quan NASA để
tiếp tục được phân tích và phổ biến đến các toán khoa học qua
những mạng lưới hệ thống truyền tin trên mặt đất.
IV. Các vị trí của Mạng Lưới Viễn thông
Không gian
Nhà
máy Úc-Châu cách thủ đô Căng-bé-ra (Canberra) 40km (25 dặm Anh)
về hướng tây-nam, gần khu thiên nhiên Tidbinbilla. Nhà máy
Tây-ban-nha cách thành phố Madrid 60km (37 dặm) về hướng tây tại
Robledo de Chavela. Nhà máy Goldstone đặt trong căn cứ quân sự
Hoa Kỳ, Fort Irwin Military Reservation, cách thành phố sa mạc
Barstow khoảng 72km (45 dặm) theo hướng đông-bắc, tiểu bang
California–Hoa Kỳ.
Mỗi nhà máy được xây trên những địa thế
núi–đồi thấp, vừa phải, và có hình vòng cung để che chở cho nhà
máy khỏi bị các tần số radio bên ngoài ảnh hưởng.
Bạn có thể đọc thêm đặc tính về các
giàn ăng-ten của Mạng lưới Viễn thông Không gian ở những link
dưới đây:
• Ăng-ten đĩa lớn nhất với đường kính rộng 70 mét (http://deepspace.jpl.nasa.gov/about/DSNComplexes/70meter)
• Ăng-ten đĩa lớn thứ nhì với đường kính rộng 34 mét (http://deepspace.jpl.nasa.gov/about/DSNComplexes/34meter)
• Ăng-ten đĩa lớn thứ ba với đường kính rộng 26 mét (http://deepspace.jpl.nasa.gov/about/DSNComplexes/26meter)
• Dãy ăng-ten (http://deepspace.jpl.nasa.gov/about/DSNComplexes/AntennaArraying)
• Thời khóa biểu/Giờ thăm viếng các Nhà máy Viễn thông Không
gian: (http://deepspace.jpl.nasa.gov/about/DSNComplexes/Visiting)
Chú ý:
các links trên hiện nay đã biến mất khỏi Vũ trụ
.
--bkt
Ban Kỹ Thuật Sưu tầm & phiên dịch
http://deepspace.jpl.nasa.gov
Bản
Anh ngữ
Deep Space Network (DSN)
Source:
http://deepspace.jpl.nasa.gov
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những
bài Liên hệ
Diêm Vương Tinh mất tước hiệu HÀNH TINH
Viễn Thông Không Gian Quốc Tế
Nhật thực tại Hoa Kỳ - 2017
NASA:
Tìm hiểu bên trong lòng Hỏa tinh
Phi thuyền Không gian NASA bay gần Mặt Trời
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
Ăng-ten đĩa DSN với đường kính rộng 34 mét
Mỗi nhà
máy VTKG (DSN) được trang bị nhiều Ăng-ten đĩa với đường kính
rộng 34 mét (tương đương 111 bộ Anh) [đây
là ăng-ten lớn thứ hai sau chiếc Ăng-ten rộng 70m.]
Giống như loại 70m, tấm kính phản chiếu của chiếc ăng-ten 34m này
được kiến thiết rất tỉ mỉ và chính xác để nó có thể tiếp nhận tín
hiệu tối đa.
Ăng-ten 34m có 2 loại:
Hiệu quả cao
và beam waveguide.
Điều khiến cho loại "beam
waveguide" đặc biệt hơn cả
là nó được gắn thêm 5 tấm kính phản chiếu tín hiệu radio chính
xác với ống dẫn từ giàn ăng-ten xuống tận căn hầm dưới lòng đất.
Kỹ thuật này cho phép các dụng cụ điện tử dễ bị hư hỏng vì thời
tiết được thiết
kế trong phòng chứa dụng cụ có gắn máy điều hòa không khí thay vì
phải đặt chúng ngoài trời, ngay dưới chân trung tâm của giàn ăng-ten
đĩa này. Cách sắp đặt này cũng đơn giản hóa công việc bảo trì và
tân trang các dụng cụ khi kỹ thuật cho phép.
Tất cả các
nhà máy VTKG khắp thế giới được trang bị một chiếc ăng-ten 34m
loại Hiệu quả cao
và 1 hay nhiều ăng-ten 34m thuộc loại "beam
waveguide". Riêng nhà máy
Goldstone-California
có 3 chiếc như thế, nhà máy tại
Madrid-Tây-ban-nha
có 2 chiếc, và nhà máy tại
Canberra-Úc châu
có 1 chiếc.
Antenna 34 Meters
Each DSN site has multiple 34-meter (111-foot) diameter antennas.
Like the 70-meter antennas, the reflector surface of this antenna
is precision-shaped for maximum signal-gathering capability.
The 34-meter antennas come in two types: a high-efficiency
antenna and beam waveguide antenna. What makes the beam waveguide
version special is the addition of five precision radio frequency
mirrors that reflect radio signals along a tube from the antenna
to a below-ground room. This design allows sensitive electronics
to be in a climate-controlled equipment room instead of outdoors,
at the center of the antenna dish. This configuration also
simplifies maintenance and modification of the equipment as new
technologies are developed.
All sites have one high
efficiency antenna and one or more 34-meter diameter beam
waveguide antennas: Goldstone has three, Madrid has two, and
Canberra has one.
Ăng-ten đĩa với đường kính rộng 70 mét (230 bộ)
Mỗi nhà máy Viễn thông Không gian được trang bị 1 ăng-ten khổng lồ như trên. Đây là loại Ăng-ten đĩa lớn nhất và rất bén nhậy được trang bị cho các nhà máy DSN quanh thế giới, nó có thể theo dõi một Phi thuyền không gian không người lái đang bay cách quả địa cầu hằng nhiều tỷ dặm (miles) hay cây số (kilometers).
70-meter Antenna
Each Deep Space Network, or DSN, site has one huge, 70-meter (230-foot) diameter antenna. The 70-meter antennas are the largest and most sensitive DSN antennas, capable of tracking a spacecraft traveling tens of billions of miles (kilometers) from Earth.
|
Hình nền: Bộ Ăng-ten của Cơ quan DSN Quốc Tế. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: BKT Sưu tầm, trình bày & Ấn loát
Đăng ngày Chúa Nhật,
September 3, 2017
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang