Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Sinh
hoạt GĐMĐVN/HN
Chủ đề:
Truy điệu 81 Tử Sĩ SĐND QLVNCH
Tác giả:
BS Vĩnh Chánh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Các
Anh thân mến,
Tất cả chúng ta đã trải qua cuộc chiến
cho Tổ Quốc. Đa số anh em chúng ta đã mang những thương tật trên
thân thể và những vết sẹo trong tâm hồn. Một số không nhỏ anh em
chúng ta đã bỏ mình cho Tổ Quốc. Hầu như tất cả chúng ta còn lại
cùng gia đình và bao người thân quen đều phải gánh chịu nhiều hư
hao mất mát, những gãy đổ phi lý, những điêu tàn cơ cực. Trong
khói lửa binh đao. Sau ngày buông súng. Trong trại tù tủi nhục.
Khi lênh đênh trên biển. Lúc làm lại cuộc đời trên xứ người. Hay
đành tiếp tục cuộc sống trong nhà tù lớn tại quê hương...
Có cuộc chiến nào mà không có đau
thương tàn phá. Có cuộc chiến nào mà không có chết chóc chia
phôi, không có nước mắt và máu. Và chen vào giữa đời lính luôn có
sự hiện diện của tình yêu. Vì chỉ duy nhất tình yêu mới có thể
giúp đỡ, cưu mang và nuôi dưỡng người cầm súng quên đi bao gian
khổ, bất chấp bao nguy hiểm thường trực, để sống sót vươn lên
trong thử thách bão lửa. Cho dù đó là tình yêu quê hương đất
nước, tình đồng đội sống chết bên nhau, tình nghĩa vợ chồng của
đôi chinh phu chinh phụ. Là cuộc tình thơ mộng hay tình sầu giữa
chàng lính chiến và em gái hậu phương, hoặc một chuyện tình đắm
đuối trong lần về phép rồi dở dang oan trái vì hai phương trời
cách biệt.
Tình yêu đó như thể một cánh hoa mọc giữa sườn đá. Một hơi ấm
giữa cơn mưa rừng. Một cứu cánh bên bờ vực chết. Một vị ngọt giữa
cái đắng, thần dược của nỗi đau trong đời chiến chinh. Một cái dù
bao la che chở khi ta bị thương tật. Và một ánh sáng chớp vào tim
trước khi nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng sau một tiếng nổ lớn.
Ôi! Người lính, tình yêu và nỗi chết.
Thử hỏi người trai nào sống trong thời chiến mà chưa một lần biết
đến những danh từ trên! Có người lính nào mà không một lần nghĩ
đến thân phận khi dấn thân vào sương gió?! Và còn gì tuyệt đẹp
hơn khi tình yêu đến trong địa ngục biển lửa, nơi mà sự nguy
hiểm, thử thách kề cận bên cái chết càng thôi thúc lòng tin yêu,
nỗi nhung nhớ đến tuyệt hảo. Vì trong tiếng thì thầm của tình yêu
thời chiến đã có sẵn chữ hy sinh. Vì khi tình yêu vừa len nhẹ vào
đời người lính nó đã mang theo mầm mống của lo sợ tan vỡ, của mất
mát chia ly và chết chóc. Những tình cảm dạt dào thắm thiết của
chàng nơi sương gió thương nhớ em ở làng xa, “chiều chiều ngoài
biên cương, nhìn ra khơi ngàn sóng biếc mơ đến em bên bến sông
buồn trông chờ” Là những thơ tình trang trải nỗi nhớ nhung của
nhau. Những hẹn hò quý báu trong những ngày nghỉ phép ngắn ngủi.
Những tâm sự thầm kín, những dự tính thơ mộng, những nụ hôn gắn
bó, những hiến dâng tự nguyện. Để nhiều khi, những cuộc tình ấy
đơm hoa kết nụ theo tháng ngày chinh chiến, cho dù về sau “...
anh trở về bại tướng cụt chân”; hay cuộc tình vỡ tan khi tin em
sang ngang đến giữa tiếng bom đạn. Và đôi khi cuộc tình bị chém
ngang tim với tin dữ chàng vừa gục ngã nơi một tiền đồn không
tên, rơi nhẹ vào chốn miên viễn không hận thù, bỏ lại cuộc đời
trai trẻ và “người tình còn đó anh nhớ không anh”.
Trong thử thách, gần với nỗi chết, tình
yêu nơi người lính càng sáng ngời hoa mộng, mang đầy từ tâm. Là
nơi bám víu giữa những lằn chớp của bom đạn. Là nhung nhớ lơ lửng
giữa nguy hiểm. Là bao nhiêu lần mơ đến em. Là bấy nhiêu lần
nguyện cầu khi không biết phải làm gì hơn. Là cảm nhận hạnh phúc
tuyệt vời dù chỉ với lá thư tình mang trong ba-lô hay một tin
nhắn của người yêu từ phương xa. Hoặc đơn giản hơn là những bộc
lộ thiết thực khi cảm nhận thiếu vắng em, những ao ước được dạo
phố bên em, những cơn mê thèm ôm em. Ngay giữa những tiếng nổ.
Giữa những đêm khuya trắng mắt. Trong những cơn say chưa đủ say.
Khi không biết ngày mai sẽ ra sao:
“Mấy tháng rồi tao chưa thấy Sài Gòn
Mấy tháng rồi tao không được ôm em
Tao
thèm làm tình như tao thèm sống
Tao thèm
hôn em, hôn liên miên...”
*Mưa và Nỗi Chết ở An Lộc – Tác giả
Nguyễn Tiến Cung
Trong truyện “Một Thời Để Yêu, Một Thời
Để Chết” mà tôi tình cờ đọc lại trong thời gian chờ ra đơn vị,
tại bệnh viện Đỗ Vinh, một câu truyện về người lính, tình yêu và
sự chết xảy ra như bao câu chuyện tương tự trong cuộc chiến hiện
tại, nhưng không hiểu vì lý do gì cuốn truyện bấy giờ đã để trong
tôi một ấn tượng sâu đậm. Có thể vì đó là thời gian tôi đang chơi
vơi đeo đuổi mối tình đầu đời ở tuổi hai mươi sáu. Giữa những
giường bệnh, giữa những tiếng rên đau, chửi thề, nghiến răng của
thương binh, trong mùi ẩm ướt của sàn nhà, mùi bông băng thấm máu
và của thuốc men, tôi chứng kiến bao nụ cười hạnh phúc của các
đồng đội thương binh kề cận, do những người mẹ, người chị hay em,
hoặc người tình đem đến. Là những thức ăn quen thuộc do nhà nấu,
trái cây tươi mát đưa tận miệng. Là những e ấp nắm tay, những an
ủi trìu mến. Là những ánh mắt thương cảm, ưu buồn lo lắng khi
nhìn thấy vết thương nặng của người thân. Là những thăm hỏi, hay
đôi khi chỉ là những câu nói bâng quơ, dù ngồi hằng giờ bên cạnh
giường. Là những gói thuốc lá, ly cà-phê đá, những chiếc khăn
tay, những cuốn truyện từ các em gái hậu phương đem đến...
Trong “Một Thời Để yêu, Một Thời Để
Chết”, chàng lính Đức Erust Graeber về thăm nhà lần đầu tiên sau
2 năm ở chiến trường miền Đông. Dưới khung cảnh đổ nát của thị
trấn mình liên tục bị Đồng Minh oanh kích, anh tìm thấy được tình
yêu với nàng Elizabeth Kruse, một người quen xưa của gia đình.
Một tình yêu mãnh liệt giữa 2 con người không còn gì để phải sợ
mất mát đã nảy mầm giữa tiếng bom đạn và chết chóc rồi vươn lên
thắm thiết giữa nồng nàn ân ái, khắc khoải, âu lo trong nỗi buồn
mênh mang vô định của có nhau hôm nay, mất nhau ngày mai. Thay vì
đào ngũ, Erust quyết định trở lại đơn vị để rồi gục ngã bởi viên
đạn do chính những tên du kích Nga anh vừa thả ra, khi tay anh
đang cầm lá thư của vợ báo tin có thai con mình. Truyện được kết
thúc bằng một câu ngắn gọn “Đôi mắt chàng khép lại”. Khép kín
luôn cả một khung trời, một giấc mơ hiền hòa bình dị vụt biến đi
khi cái chết đến quá nhanh và phi lý. Dửng dưng. Không một dấu
than. Không một dấu hỏi. Như một giọng hát soprano đang ngân lên
thật mạnh và cao vút, bỗng đột nhiên ngưng...
Các Anh thân mến,
Thương tật hay chết chóc là chuyện
không một ai mong muốn nhưng vẫn phải chấp nhận khi trời gọi ai
nấy dạ. Cái chết đôi khi đơn độc trong tiểu đội khinh binh, đôi
lúc vài ba mống cùng một lúc khi trung đội tiến chiếm mục tiêu.
Có khi đi đoong luôn gần cả nửa đại đội vì bom bạn thả lầm, hay
nhiều hơn nữa khi tiểu đoàn bị tràn ngập... Có cái chết đến nhanh
sau một tiếng nổ lớn, có cái đến từ từ, quằn quại trong đau đớn.
Có cái chết thật tức tưởi oan nghiệt, có cái vì can đảm đỡ đạn
cho đồng đội bên cạnh. Người lính chết trong từng hố cá nhân, hay
chung với nhau trong các đợt xung phong với xác quan và quân sát
bên nhau, rải rác đây đó trên các nẻo đường đất nước. Chết toàn
thây hay thân xác nổ tung? Chết mất tích trong bụi bờ, trên đường
di tản, hay được chở về tận nhà trong hòm nhôm? Tuy nhiên chết
trận quả thật ít khi được êm ả như cái chết của chàng Erust.
Để có thể hình dung gần cả trăm binh sĩ
cùng chết một lần với nhau, xin hãy hồi tưởng đến câu chuyện một
đại đội binh sĩ Nhảy Dù chết một lúc. Không phải trong khi chiến
đấu chống quân thù như họ từng mong ước, cũng không phải trong
một lần xung phong thẳng vào tuyến địch. Ngược lại, là cái chết
tức tưởi trong một cuộc không vận từ chiến trường này đến một mặt
trận khác. Phi cơ đang bình phi bỗng đầm sầm vào bờ núi phủ kín
sương mù. Không một đèn đỏ nhá lên như khi người lính Nhảy Dù
chuẩn bị bung mình ra khỏi phi cơ, không một dấu hiệu trục trặc
động cơ hay khói tỏa trong thân máy bay. Và đây chẳng phải là một
cái chết như mơ. Ngược lại một cái chết kinh hoàng đổ ập cùng một
lúc lên mọi người. Sau một tiếng nổ lớn, phi cơ tan vụn thành
nhiều mảnh giữa những tiếng la hét trong phút chốc. Rồi lửa và
lửa. Cháy và cháy. Những tiếng nổ phụ. Có những thân hình tung
bay tứ phía, va chạm, gục ngã trong thân máy bay. Có nhiều người
chết liền, thân thể cắt nát bởi các mảnh kim loại. Có những người
chết hai lần, thân hình nát bấy do đạn và lựu đạn mang trên người
nổ thêm. Có những kẻ oằn oại dăm ba phút trước khi lìa đời. Hay
đau đớn hấp hối cả tiếng đồng hồ bên ngoài phi cơ, khi thân xác
văng xa trên triền núi, máu ướt đẫm cỏ rừng trước khi vĩnh viễn
nhắm mắt. Một cái chết bình đẳng dưới mọi hình thức cho cả quan
lẫn quân. Cho cả 4 phi hành đoàn người Mỹ lẫn 81 quân nhân người
Việt của Đại Đội 72 thuộc TĐ7 Nhảy Dù.
Các chiến sĩ trong Đại Đội 72 là những
ai? Họ là những chàng trai trẻ đi theo tiếng gọi non sông, tình
nguyện nhập ngũ, động viên, kẻ trước người sau rời xa mái trường,
quê nhà và người thân lên đường tòng quân bảo vệ đất nước. Họ
thuộc mọi thành phần của xã hội tự do miền Nam, đến từ mọi nẻo
đường, từ những chốn xa xôi hẻo lánh hay đô thị đông người, suốt
từ Đông Hà Quảng Trị khô cằn tuyến đầu, ngang qua Cố Đô Huế rồi
đến duyên hải nắng đẹp miền Trung, lên tận cao nguyên rừng xanh
âm u, quanh quẩn thủ đô Sài Gòn–Gia Định mến yêu, xuyên qua những
mảnh đất phì nhiêu mầu mỡ của đồng bằng Cửu Long đến tận Cà
Mau... Bao gồm mọi tôn giáo, với đầy đủ giọng nói ba miền
Nam-Bắc-Trung, đồng một lòng sát cánh chiến đấu bên nhau. Họ xuất
thân từ trường Thiếu Sinh Quân hay các Trung Tâm Huấn Luyện quốc
gia Thủ Đức, Quang Trung, TT Huấn Luyện Nhảy Dù...
Những người lính ấy đồng thời cũng là
anh em trong cùng một gia đình, là con chú con dì trong dòng họ,
cùng làng xóm phố phường, là bạn học cùng trường, từng quen biết
nhau hay xa lạ nhưng cùng một lý tưởng, là những người con ưu tú
tình nguyện gia nhập quân đội VNCH để chống trả kẻ thù xâm lăng.
Vì là lính Dù, họ đều có chung một tần số: thích mạo hiểm, thích
xông pha, thích thử thách. Thương yêu Tổ Quốc. Trọn vẹn với nước
nhà. Chí tình với đồng đội. Thích lối sống hào hùng, nay đây mai
đó, là người của mây bốn phương trời, hoặc xanh cỏ hay đỏ ngực.
Đi đông về ít. Đi có về không. Đồng mang nặng một tinh thần trách
nhiệm cao độ, một tinh thần thượng võ hào hùng và một kỷ luật
thép vô cùng nghiêm minh. Có sức chịu đựng bền bỉ, có khí phách
của một nam nhân bất khuất, dũng cảm và gan dạ, sẵn sàng bảo vệ
danh dự màu cờ sắc áo.
Đó là Trung úy Phan Ngọc Bích, người Đại Đội Trưởng, nước da ngăm đen của miền cát trắng Nha Trang, xuất thân từ trường TH Võ Tánh và tốt nghiệp khóa 15 Thủ Đức. Anh vào quân ngũ đơn giản vì nặng lời thề “làm trai thời loạn khi đất nước lâm nguy”, đang chống trả với quân thù được nuôi dưỡng bởi lòng hận thù của chủ nghĩa CS xâm lăng sắt máu. Ngày mãn khóa, anh tình nguyện vào Nhảy Dù vì yêu thích tác phong oai hùng của các Thiên Thần Mũ Đỏ. Qua mấy năm tôi luyện ở TĐ3ND, anh được thuyên chuyển về TĐ7ND sau trận Đồng Xoài và nắm ĐĐ72ND trong cuộc hành quân tháng 12, 1965.
Đó là Hạ sĩ nhất Nguyễn Thanh Xuân,
người anh cả trong một gia đình gồm có
một em gái và một em trai,
từ làng Kế Môn, Thừa Thiên, đầu quân vào Nhảy Dù sau lần đi xem
Nhảy Dù biểu diễn trên sông Hương. Trong chiến dịch Mùa Mưa tại
Cao Nguyên, HS Xuân có được cơ hội về thăm em gái mình “Anh ghé
thăm tôi ở Pleiku, tặng tôi chiếc nhẫn vàng tây 2 phân ngay trước
ngày anh bay đi Tuy Hòa...” bà Nguyễn Thị Hạnh nhớ lại (Báo
NV/Houston, ngày 27 tháng 9, 2019)
Đó là Thiếu úy Dương Văn Chánh, sinh
ngày 8 tháng Giêng, 1940 tại Thanh Hóa. Th. úy Chánh là em út
trong gia đình 5 anh chị em vốn có liên hệ với Quân Đội nói chung
và Nhảy Dù nói riêng, với chị cả là Chuẩn úy Nhảy Dù Dương Thị
Kim Thanh, tức phu nhân của Cố Thiếu tướng Trương Quang Ân, cựu
chiến đoàn trưởng Chiến Đoàn 2 Nhảy Dù, và sau này là cựu Tư Lệnh
Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Thời trung học, Dương Văn Chánh theo học
trường Chasseloup–Laubat, rồi Tabert Sài Gòn và là một Tráng Sinh
của Hướng Đạo VN. Chánh có vóc người tầm thước, da ngâm đen, rắn
rỏi, giọng khàn khàn, tánh tình vui nhộn ưa đùa giỡn và nghịch
ngợm với gia đình, tuy nhiên kín đáo khi ra bên ngoài. Anh rời
trường Luật sau một năm học, lên đường tòng quân, vào Thủ Đức,
tốt nghiệp khóa 18 vào tháng 3, 1965 và chọn Nhảy Dù. Được điều
động về làm Trung đội trưởng của TĐ7ND, anh may mắn chỉ bị thương
khá nặng ngay trận đầu đời lính của mình tại Đồng Xoài vào tháng
6, 1965, khi Anh vừa bò ra khỏi hầm thì một trái pháo súng cối
địch rơi vào hầm giết chết 2 bình sĩ trong đó, mọi người chung
quanh đều tưởng cả 3 người đã tan xác nên báo cáo Chánh tử trận.
Th. úy Chánh và một số chiến sĩ Nhảy Dù đã lẩn trốn trong rừng, 3
ngày sau họ mới có thể trở về trình diện với đơn vị. Trong thời
gian dưỡng thương, anh về ở với gia đình cha mẹ, gần Bệnh Viện
Chợ Rẫy. Đó là lần cuối cùng gia đình nhìn thấy anh trước khi anh
lên đường tham chiến tại Cao Nguyên.
Và đó là các quân nhân Trần Hồng, cùng
quê hương xứ sở với Hạ sĩ nhất Nguyễn Thanh Xuân, Lê Văn Bình,
Trần Quý, Nuôn Châu, Trần G.O., Trần Văn Thân, Lê Văn Hòa, Nguyễn
Tuyết Thi, Lê Nguyên Thu, Nguyễn Văn Tài, Lâm Sỹ Đan, Lê Văn
Suyên, Đỗ Văn Diên, Trần Văn Thân, Nguyễn Tài Văn, Nguyễn Tường
Văn, Đỗ Văn Linh, Thy... mà tên và số quân được tìm
thấy trên các thẻ bài trong 17 bao thu hồi hài cốt tháng 6, 1974.
(tác giả
Nguyễn Quân / 81 chiến sĩ ĐĐ72, TĐ7ND tử nạn trên chuyến bay
C–123 của Không Lực Hoa Kỳ – Dòng Sông Cũ/ May 6, 2019)
Và còn lại là các chiến sĩ vô danh mà
hài cốt, hoặc nằm chung với nhau trong 17 bao chứa, hoặc tan tác
thành tro bụi theo thời gian, rải rác trên sườn núi, hay vẫn còn
trong thân máy bay, quá nguy hiểm cho lục soát tìm kiếm vì nhiều
lựu đạn và đầu đạn M79 chưa nổ.
Vậy những người yêu của lính hoặc những
cô gái mà người lính đeo đuổi si tình là ai? Phải chăng họ là em
gái của thằng bạn nối khố, là người con gái lớn lên trong cùng
xóm, cùng một thị trấn, ở làng bên cạnh, trong một quận lỵ, một
trường tiểu trung học, trên thềm đại học, cùng chung nhóm bạn. Là
người quen biết trong gia đình. Là em thím Tư, là cháu mợ Ba, là
bạn thân của nhỏ em, con gái ông Thượng sĩ trong trại gia binh.
Là những o thôn nữ mộc mạc đơn sơ trong chiếc áo bà ba trắng xanh
đỏ tím vàng gặp trên đường chinh chiến khi dừng chân uống nước ở
ven đường Anh nhìn thấy...
Em là người con gái Anh chưa quen biết
nhưng chợt thấy giữa nhóm bạn cùng trang lứa trong quán chè, quán
kem... đang ăn vặt bò bía, phá lấu nước mía ở góc đường, hoặc là
những thiếu nữ dung dăng dạo phố Nguyễn Huệ, Thương Xá Tax mà Anh
muốn tìm quen theo về tận nhà. Em cũng là người em hậu phương đến
choàng vòng hoa chiến thắng “trong ánh vinh quang rộn ràng, anh
bước hiên ngang về làng”, là người mà Anh tình cờ bắt gặp có một
đôi mắt long lanh thơ ngây, đôi má hây hây và một nụ cười hồn
nhiên khiến Anh bỗng vương vấn trong một chiều rực nắng. Đó là
một mái tóc mây hồng nghiêng nghiêng sau vành nón trên cầu Trường
Tiền khiến Anh mê mẩn dù lời nói khó hiểu “mô tê răng rứa – anh
đừng đi gần tui mà tui ốt dột. Mạ tui thấy la tui đó!” Hay là một
cô bé tóc ngắn có dáng nghịch ngợm chạy xe honda với câu nói thật
ngộ “Tui hổng chịu đâu – Dzậy sao?!” Là một tà áo tím nên thơ với
giọng nói nhẹ như gió thoảng của “cô em Bắc Kỳ nho nhỏ”... Là
người cho Anh bao nỗi nhớ, bao vấn vương. Bao mộng ảo, diệu kỳ.
Rồi chuyện tình của họ như thế nào?
Cũng ngập ngừng, cũng lo sợ, lãng mạn và say đắm. Cũng liều lĩnh,
bất chấp, nhanh chóng và thương đau. Đột ngột và lâng lâng tự
nhiên đến như thể “nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, bằng mây nhè
nhẹ gió hìu hiu!” Như một cơn “gió thoảng xa xôi, gió nào rung
động tim tôi, hay là dư âm suốt đời!” Hay nhẹ nhàng buông thả trữ
tình của “chưa nắm tay em mà lòng đã yêu, chưa uống môi em mà
tình đã say!” Tình lính thường long đong ray rứt. Yêu trong vô
vọng. Yêu trong cuồng si. Yêu trong chớp nhoáng. Tình lính “tính
liền” với đám cưới trong ba ngày phép trước khi ra lại đơn vị.
Anh biết chăng Anh, em yêu Anh vì yêu
dáng phong trần hiên ngang của Anh, yêu luôn cả mũ đỏ thiên thần
và bộ đồ hoa dù? Có thấy chăng Anh, em yêu cái nhìn nồng nàn, đôi
mắt rực lửa, nụ cười rạng rỡ với giọng cười sảng khoái của Anh?
Như một Ngọc Lan, cô bé Bắc Kỳ của mùa Thu tóc ngắn, yêu sự chìu
chuộng săn đón của Thiếu úy Dương Văn Chánh, yêu luôn cả con
đường từng chung lối, yêu vòng tay siết chặt, nụ hôn nóng bỏng
mang theo mây trời và giông bão vào đời mình. Phải chăng Ngọc Lan
đã từng mong đợi những lá thư tình đơn sơ gởi từ KBC xa lạ?! Đã
thích nghe Anh kể chuyện đời quân ngũ, xông pha ngoài trận tuyến.
Yêu Anh, em đành thương luôn cả đầu tóc húi cao caré, làn da đen
thui khét nắng và luôn cả mùi ẩm mốc của bộ đồ trận. Và từ khi em
là người yêu của lính, em biết yêu nhạc lính, yêu màu tím hoa
sim, biết lo sợ thấp thỏm đợi chờ tin Anh. Là biết cầu nguyện Ơn
Trên gìn giữ Anh và theo dõi bước chân Anh qua những đêm trằn
trọc khó ngủ. Anh biết chăng Anh khi yêu Anh là em chấp nhận
những ngày cô đơn xa Anh, những chiều dạo phố một mình? Là ráng
làm quen với tên xa lạ của những nơi Anh bước qua, là đến thăm
Anh ở hậu cứ hay trong quân y viện.
Phải chăng Nha Trang từng đã ghi dấu
mối tình học trò trong trắng của một Phan Ngọc Bích và bạn gái
cùng trường Võ Tánh của mình? Phải chăng chị Phạm Thị Ngọc Thủy
khi nhận làm vợ của Phan Ngọc Bích là chấp nhận thương đau thua
thiệt? Là chắt chiu với tiền lính là “tính liền”. Có biết chăng
rồi đây chị sẽ đếm những ngày xa chồng, sẽ sống tại hậu cứ ở Biên
Hòa trong căn phòng nhỏ lợp tôn với hai quả tim đồng, và đành phó
mặc tương lai cho số phận? Biết chăng chị khi lấy chồng lính là
có ngày chị lỡ làng đời mình? Là có ngày chị phủ phục với 2 con
còn thơ dại ở lứa tuổi 4 và 2 tuổi trước linh vị của chồng nhưng
chẳng có lấy xác chồng để tiễn đưa? Mà đành tê tái, tủi thân với
những dòng lệ tuôn rơi và những lời thì thầm yêu đương!
Các Anh thân
mến,
Trong
giây phút phi cơ lâm nạn, người lính trận trẻ tuổi có kịp chăng
Anh kêu lên Mẹ ơi, như Anh đã từng làm lúc còn ở với Mẹ những khi
anh bị đau ốm hay khi vấp ngã? Nhớ chăng Anh những bước bình an
bên cạnh Mẹ trên con đường làng? Có nhớ chăng Anh lời nói yêu
đương tỏ tình của Anh với người thôn nữ trên đường hành quân lần
trước? Có đủ chăng Anh thì giờ nghĩ đến người vợ bé bỏng cùng hai
con thơ luôn trông ngóng chờ đợi Anh nơi hậu cứ? Hay có kịp thấy
chăng Anh nụ cười ánh mắt của người em nhỏ Anh đang yêu mà anh
đành bỏ lại tại Gia Định khi bước vào chinh chiến?! Và có đủ
chăng Anh, người Hạ sĩ nhất Nguyễn Thanh Xuân, vài giây để mỉm
cười khi biết mình đang nhẹ nhàng bay đến gần người vợ mới cưới
bị trúng mìn chết trong lần về thăm gia đình vừa xảy ra 2 tháng
trước chuyến hành quân này?
Người chết trận chính thức giã từ vũ
khí. Họ thật sự là những anh hùng đã đi vào huyết sử của dân tộc,
là hồn thiêng của sông núi, là huyền thoại của đất nước. Không có
gì cao quý hơn khi chết trận. Chết trận là chết không một than
vãn. Không một ai oán. Không có lấy một lời trăn trối cho người
yêu, không kịp một lời xin lỗi với vợ dại con thơ ở nhà. Nhưng
khi người lính nhắm mắt buông xuôi, tình yêu vẫn luôn hiện hữu
trong ánh sáng vĩnh cửu của tin yêu, trong tình thương nhớ vô vàn
của đồng đội và gia đình. Họ vĩnh viễn là cánh gió tung bay trên
vạn nẻo đường đất nước.
“Mày nghĩ, tụi mình như cánh gió
Ai đi nhốt gió được bao giờ?”
** Lá Thư Pleime – Thiếu úy Dù Lê Anh
Thái
Khi một
người buông tay. Một người ngã. Một thoáng yêu nhau, Một thoáng
ngậm ngùi, thì các bạn thân ơi, là những người sống sót qua cuộc
chiến nay tạm dừng bước giang hồ, chúng ta cần phải ngồi lại bên
nhau, xích sát vào nhau hơn nữa. Cho tình đồng đội vẫn trung tín.
Cho khí thế vẫn dũng mạnh. Để tiếp tục đồng hành với nhau và
chung sức giữ đời cho nhau. Trong tinh thần anh em đoàn kết một
nhà. Trong tinh thần Cố Gắng Nhảy Dù muôn thuở:
Xin cùng nhau đốt nén nhang, nghiêng
mình cầu nguyện cho anh linh 81 tử sĩ Nhảy Dù được an nghỉ ngàn
thu.
Một lời
tạ lỗi trong chua xót đến các Anh khi đất nước các Anh chết cho
chính nghĩa nay không còn nữa. Dù lòng người tại Hải Ngoại, dù
đồng đội các Anh luôn tiếp tục sát cánh dưới cờ Vàng Ba Sọc Đỏ.
Một lời xin lỗi các Anh phải chờ đến cả
54 năm mới thật sự nghỉ ngơi trong ngôi nhà mới. Một ngôi nhà ấm
cúng, ngay trong lòng thành phố luôn tràn ngập cờ VNCH. Bên cạnh
những người thân yêu, những đồng đội xưa cũ và những đồng hương.
Như thể tại một nước Việt Nam thứ hai bên ngoài lãnh thổ của xứ
VN CS.
Một lời
tạ lỗi đến các cô nhi quả phụ bị quên lãng trong bao năm, những
người đã chịu những nỗi đau, những mất mát và những chấn thương
không chảy máu ròng rã trên cả nửa thế kỷ.
Một lời tạ lỗi khi thân nhân các Anh
không hiện diện đầy đủ trong ngày tiễn đưa các Anh – vì phương
tiện thông tin không thể hoàn hảo với danh sách tử sĩ đa số vô
danh.
Một lời
cám ơn chân thành và sâu đậm cho đất nước Hoa Kỳ đã cưu mang
chúng ta, những người Việt tỵ nạn CS, và đặc biệt Thượng Nghị Sĩ
Jim Webb, mệnh danh là bạn của người Việt, đã cho phép Gia Đình
Mũ Đỏ dự vào phần truy điệu, vinh danh và chôn cất các anh em của
mình, 81 Tử sĩ Nhảy Dù của Việt Nam Cộng Hòa, qua quỹ “The Lost
Soldiers Foundation” mà trước đây chưa bao giờ có sự kiện Tử sĩ
không phải là công dân Mỹ được chôn trên đất Mỹ.
Nếu nước mắt chúng ta có rơi trong ngày
đưa tiễn các Anh, xin hãy tự nhiên – Vì đây là những giọt lệ đồng
cảm trân quý của đồng đội từng sát cánh hay nối gót các Anh trong
lý tưởng chung – Vì đây là dòng lệ từ các thân nhân các Anh tuôn
trào vì cảm thương người thân yêu của mình biền biệt ra đi nay
bình an yên nghỉ sau một thời gian dài lạnh lẽo không bờ bến.
Nếu ánh nến có lung linh trong đêm
nguyện cầu, hãy xem như những tiếng đập con tim tưởng nhớ và tri
ơn các Anh. Như những lời thì thầm cầu kinh thương xót các Anh.
Hồn anh linh đã về nơi tiên cảnh
Trong quan tài ôm kín xác chiến binh
Anh
ra đi vì nước quên thân mình
Nơi đất
khách em ngậm ngùi tiễn biệt
Dẫu tha hương bao nhiêu người dân Việt
Đón anh về giọt nước mắt tiếc thương
Hỡi
anh linh người chiến sĩ can trường
Mầu
mũ đỏ, áo hoa dù bất diệt
Thân xác anh đã về nơi miên viễn
Hãy bình yên trong giấc ngủ ngàn thu
Tạ
ơn anh, những chiến sĩ Nhảy Dù
Đã dâng
hiến một đời cho Tổ Quốc
(Lời Tri Ân Người Lính – Thái Thị Liên)
Xin hãy hiệp thông cầu nguyện Ơn Trên
phù hộ và gìn giữ gia đình các Tử sĩ.
Xin Ơn Trên cho quê hương Việt Nam sớm thoát gông cùm CS.
Xin Ơn Trên gìn giữ bạn và gia đình bạn.
Cám ơn đời cho chúng ta vẫn còn có nhau.
Để, nếu có ngày về thăm nơi các Anh đã
nằm xuống trong chốn hoang sơn, chúng ta sẽ thắp nhang mời hương
linh các Anh dự tiệc, cùng nhau tâm sự chuyện đời, giữa tiếng rì
rào của núi rừng và hương dại của những chùm hoa thạch thảo.
Xin hãy cho tôi một lần đứng chào
Những người bạn đã nằm xuống nơi xưa
Xin
hãy cho tôi một lần trở lại
Bung cánh Dù
ngạo nghễ năm xưa...
https://www.youtube.com/watch?v=0TlQiarvnEc
Vĩnh Chánh,
Ngày 11 tháng 10, 2019
Tác giả ghi chú:
** Chân thành cám ơn chị Thái Thị Liên,
cư dân Orange County, đã sáng tác bài thơ “Lời Tri Ân Người Lính”
để riêng tặng cho bài viết này.
*** Vô cùng cám ơn GS Dương Văn Hóa,
bào huynh của Thiếu úy Dương Văn Chánh, nhà văn Phạm Tín An Ninh,
Trung tá Bùi Đức Lạc, Thiếu tá Nguyễn Văn Triệu, Đại úy Hoàng Tấn
Kỳ... đã giúp cung cấp nhiều thông tin, hình ảnh quý giá sử dụng
trong bài viết. Với lòng quý mến.
**** Trân quý nghĩa cử hào hiệp của vợ
chồng BS Nha Khoa Lý Văn Kim & Thúy Hà, New York, hội viên Hội Y
Khoa Huế Hải Ngoại, đã bảo trợ mua 400 cuốn sách “Tháng Ngày Tao
Loạn” của tác giả Vĩnh Chánh, để giúp gây quỹ truy điệu, vinh
danh, chôn cất và xây dựng tượng đài cho 81 Tử sĩ Nhảy Dù. Tấm
ngân phiếu $8,000.00USD đã được trao tận tay cho Y sĩ Thiếu tá
Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ Tịch Gia Đình Mũ Đỏ Trung Ương và Đại úy
Hoàng Tấn Kỳ, Chi Hội Trưởng Chi Hội Mũ Đỏ Nam CA & Phụ Cận, vào
đêm Đại Hội 39 của GĐMĐ, ngày 30 tháng 8, 2019 tại Khách Sạn
Delta Marriott, Garden Grove. Với lòng mến phục.
Nguồn:
https://vvnm.vietbao.com/a247334/loi-tam-su-cung-cac-anh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Những trang liên quan
Con gái phi công lái máy bay chở 81 lính Nhảy Dù bị rơi năm 1965...
Lễ Truy điệu 81 Tử sĩ TĐ7ND tại Tượng Đài Việt-Mỹ Dallas, TX
Lời Vĩnh Biệt Muộn Màng Dành Cho Người Bạn Nhảy Dù
Phóng sự Lễ Truy Điệu 81 Tử Sĩ Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù QLVNCH
Thiệp Mời Tham dự Lễ Truy Điệu 81 Tử Sĩ Nhảy Dù
Văn Tế 81 chiến sĩ Nhảy Dù lâm nạn năm 1965
Chương trình Lễ Tưởng Niệm, Thắp Nến Cầu nguyện và Hát cho Người Nằm xuống: 27/10/2019
Chương trình Lễ Truy Điệu và An táng Hài cốt của 81 Tử Sĩ Nhảy Dù: 26/10/2019
Tưởng Niệm 81 Chiến Sĩ Dù QLVNCH
Thông báo Lễ Truy Điệu & An táng Hài cốt của 81 Tử sĩ TĐ7ND QLVNCH
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
Dù T–10
SĐND–QLVNCH
dùng trong thời chiến
|
Hình nền: Lũy Tre Làng. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by ptan chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy,
October 19, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang