Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
bút
Chủ đề:
Lính
Tác giả:
BS Vĩnh Chánh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời Tác giả: Để tưởng nhớ đến các chiến sĩ đã hy sinh trên Chiến Trường Việt Nam và mến tặng các BS. Quân Y của Quân Lực VNCH, đặc biệt các đàn anh trong Tiểu Đoàn Quân Y Nhảy Dù và các y sĩ tiền tuyến từng sát cánh với các đơn vị tác chiến. –Vĩnh Chánh
Một
cuối tuần đầu thu, có một cuộc hội ngộ nhỏ QYND diễn ra ở quán cà
phê Mưa Rừng trong buổi sáng mát lạnh tại Little Saigon. Với sự
hiện diện của niên trưởng Trần Tấn Phát, quý đại ca Phạm Gia Cổn,
Mai Minh Chí, Nguyễn Mậu Trinh đi cùng anh vợ là Bửu Khải, tức
họa sĩ Nguyên Khai và người bạn Nguyễn Đình Cường.
Ngồi bên nhau, BS. Cổn tình cờ đọc cho
tôi nghe vài câu thơ của BS. Trần Đức Tường. Tò mò kích thích, về
nhà lục soạn kho bài cũ trong tháng 8, 2010 của web svqy.org, tôi
tìm thấy bài thơ “Tiễn Anh” do y sĩ Thiếu tá Trần Đức Tường, Tiểu
Đoàn Trưởng TĐQY của Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH, là “Đích Thân” của
tôi trong thời gian tôi phục vụ TĐQYND, sáng tác khi lần đầu tiên
tham dự cuộc hành quân với đơn vị tác chiến trong chức vụ y sĩ
trưởng TĐ3ND. Bài thơ đã được phổ nhạc bởi Y Sĩ Đại úy Phạm Gia
Cổn, nguyên y sĩ trưởng TĐ1ND, là đơn vị tác chiến lẫy lừng mà
tôi đến nhậm chức hai năm sau.
Đây không phải là một bài thơ hay khúc
nhạc diễn tả sự từ giã “Lên xe tiễn em đi, chưa bao giờ buồn thế”
hay nói lên sự sầu vương của chia lìa trong tình yêu “Giờ vĩnh
biệt tôi ngại ngùng không nói. Không dám nhìn đôi mắt nhỏ ngây
thơ”. Đây cũng không phải là bài thơ soạn theo lời kể chuyện hay
thuộc loại phóng sự chiến trường. Đây chính là một bài thơ “sống”
với “cảm xúc thật”. Bởi chính tác giả đã làm nhân chứng trước một
cái chết hào hùng ngay tại mặt trận khi tiếng súng đang còn rền
vang. Với tất cả sự cẩn thận tinh tế của một bác sĩ, lòng kính
trọng đối với người quá cố và lời nguyện cầu kín đáo, người y sĩ
tiền tuyến dang rộng tay tiếp nhận xác của đồng đội đã tử thương
trước khi đến lều cấp cứu, ôm choàng thi thể, dù chỉ để vuốt mắt,
thấm đi dòng máu tươi đang còn rỉ, chùi rửa băng bó vết thương.
Trong khi bên ngoài chiến sự vẫn còn
tiếp diễn, dưới ánh sáng nhảy múa của hỏa châu và trận pháo, tác
giả nằm sát trong hố cá nhân ghi vội những cảm nghĩ đầy xúc động
của mình, thể hiện tình cảm thiêng liêng giữa những người từng
sát cánh chiến đấu bên nhau trong tinh thần frères d’armes.
Tôi đọc bài thơ “Tiễn Anh” bằng mắt,
rồi bằng tiếng. Lúc đầu chỉ ư ê, rồi lớn dần. Tôi lập lại nhiều
lần, và nhiều lần hơn nữa. Tôi dừng lại ở từng chữ một của mỗi
dòng để cố hình dung khung cảnh trận chiến ngày hôm ấy, ráng soi
thấu tâm trạng của anh Tường trong lần baptême de feu này. Sự xúc
động mãnh liệt thế nào để Anh sáng tác bài thơ ấy.
Những câu thơ bảy chữ, ngắn nhưng đủ để
diễn tả cái chết bất ngờ đột ngột đến trong những giây phút đầu
tiên của trận chiến. Với lời thơ chính xác, đau xót nhưng khí
khái và sắc bén như mũi nhọn đâm thẳng vào lòng người.
Nhảy xuống cùng tôi trên trận này
Hờn lên khóe mắt, súng cầm tay.
Ai ngờ
trong đợt xung phong ấy
Anh chết khi nào
anh chẳng hay
Vì không trực tiếp phỏng vấn “Đích Thân”, tôi đành phải một mình
mường tượng hình ảnh những chiến binh ND xông vào cuộc chiến hôm
ấy. Tôi muốn nghĩ đây là một trận chiến với cảnh nhảy dù ngay
trên vùng địch để lòng mình chợt reo lên như những cánh dù bung
trong gió. Nhưng dù có nhảy từ trực thăng hay vào vùng bằng đường
bộ, “nhảy” đây có nghĩa là nhảy vào trận chiến, xông pha vào chốn
đầu tên mũi đạn, can cường chấp nhận mọi gian khó, hy sinh. Súng
cầm tay, đạn đã lên nòng, người chiến binh quyết tâm đánh bật
quân địch. Không như ánh mắt dã tâm của kẻ xâm lăng luôn hằn vẻ
hận thù, ngược lại ánh mắt anh chỉ thoảng “hờn” một cách chính
đáng, như thầm ngạo nghễ nói lên chúng mầy bố láo quá! Ta sẽ cho
chúng mầy biết tay!
Rồi người chiến sĩ và đồng đội của anh
tiến dần đến phòng tuyến của địch. Đạn pháo rơi tơi bời xuống
trận địa vẫn không cản được sức tiến của trung đội anh; những
tiếng đạn nhỏ bay rít trong gió hay nổ lụp chụp xung quanh anh
vẫn không làm anh chùn bước. Anh vẫn bình tĩnh vừa bắn, vừa cẩn
thận tiến chậm về hướng rừng thưa. Nơi địch nằm chờ trong các
công sự chiến đấu hay chui rúc dưới các hầm hố. Rồi theo lệnh
trên, cánh quân anh tạm dừng chân. Trung đội anh nằm rải dài dựa
sau bờ ruộng. Qua điện đài, người đại đội trưởng xin cấp trên yểm
trợ bằng súng cối mong dập tắt phần nào hỏa lực của địch trước
khi quyết định dứt điểm đối phương.
Cùng với 2 trung đội bạn, trung đội của
anh được lệnh cởi bỏ ba–lô, gắn lưỡi lê lên nòng súng, chuẩn bị
xung phong trong khi đạn súng cối rớt liên tục và chính xác vào
phòng tuyến địch. Ngay sau tiếng nổ của viên đạn súng cối cuối
cùng, trong tiếng hô xung phong vang rền trời, anh và đồng đội
đồng loạt đứng thẳng dậy, la lớn những tiếng xung phong đồng thời
phóng mình về phía trước, vừa chạy vừa bắn. Chợt thấy ánh sáng
loé lên từ khẩu thượng liên của địch nằm kế thân cây lớn, anh
chạy nhanh hơn về hướng đó, đồng thời rút quả lựu đạn treo ở dây
ba chạc. Không một do dự, anh dùng răng cắn bung kíp lựu đạn và
tung mạnh quả lựu đạn vào ổ thượng liên. Cùng lúc ấy, thân hình
anh bỗng khựng lại rồi anh ngã sập xuống, không kịp nhìn thấy cây
thượng liên cùng vài ba thân thể bị văng tung lên trời sau tiếng
nổ của quả lựu đạn. Một viên đạn trúng vào đầu anh, đốn ngã anh
tại chỗ. Sau cuộc xung phong chiếm được vị trí địch, xác anh lính
chiến được cáng về lều quân y.
Cũng có thể người chiến sĩ này là một
khinh binh đi mở đường cho trung đội của mình. Anh vừa bước đi
chậm rãi, vừa cẩn thận nhìn trước và 2 bên, nghe ngóng động tĩnh
xung quanh. Đi được mươi bước, anh dừng lại, ép mình vào gốc cây,
tiếp tục quan sát. Có khi anh quỳ trên một đầu gối, xem xét những
vết nghi ngờ trên mặt đất. Vừa qua khúc rẽ của một con đường mòn,
anh chợt nhìn thấy một họng súng sáng lên dưới ánh trăng, đang
sẵn sàng nhả đạn vào đội hình của anh. Trong một thoáng của chớp
mắt, anh vùng lên không một chậm trễ, vừa bóp cò khầu súng liên
thanh của anh, vừa la to xung phong thẳng vào hướng địch, quyết
tìm sinh lộ cho đồng đội của mình qua tử lộ của bản thân. Và anh
đã trúng đạn vào đầu, tử thương ngay tại chỗ, nhưng anh đã cứu
được toán viễn thám của anh trong cuộc phục kích. Còn hy sinh nào
cao quý hơn!
Hay người chiến binh này là một vị sĩ quan trẻ tuổi mới ra đơn vị
tác chiến và lãnh nhiệm vụ xung trận ngay. Anh đã hăng say chạy
từ hầm này qua vị trí nọ để tiếp ứng và nâng đở tinh thần cho
toán binh sĩ của mình. Sau những tràng đại liên yểm trợ, anh ra
lệnh xung phong. Và trong đợt à l’assaut ấy, anh hướng dẫn toán
binh sĩ đánh thẳng vào tuyến địch. Miệng anh la to xung phong,
xung phong, một tay anh cầm súng colt, tay kia không ngừng vẫy
thúc bước tiến quân. Anh là người đầu tiên gục ngã trên cánh đồng
khi địch nhắm bắn vào anh vì biết đây là cấp chỉ huy đơn vị. Anh
hy sinh tại chỗ với viên đạn thù bắn vào đầu, trước khi nhìn thấy
địch tháo chạy trước sự dũng mãnh của đợt xung phong anh cầm đầu.
Cũng rất có thể người binh sĩ trọng
thương này là một quân y tá Nhảy Dù. Anh gan dạ xung phong vào
trận địa cùng với đại đội tác chiến anh phục vụ, ngay bên cạnh
người đại đội trưởng. Khi nghe tiếng kêu cấp cứu khẩn cấp, không
một do dự anh nhào đến phía người binh sĩ vừa bị thương để làm
phận sự. Chính lúc người y tá đang tìm cách băng bó cứu sống đồng
đội, anh nhận lãnh một viên đạn vào đầu, gục chết ngay trên mình
bạn, như thể lấy thân thể của chính mình che chở cho người thương
binh.
Các bạn
đưa anh đến chỗ tôi
Mày còn dựng ngược
vuốt cho xuôi
Súng anh tôi gỡ đem về cất
Sửa lại nhung y đẫm máu rồi
Anh bị vết thương bên trái đầu
Chắc rằng anh chết chẳng nghe đau
Lau đi
trên mặt bao đất, máu
Băng lại đầu anh
băng trắng phau...
Tôi tự hỏi trong giây phút vừa gục ngã,
người chiến binh có kịp kêu lên tiếng “Mẹ Ơi”, như anh từng có
thói quen kêu tên Mẹ mỗi khi đau ốm hay gặp rủi ro. Có đủ chăng
Anh thì giờ nhớ đến người vợ đang sống bình an ở hậu cứ luôn
trông ngóng, chờ đợi anh về. Hay có thấy chăng Anh nụ cười, ánh
mắt của người anh thầm yêu mà anh để lại nơi thành phố nhỏ trên
bước đường chinh chiến.
Có điều tôi chắc là anh không cảm thấy
một đau đớn khi cái chết đến với anh quá nhanh trong bất ngờ.
Trong bước tiến xung phóng ấy, anh đang dốc toàn lực chạy nhanh
về tuyến địch. Toàn thân anh rướn lên phía trước theo nhịp. Chân
anh vững mạnh trong botte de saut. Tim anh đập nhanh đầy hưng
phấn. Ngực anh phồng to hít mạnh không khí mang mùi thuốc súng.
Mày anh dựng ngược đầy quyết tâm. Mắt anh nở lớn nhìn thẳng, trực
diện với nguy hiểm. Tai anh ù điếc vì tiếng hô xung phong của
chính mình. Tay anh nắm chặt cây Carbin M2 tự động. Ngón tay anh
bóp cò cho ra từng loạt đạn hướng về phía địch. Bỗng nhiên, trong
một chớp sáng, người anh bổ nhào về phía trước, toàn thân anh rớt
mạnh xuống đất, bất động sau một vài co giật nhỏ. Chiếc nón sắt
văng nằm bên cạnh, với lỗ đạn xuyên phá ở phía trái. Một bên đầu
và mặt anh chan hòa với máu. Khuôn mặt anh nhăn rúm, mắt anh mở
lớn nhìn thẳng vào bầu trời trong xanh; rồi cổ anh nghẹo qua một
bên, như muốn hít thở mùi đất mẹ trước khi màn đen sụp xuống vĩnh
viễn.
Đưa xác
anh không sẵn lá cờ,
Tôi đành tẩm liệm
với poncho
Vải dầu che nắng mưa khi
trước,
Nay bó thân anh đã cứng đờ
Tôi tiễn anh về một chuyến bay
Mang theo tang tóc chất vơi đầy
Hồn anh
theo chuyến tàu bay ấy
Hay vẫn dật dờ
phảng phất đây?
Mấy ai từng bước qua trận chiến mà lại
không xót xa nhìn thấy những bạn mình đổ máu banh ruột, mất tay
cụt chân. Có ai không bùi ngùi đau đớn thầm khóc khi đón nhận xác
đồng đội tử thương, có khi đã được gói và buộc chặt vào poncho
chờ chuyển về tiền trạm, hay oái ăm hơn được đơn vị tạm chôn trên
đường di chuyển hay khi căn cứ hoàn toàn bị vây hãm trong nhiều
tuần. Trong quá nhiều trường hợp, người y sĩ tiền tuyến cảm thấy
bất lực không những vì các vết thương quá nặng, mà còn vì đường
tản thương quá dài. Những khi ấy, sự đau xót tăng bội phần, tự
tin nghề nghiệp dễ rúng động. Sự hoang mang làm mất đi khả năng
suy nghĩ, mấy ai còn được tâm hồn cô đọng và tài thi phú để viết
lên bài thơ ai oán hồn tử sĩ như Tiễn Anh.
Với tôi, tôi không có sự may mắn, hay
nói khác hơn, không có đủ yếu tố thuận lợi để săn sóc tiễn biệt
tận tay cho chỉ một đồng đội vừa nằm xuống trong trận chiến đầu
đời, mà phải tất bật với hàng chục tử thương. Tôi cũng chưa có đủ
chiều dài đời lính chiến hay dạn dày phong sương trong thử thách
đúng nghĩa của khói lửa binh đao để diễn tả và cảm nhận cái chết
một cách sâu đậm. Và dù tôi có được một thời gian ngắn vừa đủ để
thấm hiểu cái tình đồng đội sống chết có nhau, sống chết bên
nhau, cùng tiến cùng lùi, cùng chịu pháo với nhau, cùng chia sẻ
tâm sự và vui đùa với nhau, tôi nghĩ tôi vẫn không bao giờ có đủ
khả năng viết ra một bài thơ khóc đồng đội thấm thía như bài Tiễn
Anh. Một bài thơ làm ngay tại mặt trận. Bên cạnh xác bạn.
Khi bài viết này đang vào đoạn kết, tôi
nhận được lá thư của “Tường Vi” cho biết bài thơ Tiễn Anh còn có
hai đoạn cho phần cuối mà tôi là người đầu tiên được biết. Với sự
hân hạnh xin cùng chia sẻ, tôi xin phép sao chép để bổ túc cho
bài thơ Tiễn Anh:
Hậu cứ khi về thăm mộ anh,
Mồ còn mới đất, cỏ chưa xanh,
Sẽ đề lên
một bài thơ khóc
Xin chứng cho nhau tấm
lòng thành
Dưới ấy xin anh cứ ngậm cười,
Trên này,
anh hãy để chúng tôi
Cha già, vợ góa,
con côi cút,
Đơn vị chúng mình sẽ chăm
nuôi!
Qua hai
đoạn cuối này, tôi nhìn thấy tấm lòng thành của “Đích Thân” sẽ về
hậu cứ thăm mộ người tử trận cùng gia đình của anh ta. Tôi hy
vọng “Đích Thân” đã thực hiện được ý nguyện. Bởi vì dù lòng mong
muốn thật nhiều, nhưng đời chinh chiến của người lính khó có được
những thời gian riêng tư đó. Tôi mường tượng Thánh Michael, quan
thầy của binh chủng Mũ Đỏ, cùng với các thiên thần đã rước linh
hồn người tử trận lên chốn chân hạnh phúc, y như trong đoạn kết
của phim truyện nổi tiếng “Ghost”.
Requiem Aeternam dona eis, Domine, et
lux perpetua luceat eis!
Xin Chúa cho họ
được yên nghỉ muôn đời, và ánh sáng ngàn thu soi trên họ!
Tôi vô cùng trân quý bài thơ Tiễn Anh
của “Đích Thân Tường Vi”. Qua bài thơ, tôi nhìn thấy được con
người và tâm hồn của “Tường Vi”. Ở Anh, tôi nhìn thấy cái nghĩa
khí của một chiến sĩ, cái lương tâm của một y sĩ tiền tuyến. Ở
Anh, tôi thấy được sự độ lượng và lòng vị tha nhân bản. Và ở Anh,
tôi thấy được đức độ và tình người trong gian khó hay trong vui
đùa, sự hy sinh và lòng tận tụy sẵn sàng chia xẻ khổ đau. Tôi vẫn
không hiểu vì đâu Anh có biệt hiệu “Tường Vi”, chữ ghép tên của
Anh với tên một người đẹp nào chăng! Và đúng như biểu hiệu của
hoa Tường Vi là một loại hoa không phô trương, không kiêu sa,
nhưng bình dị, thanh tú, đơn sơ bền bỉ, sâu sắc và khiêm tốn, Anh
có đầy đủ những đức tính vừa nêu trên.
Vào QYND cuối tháng 5, 1974 cho đến
ngày mất nước, tôi chỉ gặp “Đích Thân” một lần duy nhất tại Đà
Nẵng khi ra trình diện Sư Đoàn ND và nhận lãnh trách nhiệm làm y
sĩ trưởng TĐ1ND ngay trước khi “nhảy” vào vùng trong tháng 8,
1974. Thật sự, lần tiếp xúc quá nhanh chóng đó và ngay cả thời
gian phục vụ TĐQYND quá ngắn không thể nào cho tôi có cơ hội biết
về “Đích Thân”. Qua đến hải ngoại, và từ từ sau đó, tôi mới bắt
đầu nghe nhắc đến tên của “Đích Thân”, rồi những câu chuyện của
những tháng cuối của cuộc chiến, của những ngày cuối trước 30
tháng 4, sự kiện “Đích Thân” cũng trải qua cảnh lao tù CS, khiến
tôi càng kính nể “Tường Vi”.
Khi viết lên những dòng chữ này, tôi
không có tâm trạng của kẻ mong được lên lon, hay chờ đợi một ly
rượu Bordeaux, vì không biết chúng mình còn có cơ duyên gặp nhau
lần thứ hai. Nhưng tôi chỉ mong nói lên đây lòng kính mến của một
đàn em đối với một đàn anh, dù đã gần 40 năm qua. Như một lời tỏ
tình, rien n’est trop tard. Tôi phục tư cách của Anh. Tôi phục
con người của Anh. Vừa võ vừa văn vừa cả thổi kèn (đủ loại,
Clarinet, Saxophone, Trompet...), lại vừa tu xuất vừa tu đời.
Thật đáng nể.
Tôi không mấy am hiểu về nhạc lý dù rất thích nghe nhạc. Bản nhạc
phổ theo lời thơ “Tiễn Anh” vẫn chưa có người hát, theo lời của
BS. Cổn. Mong một ngày nào đó khi bình an hoàn toàn trở lại trên
quê hương VN, chúng ta sẽ cùng hoà tấu bản “Tiễn Anh”. Tôi sẽ cất
giọng ngâm “Tiễn Anh”, nếu tôi vẫn chưa hát được, hòa cùng với
tiếng kèn saxophone và clarinet điêu luyện của đàn anh PG Cổn và
của “Đích Thân” Tường Vi. Một bản hoà tấu không cần phải có thêm
hai đoạn cuối, như một symphonie inachevée. Một gẫy đỗ của tuổi
xuân trong thời chinh chiến.
Vĩnh Chánh
Tháng 10,
2013
** Xin sao lại một phần của lá thư “Đích Thân Tường Vi”
gởi, kể lại xuất xứ của biệt hiệu “Tường Vi” và trận chiến đầu
đời của Anh. Như một bonus cho bài viết trên.
1/ Tên Tường Vi là do ông Trần Quốc
Lịch, tiểu đoàn trưởng TĐ3ND đặt cho mình. Ông cũng đặt tên cho
các ĐĐT (đích thân). Thường là lấy tên các ca sĩ: Đại úy Bùi
Quyền là Tố Quyên, Đại úy Lê Minh Ngọc là Ngọc Nga, Trung úy
Trạch là Trang Đài, Trung úy Tước là Kim Tước, Trung úy Lê Hồng
là Hồng Vân, BS. Tường là Tường Vi, v.v. Mình có nói với ổng là
Tường Vi là tên một bà kịch sĩ già, nhưng ổng nói có cô Tường Vi
nào là ca sĩ trẻ? Mình cũng không ý kiến gì nhưng chết luôn cái
tên Tường Vị. Thật ra trong SĐND còn một người nữa tên Tường Vi
là ông Nguyễn Văn Tường, chỉ huy trưởng Pháo Binh (Đại tá bây
giờ) Vì thế nên có thêm cái nick nữa là Tường Vi “gà cồ” và Tường
Vi “thuốc đỏ”. Lúc sau cuộc HQ vào trong nội có gặp vài ba cô gái
Huế mang tên Tường Vi...
2/ Trận đánh đầu tiên của đời bác sĩ
nhảy dù của mình là cuộc Hành Quân “Lam Sơn 54” cuối tháng 5/67.
Tháng này nóng bức, gió lào rất khó thở. Mục tiêu cuộc HQ này là
tiểu trừ việt cộng ẩn náu trong vùng Phi Quân Sự (DMZ) phía Nam
Sông Bến Hải. Từ sau năm 1954, VNCH tôn trong Hiệp Định Genève
1954 và không hề vi phạm vùng này ngoại trừ Mỹ đã thiết lập hàng
rào điện tử gọi là hàng rào Mc Namara. Nhưng chỉ là trò đùa! Tin
tức cho biết, vùng này hoàn toàn bị việt cộng chiếm làm căn cứ an
toàn cho chúng. QLVNCH đã lập kế hoạch Hành Quân quy mô vào vùng
này với toàn bộ LĐ2ND, với Trung tá Đào Văn Hùng, con hùm xám của
ND làm LĐT chỉ huy, gồm các đơn vị tham chiến sau đây: TĐ3ND,
TĐ5ND, TĐ9ND? TĐ2PB/ND. Một chi đoàn thiết vận xa. Một trung đoàn
bộ binh của SĐ1BB.
TĐ3ND trước cuộc HQ đóng ở thôn Nhan
Biều, cạnh thành phố Quảng Trị, bên kia cầu Ái Tử bắc qua sông
Thạch Hãn.
Sáng sớm hôm vào vùng, Tiểu Đoàn do Thiếu tá Trần Quốc Lịch làm
TĐT chỉ huy đã được đoàn xe quân vận chở từ địa điểm đóng quân
lên phía bắc. Qua đồi Đông Hà, tới đèo Ba Giốc tức còn cách quận
Gio Linh (cầu Hiền Lương) chừng 2km và bắt đầu là limit của DMZ.
Đoàn xe ngừng và TĐ3ND đi dọc theo Quốc lộ 1 đến cách cầu chừng
1km thì giàn quân hướng về bên trái (phía tây) quốc lộ. Từ quốc
lộ vào tới ven làng (cũng tên là An Hòa) là ruộng lúa và đường xe
lửa cao khoảng hai thước. Từ quốc lộ vào ven làng khoảng 700m,
hoàn toàn đồng trống không có chỗ ẩn nấp. Tôi nghĩ, đánh vào từ
đây có thể là chết bộn.
Phi pháo bắt đầu tác xạ vào ven làng và
dọc đường xe lửa. Trong lúc đó, tiếp nối TĐ3ND là TĐ9ND do Thiếu
tá Huệ làm TĐT tiến quân từ phía nam TĐ3ND dọc theo đường xe lửa
và bám được ven làng. Tôi nghĩ ông Hùng đưa TĐ3ND giàn ở quốc lộ
làm như muốn băng đồng tiến vào mục tiêu để đánh lừa địch trong
lúc TĐ9 đánh từ phía sau lên. Tin chiếm được ven làng vừa loan
thì máy báo Thiếu tá Huệ tử trận (bị bắn tỉa vào đầu). Di tản ông
Huệ và TĐ9 án ngữ tại chỗ. TĐ3ND, được lệnh quay lên quốc lộ, đi
ngược lại phía đèo Ba Giốc (làm như rút lui). Nhưng thực chất đã
bay lên đường xe lửa, xung phong vào ven làng trám chỗ TĐ9ND rồi
tiếp tục đánh lên phía Bắc. Địch chống trả dữ dội... Trận chiến
kéo dài 5 ngày, năm đêm, cho tới lúc TĐ3 tiến lên đến bờ sông
2km, đánh từng thước, từng căn nhà... Theo tù binh thì địch đã
thay 3 tiểu đoàn quần thảo với TĐ3. Chúng qua sông ban đêm bằng
nhiều giây cables căng dưới mặt nước.
Quả thật toàn thể vùng này coi như ở
miền bắc. Nhà nào cũng có hình HCM và cờ miền Bắc. Học trò học
chương trình miền Bắc, dân xài tiền miền Bắc... Nhà này sang nhà
kia đi bằng giao thông hào, hai bên bờ hào hẹp, họ trồng khoai mì
cắm chụm đầu nhau nên bay bên trên tưởng là đường mòn trên mặt
đất.
Tường Vi, Monday, Oct. 14, 2013
Phụ Lục
TIỄN ANH
Thơ: Trần Đức Tường
Ngâm
thơ:
THIÊN HOÀNG
Phổ nhạc: Mạc Vũ Phạm
gia Cổn
Trình bày: Trung Tín
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trang Quân Y Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: phong cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by th chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy,
August 8, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang