Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời giới thiệu:
Tác giả là một y sĩ thuộc hội
Ái
Hữu Y Khoa Huế Hải Ngoại, hiện là cư dân Mission Viejo, CA. Tốt
nghiệp Y Khoa Huế năm 1973, thời chiến tranh, Vĩnh Chánh là Y sĩ
trong binh chủng Nhảy Dù cấp tiểu đoàn và gắn bó với đơn vị
chiến đấu cho tới giờ phút cuối tại vành đai Sài Gòn ngày 30
tháng Tư. Với bài “Không Bỏ anh em, không bỏ bạn bè” viết Tháng
Tư 2013, Bác sĩ Vĩnh Chánh đã nhận giải danh dự Viết về nước Mỹ
cùng năm. Trong thư kèm bài mới nhất, Vĩnh Chánh cho biết “Tết
Bính Thân không thể quên Tết Mậu Thân 1968 tại Huế.” Trong giai
phẩm Tết của Binh chủng Dù QLVNCH tại Hoa Kỳ năm nay có đăng lại
bài nói chuyện của Nhã Ca tại đại học UC Berkeley hôm đầu năm,
“Tiếng Kêu Tết Mậu Thân.” Từ bài nói chuyện này, tác giả góp
phần hồi ký từ chuyện Tết quê hương, tuy không phải chuyện trên
đất Mỹ, nhưng vẫn là chuyện trong ký ức của người Việt tại Mỹ.
--người chuyển.
Sáng
Mùng Một Tết Nguyên Đán, gia đình bác, các cô chú và gia đình
Măng tôi đồng tụ tại nhà ông bà Nội. Một truyền thống của đại
gia đình qua bao nhiêu năm, kể từ khi tôi bắt đầu có trí nhớ.
Nghe kể lại, ông Nội dậy sớm nhất bước ra khỏi nhà, tự đạp đất
nhà mình trước khi tất cả con cháu đến chúc Tết. Gia đình nào
đến trước sẽ vào thăm bàn hoa quả bánh mứt của Bà Nội ở nhà
chính, hoặc đứng ngoài sân chờ đợi, chuyện trò rộn ràng với nhau
trong khi những đứa con nít cùng trang lứa tranh nhau chạy chơi
trong sân vườn rộng lớn. Khi mọi gia đình có mặt đầy đủ, tất cả
đồng kéo qua tập trung truớc căn nhà riêng của ông Nội, nằm chéo
góc bên cạnh nhà lớn.
Khi ông bà Nội đồng an vị vào 2 chiếc
ghế dựa lớn để ngay ở cửa chính được mở rộng, mặt mày rạng rỡ
trong áo gấm đỏ, lễ Mừng Tuổi bắt đầu bằng tràng pháo nổ tưng
bừng từ dây pháo dài treo trên cây. Riêng tôi bắt đầu ngất ngây
với tiếng pháo nổ chát tai, xác pháo đỏ văng tung tóe và mùi
thuốc súng. Trong không khí trang nghiêm của ngày đầu xuân, Bác
của tôi bao giờ cũng là người đầu tiên mở đầu cho buổi lễ, khúm
núm đứng trước ông bà Nội xướng to những lời chúc mừng, trước
khi cả 2 vợ chồng cùng quỳ trên chiếu vái lạy thân sinh. Tôi vẫn
còn nhớ rõ Bác tôi kêu ông bà Nội bằng Thầy Mạ. Sau Bác là đến
phiên các chú các cô, bao gồm luôn cả rể và dâu, trong đó có
Măng tôi, cùng tiến đến quỳ lạy Thầy Mạ. Bấy giờ, ông Nội mới từ
tốn ban lời mừng Tân Xuân cho từng người con, cũng theo thứ tự,
từ con trai trưởng cho đến cô út.
Sau thế hệ con đến thế hệ cháu với mỗi
gia đình theo thứ tự lần lượt bước vào chiếu hoa. Thông thường
người con lớn nhất hiện diện tại chỗ đứng giới thiệu tên từng
đứa em trong gia đình mình với ông bà Nội trước khi tất cả đều
quỳ lạy mừng tuổi ông bà. Ông Nội thường hay hỏi từng đứa cháu
về chuyện học hành, gia cảnh nếu đã lập gia đình, trước khi nói
lời chúc đầu năm. Có những năm, tất cả các cháu được cho đứng
sát với nhau và đồng quỳ lạy chúc mừng ông bà Nội một lần, sau
khi một cháu lớn nhất đại diện mở đâu lời Mừng Tết ông bà Nội...
Kế thế hệ cháu đến thế hệ chắt, cùng
quỳ lạy chung một lúc trong khi chắt lớn tuổi nhất trong đám nói
lời cầu chúc ông bà Cố, với sự nhắc lời, trợ giúp của bậc cha mẹ
bên ngoài. Trong những cái Tết trước khi ông Nội tôi mất vào năm
1962, ông bà Nội tôi đã có trên cả chục đứa chít.
Xong lễ mừng tuổi ông bà Nội, các
người con cùng dâu rể bước đến gần trò chuyện thân mật hơn, rót
trà rượu đưa mời Thầy Mạ của mình. Đó là lúc tôi thoáng thấy các
phong bì đỏ được đưa vào tay ông Nội và cả bà Nội. Sau đó, Bà
Nội mới thủng thỉnh mời tất cả mọi người vào nhà lớn thưởng thức
các món Tết. Tôi nhìn thấy đủ loại mứt, từ mứt hột sen, mứt
thơm, mứt dừa, mứt gừng, mứt mãng cầu, mứt kim quất, mứt khoai,
mứt củ sen, đậu phụng ngào, hột dưa... cho đến các món mặn như
nem, chả heo, chả bò, chả thủ, tré, thịt quay, gà nấu đậu, vịt
nấu măng khô, cải xanh nấu với giò heo, xôi lạp xưởng & tôm khô,
xôi gấc, rồi bánh tét dưa món, bánh tét chiên, củ hành dầm nước
mắm, củ kiệu, bánh chưng, bánh su sê, bánh thuẫn, bánh bột nếp,
bánh hột sen và đậu xanh cái tròn cái vuông gói trong giấy kiếng
nhiều màu sặc sỡ...
Bao nhiêu món ngon vật lạ dọn bày trên
mấy cái bàn khiến tôi nhìn vào thấy no mắt, và no luôn cả bụng
vì mãi ham rượt đuổi nhau bên ngoài. Bao nhiêu hương vị ngọt
ngào, hiếm quý và cổ truyền của một cái Tết Âm Lịch do chính tay
bà Nội làm cùng các người con trong gia đình đem đến từ ngày hôm
trước. Khi lớn hơn và ở xa hơn, tôi cũng đã từng đạp xe đạp đem
đồ Tết của nhà mình đến biếu ông bà Nội.
Buổi ăn chấm dứt, đại gia đình xúm xít
lập sòng chơi đổ tam hường, chơi bài cartê (5 lá bài), bài xì
lắc, tứ sắc, bài xịp... Tiếng la hét của người hên bạc kẻ thua
tiền, tiếng reo hò vui cười, chọc ghẹo hòa cùng với tiếng xoang
xoảng của những con súc sắc đổ trong tô sứ, tiếng pháo lẻ nổ đì
đùng ngoài sân từ lũ con nít chúng tôi làm không khí Mùng Một
Tết thêm hào hứng. Sau phần chúc Tết ông bà Nội, các gia đình
lần lượt kéo nhau đến đạp đất từng nhà một, nhà Bác trước rồi
đến nhà các cô, chú, lập lại màn chúc Tết nhau, rồi ăn uống, và
lì xì cho con nít. Truyền thống này vẫn tiếp nối dù sau này chỉ
còn có bà Nội, vẫn trang trọng và ấm cúng dù mức độ nhỏ hơn vì
số con cháu thưa dần với các anh chị con bác và cô chú vì sinh
kế, lập gia đình và đi học nơi xa nên khó về.
Đó là những năm tháng thanh bình tại
Huế, nơi tôi được nuôi dưỡng, lớn lên và đến trường, trước cuộc
Cách Mạng tháng 11 năm 1963. Tiếp theo là những năm của phong
trào sinh viên Phật Giáo tranh đấu bạo động, những chỉnh lý
chính trị ở trung ương, sự hiện diện của quân đội Mỹ đưa đến
những biến động trong quần chúng và dấu hiệu leo thang dần của
chiến cuộc, nhất là vào năm cuối của tôi ở Trung Học và năm đầu
tiên ở Đại Học.
Tuy nhiên, do ở thành thị, đa số học
sinh sinh viên như chúng tôi vẫn thờ ơ hưởng thụ, vẫn ngây thơ
với sách vở, chưa hề có khái niệm chín chắn về cuộc chiến dù có
theo dõi tin tức chiến sự, dù nhìn thấy lính tráng xe tăng máy
bay, hay có bà con mình ở trong quân đội hoặc thỉnh thoảng nghe
tin người quen này tử trận, người bà con nọ bị thương... Chúng
tôi vẫn nghĩ cuộc chiến xa lạ này không phải của mình và đang
xảy ra ở miền quê hay núi rừng xa xôi, hay tại những địa danh
hẻo lánh. Cho đến Tết Mậu Thân, 1968.
Đúng vậy.
Có ai ngờ quân CS đã mưu mô xé lệnh hưu chiến, đem chiến tranh
đến tận các thành phố trong những ngày thiêng liêng đất nước
trong Tết Nguyên Đán năm Mậu Thân 1968. Biết bao nhiêu người đã
sống lo âu sợ hãi khi nhìn thấy chiến tranh với bom đạn và chết
chóc đến ngay tận làng xóm mình, ngay tận nơi nhà mình? Đã nhìn
thấy cảnh đổ nát kinh hoàng của thành phố, đã bị kẹt giữa hai
lằn đạn? Đã chứng kiến sự dã man tàn ác của phe gọi là giải
phóng? Có bao nhiêu người là chứng nhân cho sự thảm sát Tết Mậu
Thân tại Huế khi người thân trong gia đình, người quen trong khu
phố bị giết chết, bị bịt mắt đem đi thủ tiêu, bị tra khảo, đập
vào đầu trước khi bị xô xuống khe suối hay bị cột chùm chôn sống
với 2 tay bó chặt đàng sau lưng bằng giây điện thoại? Ở đâu ra
những hố chôn tập thể tại trường Gia Hội, Gò Cát, Bãi Dâu, Tây
Lộc, Phú Thứ, Đá Mài...? Và biết bao ngàn người đã ai oán khóc
trong căm hờn và đã chít khăn tang?
Biến cố Tết Mậu Thân 1968 xảy ra khi
tôi đang học giữa năm Thứ Nhất Trường Y Khoa Huế. Vào đêm 30,
gia đình 3 người Măng tôi, chị tôi và tôi đang ở trong căn phòng
lớn trên lầu 3 của trường Đồng Khánh, có cửa sổ lớn phía sau
nhìn về Lao Thừa Phủ ở sau lưng Tòa Hành Chánh Tỉnh. Đêm ấy,
chúng tôi thức khuya chuẩn bị các món Tết cho ngày Mùng Một. Vào
giao thừa, tiếng nổ xa xa của pháo Tết nghe hơi khác thường và
càng lúc càng dồn dập chen với những tiếng nổ lớn hơn. Vài giờ
sau, tôi nghe tiếng chân người chạy thình thịch trên thang gỗ
bên ngoài phòng, rồi hàng loạt tiếng súng nổ chan chát, cùng với
tiếng súng bắn trả từ Lao Thừa Phủ trúng vào tường và cửa sổ căn
phòng chúng tôi khiến tiếng dội nghe ghê rợn và mảnh gỗ văng
tung tóe. Chúng tôi nằm yên trên sàn nhà, dưới bộ ván dày, tránh
gây tiếng động, đọc kinh cầu nguyện.
Qua ngày hôm sau, khi tiếng súng lắng
dịu, tôi rón rén bò đến cửa sổ phía trước, nhìn xuống sân trường
Đồng Khánh. Cả trăm lính VC, với nón cối và quân phục màu xanh
lục, đang đóng quân, đào hầm, đặt súng lớn trên bãi cỏ, hay dưới
các gốc cây phượng. Biết không thể làm gì hơn, gia đình tôi đành
mở cửa đi xuống lầu, mang theo chút áo quần và thức ăn Tết như
bánh tét, và đến tạm trú trong phòng học cùng với những gia đình
quen thuộc khác trong trường và sau đó những gia đình dân từ Bến
Ngự hoặc Ga chạy đến.
Tôi nhận thấy đơn vị CS đóng ngay đây
có lẽ chính quy, với đa số lính nói giọng Quảng Bình. Nhiều toán
lính đi đi về về, cáng theo hàng loạt đồng đội tử thương và bị
thương. Có lẽ trường ĐK nằm giữa mặt trận, nên tiếng súng nhỏ
lớn nghe liên tục, khi từ hướng bờ sông Hương, khi từ hướng
đường Lê Lợi của Tòa Hành Chánh Tỉnh. Các khẩu súng phòng không
thường xuyên bắn nổ rền trời nhắm vào những chiếc trực thăng bay
trên cao. Mức độ trận chiến có vẻ dữ dội trong suốt gần cả mười
ngày. Cho đến sau một đêm bỗng dưng hoàn toàn yên tĩnh, sáng hôm
sau khuôn viên trường ĐK hoàn hoàn vắng lặng, không một hình
bóng của người lính CS, họ đã lặng lẽ rút đi trong đêm. Đến trưa
toán lính TQLC Mỹ tiến dần về phía chúng tôi, giải tỏa hoàn toàn
trường ĐK và hướng dẫn tất cả mọi người di tản về hướng an toàn.
Liền sau đó, nhóm chúng tôi gồm chừng
bốn năm chục người im lặng dắt nhau bước đi thật vội trên đường
Lê Lợi hướng về trường Kiểu Mẫu, dưới bầu trời xám xịt có mưa
phùn. Cũng con đường hàng ngày tôi thường qua lại bao nhiêu lần
nay trông thật điêu tàn và xa lạ, im lặng một cách rùng rợn và
phảng phất mùi tử khí. Bên kia sông Hương và cột cờ, khung cảnh
vẫn mờ dại trong mây mù. Chiến tranh đang thực sự ở trước mắt và
xung quanh tôi, với hiện trường y như trong cảnh phim. Lá cây và
cành cây gẫy tràn ngập lối đi. Đây đó những cột đèn và thân cây
nằm nghiêng ngửa, như muốn che đậy những xác chết, quân có dân
có, ta có địch có. Có những xác nằm ngay trên mặt đường, bên lề
đường. Có những xác nằm sấp hay cong queo trong các hầm cá nhân
dưới các gốc cây, nhất là ở gần phía bờ sông. Rải rác đây đó là
xác xe Jeep, xe cứu thương dân sự và các xe honda, lỗ chỗ vết
đạn với xác người bên cạnh. Nhiều biệt thư to lớn trên con đường
bị đổ nát, hư hại nặng. Khi đến gần khu Morin, tôi lặng người
nhìn thấy cầu Trường Tiền bị gẫy một nhịp.
Và tôi
thấy chiếc cầu gẫy nhịp
Trong đạn bom
khói lửa chiến trường
Dòng sông yêu
dòng sông máu đỏ
Áo em màu trắng áo
tang thương*
Sau vài ngày tạm trú ở trường Kiểu
Mẫu, khi biết tin gia đình người tôi yêu đang lánh nạn tại Dòng
Chúa Cứu Thế, tôi tức tốc tìm đến thăm dù đường đi còn vắng hoe,
nguy hiểm với dấu tích tàn phá và chết chóc hai bên đường... chỉ
để kịp nhìn gặp nàng vài ba phút, thăm hỏi đôi ba câu trước khi
nàng vội vã quay vào với gia đình. Hình ảnh xanh gầy của nàng
với đầu tóc ngắn thân thuộc trong một buổi sáng đầy gió lạnh và
mây xám trên trời mãi mãi ám ảnh tôi từ dạo đó.
Nàng là một cô bé nhỏ nhắn mặc áo đầm
vàng đi dạo cùng Mẹ và các em trong công viên trước trường Đồng
Khánh tôi đã tình cờ nhìn thấy trong một chiều óng ánh đầy nắng
vàng vào cuối hè 1967. Vài ngày sau tại nhà tôi, tim tôi đập lỗi
nhịp khi bất ngờ gặp chính cô bé đó đem bánh của Mẹ làm đến biếu
“Bà Vú”, tiếng nàng gọi Măng tôi, vì Măng tôi là Vú Đỡ Đầu cho
Mẹ nàng khi Ba Mẹ nàng làm đám cưới. Đây cũng là nhân vật trong
bức ảnh gia đình, một món quà tặng của Mẹ nàng cho Măng tôi từ
bao năm trước, được treo trên tường, gần bàn học của tôi. Mỗi
khi nhìn đến, tôi thường liên tưởng rằng có ngày tôi sẽ có được
nàng, như một ước mơ thầm kín, một nguyện cầu vu vơ. Dù bấy giờ
nàng chỉ là một cô bé tuổi 13, đang học lớp Đệ Ngũ trường Đồng
Khánh.
Do sự
quen biết giữa hai gia đình, thỉnh thoảng tôi đến thăm nàng tại
nhà, làm quen với gia đình và chơi đùa với các em nàng, ngoài
sân trước, trong phòng khách, hay dưới nhà bếp. Nhờ đó tôi có
dịp nhìn thấy nết đoan trang và sự chu đáo của nàng khi phụ giúp
Mẹ săn sóc các em. Có lần, ngồi dựa lưng trên thành cửa sổ nhỏ
phòng nàng, tôi hát bài “Mưa Hồng” vì tôi thích câu “cuộc đời đó
có bao lâu mà hững hờ”, do xúc động giọng của tôi xuống thấp
không hát tiếp được, nàng im lặng không dám cười, nhưng tôi liều
mạng xin hát lại lần thứ hai.
Khi một phần nhỏ của Hữu Ngạn Huế vừa
được giải tỏa, và Bệnh Viện Huế vẫn còn bỏ trống, cùng với vài
đàn anh trong Y Khoa, chúng tôi tình nguyện phụ giúp ngày đêm
một Bác sĩ giải phẫu người Mỹ từ Đà Nẵng được trực thăng chở
thẳng đến Bệnh Viện. Đó là thời gian tôi đã nhìn thấy, tiếp thu
học hỏi nhiều nhất khi trực tiếp làm việc dưới sự điều động của
Y sĩ Thiếu Tá Thomas Herod cùng với các đàn anh. Từ cách nhận
bệnh nhân cả quân sự lẫn dân sự với các vết thương chiến tranh,
săn sóc họ, chuyền nước biển trước khi khiêng họ vào phòng mổ,
đưa lên bàn mổ rồi khiêng về giường bệnh sau mỗi ca giải phẫu
hoàn tất, giúp rửa sạch các vết thương trước khi băng bó, theo
dõi tình trạng hậu giải phẫu, lau chùi phòng mổ, lau chùi và hấp
dọn các dụng cụ giải phẫu, phụ đưa dụng cụ trong phòng mổ...
Toán 7-8 người chúng tôi ngủ ngay sát
bên phòng giải phẫu, kể luôn cả một chị y tá chuyên đánh thuốc
mê, tự nguyện làm tất cả những công việc cần thiết, từ y công
cho đến y tá, cùng chia nhau tâm trạng vui buồn theo diễn tiến
tốt hay xấu của các bệnh nhân và chia nhau phần lương khô C
Ration.
Bẵng
đi cũng vài ba tuần hăng say phụ giúp trong bệnh viện, tôi không
đến nhà cô bé dù lòng luôn hướng về nàng. Mãi cho đến khi tình
hình an ninh Huế tốt dần, bấy giờ tôi mới đến thăm nàng được vài
lần, kể vội cho nàng nghe một vài câu chuyện trong phòng mổ,
những điều tôi học hỏi được hay một vài cảnh khổ của người dân
bị thương tật. Bao giờ nàng cũng chỉ im lặng ngồi nghe, hiếm khi
có thêm ý kiến trong câu chuyện.
Vào cuối mùa Xuân 68, đến ngày kề cận
phải rời Huế vào Sài Gòn học tiếp nửa năm còn lại, tôi lấy hết
can đảm viết cho nàng một lá thư không viết nháp, không soạn
thảo, không nắn nót, không trau chuốt, nghĩ sao viết vậy. Đó là
lá thư tình đầu đời và duy nhất của tôi. Ngang tàng, mang tính
hài hước nhưng rất chân thật, không có giọng chiều lụy, van xin
tình cảm.
Dĩ
nhiên thư tôi không được hồi âm.
Trong suốt mùa hè năm 1968, sau khi từ
Sài Gòn trở về Huế để tham dự chương trình Huấn Luyện Quân Sự
Học Đường, tôi tiếp tục đến thăm và đưa nàng những đoản văn,
không phải thư tình, mà những bài viết của tôi bày tỏ quan điểm
yêu thương đất nước, mang tính chất hào hùng của người trai,
hoặc những bản dịch ra tiếng Việt từ những bài hay trong cuốn
Les Grand Coeurs mà hầu như tôi nằm lòng khi học trung học
chương trình Pháp. Tuy về sau tôi biết có bản dịch tiếng Việt là
Những Tâm Hồn Cao Thượng, tôi vẫn không nghĩ mình đã phí công
khi những bản dịch thuật của mình gián tiếp chứng minh tính
cương trực và lòng chân thành của tôi. Nhưng ở nàng vẫn là một
im lặng... đáng sợ!
Sau hè 1968, tôi lại rời Huế vào Sài
Gòn học tiếp năm thứ Hai Y Khoa. Vài ngày trước Tết năm 1969, từ
Sài Gòn về Huế thăm nhà, Măng tôi cho biết gia đình nàng sẽ rời
Huế trong vài ngày sau Tết vì Ba nàng nhận nhiệm sở mới ở Nha
Trang. Tôi suy nghĩ và quyết định không đến thăm, nói lời tạm
biệt với nàng, dù ngậm ngùi cảm giác cuộc tình đang xa dần. Tôi
quyết định chờ đợi, cho mình chín chắn hơn. Cho một thời cơ
thuận tiện tốt đẹp. Hay để cho nàng lớn thêm hơn vài tuổi!
Những năm sau biến cố Mậu Thân, chiến
tranh leo thang dần. Biết bao đồng môn, người thân quen nhận
giấy tờ trình diện nhập ngũ. Lớp học vắng dần những khuôn mặt
quen thuộc sau mỗi [kỳ] tựu trường. Truyền hình, tin tức, báo
chí nhắc đến những trận chiến càng ngày càng khốc liệt, tên của
những trận đánh như Ben-Hét, Khe Sanh, Dak-Tô, Pleime, Đức Cơ,
Đồng Xoài... dần dần đi vào lòng dân. Chị thứ ba của tôi bỏ học
dù đang là sinh viên năm cuối của phân khoa CTKD của ĐH Đà Lạt,
và quyết định lấy chồng là Tiểu Đoàn Trưởng TĐ11 BĐQ khi tiểu
đoàn đến giải tỏa thị xã Đà Lạt trong vụ CS tấn công vào Tết Mậu
Thân. Lần chị đem người yêu về trình diện gia đình, tôi thích
anh liền. Không những vì anh cao ráo và điển trai mà anh trông
rất điềm đạm và thật hào hùng trong bộ đồ rằn ri. Có lẽ cũng từ
đó tôi có suy nghĩ nếu muốn lấy cảm tình một người đẹp, chắc tôi
phải tạo cho mình một hình ảnh sắt đá oai hùng của một chàng
trai đúng nghĩa của thời chiến. Đúng với hình ảnh “Em là gái
trong khung cửa, Anh là mây bốn phương trời...”
Do sự đổ nát điêu tàn của thành phố
Huế trong Tết Mậu Thân, Chính Phủ trung ương thành lập ủy ban
trùng tu và tái thiết Huế để xây dựng lại các cơ sở bị tàn phá
cũng như để tạo thêm niềm tin cho dân Huế nói riêng và toàn dân
trong nước nói chung. Linh Mục Cao Văn Luận, trước đây là Viện
Trưởng viện Đại Học Huế, nhận lãnh trách nhiệm khó khăn đó.
Khoảng gần cuối tháng 2 của mùa Xuân
1970, nhà văn Nhã Ca cùng một phái đoàn văn nghệ sĩ từ Sài Gòn
ra thăm Huế, cùng đi với Linh Mục Cao Văn Luận ghé đến trường
Đồng Khánh trong một ngày mưa và lạnh, tặng hai trăm ngàn đồng
cho trường xây dựng lại phòng thí nghiệm hóa học và vạn vật bị
hư hại nặng. Hồi đó tôi vẫn ở trong trường với Măng tôi nên đã
chứng kiến nhiều cảnh cảm động.
Trong buổi lễ nhận khoản hiến tặng từ
nhà văn Nhã Ca cho trường Đồng Khánh, cô Hiệu trưởng Tường Loan
đã trân trọng giới thiệu Linh Mục Cao Văn Luận từng là giáo sư
Quốc Học, Đồng Khánh và là vị thầy cũ của chính cô cũng như các
thầy cô khác. Phát biểu của Linh Mục Luận trước thầy trò Đồng
Khánh hôm ấy được mở đầu bằng câu nói vui, “Hôm nay ông nội trở
lại trường thăm các con, các cháu...”
Trong phái đoàn thăm trường Đồng Khánh
hôm ấy còn có nhà văn Doãn Quốc Sỹ và nhạc sĩ Cung Tiến là hai
người rất được dân Đồng Khánh ngưỡng mộ. Cho tới nay, tôi vẫn
nhớ hình ảnh ngày ấy, khi chị Nhã Ca khoác tay người em gái là
học sinh tại trường đi dưới mưa với Cô Hiệu Trưởng Tường Loan và
cô phụ tá giữa rừng vỗ tay cám ơn ngập trời của các học sinh
toàn trường.
Qua ngày hôm sau, Nhã Ca đến trường Y Khoa Huế của tôi, cũng
trao tặng hai trăm ngàn đồng trong một buổi lễ đơn sơ nhưng
trang trọng gồm có sự hiện diện của GS Viện Trưởng Viện ĐH Huế,
GS Khoa Trưởng Trường Y Khoa, ban Giáo Sư, ông Tỉnh Trưởng và
một số thân hào nhân sĩ cùng đại diện Sinh Viên. Trong cùng năm,
giải Nhã Ca với năm mươi ngàn đồng được trao tặng lần đầu tiên
cho BS Hà Thúc Như Hỷ khi trình luận án Tiến sĩ Y Khoa về một đề
tài Y Học Dân Tộc. Qua năm sau, người nhận giải là BS Trần Nhơn.
Cả hai hiện đang hành nghề tại Quận Cam. Giải Nhã Ca cho Luận Án
Tiến sĩ xuất sắc hàng năm của Y Khoa Huế còn được tiếp tục cho
tới ngày miền Nam sụp đổ. Người liên lạc, điều hợp giải thưởng
hàng năm này là Giáo sư Nguyễn Thanh Trang, phụ tá Giáo sư Viện
trưởng Lê Thanh Minh Châu hiện định cư tại San Diego.
Cũng từ những ngày đầu xuân năm ấy,
khi nhắc đến biến cố Mậu Thân 68 hầu như ai cũng biết “Giải Khăn
Sô Cho Huế”, hồi ký của một nhân chứng cho thành phố thân yêu
những ngày tang thương nhất, khi hàng ngàn người dân Huế vô tội
bị thảm sát. Riêng với y khoa Huế, việc những cựu sinh viên trốn
vào rừng nay trở về trường cũ, gây ra vụ thảm sát 4 vị Giáo sư Y
Khoa người Đức ngay trong sân chùa Tường Vân là một vết chàm ô
nhục không bao giờ phai mờ.
Tôi và nàng vẫn kẻ ở Huế, người Nha
Trang. Không một thư từ, không một trao đổi tin tức. Tôi vẫn
tiếp tục lên lớp cao dần ở trường YK và gián tiếp theo dõi tin
tức nàng đang ở những năm cuối trung học. Sau gần 3 năm xa cách
nàng, tôi tự hỏi mình nhiều lần đây có phải là tình yêu? Người
ta thường nói cách mặt xa lòng! Dù là tình yêu một chiều, tình
tôi không nhận thêm nuôi dưỡng nào ngoại trừ những nhung nhớ,
những kỷ niệm và những hoài bão? Trong tôi, càng muốn quên thì
lại càng quay quắc nhớ. Càng muốn chôn vùi kỷ niệm hiếm quý bên
nàng thì hình bóng nàng càng khắc ghi sâu đậm. Càng xa vắng nàng
lại càng nhận hiểu trái tim tôi chỉ biết nhung nhớ một mình
nàng. Thế mới biết “kỷ niệm vẫn còn là lòng vẫn còn yêu”! Thế
mới biết “yêu là mộng mơ, yêu là sầu nhớ”!
Không lẽ chỉ có một thời để thương, để
nhớ để yêu rồi mãi mãi xa nhau, mất nhau sao? Dù không một tin
tức trực tiếp của nàng, tôi vẫn quyết định đến thăm nàng vào mùa
Xuân 1972 khi nàng đang theo học năm thứ Nhất khoa CTKD ở Đại
Học Đà Lạt.
Này tư tưởng có linh chăng tá
Trở về đây cho thỏa lòng chờ
Trở về
cảnh cũ lối xưa
Cho cung cầm khỏi ngẩn
ngơ tiếng đàn
Tôi đến Đà Lạt với tư cách một cộng sự
viên của Sinh Viên Vụ quay phim chụp hình cho phái đoàn SV Viện
Đại Học Huế tham dự Đại Hội Thể Thao Liên Viện do ĐH Đà Lạt đứng
ra tổ chức. Đến nơi, tôi trao hết đồ nghề cho một bạn khác, và
trong suốt 3 ngày liên tục của Đại Hội, tôi không làm gì hơn
ngoài việc tìm thăm nàng, người tôi yêu và đeo đuổi trong nhiều
năm qua, từ Huế vào đến Nha Trang và nay Đà Lạt. Sáng tôi đón
nàng ở Kiêm Ái, chiều đến tôi trả nàng về lại cư xá. Nàng và tôi
đã đi bộ qua bao con đường quanh thị xã, cùng ngồi chuyện trò ở
sân Cù trong nắng ban mai, ngắm Hồ Xuân Hương, dạo phố Hòa Bình,
đưa nhau đi ăn sáng, ăn trưa, ăn tối... Với tôi, đó là 3 ngày
hạnh phúc nhất trong quãng đời, dù ngắn ngủi, nhưng đã ghi sâu
trong tim tôi những kỷ niệm đậm đà không hề phai. Ba ngày le lói
bên nàng, để bù lại, thêm một lần nữa, trên 3 năm “bonjour
tristesse” khi ở nơi xa, tôi chỉ cầu mong nàng trong những “đêm
mai cô đơn đi về, xin người hãy nhớ tình tôi.” (2)
Vào các mùa Xuân năm 1971, 1972, chiến
tranh sôi động với các chiến dịch Toàn Thắng 42 đánh qua Mỏ Vẹt,
Lưỡi Câu, đến sát hang ổ của Cục R ở Cao Miên, với cái chết của
Tr. Tướng Đỗ Cao Trí, vị tướng quân mà trên ngôi mộ có mang hàng
chữ “sống giữa ba quân, chết giữa ba quân”; chiến dịch Lam Sơn
719 hành quân vào Hạ Lào, với những tên quen thuộc như Đông Hà,
Khe Sanh, xa lạ như Đường số 9, Bản Đông, Tchepone, Đồi 31, Đồi
30 với bản nhạc bất hũ “Anh Không Chết Đâu Anh”; Không Quân Mỹ
sử dụng thường xuyên B52 bên cạnh kế hoạch từ từ rút quân và
Việt Nam hóa chiến tranh.
Giữa mùa Xuân 1972, CS vượt vĩ tuyến
và tấn công vào Đông Hà và Quảng Trị, đồng thời mở rộng chiến
tranh ở Bắc Tây Nguyên và Miền Đông Nam của vùng III bao gồm Lộc
Ninh, Bình Long, với trận chiến “Bình Long Anh Dũng, An Lộc Kiêu
Hùng”; trận thư hùng của BĐQ ở đồi Chu Pao để lại nhân gian câu
thơ khí khái “Chu Pao ai oán hờn trong gió - một chiếc khăn tang
một tấc đường”, trận tử chiến Đồi Charlie của TĐ11ND với bản
nhạc hào hùng ghi ơn “Người ở lại Charlie”, và sau đó Tân Cảnh,
sân bay Phượng Hoàng, Ben-Hét và...
Hai tuần trước khi Quảng Trị rơi vào
tay giặc thù vào cuối mùa Xuân 1972, một số anh em của trường YK
Huế gồm có tôi trong đó tình nguyện ra phụ giúp cho BV Quảng Trị
trong 10 ngày. Thêm một lần nữa tôi đã xúc động khi thấy được sự
tàn khốc của chiến tranh gây ra bởi quân xâm lược CS qua những
vết thương, lỗ đạn trên cơ thể của các bệnh nhân. Đó là chưa kể
về sau là những hình ảnh khủng khiếp và câu chuyện đau lòng của
hàng ngàn người vừa dân vừa quân bị phơi thây vì pháo và phục
kích không thương tiếc trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” khi trốn chạy về
hướng Nam. Rồi đến phiên người dân Huế, trong đó có cả Măng tôi
vừa kịp đến tuổi về hưu, quá sợ vì đã chứng kiến việc giết
người, chôn người không gớm tay của bọn VC trong Mậu Thân, tức
thời bỏ Huế ra đi không chần chờ.
Ngồi trên lầu của Câu Lạc Bộ Thể Thao,
mấy anh em chúng tôi trong nhóm SV YK tình nguyện ở lại phục vụ
BV Huế, nhìn cảnh người bồng bế chen lấn, xe cộ nối đuôi nhau
đông như kiến trên cả 2 cầu Trường Tiền và Hương Giang trong
suốt một ngày trời mà lòng quặn đau, xót xa cho dân nước mình
chịu cảnh chinh chiến trong bao năm qua. Những ngày sau đó, tôi
thật xốn xang khi nhìn thấy thị xã Huế và lân cận hầu như bỏ
phế, ngoài đường chỉ vài bóng người thất thần bước vội. Thành
phố bỏ trống im lặng đến sợ, ngoại trừ tiếng xe quân đội thỉnh
thoảng chạy nhanh hoặc tiếng gầm gừ từ những con chó hoang giành
ăn chạy trên đường phố không người, tiếng tru ma quái của chúng
về đêm và những tiếng nổ đây đó của hỏa tiễn 122ly do CS pháo
bừa bãi vào thành phố.
Vào khoảng cuối tháng 5, 1972, Quân
Đội VNCH bắt đầu đổ quân về Huế chuẩn bị cho việc tái chiếm
Quảng Trị với trận chiến rất dữ dội và đẫm máu kéo dài gần 3
tháng với sự tham dự của nhiều đơn vị thiện chiến bao gồm toàn
bộ 2 Sư Đoàn ND & TQLC, LĐ81 Biệt Kích Dù, các liên đoàn BĐQ, Kỵ
Binh Thiết Giáp, Pháo Binh, Không Quân... cho đến ngày 16 tháng
9, 1972, lá cờ vàng ba sọc đỏ chính thức phất phới trên nền trời
tự do tại Cổ Thành Quảng Trị trong tiếng vang dậy của cả nước
qua các bản hùng ca “Cờ Bay, Cờ Bay Trên Cổ Thành Quảng Trị” và
“Trên Đầu Súng Ta Đi”. Cũng vào thời điểm, không quân Mỹ bắt đầu
gia tăng đánh phá Miền Bắc, nhất là vào cuối năm với B52 trải
thảm bom ngay tại Hà Nội, như một áp lực lên đàm phán hòa bình
đang diễn ra ở Paris.
Chiến tranh Việt Nam bước qua một giai
đoạn khác sau khi Hiệp Định Paris được ký kết vào tháng Giêng
1973, nối tiếp là những đơn vị quân đội Mỹ lần lượt rời VN, và
những trao trả tù binh. Tôi có mặt trong phái đoàn sinh viên
tham dự lần trao trả tù bình Việt Nam tại sông Thạch Hãn vào
giữa mùa Xuân 1973. Nhìn thấy trên cả ngàn tù binh Bắc Việt được
nuôi ăn nuôi mặc tươm tất sạch sẽ với xách tay mới trên tay, chỉ
để đổi lấy có vài trăm quân nhân của ta xơ xác, ốm yếu... mới
hãnh diện nhìn thấy lòng nhân đạo và tinh thần đánh giặc cao
thượng của VNCH, ngay cả trong cách cư xử với tù nhân chính trị
hay tù binh chiến tranh. Một sự thật mỉa mai sau này tôi mới
càng thấm thía khi ở trong trại tù cải tạo CS.
Tưởng như cuộc chiến sẽ tốt đẹp hơn
sau Hiệp Định Paris. Không ngờ chỉ sau vài tháng tạm yên tĩnh,
CS leo thang dấy lại cuộc binh đao, quyết tâm dồn mọi sức lực
tấn công Miền Nam trong tư thế thượng phong với toàn bộ chủ lực
quân vẫn nằm ém tại Miền Nam, chiếm đất giành dân, lợi dụng thể
chế tự do dân chủ của Miền nam để xúi dục các thành phần thứ Ba
biểu tình, các nhóm dân biểu đối lập liên tục gây áp lực đã phá
chính quyền, các linh mục “tiến bộ” như Chân Tín, Nguyễn Ngọc
Lan, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ... công khai gián tiếp nối giáo
cho giặc. Chiến cuộc dần xoay chiều và có vẻ bất lợi cho phía
ta.
Chính
trong bối cảnh điên đảo này, tôi tốt nghiệp YK tháng 6, 1973,
sau 7 năm miệt mài với sách vở, luôn mang trong lòng một bầu
nhiệt huyết với đất nước, sẵn sàng lên đường làm nhiệm vụ bất cứ
nơi đâu, bất cứ trong vị trí nào khi đất nước kêu gọi. Song song
với giấc mơ dài của trai thời loạn, tôi vẫn giữ kín cho mình
niềm mơ ước có ngày tôi sẽ trùng phùng với người tôi vẫn mãi yêu
thương và nhung nhớ, dù cho nàng ở xa ngoài tầm với, như một
thôi thúc diệu kỳ và mãnh liệt không dứt trong tâm tưởng.
Sau 6 tháng làm việc tại trường YK
trong bộ môn giải phẫu, tôi nhận giấy tờ nhập ngũ vào cuối năm
1973 và trình diện vào đầu năm 1974 tại Trung Tâm 3 Tuyển Mộ
Nhập Ngũ ở Sài Gòn, nằm ngay đường Tô Hiến Thành, gần Cư Xá Sĩ
Quan Chí Hòa nơi Măng tôi dọn đi từ trường ĐK Huế vào trong thời
điểm của Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Vì lứa chúng tôi đã có học qua
chương trình Quân Sự Học Đường trong 2 mùa hè liên tiếp của
1968/69, nên sau khi nhập ngũ, nhận số quân và trang bị tối
thiểu, chúng tôi tự gắn lon Trung úy lên 2 cầu vai và đi thẳng
về ghi danh ở Trường Quân Y, theo học khóa 16 QY Trưng Tập gồm
hơn 160 học viên.
Sau vài tuần học tại đây, chúng tôi
được tin Hải Quân VNCH vừa đánh một trận hải chiến với Trung
Cộng tại quần đảo Hoàng Sa vào ngày 19, tháng Giêng 1974. Thêm
một lần nữa, tình yêu nước trong chúng tôi có dịp dâng cao hơn.
Ngày tốt nghiệp khóa 16 Trưng Tập, vì có chủ ý trước, tôi chọn
Quân Y Nhảy Dù không một do dự, liền ngay sau người bạn thân Bùi
Cao Đẳng. Tất cả chúng tôi gồm 9 người trong đó có 7 BS là Bùi
Cao Đẳng, Lê Quang Tiến, Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Thành Liêm,
Nguyễn Đức Vượng, Nguyễn Tấn Cương và tôi, NS Tùng và DS Khánh,
đồng trình diện TĐQYND và theo học khóa Dù cùng lúc với nhau.
Gần 2 tháng tập luyện, rèn dũa thể
xác, thách thức sức chịu đựng và vượt qua sự sợ hãi tại Trung
Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù với 7 sauts, kể cả 1 saut nhảy đêm và 1
saut nhảy trận với đầy đủ quân trang súng ống đạn dược, cuối
cùng tôi được trao nhận Bằng Dù. Cầm Bằng Dù trong tay, tôi thật
sự xúc động và hãnh diện, biết mình đã qua được một giai đoạn
quan trọng của đời lính chiến trong rèn luyện thể xác vững mạnh,
trong chuẩn bị và xây dựng bước đầu của tinh thần Nhảy Dù Cố
Gắng trước mọi hoàn cảnh thách đố cũng như tạo cho mình niềm tự
tin, sự tự hào bắt buộc có của một người lính Nhảy Dù làm nghề
Bác sĩ. Hay đúng hơn, của một Thiên Thần Mũ Đỏ.
Chưa kịp ăn mừng với nhau về Bằng Dù
gắn trên ngực ngày hôm trước thì ngay ngày hôm sau, nhóm chúng
tôi được điều động ra Đà Nẵng trình diện Tướng Lê Quang Lưỡng,
Tư Lệnh SĐ Dù và Thiếu tá Trần Đức Tường, TĐT/TĐQYND tại Bộ Chỉ
Huy Tiền Phương ở căn cứ Non Nước. Vào đầu tháng 7, 1974, tôi
chính thức trở thành một y sĩ tiền tuyến khi nhận lãnh trách
nhiệm làm Y Sĩ Trưởng cho TĐ1ND. Như con chim nhỏ được mẹ dắt
dìu chập chững tập những đập cánh đầu tiên, tôi được TĐ1ND thân
ái ôm choàng, che chở và giúp tôi mở rộng đôi cánh Thiên Thần
bay vút vào bầu trời đầy lửa đạn, để từ đó dấn thân vào chinh
chiến cùng với đơn vị lừng danh hàng đầu này trong suốt trận
đánh Thường Đức & Đại Lộc và Đồi 1062.
Trên bước đường chinh chiến với TĐ1ND,
tôi quen dần với những di hành trong im lặng tuyệt đối quanh co
trên các sườn đồi hay trong rừng rậm, quen dần với những dừng
quân ngắn, những đóng quân nhanh gọn nhưng an toàn qua đêm,
những vui đùa với binh sĩ. Tôi cũng quen dần với mức độ trận
chiến càng lúc càng dữ dội, với những trận pháo 130ly và hỏa
tiễn 122ly mỗi ngày 3 cữ, với những cơn mưa rừng suốt tuần,
những ly cà phê pha với đế, những điếu thuốc chia nhau hút chung
và đi ngủ lạnh run với giày saut dưới chân và áo quần trận ướt
trong tư thế sẵn sàng tác chiến bất cứ lúc nào. Và quen dần với
những tiếng rè rè suốt đêm của máy vô tuyến, những tiếng lóng
truyền tin. Hoặc phân biệt được hướng của ta và địch, định hướng
pháo ta pháo địch, hơi thở của trực thăng tản thương trong rừng
rậm...
Bên
cạnh học hỏi thực tế quân sự, tâm hồn tôi chùng lại khi nhìn
ngắm những triền đồi tràn ngập bởi màu tím hoa sim, những ghềnh
suối đẹp, những chùm hoa phong lan màu sắc rực rỡ nở rộ trên
cành cao, tận hưởng cái đẹp thiên nhiên của rừng già nguyên
thủy, của đất nước sơn hà...
Đã bao lần tôi đau đớn bó tay trước
những vết thương quá nặng của thương binh, hay âm thầm nhỏ lệ
trước những xác chết của cả quan lẫn quân gói chặt trong poncho
nằm hai hàng bên bãi đáp chờ được bốc đi (3). Phải có một cái gì
linh thiêng, một niềm tin bất khuất, một tình đồng đội cùng sống
cùng chết, cùng tiến cùng lùi với nhau, một tinh thần anh dũng
của Nhảy Dù Cố Gắng, mới khiến các chiến sĩ ND coi nhẹ thân
mình, đội pháo trên đầu liên tục xung phong hay tạm lùi trước áp
lực địch để sau đó phản công như vũ bão đánh chiếm các công sự
địch ẩn núp trên các ngọn đồi, lúc đầu thấp rồi cao dần. Những
ngọn đồi không tên. Những ngọn đồi với con số cao độ vô cảm. Đơn
giản thế đó nhưng là nơi bao thân người nằm xuống! Bao máu chảy
thịt rơi!
Tôi
rời Tiểu Đoàn 1 Dù vào Sài Gòn trước Tết 1975, lãnh nhiệm vụ mới
làm Y sĩ Trưởng TĐ15ND Tân Lập. Như định mệnh được an bài, tôi
vui mừng biết gia đình nàng nay cũng ở Sài Gòn. Đúng vào chiều
Mùng Một Tết, hiên ngang trong bộ hoa dù mũ đỏ, và chững chạc
trong phong cách, hạnh phúc dồn dập đến với tôi khi tôi tìm đến
thăm nàng tại nhà, sau trên 3 năm xa cách. Mối tình tôi từ từ
chuyển hướng thuận lợi theo thời gian. Dưới mắt nàng, tôi không
còn là một bạch diện thư sinh mà một con người dày dạn phong
sương, tự tin và lạc quan. Trong suốt cả tháng 2, hầu như chiều
nào tôi cũng nhảy lên xe ôm đến thẳng nhà nàng tiếp tục chinh
phục nàng, trao nàng những lá thư tình đậm đà thương nhớ viết từ
trong trại hay từ chỗ hành quân, hoặc trổ tài miệng lưỡi chiếm
cảm tình của gia đình họ hàng nàng, đưa em nàng đi nhổ răng tại
phòng Nha Khoa của TĐQYND, đưa nhau đi ăn hàng quà, kể cả “đi
dạo phố mùa xuân” hoặc cùng nhau về thăm bên ngoại nàng ở Thủ
Đức...
Mùa Xuân
1975 là một mùa Xuân tràn ngập yêu đương của tôi trong niềm vui
riêng. Nhưng là một mùa Xuân thảm họa cho đất nước đang từ từ
tan vỡ với những di tản chiến thuật, những bỏ ngõ bỏ của chạy
lấy thân. Những câu chuyện bi hùng của quân và dân từ Cao
Nguyên, từ Miền Trung Huế, Đà Nẵng đến dần Nha Trang, Phan Rang,
Xuân Lộc... Những trận đánh đẫm máu bất cân xứng trong những giờ
thứ 25.
Theo
thời gian, tình hình chính trị xấu dần, tình hình quân sự càng
bi đát hơn. Dân chúng ùn ùn kéo nhau đổ về Sài Gòn. Người quyền
thế và giàu có bắt đầu di tản ra khỏi nước. Tôi đi vào trận cuối
đời lính của mình thanh thản và hạnh phúc trong sự tuyệt mỹ của
tình yêu. Không một níu kéo vị kỷ, không một đắn đo do dự. Hoàn
toàn phó mặc trong tay Chúa. Những căng thẳng của tuần cuối.
Những bồn chồn mất ngủ của những ngày và đêm 27, 28 và 29 tháng
4. Dù vậy tinh thần chiến đấu của TĐ15ND vẫn bất diệt. Cá nhân
tôi vẫn bình tĩnh làm phận sự của mình và vẫn theo sát chân
TĐ15ND, vẫn chiến đấu tại cầu Bình Triệu, khu nhà thờ Fatima.
Cho đến ngày cuối cùng: 30 tháng 4. Giờ cuối cùng: sau khi được
lệnh buông súng. Nghẹn ngào trong sững sờ. Bàng hoàng trong đau
đớn. Xót xa trong tủi nhục!
Chiều cùng ngày, tôi về đến nhà nàng
trước khi về nhà Măng tôi. Như muốn tìm một nơi an ủi duy nhất
để bám víu. Với quyết định không để lạc mất nhau trong những năm
tháng đen tối sắp đến, nàng can đảm nhận lấy tôi, dang rộng tay
ôm choàng tôi, che chở tôi khi đôi cánh thiên thần của tôi vừa
sụp gẫy, giấc mơ dài bị tan vỡ. Chúng tôi trở nên vợ chồng 3
ngày sau khi mất nước, trong ngôi nhà nguyện nhỏ tại nhà thờ
Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng. Một đám cưới thật đơn sơ chạy
tang cho đất nước. Chắt chiu hạnh phúc trong cơn lốc đổi đời.
Cho dù giờ đây cầu Trường Tiền được
chiếu sáng đèn màu mỗi đêm, hình ảnh chiếc cầu gẫy trong Tết Mậu
Thân vẫn là một chứng tích mãi mãi tồn tại trong tim óc những
người con Huế! Cho dù các ngôi mộ những nạn nhân trong biến cố
Mậu Thân bị chính quyền mới bắt dời chỗ, thay đổi mộ bia trong
cố gắng xóa đi những bằng chứng phạm tội diệt chủng, ở trong
nước hay hải ngoại, trên khắp thế giới tự do, ngoài những kỵ giỗ
vào mỗi dịp Tết hàng năm, con dân gốc người Huế chọn thêm ngày
23 tháng Năm Âm Lịch mỗi năm, nguyên thủy là ngày Kinh Đô Huế bị
thất thủ vào tay quân ngoại xâm Pháp vào năm 1885, để tưởng nhớ
và cầu siêu cho bao ngàn vong linh bị giết hại trong biến cố Mậu
Thân.
Xin
thắp những nén nhang cho bao anh hùng đã gục ngã vì bảo vệ chính
nghĩa tự do của quốc gia Việt Nam. Cho bao đồng đội, chiến hữu
đã nằm xuống vì Tự Do. Xin tưởng nhớ đến bao triệu sinh linh vô
tôi bị giết chết trong cuộc chiến và hàng trăm ngàn người bỏ xác
trên các đường di tản, vượt biên, vượt biển. Xin dâng lời cầu
nguyện cho một Mùa Xuân vĩnh cửu đến với Việt Nam trong Tự Do,
Dân Chủ và Nhân Ái.
Vĩnh Chánh
Bên bờ hồ Mission Viejo,
CA. Tháng Giêng 2016.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những trang liên hệ
Mùa Xuân Chiến tranh & Tình yêu
Chuyện một Thiên Thần Mũ Đỏ và Hai Tiên Bà
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet E-mail by An-tôn Huỳnh chuyển
Đăng ngày Chúa
Nhật, December 18, 2016
Ban Kỹ Thuật Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang