Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Lịch
sử
Chủ đề:
Ngày QL19–T6
Tác giả:
Nguyễn–Huy Hùng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Cả
gia đình tôi tới định cư tỵ nạn cộng sản Việt Nam tại Hoa Kỳ, vào
đầu tháng 8 năm
1992 theo diện H10, đến nay 2015 tính ra cũng được hai mươi hai năm
rồi. Các cháu nội, cháu ngoại của tôi đã tiếp theo nhau vào đại học.
Có người đã tốt nghiệp và đã đi làm, có người còn đang tiếp tục học
nửa chừng, có người sắp sửa hết chương trình trung học, có người mới
vào tiểu học. Bạn bè của các cháu, có người là Hoa Kỳ chính gốc da
trắng, cũng có người là Mỹ gốc Việt sinh ra và lớn lên tại Hoa Kỳ
hay gốc các sắc tộc khác, đến nhà chơi trong những dịp Lễ hoặc kỷ
niệm sinh nhật, biết tôi là cựu Sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng
Hòa ngày xưa, nên thường đưa ra những câu hỏi rất đơn giản và thành
thật, yêu cầu tôi giải thích cho họ rõ về 2 điểm mà họ thường thắc
mắc sau đây:
1. Ngày Quân Lực 19 tháng 6 là
ngày kỷ niệm của Quân đội nước nào vậy?
2. Việt Nam Cộng Hòa đã tan rã không còn,
tại sao các Ông vẫn hàng năm tổ chức ngày kỷ niệm Quân lực làm chi
vậy?
Tôi đã trả lời cho những người bạn của các
cháu, một cách tổng quát đơn giản cho qua truyện. Nhưng họ không
chịu, nhất định yêu cầu tôi phải soạn ra những câu trình bày chi
tiết hơn, để họ có thể dựa vào đó giải thích cho các bạn khác cũng
thường thắc mắc muốn tìm hiểu như họ. Vì thế, tôi đã phải cố gắng
vận dụng trí nhớ, cũng như tham khảo các ngày tháng năm chính xác
trong 3 cuốn sách dưới đây, để soạn thành một tài liệu hướng dẫn đơn
giản, nhưng tạm đầy đủ để làm vui lòng họ. Các sách ấy là:
1. Bộ
Quân sử Quân đội Việt Nam, Quyển IV, nói về Quân lực
Việt Nam Cộng Hòa giai đoạn hình thành 1946–1955, do Phòng 5 Bộ
Tổng Tham mưu QLVNCH sưu khảo, biên soạn và phổ biến ngày 6 tháng 8
năm 1972 tại Sài Gòn.
2.
Việt Nam Niên biểu 1939–1975, Tập A và Tập B, của Chánh Đạo,
do nhà xuất bản Văn Hóa phát hành năm 1996 tại Hoa Kỳ.
3.
Việt Nam Niên biểu Nhân vật chí, có ghi gần 900 tác
nhân lịch sử cận đại từ 1848 tới 1975, cũng của Chánh Đạo, do nhà
xuất bản Văn Hóa phát hành năm 1997 tại Hoa Kỳ.
Những điều tôi trình bày được gói ghém
trong 3 mục chính sau đây:
I. Vì sao có Quân lực Việt Nam
Cộng Hòa (QLVNCH)?
II. Vì sao chọn 19 Tháng 6 làm NGÀY QUÂN
LỰC?
III. Những kỷ niệm khó quên của riêng tôi về ngày Quân lực
VNCH.
Nay thấy nhiều Hội đoàn đã tổ chức các Đoàn Hậu Duệ, để hướng dẫn
các thế hệ trẻ nhập cuộc hoạt động thay thế các Thế hệ Cha Ông tiếp
tục công cuộc đấu tranh hỗ trợ cho đồng bào Việt Nam ở trong nước
vùng lên lật đổ bạo quyền Việt cộng, giành lại Tự do, Dân chủ, Nhân
quyền, Bình đẳng cho mọi người. Do đó, tôi thấy cũng là một việc làm
rất hữu ích là nhờ các cơ quan truyền thông tiếp tay phổ biến rộng
rãi tài liệu này, để bất cứ ai muốn tìm hiểu về NGÀY QUÂN LỰC VIỆT
NAM CỘNG HÒA 19 THÁNG 6, đều có sẵn tài liệu xử dụng mỗi khi cần
đến, đỡ tốn công mất thì giờ tìm tòi sưu tập.
Với tuổi già, bệnh hoạn, trí nhớ bị suy
yếu vì 13 năm chịu cảnh tù đày lao động khổ sai trong các trại cải
tạo của Việt cộng sau 30–4–1975, nếu có điều nào ghi lại bị thiếu
sót thì mong quý vị độc giả còn minh mẫn bổ túc giùm, tôi chân thành
cảm tạ.
I. VÌ SAO CÓ QUÂN LỰC VIỆT
NAM CỘNG HÒA?
11.
Quan niệm chung về nhu cầu cần có Quân Lực.
Khi có một tập thể đông đảo người cùng
chung nguồn gốc, hoặc nhiều Sắc tộc khác nhau nhưng sống bên nhau
hòa thuận, theo cùng một chí hướng ước vọng giống nhau, đồng tâm
hiệp lực sản xuất phát triển, để cùng có một cuộc sống ấm no hạnh
phúc ngày một tân tiến hơn, thì nhóm người đó đương nhiên trở
thành một DÂN TỘC và gọi nhau là ĐỒNG BÀO.
Khoảng KHÔNG GIAN trên Trái Đất mà Dân
Tộc đó chiếm giữ và làm chủ, cũng đương nhiên được coi là LÃNH
THỔ QUỐC GIA riêng của họ, không một Dân tộc nào khác được quyền
xâm phạm, giành giật.
Trong cuộc sống tập thể đông đảo như
vậy, nhu cầu duy trì trật tự bảo vệ an toàn cá nhân cho mọi người
trong nội bộ Quốc gia, cũng như chống lại các THẾ LỰC NGOÀI DÂN
TỘC muốn xâm lấn, uy hiếp, trấn lột cuộc sống bình an của Dân Tộc
mình là cần thiết, nên đương nhiên cần phải có một lực lượng
chuyên nghiệp võ trang hùng mạnh gọi là QUÂN ĐỘI hay QUÂN LỰC để
chuyên lo.
Vì
khoảng Không gian 3 chiều của mỗi Quốc gia gồm có: phần ĐẤT, phần
TRỜI, và phần BIỂN, do đó muốn bảo vệ được hữu hiệu thì Tổ chức
Quân đội cũng phải có đủ 3 loại Quân Chủng chuyên biệt khác nhau
là: LỤC QUÂN, KHÔNG QUÂN, và HẢI QUÂN, để có thể hỗ tương nhau
điều hành cuộc chiến tùy theo nhu cầu của mỗi hoàn cảnh tình
huống khác nhau.
12.
Bối cảnh nào Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được thành lập?
Suốt 61 năm, nước An–Nam bị Thực dân
Pháp đô hộ (sau 1945 khi giành lại được Độc lập tên nước mới gọi
là Việt Nam), các Triều đình nhà NGUYỄN kế tiếp nhau không được
phép có Quân đội riêng, chỉ có Lực lượng Cảnh vệ trang bị vũ khí
thô sơ gọi là LÍNH LỆ, LÍNH DÕNG, chuyên canh gác các Dinh thự,
bảo vệ an ninh, hầu hạ Vua và các Quan chức trong Triều đình. Tại
các Phủ, Huyện hành chánh thống thuộc Hoàng Triều có LÍNH CƠ.
Trực thuộc các phủ Thống Sứ (Bắc Kỳ), Khâm Sứ (Trung Kỳ) và Thống
Đốc (Nam Kỳ) có lực lượng địa phương mà tại Bắc Kỳ là các đơn vị
Lính Khố Xanh. Lực lượng chính quy của Phủ Toàn Quyền Pháp tại
Đông Dương là các Trung Đoàn Bộ Binh hoặc Pháo Binh Thuộc Địa
(Regiment d’Infanterie ou Artillerie Coloniale) thường được gọi
là Lính Khố Đỏ.
Sau khi Thế giới Đại Chiến II chấm dứt,
Việt Nam giành lại được Độc lập cho Quốc gia thì Quân đội Quốc
gia Việt Nam mới được thành lập.
Trên lãnh thổ Việt Nam, vào ngày Chủ
Nhật 11 tháng 3 năm 1945 (hai ngày sau khi quân Nhật lật đổ Pháp
nắm toàn quyền cai trị Đông Dương), Vua Bảo Đại được Vua Nhật
giúp tái lập Quốc Gia Việt Nam Độc Lập (thống nhất cả 3 miền Bắc
Trung Nam) trong Khối Đại Đông Á do Nhật chủ xướng. Ông Trần
Trọng Kim đã được Vua Bảo Đại cử làm Thủ Tướng thành lập chính
phủ điều hành Quốc gia, và ban bố chương trình hưng quốc vào ngày
8 tháng 5 năm 1945, trong đó quy định Quốc Kỳ là cờ Quẻ Ly, nền
vàng giữa có biểu tượng Quẻ Ly mầu đỏ nằm dọc theo bề dài nền cờ
(2 vạch dài liền, nằm song song 2 bên 1 vạch đứt quãng chính
giữa, trông như chữ CÔNG của Hán tự). Quốc Ca là bài “Việt Nam
minh châu trời Đông” của nhạc sĩ Hùng Lân.
Việt
Nam minh châu trời Đông
Nhạc sĩ Hùng Lân
Việt Nam minh châu trời Đông!
Việt Nam nước thiêng Tiên Rồng!
Non sông
như gấm hoa uy linh một phương,
Xây vinh
quang ngất cao bên Thái Bình Dương.
Từ ngàn xưa tài danh lừng lẫy khắp nơi,
Tiếng anh hùng tạc ghi núi sông muôn đời.
Máu ai còn vương cỏ hoa,
Giục đem tấm
thân xẻ với sơn hà.
Giơ tay cương quyết, Ta ôn lời thề ước.
Hy sinh tâm huyết, Ta báo đền ơn nước.
Dầu thân này nát tan tành gói da ngựa cũng cam,
Thề trọn niềm trung thành với sơn hà nước Nam.
Bài hát “Hùng
Sử Ca Việt Nam Minh Châu Trời Đông...”
Khoảng 5 tháng sau, quân Phiệt Nhật
đầu hàng vào ngày 15 tháng 8 năm 1945, Liên Hiệp Quốc cử các lực
lượng quân sự của Trung Hoa Dân Quốc và Anh Quốc vào lãnh thổ
Đông Dương để giải giới quân Nhật, và tiếp giúp cho các Dân tộc
bản Xứ (Annam, Lào, Cao Miên) tái lập Quốc gia độc lập thoát khỏi
ách đô hộ của Pháp.
Rồi vào ngày 17 tháng 8 năm 1945 (hai
ngày sau khi Vua Nhật tuyên bố đầu hàng quân Đồng Minh do Hoa Kỳ
lãnh đạo), các đoàn thể Công chức và quần chúng Việt Nam họp
mít–tinh trước Nhà Hát Lớn tại Hà nội, để ủng hộ ông Trần Trọng
Kim tiếp tục làm Thủ Tướng, nhưng đã bị nhóm Việt Minh của Hồ Chí
Minh trà trộn vào lèo lái biến thành cuộc xuống đường đòi Chính
phủ Trần trọng Kim từ chức. Đồng thời, nhóm Hồ Chí Minh và Việt
Minh cũng đưa người vào Huế làm áp lực buộc Vua Bảo Đại phải
thoái vị, để nhường quyền cho nhóm Việt Minh thành lập các Ủy ban
Nhân dân Cách mạng thay thế các tổ chức hành chánh của Chính phủ
Trần trọng Kim.
Sau đó phe Việt Minh cộng sản của Hồ
Chí Minh vận động các Đoàn thể chính trị Quốc gia không theo cộng
sản hòa hợp với chúng để thành lập chính phủ Liên Hiệp điều hành
đất nước. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh với tư cách Chủ
tịch Chính phủ Liên Hiệp đại diện đứng ra tuyên bố NƯỚC VIỆT NAM
DÂN CHỦ CÔNG HÒA ĐỘC LẬP, không còn lệ thuộc vào Pháp nữa.
Nhưng đến ngày 6 tháng 3 năm 1946, Hồ
Chí Minh lại lợi dụng danh nghĩa Chủ Tịch Chính phủ Liên Hiệp,
phản bội Tổ Quốc Việt Nam bằng cách ám muội ký với Saintenay (Đại
diện Pháp) đang sống tại Hà Nội, Bản Hiệp Định Sơ Bộ 6–3–1946,
chấp nhận cho Pháp đổ quân lên trấn đóng tại nhiều Thành phố lớn
tại miền Trung và miền Bắc Việt Nam kể cả Hà Nội, sau khi Pháp đã
chiếm và đóng quân tại các tỉnh thuộc miền Nam Vĩ Tuyến 16 của
Việt Nam vào cuối tháng 1 năm 1946.
Đến ngày 19 tháng 5 năm 1946, Hồ Chí
Minh và phe Việt Minh của hắn chính thức đón tiếp quân Pháp đổ bộ
lên thành phố cảng Hải Phòng và tiến lên Hà Nội, bằng cách cho
quân Việt Minh hộ tống bảo vệ an ninh lộ trình và treo cờ Đỏ sao
vàng khắp hang cùng ngõ hẻm để gọi là phô trương thanh thế giả để
cho quân Pháp tưởng rằng Hồ Chí Minh và Việt Minh đang được toàn
dân Việt Nam ủng hộ mạnh mẽ. Việc làm này bị các đảng và Đoàn thể
chính trị Quốc gia không cộng sản trong Chính phủ Liên Hiệp phản
đối, nên phe Việt Minh trong chính phủ Liên Hiệp phải gian xảo ra
quyết định chỉ thị toàn dân treo cờ là để MỪNG SINH NHẬT CỦA CHỦ
TỊCH HỒ CHÍ MINH.
Các tài liệu tham khảo của các nhà
nghiên cứu trên toàn Thế giới, nhất là các tang chứng hồ sơ hành
chánh của chính quyền Pháp về Hồ Chí Minh và Cha của hắn ta (một
cựu quan lại bị cách chức vì tội tham nhũng say rượu đánh chết
dân lành) đều cho người ta biết rõ rằng ngày 19 tháng 5 không
phải là ngày sinh của Hồ Chí Minh. Cái mưu xảo quyệt này của bọn
Việt cộng chẳng làm hại gì cho tinh thần quân lính của Pháp, nên
Chính quyền Pháp đã lặng thinh không thèm có ý kiến gì cả. Chỉ có
người dân chân chất Việt Nam bị mắc lừa mà thôi.
Sau hơn 7 tháng quân Pháp được công
khai an toàn đóng quân và củng cố vị trí an ninh ngay giữa các
thành phố lớn, nhiều điều xích mích đã xảy ra về chia chác quyền
hành cai trị giữa Việt Minh và Pháp, ngay trong các thành phố đã
không được giải quyết ổn thoả. Nên tối ngày 19 tháng 12 năm 1946,
Hồ Chí Minh và phe nhóm Việt Minh đã phát động cuộc tấn công các
địa điểm trú quân của quân Pháp tại tất cả các thành phố đang có
quân Pháp trú đóng. Nhưng rất tiếc vì trang bị vũ khí thô sơ, tổ
chức quân chưa hoàn chỉnh nên Việt Minh đã bị thua phải bỏ các
thành thị rút vào “bưng” để tiếp tục tiêu thổ kháng chiến. Quân
Pháp toàn thắng, bắt đầu tái dụng các Quan lại thời đô hộ cũ, và
nhóm con lai Pháp, lập hệ thống Hành chánh cai trị, giúp dân
chúng tái tạo cuộc sống bình thường tại các Đô thị. Chiến tranh
tiếp tục lan tràn qua các tỉnh kế cận Hà Nội, đến các vùng nông
thôn, dân chúng phải sống giữa 2 gọng kềm VIỆT MINH và PHÁP, vô
cùng thảm thương bi đát.
Trước hoàn cảnh đó, các Nhân sĩ Việt
Nam thương nước yêu nòi và thành viên các Đảng phái Quốc gia
Không cộng sản, thoát chết sau vụ Việt Minh tàn sát hồi đầu năm
1946, ngồi lại với nhau tìm giải pháp ôn hòa giành lại Độc lập
cho đất nước mà không phải phung phí xương máu của Dân tộc vì
chiến tranh, đã đi đến kết luận vận động mời Cựu Hoàng Bảo Đại
đang lưu vong tại Hồng–Kông, đứng ra thương thuyết với Chính phủ
Pháp, tái dựng QUỐC GIA VIỆT NAM ĐỘC LẬP THỐNG NHẤT cả 3 miền,
trong KHỐI LIÊN HIỆP PHÁP.
Ngày 19 tháng 8 năm 1947, Cựu Hoàng Bảo
Đại từ Hồng–Kông tuyên bố bằng lòng đứng ra tiếp xúc điều đình
với Chính phủ Pháp. Cuộc vận động kéo dài mãi tới ngày 5 tháng 6
năm 1948, trên chiếc tầu biển DUGUAY TROUIN neo tại Vịnh HẠ LONG,
Cựu Hoàng Bảo Đại mới tới để chứng kiến Thiếu tướng NGUYỄN VĂN
XUÂN Thủ Tướng và mấy vị ĐẠI DIỆN CÁC MIỀN BẮC TRUNG NAM thuộc
Chính phủ Trung Ương Lâm thời Việt Nam Thống Nhất, cùng Ông
BOLLAERT (đại diện Chính phủ Pháp) ký bản HIỆP ƯỚC HẠ LONG, công
nhận QUỐC GIA VIỆT NAM ĐỘC LẬP, THỐNG NHẤT CẢ 3 MIỀN
BẮC–TRUNG–NAM, trong KHỐI LIÊN HIỆP PHÁP.
Cờ Quốc gia Việt Nam mới là Nền Vàng
với Ba Sọc Đỏ nằm dài chính giữa (theo hình Quẻ Càn của Bát quái
trận đồ), và Quốc Ca là bài “Tiếng gọi công dân”, nhạc của Lưu
Hữu Phước (nguyên là đoạn 1 của bài “Sinh viên hành khúc” nhưng
lời ca được sửa đôi chỗ. Bài “Sinh viên hành khúc” nguyên thủy
gồm 3 đoạn đã được các Sinh viên Viện Đại học Hà Nội trình bày
hợp ca lần đầu tiên trong buổi trình diễn văn nghệ ngày 15–3–1942
tại hội trường Viện Đại học, để gây quỹ giúp các bệnh nhân nghèo
trong các Bệnh viện nơi Sinh viên Y khoa thực tập.) Hiện nay, cả
Quốc kỳ và Quốc Ca nói trên vẫn được người Việt lưu vong tỵ nạn
cộng sản coi là biểu tượng Quốc gia gốc của mình. Đặc biệt Quốc
Kỳ Việt Nam (nền vàng ba sọc đỏ) còn được Ủy ban Văn Hóa Liên
Hiệp Quốc và nhiều Thành phố, Quận, Tiểu Bang Hoa Kỳ ra Nghị
Quyết chính thức công nhận là Quốc kỳ nguyên thủy của Cộng đồng
người Mỹ gốc Việt, treo song hành với Quốc kỳ Hoa Kỳ tại các nơi
công cộng, suốt dọc các đuờng phố chính trong khu thương mại đông
cửa hàng do người Mỹ gốc Việt làm chủ, vào những ngày kỷ niệm như
Quốc hận 30 tháng 4, Quân Lực VNCH 19 tháng 6, và thường xuyên
quanh năm suốt đêm ngày tại các đài tưởng niệm Chiến binh Hoa
Kỳ–Việt Nam Cộng Hòa trên toàn Hoa Kỳ. Ngoài ra, trong cuộc Diễn
hành Văn hóa Quốc tế hàng năm do Liên Hiệp Quốc tổ chức tại New
York nơi có trụ sở của Liên Hiệp Quốc, thì đoàn Đại diện dân tộc
Việt Nam tham dự là Cộng đồng người Mỹ gốc Việt với rừng Quốc kỳ
VN (nền vàng ba sọc đỏ).
Một ngày sau khi ký Hiêp Ước Hạ Long,
tức là ngày 6 tháng 6 năm 1948, Quốc Trưởng BẢO ĐẠI chỉ thị Thiếu
tướng Nguyễn văn Xuân Thủ Tướng Chính phủ Trung Ương của nước
Việt Nam Thống Nhất cả 3 Miền, xúc tiến việc thành lập QUÂN ĐỘI
QUỐC GIA VIỆT NAM (QĐQGVN), khởi sự bằng việc tổ chức TRƯỜNG SĨ
QUAN VIỆT NAM HIỆN DỊCH tại Huế (tiền thân của Trường Võ Bị Liên
Quân Đà Lạt, sau này vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa tại miền Nam do
ông Ngô Đình Diệm làm Tổng Thống, lại cải danh thành TRƯỜNG VÕ BỊ
QUỐC GIA VIỆT NAM, có giá trị tương đương với các trường Võ bị
Lục quân Saint Cyr của Pháp và West Point của Hoa Kỳ) để đào tạo
cấp Chỉ huy, trước khi thành lập các ĐƠN VỊ TÁC CHIẾN và CƠ SỞ
QUẢN TRỊ YỂM TRỢ TIẾP VẬN HÀNH CHÁNH QUÂN ĐỘI.
Ngày 1 tháng 6 năm 1949, Khóa Sĩ Quan
Hiện dịch đầu tiên tốt nghiệp tại Huế, được đặt tên là Khóa BẢO
ĐẠI (sau 1956 đổi tên là Khóa Phan Bội Châu) cung cấp cho Bộ Quốc
Phòng chính phủ Việt Nam 53 THIẾU ÚY hiện dịch. Đồng thời 4 TIỂU
ĐOÀN VIỆT NAM đầu tiên cũng được khởi sự thành lập tại 2 miền Nam
và Bắc Việt Nam:
–Tiểu đoàn 1 VN (Bặc Liêu),
–Tiểu đoàn 2 VN (Thái Bình),
–Tiểu đoàn
3 VN (Rạch Giá),
–Tiểu đoàn 4 VN (Hưng
Yên).
(Bản
thân người viết được cái vinh dự là một trong số 53 Sĩ quan Hiện
dịch tốt nghiệp Khóa đầu tiên nêu trên, và được bổ nhiệm về Tiểu
đoàn 2 VN tuyển mộ thành lập tại Hà Nội và Hải Phòng từ ngày
1–6–1949, huấn luyện xong vào khoảng tháng 10–1949 tập trung tất
cả về Hà Nội, và khởi sự xuất phát đi hành quân tại các vùng Bắc
Ninh, Hòa Bình, Đông Triều, Hưng yên, rồi tiến sang tỉnh Thái
Bình trụ quân tại đó ít lâu sau lại di chuyển về Sơn Tây, Hà Đông...).
Đến tháng 6 năm 1950, với sự thoả thuận
của QUỐC HỘI PHÁP và sự thông báo chính thức của CHÍNH PHỦ HOA KỲ
đồng ý cung cấp viện trợ Quân sự cho Việt Nam, Thủ Tướng TRẦN VĂN
HỮU mới chính thức công bố thành lập QUÂN ĐỘI QUỐC GIA VIỆT NAM
CHỐNG cộng sản, với quân số 60,000 người, chia ra phân nửa CHỦ
LỰC QUÂN và phân nửa PHỤ LỰC QUÂN.
Hai năm sau khi thi hành Hiệp Ước Đình
Chiến Genève tháng 7 năm 1954, không có tổ chức Tổng tuyển cử
thống nhất 2 miền Bắc và Nam Việt Nam như quy định. Tại miền Nam
Việt Nam, nhân dân đồng lòng qua một cuộc “Trưng cầu Dân ý truất
phế Quốc trưởng Bảo Đại” để thành lập nước VIỆT NAM CỘNG HÒA và
ủy nhiệm ông NGÔ ĐÌNH DIỆM làm Tổng Thống, ông này đã quyết định
cải danh QUÂN ĐỘI QUỐC GIA VIỆT NAM thành QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG
HÒA.
II. Vì Sao Chọn 19 Tháng 6 Làm Ngày Quân Lực?
Suốt từ khi Quân Đội Quốc Gia Việt Nam
được thành lập dưới thời Quốc trưởng BẢO ĐẠI, qua thời Ông NGÔ
ĐÌNH DIỆM làm Tổng Thống đổi tên là Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.
Đến khi giới quân nhân lên cầm quyền danh hiệu này được đổi lại
là Quân Lực VNCH. Cả 2 vị Nguyên thủ Quốc gia này đều chỉ thị Bộ
Tổng Tham Mưu nghiên cứu đề nghị một NGÀY KỶ NIỆM RIÊNG CHO QUÂN
LỰC, để hàng năm tổ chức biểu dương lực lượng cho mọi người thấy
được sự lớn mạnh của Quân Lực Việt Nam, và ghi nhớ công ơn các TỬ
SĨ (Quân đội và Đồng bào các giới) đã VỊ QUỐC VONG THÂN để bảo vệ
Tự do Dân chủ Nhân quyền Phồn vinh Hạnh phúc cho Dân tộc và sự
toàn vẹn lãnh thổ Thống nhất của Quốc gia Việt Nam. Nhưng chưa
cuộc nghiên cứu nào được hoàn tất, thì các biến cố thay đổi lịch
sử thời đại đã tiếp theo nhau xảy ra trên đất nước Việt Nam thân
thương của chúng ta.
Cho tới ngày 19 tháng 6 năm 1965,
QLVNCH chính thức nhận viết một trang sử mới, lãnh trách nhiệm
với toàn DÂN đứng ra thành lập Chính phủ điều hành quản trị đất
nước theo hình thức JUNTA (Có Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, Chủ Tịch
giữ vai trò QUỐC TRƯỞNG, và Ủy ban Hành pháp Trung ương, Chủ Tịch
giữ vai trò Thủ Tướng), rồi cải tiến nền ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA (theo
mô thức Hoa Kỳ, Tổng Thống đích thân điều hành chính phủ) sang
nền ĐỆ NHỊ CỘNG HÒA (theo mô thức Pháp, dưới Tổng Thống và Phó
Tổng Thống có thêm Thủ Tướng điều hành chính phủ), thì Tướng
NGUYỄN VĂN THIỆU, Chủ Tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, mới ban hành
văn kiện chính thức quy định ngày 19 THÁNG 6 là ngày kỷ niệm hàng
năm của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
III. Những Kỷ Niệm Khó Quên Của
Riêng Người Viết về Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19 Tháng 6
Mỗi lần kỷ niệm NGÀY QUÂN LỰC 19 THÁNG
6, mỗi người tùy theo hoàn cảnh riêng đều ghi nhớ những kỷ niệm
khác nhau. Phần cá nhân tôi được may mắn phục vụ lâu năm trong
các Cơ Sở Trung Ương, thống thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH tại Sài
Gòn, nên ghi nhận được nhiều kỷ niệm đặc biệt, mà các chiến hữu
phục vụ tại các địa phương, cũng như các Đồng bào ít quan tâm đến
các sinh hoạt QUÂN ĐỘI không thấy được. Vậy tôi xin kể ra đây để
Quý độc giả cùng chia sẻ những điều thích thú đó:
A. 19 tháng 6 năm 1966, kỷ niệm
NGÀY QUÂN LỰC lần đầu tiên, cũng là ngày kỷ niệm một năm
hoạt động của Chính phủ NGUYỄN CAO KỲ, nên ĐẠI HỘI ĐỒNG QUÂN LỰC
e ngại nếu tổ chức rềnh rang giữa Thủ đô Sài Gòn, thì có thể bị
BÁO CHÍ và các NHÓM ĐỐI LẬP phê phán là phung phí, kiêu binh, nên
đã tổ chức rất khiêm tốn trong lãnh địa của Bộ Tổng Tham mưu
QLVNCH (Trại Trần Hưng Đạo, Tân Sơn Nhất). Một số Đơn vị đại diện
Hải, Lục, Không quân thuộc Chủ lực Quân, Địa phương quân, nghĩa
quân, và Cảnh sát Quốc gia, được điều động về tham dự trong tinh
thần đoàn kết HUYNH ĐỆ CHI BINH thắm thiết. (Lúc đó tôi là Tham
mưu trưởng Bộ Chỉ huy Trung Ương Địa phương quân và Nghĩa quân,
trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH tại Sài Gòn, do Đại tá Trương
văn Xương làm Chỉ huy trưởng.) Đặc biệt trong cuộc duyệt binh
này, có một hình ảnh rất ngộ nghĩnh dễ thương không bao giờ quên
được là, Tướng VĨNH LỘC cùng Bộ Tham mưu Quân đoàn II từ PLEIKU
về tham dự, ai cũng choàng ra ngoài bộ quân phục chiếc áo SẮC
PHỤC THƯỢNG miền Cao nguyên Trung phần Việt Nam, và ngồi trên
lưng những con ngựa vùng Cao nguyên nhỏ thó, chớ không ngồi trên
những chiếc xe Chỉ huy có cần Ăng–ten như các vị Tư lệnh khác.
B. Năm 1967, để cùng
toàn dân hân hoan đón mừng NỀN ĐỆ NHỊ CỘNG HÒA sắp ra đời vào
tháng 10, NGÀY QUÂN LỰC kỷ niệm lần thứ 2 được tổ chức rầm rộ
trên Đại lộ TRẦN HƯNG ĐẠO, suốt từ dọc Bến Bạch Đằng trước Bộ Tư
lệnh Hải quân, qua Công viên Quách thị Trang trước chợ BẾN THÀNH
Sài Gòn vào tận CHỢ LỚN. Một đặc điểm đáng ghi nhớ về ngày kỷ
niệm Quân lực lần thứ 2 này là, việc xây dựng đồng loạt những
Tượng đài THÁNH TỔ các Quân Binh Chủng và Ngành chuyên môn trong
QLVNCH, Địa phương quân – Nghĩa quân, và Cảnh sát Quốc gia, tại
tất cả các Công viên lớn trong Thủ đô Sài Gòn, để Đồng bào và Du
khách ngoại quốc có dịp ghé Sài Gòn chiêm ngưỡng chụp hình kỷ
niệm. Việc xây dựng các Tượng đài này còn có mục đích quan trọng
khác là chiếm hết các công viên lớn, để các nhóm chống đối Chính
Phủ hồi đó, không còn nơi dựng các đài kỷ niệm hay hình tượng các
cuộc tranh đấu và các nhân vật họ tung hô, thần thánh hóa.
Tượng danh Tướng Trần Nguyên Hãn,
Thánh Tổ Binh chủng Truyền Tin QLVNCH
xây dựng tại công viên ngay phía trước chợ Bến Thành, Sài Gòn.
C. Sau Quốc hận 30–4–1975,
vào ngày 19 tháng 6 năm 1988 tại Sài Gòn đã xảy ra một sự việc
thật quan trọng không bao giờ quên được là, CỘNG ĐỒNG NGƯỜI CÔNG
GIÁO VIỆT NAM không được phép tổ chức lễ quy mô, trọng thể để
vinh danh hơn 1OO VỊ TỬ ĐẠO VIỆT NAM ĐƯỢC PHONG THÁNH theo lệnh
của Tòa Thánh Vatican, chỉ vì ngày 19 tháng 6 là ngày kỷ niệm của
QLVNCH thuộc Chế độ Sài Gòn cũ. (Đây là lời của Đại diện Chính
quyền cộng sản địa phương giải thích cho một vị Linh Mục cư ngụ
tại Nhà Thờ 3 Chuông (Saint Thomas) Phú Nhuận, Sài Gòn. Ngài đã
nói lại cho biết nhân dịp tôi ghé thăm và tâm tình về các truyện
thời sự). Vị Linh mục khả kính này quen tôi từ hồi còn bị giam
chung trong Trại Z30D quận Hàm Tân tỉnh Thuận Hải. Ngài nguyên là
Giáo sư thuộc một Dòng tu của Thiên Chúa Giáo tại Thủ Đức trong
lãnh thổ tỉnh Gia Định, bị giam cả chục năm trời chỉ vì một tội
“âm mưu vượt biên” mà chính quyền địa phương gán cho Ngài. Thực
ra Ngài không bao giờ có ý định vượt biên, mà chỉ cải trang mặc
đồng phục cán bộ Việt cộng, để di chuyển được dễ dàng đến các nơi
xa xôi hẻo lánh gặp “con chiên” thừa hành Mục vụ theo chức năng
Linh mục mà thôi.
D. Suốt 20 năm qua,
định cư tỵ nạn cộng sản tại khu Little Saigon, Quận Orange Nam
California (Thủ đô tinh thần của người Việt tỵ nạn cộng sản), có
dịp được tham gia nhiều kỳ tổ chức Lễ kỷ niệm NGÀY QUÂN LỰC 19
THÁNG 6, tôi đã ghi nhận được một số kỷ niệm xúc động không sao
quên được sau đây:
1. Năm 1994, Tổng Hội
Ái hữu Chiến tranh Chính trị QLVNCH Hải ngoại tại Nam California,
được các Hội đoàn Ái hữu Quân đội các Quân Binh chủng khác ủy
nhiệm đứng ra phối hợp tổ chức NGÀY QUÂN LỰC tại GARDEN GROVE
PARK, rất rầm rộ, có phi cơ bay trên nền Trời Quận Orange kéo
theo Đại kỳ Việt Nam Cộng Hòa (nền vàng 3 sọc đỏ), có Cựu chiến
binh Hoa Kỳ nhảy dù xuống ngay vị trí hành lễ mang theo Quốc kỳ
Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa. Buổi lễ được rất đông Đồng hương tỵ
nạn CSVN hưởng ứng tham dự, điều này chứng tỏ rằng TÌNH QUÂN DÂN
CÁ NƯỚC VIỆT NAM CỘNG HÒA chưa hề phai lạt sau bao nhiêu năm lưu
vong. Một hiện tượng khác cũng rất đặc biệt là, lần đầu tiên được
cả chục vị Tướng nguyên thuộc Hải, Lục, Không quân QLVNCH và Phu
nhân, đang cư ngụ tại các vùng thuộc Quận Orange, Quận Los
Angeles, và Quận Riverside cũng đến tham dự. (Lúc đó tôi là Phó
Chủ tịch Ngoại Vụ của Ban Chấp hành Tổng Hội Ái hữu Chiến tranh
Chính trị Hải ngoại tại Nam California, do cố Trung tá Nguyễn
Ngọc Thông làm Chủ tịch Tổng hội.)
2. Năm 1995, Hội Ái
hữu Cựu Sinh viên Sĩ quan Trường Võ bị QGVN Nam California, đến
lượt được giao trách nhiệm phối hợp tổ chức NGÀY QUÂN LỰC, đồng
thời vận động thành lập LIÊN HÔI CỰU CHIẾN SĨ VIỆT NAM CỘNG HÒA
NAM CALIFORNIA. Liên Hội đã được thành lập và Ngày Quân lực được
tổ chức tại Công viên trước Tòa Thị Chính Thị xã Westminster. Lần
đầu tiên trong lịch sử tỵ nạn cộng sản tại Nam California, người
ta thấy lá QUỐC KỲ VIỆT NAM CỘNG HÒA được trang trọng kéo lên
song hàng với lá QUỐC KỲ HOA KỲ, ngay tại các cột cờ danh dự
trước Tòa Thị Chính của Thị xã Westminster, mặc dù Chính phủ Hoa
Kỳ đã lập bang giao với cộng sản Việt Nam. Nhân dịp này, Hội đồng
Nghị viên Thành phố Westminster cũng đã đọc bản QUYẾT NGHỊ công
nhận NGÀY QUÂN LỰC VNCH 19 THÁNG 6 là một biến cố được ghi thêm
vào danh sách các ngày kỷ niệm của Thành phố Westminster. Các Sự
kiện này đã làm tôi và mọi người có mặt trong buổi lễ, xúc động
nghẹn ngào, rưng rưng lệ, xót xa cho hoàn cảnh đại nạn của dân
tộc VIỆT NAM chúng ta ở trong nước, đang còn phải chịu đựng sự
cai trị tàn bạo vô nhân đạo của Đảng và Bạo quyền Việt cộng. Đài
phát thanh BBC bên Anh quốc, cũng loan tin phóng sự buổi lễ này
trong giờ phát thanh tiếng Việt của họ về Việt Nam, cho mọi người
trong nước và trên toàn Thế giới cùng biết.
Nguyễn–Huy Hùng (Khóa 1, Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam)
trình bày ý nghĩa Ngày Quân lực 19 tháng 6.
3. Đặc biệt năm 1999,
ông FRANK FRY Thị trưởng của Thành phố Westminster được mời đến
tham dự NGÀY QUÂN LỰC 19 THÁNG 6, trong lời phát biểu ý kiến ông
đã kêu gọi phát động việc gây quỹ xây dựng tại Thị xã Westminster
một TƯỢNG ĐÀI KỶ NIỆM CÁC CHIẾN BINH HOA KỲ VÀ VIỆT NAM CỘNG HÒA
đã hy sinh trong cuộc chiến chống cộng sản để bảo vệ Tự do, Dân
chủ, Nhân quyền cho dân tộc Việt Nam trước 30 tháng 4 năm 1975.
Ông ta hăng hái làm việc này để giữ lời hứa với cử tri người MỸ
GỐC VIỆT từ mùa Thu năm 1996, lúc ông ta đến vận động tranh cử
chức Thị trưởng tại Trung tâm sinh hoạt người Việt Quốc gia trên
đường Moran bên hông thương xá Phước Lộc Thọ khu Little Saigon,
nhân buổi lễ bàn giao trách vụ Chủ Tịch Khu Hội Cựu Tù nhân Chính
trị Nam California giữa Giáo sư Phan Ngô (tiền nhiệm) và tôi
(Nguyễn–huy Hùng tân nhiệm), trước sự hiện diện đông đủ các Hội
trưởng thuộc Liên hội Cựu Chiến sĩ VNCH Nam California, Đại diện
các Đoàn thể và Đảng phái Chính trị Việt Nam lưu vong, một số
Nhân sĩ Hoa Kỳ, Mỹ gốc Việt, và khoảng 300 anh chị em Cựu Tù nhân
Chính trị thuộc Khu Hội Nam California.
Theo dự tính thì Tượng đài phải hoàn
tất và khánh thành vào Ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 2000. Nhưng
vì công trình này làm mất thể diện và giảm uy tín của Bạo quyền
Việt cộng trước dư luận Thế giới một cách trầm trọng, nên Tòa
Tổng Lãnh sự Việt cộng tại San Francisco và Tòa Đại sứ của chúng
tại Hoa Thịnh Đốn đã chính thức gửi văn thư đến Chính quyền Hoa
Kỳ lên tiếng phản đối, đồng thời xúi giục bày mưu cho bọn tay sai
trở cờ đón gió muốn hòa hợp hòa giải với chúng, tìm đủ mọi cách
gây cản trở làm trì trễ các tiến trình thực hiện tại Thị xã
Westminster. Nhưng, với quyết tâm của mọi người (trong đó có cả
các vị ĐẠI DIỆN DÂN CỬ thuộc Tiểu bang California và Liên bang
Hoa Kỳ) mọi khó khăn đã được giải quyết vượt qua một cách ổn
thoả, chỉ có tiến trình thực hiện là không hoàn thành được đúng
thời hạn như mong muốn mà thôi.
Ngày 20 tháng 1 năm 2001 (tức là ngày
26 tháng Chạp năm Canh Thìn), tại khu đất Thị xã Westminster dành
để xây dựng Tượng đài Chiến binh Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa,
Tổng Hội Sinh viên Nam California đã tổ chức Hội chợ Tết Tân Tỵ
(2001), trong chương trình Lễ Khai mạc Hội chợ có ghi một mục
quan trọng chính yếu là Lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Tượng
đài. Rất đông Đồng hương Việt Nam và Hoa Kỳ cùng các vị Dân Cử và
Giới chức Công quyền Hoa Kỳ địa phương đến tham dự.
Năm 2002, mọi thủ tục hành chánh và kỹ
thuật được hoàn tất đúng theo đòi hỏi. Trong một buổi họp công
khai trước sự hiện diện của quần chúng, Hội đồng quản trị thị xã
Westminster đã biểu quyết chấp thuận cho khởi công xây cất Tượng
đài. Việc đấu thầu lựa chọn công ty đảm nhiệm xây cất được thực
hiện kỹ lưỡng, và ngày 29 tháng 4 năm 2002, thị xã Westminster và
Ủy ban xây dựng tượng đài long trọng tổ chức “Lễ xới đất” khởi
công xây dựng khu CÔNG VIÊN TỰ DO. Ngày 23 tháng 9 năm 2002, pho
tượng 2 Chiến binh Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa được di chuyển từ
xưởng đúc của điêu khắc gia Nguyễn Tuấn tại Laguna Beach về thị
xã Westminster, để an vị trên đài nơi chính giữa CÔNG VIÊN TỰ DO
(Sid Goldstein Freedom Park) đường All American Way (tên cũ là
đường Monroe).
Năm 2003, Lễ khánh thành CÔNG VIÊN TỰ
DO, trong đó có TƯỢNG ĐÀI CHIẾN BINH HOA KỲ–VIỆT NAM CỘNG HÒA
hiên ngang đứng trước 2 cột cao trương cờ Hoa Kỳ–Việt Nam Cộng
Hòa (nền vàng 3 sọc đỏ) tung bay, và lư hương vĩ đại với ngọn lửa
thiêng bập bùng cháy quanh năm suốt ngày đêm, đã được tổ chức
trọng thể vào lúc 11 giờ ngày 27 tháng 4. Cũng kể từ ngày đó Công
viên mở cửa đón khách thập phương đến chiêm ngưỡng nườm nượp
quanh năm. Đây là một Tượng đài di tích lịch sử vĩ đại có một
không hai trên Thế giới, được những người yêu chuộng Tự do Dân
chủ Nhân quyền đóng góp hoàn thành đúng mốc thời gian giao điểm
giữa 2 Thế Kỷ 20 và 21. Đặc biệt là trong số những người được Ban
tổ chức mời lên phát biểu trong buổi lễ khánh thành có Tướng Lâm
Quang Thi.
Tượng đài Chiến binh Hoa Kỳ–Việt Nam Cộng Hòa tại Thị xã
Westminster đem lại niềm vinh dự lớn lao cho Cựu Chiến Binh Hoa
Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa, là biểu tượng cho gương hy sinh và tinh
thần chiến đấu kiên trì bất khuất của những người Chiến sĩ yêu
chuộng Tự do Dân chủ và Hòa bình của Nhân loại, và làm sáng danh
CHÍNH NGHĨA của QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA trong cuộc chiến chống
cộng sản Quốc tế từ tháng 6 năm 1949 đến 30 tháng 4 năm 1975 trên
đất nước Việt Nam, tiền đồn của Thế giới Tự do ngăn cản làn sóng
cộng sản Quốc tế lan tràn xâm chiếm toàn vùng Đông Nam Á Châu và
Thái Bình Dương.
Tượng đài Chiến binh Hoa Kỳ–Việt Nam
Cộng Hòa tại Thị xã Westminster vĩnh viễn hiện diện xuyên thời
gian để nhắc nhở những ai trong quá khứ đã từng khoác áo lính
Việt Nam Cộng Hòa, hay không khoác áo lính nhưng đã cùng đứng
dưới lá CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ chiến đấu chống cộng sản xâm lăng để
bảo vệ hạnh phúc cho dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam,
phải luôn luôn nhớ rằng TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI QUỐC GIA DÂN TỘC VIỆT
NAM CHƯA HOÀN THÀNH. Phải luôn luôn sáng suốt, đừng để bã lợi
danh và những tiếng nỉ non tâng bốc ngọt ngào của bọn Việt cộng
gian xảo và tay sai đón gió trở cờ (kẻ thù của dân tộc) lôi cuốn,
mà có những hành động và lời nói giúp cho chúng tồn tại lâu hơn
nữa để tiếp tục hại dân hại nước. Hãy dứt khoát hăng hái kiên trì
tiếp tay hỗ trợ liên tục về mọi mặt cho đồng bào trong nước, vùng
lên loại bỏ bọn chúng sớm chừng nào hay chừng nấy, để cho quốc
gia dân tộc Việt Nam sớm có Tự do, Dân chủ, và Nhân quyền được
tôn trọng.
Cá
nhân tôi đã được cái vinh dự hòa đồng cùng hơn 20,000 đồng hương
Mỹ–Việt tham dự buổi Lễ Khánh thành Tượng đài vào trưa ngày 27
tháng 4 năm 2003, nên đã cảm tác mấy vần thơ kỷ niệm dưới đây,
xin ghi lại để chư Vị cùng thưởng thức:
“ANH
HÙNG TỬ, KHÍ HÙNG BẤT TỬ”
Quận Cam nắng Hạ chan hòa,
Bên nhau Việt–Mỹ trẻ già hân hoan.
Cờ
Hoa xen lẫn cờ Vàng,
Tung bay mở hội
nghiêm trang đón mừng.
Tượng hai Chiến sĩ Anh Hùng,
Hiên ngang bất tử đứng cùng thời gian.
Gương hy sinh rạng mây ngàn,
Bao năm
chiến đấu gian nan vì đời.
Tự do rạng tỏa nơi nơi,
Nhân quyền, Dân chủ, người người hưởng chung.
Trọng thay nghĩa khí kiêu hùng,
Khác da
khác giống nhưng cùng ước mơ.
Mơ toàn nhân loại an hòa,
Công bằng, bác ái, nhà nhà ấm no.
Tình
thương dâng ngát muôn hoa,
Hòa đồng Sắc
Tộc Mầu Da Giống Nòi./.
Để thay lời kết luận, cũng đồng thời
trả lời cho những ai còn thắc mắc, vì sao thua trận phải lưu vong
tỵ nạn mà hàng năm vẫn còn tổ chức kỷ niệm một Quân lực không còn
sự hiện diện. Tôi xin phép dùng bài Thơ sau đây, nói lên tâm
trạng của người Cựu Chiến binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa:
TRÁCH NHIỆM CHƯA HOÀN THÀNH
Bao năm nếm mật nằm gai,
Dấu giầy đo bước sông dài, rừng sâu.
Ngày đêm lận đận ải đầu,
Vì Dân đâu ngại
dãi dầu gió sương.
Dốc lòng bảo vệ Quê hương,
Chống loài Quỷ Đỏ Bắc phương bạo tàn.
Bốn mùa chiến đấu hiên ngang,
Giúp Dân
xây dựng Xóm Làng yên vui.
Trớ trêu Tai kiếp Giống nòi,
Đồng minh phản bội, chơi vơi bẽ bàng.
Hoạt đầu Lãnh tụ hai mang,
Buộc quân
buông súng đầu hàng cầu vinh.
Ô danh bại Tướng bán mình,
Thế gian nguyền rủa, miệt khinh đời đời.
Thương Dân bỏ xác biển khơi,
Xót Quân
lao khổ, giữa nơi ngục tù.
Hận thù chồng chất Thiên thu,
Non sông tan tác, xác xơ tình người.
Tha
phương trăn trở khôn nguôi,
Đồng lòng
hiệp sức muôn người chung lo.
Dẹp tan Cộng đảng vong nô,
Cùng nhau dựng lại cơ đồ Việt Nam./.
Little Saigon, Nam
California, Hoa Kỳ.
NGUYỄN–HUY HÙNG (K1/VBQGVN)
Cựu Đại Tá Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, Phụ tá Tổng Cục trưởng
Chiến tranh Chính trị, kiêm Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến,
Cựu Tù Chính trị 13 năm lao động khổ
sai trong các trại cải tạo của Dảng và Nhà nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam sau ngày Quốc hận 30–4–1975.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Phụ lục – hình ảnh
Hình ảnh kỷ niệm của Tác giả
Sau đây là mấy tấm hình kỷ niệm chụp trong buổi lễ khánh thành Tượng đài Việt Mỹ tại Sid Goldstein Freedom Park thị xã Westminster ngày 27 tháng 4 năm 2003.
Trong hình từ trái qua phải:
Nguyễn–huy Hùng (K1), Lê Như Hùng (K14)
[tác
giả bài hát Võ bi hành khúc của
Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam]
Sau đây là 3 tấm hình do Ban tổ chức chụp trong ngày Lễ khánh thành Tượng đài đã gửi tặng cho tôi giữ làm kỷ niệm:
Hình tại khán đài chính, từ
trái qua phải:
Hàng đầu:
Đô đốc Trần văn Chơn, Thiếu tướng Lý Tòng Bá,
Trung tướng
Nguyễn Bảo Trị, Thiếu tướng Trần văn Nhật (mặc quân phục và phu
nhân)
Hàng kế sau:
Chuẩn tướng Lê văn Thân, Thiếu tướng Lê Minh Đảo
(bị che lấp
bởi đầu Tướng Bá),
Đốc sự hành chánh Vương Quốc Quả, Đại tá
Nguyễn–Huy Hùng
Hình trên: Toán Quân Kỳ các Quốc gia Đồng Minh
tham dự cuộc chiến tại Việt Nam và
Quân Kỳ Quân lực Việt Nam
Cộng Hòa
Hình dưới:
Một trong các khán đài phụ 2 bên khán đài chính,
tại khán đài
này được tập trung các cựu quân nhân Quân lực Việt Nam Cộng Hòa
mặc quân phục các Binh chủng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa
Mời xem một số hình ảnh Tượng đài ở các nơi khác mà các thân hữu đã chuyển cho tôi xem qua Internet.
Tượng Đài Chiến Sĩ Úc–Việt, Brisbane, Australia
Tượng Đài Chiến Sĩ Úc–Việt, Victoria, Australia
Đài Chiến Sĩ Việt Nam, Nannup, Australia
Tượng Đài Chiến Sĩ Úc–Việt, Aldelaide, Australia
Tượng Đài Chiến Sĩ Việt–Mỹ, Orlando, Florida
Tượng Đài Chiến Sĩ Việt–Mỹ, Bellaire, Houston
Tượng Đài Chiến Sĩ Việt–Mỹ, Wichita, Kansas
Tượng Đài Chiến Sĩ Việt–Mỹ, Arlington, Texas
Tượng Đài Chiến Sĩ Việt–Mỹ
tại công viên
Veterans Park ở Arlington, Texas.
Bia đá kỷ niệm Chiến Tranh
Việt Nam
trên đồi núi Colorado.
“Khi mơ ước mãi không thành
hiện thực
Sẽ trở thành viên đá tưởng lì trơ
Để óc tim ta
nặng trĩu không ngờ
Ta hất xuống những thường không.”
Tượng tưởng niệm Thuyền Nhân
tại thị xã Westminster,
Khu Little Saigon, Quận Orange, Nam
California, Hoa Kỳ.
Lễ khánh thành tượng đài
Tưởng Niệm Thuyền Nhân tại thị xã
Westminster, Khu Little
Saigon, Quận Orange, Nam California, Hoa Kỳ.
Tượng Ðài Thuyền Nhân tại Bảo Tàng
Viện Hàng Hải Oslo, Na–uy.
Tượng Ðài Hoa Sen. (Tài liệu của CÐNV Na–uy)
Những bài liên quan
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Đoàn Hữu Định chuyển
Đăng ngày Thứ Tư,
June 14, 2017
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang