Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút ký
Chủ đề:
lính – mùa cstv
Tác giả: MĐ
Đoàn Phương Hải
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
–
Nhớ “Ðệ Nhất Ẩm Sĩ, Cuồng Thái Y” Tô Phạm Liệu, Y sĩ trưởng Tiểu
Ðoàn 11 Nhảy Dù.
– Các chiến hữu đã ở lại Charlie...
– Gửi
Mễ, Duffy, và các bạn hữu để nhớ Charlie.
Những
quân mạt–chược
màu đỏ màu xanh, những vệt
nắng lung linh xuyên qua khe lá pha trộn với màu áo hoa rừng
của những người lính Nhảy Dù trong buổi trưa hè, dưới tàn
cây rợp bóng của vườn Tao Ðàn, đã tạo cho tôi một cảm giác
thật êm ả, thoải mái dễ chịu.
Ðang mải mê xoa thì anh
Năm kêu đi họp, làm cả bọn bật đứng lên. Trong đơn vị, chúng
tôi có thói quen kêu nhau bằng anh, với cấp bậc đi sau.
Tiếng “Anh” nghe gần gũi thân quen và đầy tình cảm, như
trường hợp ông Tiểu đoàn trưởng của tôi hiện nay, chúng tôi
vẫn kêu bằng Anh Năm, vì ông mang cấp bậc trung tá.
TĐ 11 ND của chúng tôi được không vận lên Pleiku, sau đó vào
vùng hành quân để giải tỏa áp lực địch đang đè nặng lên hai
tỉnh Pleiku và Kontum.
Giã từ vườn Tao Ðàn sau hơn
một tháng dưỡng quân với nhiệm vụ bảo vệ Dinh Tổng Thống,
cầu Xa Lộ, Hóc Môn, Phú Lâm, Bà Ðiểm. Những địa danh này là
cửa ngõ chính mà địch thường lợi dụng xâm nhập thủ đô Sài
Gòn. Tạm biệt Ðêm Màu Hồng, hủ tiếu gà, cá bờ sông, những
tàn cây đầy bóng mát trong vườn Tao Ðàn và Sài Gòn, nơi đầy
những biến động trong trận chiến tranh giành quyền lực của
các tướng lãnh và các phe phái chính trị?
Ngày 13 tháng 3 năm 1972, tôi ghi lại những nét đầu
tiên trong trang nhật ký hành quân.
Những cơn gió
lạnh của rừng núi Pleiku làm tôi rùng mình, kéo cao cổ áo
saut. Những đỉnh núi cao với nhiều hình thể lạ lùng in đậm
trên nền trời, trông thật đẹp và hùng vĩ. Biển Hồ với màu
nước xanh phẳng lặng.
Tượng Ðức Mẹ trên đỉnh đồi cao,
hiền dịu, bao dung, hai cánh tay mẹ giơ ngang trái tim như
đang ôm cả bầu trời. Lòng tự nhiên lắng đọng, tôi hít thật
sâu cái lạnh của núi rừng, nhìn những ngôi sao đổi ngôi trên
bầu trời, tôi cầu xin bình an cho bạn bè và đồng đội.
Mấy ngày tạm ở Pleiku, đêm nào tôi cũng ra hội quán
Phượng Hoàng với Thăng “Fulro”, Long “đất”, Kỳ, Xuân... bên
Không Quân, để nhắc đến bạn bè, kể cả những người đã ra đi
trong cuộc chiến.
Tuần lễ sau, đơn vị tôi theo Quốc
lộ 14 lên Kontum, Tân Cảnh. Lâu lắm mới hành quân trở lại
Vùng 2, vẫn núi đồi hùng vĩ năm nào, nhưng Quốc lộ, xóm làng
đã thay đổi nhiều, bom đạn chiến tranh làm loang lổ mặt
đường, cầu cống hoàn toàn đổ gãy, dân chúng sống thật nghèo
nàn dọc theo hai bên quốc lộ.
Ðóng quân tại Diên
Bình, tôi đã xúc động khi thấy tháp chuông nhà thờ sụp đổ,
cả dãy nhà nguyện phía sau chỉ còn là những đống gạch vụn
hoang tàn. Mấy năm trước tôi bị thương trong trận đánh khai
thông quốc lộ này, tôi đã nằm trong dãy nhà nguyện, tôi
không thể quên cha Joe, vị cha xứ người Pháp đã sống và chết
trên ngôi giáo đường cao nguyên với những con chiên ngoan
đạo của cha đến từ các giáo phận miền Bắc, trong những năm
54 chia đôi đất nước.
Từ Tân Cảnh, Charlie ẩn hiện
trên nền trời ảm đạm mờ sương. Charlie gồm 3 đỉnh đồi, cao
độ trên dưới 1000 thước, nối liền nhau bằng những sườn đồi
thoai thoải. Phía Bắc là ngã ba biên giới Việt–Lào–Cam bốt,
phía Đông–Bắc là quận Tân Cảnh, và xa xa về phía Nam là tỉnh
lỵ Kontum chìm trong rừng xanh núi đỏ.
Mặt trận B3
Cộng sản gồm 3 sư đoàn 2, 3, 320, Du kích địa phương, và các
Trung Đoàn pháo, phòng không, đang liên tục tấn công tạo áp
lực nặng nề cho Quân Ðoàn II. Cộng quân công khai sử dụng xe
Molotova tiếp tế quân trang, quân dụng cho mặt trận B3 trên
hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh, và Charlie đã trở thành cái
gai nằm ngay trên khoảng “xa lộ” tiếp tế chính yếu này của
địch.
Từ ngã ba biên giới, dòng sông Pô–kô dậy sóng,
qua núi băng rừng, đổ về chảy dọc theo Quốc lộ 14. Gần đến
Tân Cảnh có một nhánh nhỏ ào ào như thác đổ chảy gần Căn cứ
Charlie. Dọc theo những đỉnh núi chập trùng, Charlie cách
Tân Cảnh hơn 10 cây số về phía Tây–Nam; phía Bắc Charlie là
Căn cứ Yankee, Căn cứ 5, Căn cứ 6, phía Nam Charlie là Căn
cứ Delta, Hồng Hà, Mê–trô, Võ Ðịnh... Lữ Ðoàn II Nhảy Dù rải
đều quân trên các căn cứ, tạo thành một vòng cung với nhiệm
vụ phát giác và tiêu diệt địch, để bảo vệ Quốc lộ 14 và vùng
đồng bằng duyên hải của Quân Khu II.
Charlie, Delta,
Hồng Hà... hay Võ Ðịnh, là những tên được Bộ Chỉ Huy Hành
Quân đặt ra cho Không Quân, Pháo Binh dễ nhận diện khi cần
yểm trợ.
Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù được trực thăng vận vào
Charlie xong xuôi,
– Ðại uý Hùng, Đại đội trưởng Đại
Đội 113 đóng quân phía Bắc Charlie, 3 cây số gần chân núi
Yankee, tạm gọi là C1.
– Trung uý Thinh, Đại đội
trưởng 111, đóng tại C hay Charlie.
– Ðại uý Hùng,
Đại đội trưởng 112; Ðại uý Nho, Đại đội trưởng 110; Bộ Chỉ
Huy Tiểu Ðoàn; và Đại Đội 114 của Trung uý Cho đóng tại C2,
đỉnh cao phía Nam cách Charlie hơn 500 thước.
Từ điểm
cao C2 này, Tiểu Đoàn sử dụng để tiếp tế hay khi cần tăng
viện, một cách dễ dàng hơn.
Ném mạnh cục sỏi ra xa,
đá tung cục đá dưới chân, anh Năm nhăn mặt cau có, sau một
ngày vần vũ trên trực thăng đổ quân và quan sát địa thế
quanh Charlie. Tôi biết anh đang tức giận với nhiệm vụ hành
quân. Ðưa tay chỉ dãy núi cao phía Tây, trùng trùng điệp
điệp, Sư đoàn 320 Cộng quân và các đoàn xe Molotova của địch
đang tự do di chuyển, trong khi đó thì nhiệm vụ của Tiểu
Đoàn bằng mọi giá giữ vững Charlie, có nghĩa là tử thủ
Charlie.
Ráng chiều đỏ rực đang phủ nhòa cảnh vật, TÐ
11 ND vừa qua ngày đầu tiên trên chiến địa!
Nằm trên
võng, lắng nghe những âm thanh kỳ lạ của núi rừng trong buổi
sớm mai, những tia nắng đầu ngày rơi từng vệt tròn trên
poncho, tiếng chim hót, tiếng suối reo, hơi thở của rừng
cây, mùi đất mới, vệt khói mong manh từ ly cà phê buổi sớm
tạo cho tôi cảm giác khó tả. Tôi uể oải vươn vai nhìn xuống
thung lũng, những vạt sương sớm giăng mắc trắng đục trên
lưng đồi.
Anh Năm, Mễ, tôi, Duffy (Cố vấn Mỹ Liên
Lạc), Liệu (Y sĩ trưởng Tiểu Ðoàn), và các Đại đội trưởng
bàn thảo kế hoạch phòng thủ, các hỏa tập cận phòng, chung
quanh, và ngoài căn cứ. Anh Năm gằn giọng chỉ tay về những
đỉnh núi xa xa:
– Mình chỉ có vài đỉnh đồi để vinh
quang hay gục ngã. Tao đã xin Lữ Ðoàn để lại một Đại Đội tại
Charlie, còn toàn bộ Tiểu Đoàn phải di chuyển hàng ngày để
phát giác và tiêu diệt địch sớm hơn, nhưng Lữ Đoàn không
chấp thuận và lệnh phải giữ Charlie bằng mọi giá. Như thế là
mình mất thế thượng phong, chỉ thủ và không tấn công.
Hổ “xám” chiến trường nhún vai bất mãn vì cái lệnh hành
quân kỳ cục, phải tử thủ Charlie khi biết địch hơn mình về
quân số và vũ khí gấp mấy mươi lần! Ðưa mắt nhìn nhau, với
kinh nghiệm nhiều năm trận mạc, chúng tôi biết đang bị đâm
thấu tim bằng một lệnh hành quân quái ác.
Lính tráng
đào hầm hố, giao thông hào ngang dọc vị trí đóng quân. Tôi
xin trực thăng tăng cường tối đa thuốc men, đạn dược, để sẵn
sàng phòng thủ. Các Đại Đội tung quân lục soát xa căn cứ,
nhưng lần nào cũng đụng mạnh, khi Mễ tiến chiếm các cao điểm
phía Nam. Lợi dụng địa thế hiểm trở, địch đóng chốt trong
các hang đá, trên các cao điểm mà bom đạn không thể “lách”
vào các khe núi để “móc” chúng ra. Ðịch gài trận địa pháo và
bố trí phòng không dày đặc, gây tổn thất cho đơn vị mỗi khi
tấn công.
Ngày 6 tháng 4, Tiểu Ðoàn 2 Nhảy Dù tại Căn
cứ Delta, phía Nam Charlie bị pháo và tấn công. TÐ 11 ND bên
Charlie theo dõi trận đánh qua máy truyền tin. Giao tranh
suốt đêm, có lúc địch đã chiếm nửa căn cứ, sau lại bị đánh
bật ra, rồi mờ sáng hôm sau “Ngọc Ngà” thằng bạn cùng khoá
báo cáo chiếm lại Delta, địch thảm bại tháo lui, để lại
nhiều tổn thất về nhân mạng và vũ khí.
Chiêu một ngụm
cà phê, Anh Năm chỉ trên bản đồ và nói:
– Rút kinh
nghiệm trận đánh đêm qua, địch sẽ pháo mình liên tục, sau đó
sẽ tung cả Trung Đoàn để chiếm lại Charlie. Nhắc “tụi nhỏ”
dè sẻn đạn dược, căng thêm tối đa phục kích tự động, tung
tiền đồn ra xa, tu bổ thêm hệ thống phòng thủ.
Trước
khi về hầm trú ẩn, Anh Năm nói với lại với tôi:
–
“Khều”, mày và Mễ move vị trí ra xa tao một chút, mỗi người
một góc, lỡ có gì thì còn thay nhau chỉ huy.
Hai ngày
kế tiếp, địch bắt đầu pháo trên cả 3 căn cứ. Theo tình báo
và tài liệu tịch thâu từ tù binh, địch chắc chắn sử dụng Sư
Ðoàn 320 tấn công và tiêu diệt Charlie, để chiếm lại con
đường huyết mạch dùng tiếp tế, chuyển quân về đánh Tân Cảnh,
Kontum, trong chiến dịch mùa hè.
Ngày 9 tháng 4, hỏa
tiễn và đại pháo 130 địch cầy tung hệ thống phòng thủ, sau 4
giờ pháo kích, với hàng ngàn quả đạn công phá. Ðịch bắt đầu
tấn công Charlie, trong khi đó chúng vẫn đồng thời pháo Bộ
Chỉ Huy Tiểu Ðoàn.
Ðại Đội 111 chống trả mãnh liệt.
Pháo binh, khu trục, trực thăng võ trang trút đủ loại bom
đạn lên đầu địch. Sau nhiều đợt xung phong không kết quả,
địch rút, để lại hàng trăm xác chết với vũ khí ngổn ngang
đầy ngất sườn đồi.
Ðịch dùng pháo 130 với đầu nổ
chậm, đạn chui sâu xuống lòng đất, rồi nổ tung lên. Hầm hố
nào chịu đựng cho nổi với tầm bắn xa gần 30 cây số, nhanh,
và chính xác. Pháo 130 là vũ khí tối tân cực kỳ độc hại, bỏ
xa pháo binh 105, 155 hay 175 mà ta đang sử dụng!
Ðêm
xuống thật nhanh, Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù đang chuẩn bị cho một
định mệnh tàn khốc trong những ngày sắp tới. Nơi những rặng
núi mịt mùng phía Tây, từng đoàn xe Molotova địch đang di
chuyển, ánh đèn pha sáng rực góc rừng. Kêu pháo bắn tiêu
diệt, pháo bắn không tới, kêu Không Quân oanh kích thì không
có phi vụ, kêu Duffy xin B52, nhưng vẫn mịt mù vô vọng.
– Mình làm gì bây giờ?! – Anh Năm buông tiếng thở dài
với khuôn mặt buồn bực, rồi nói tiếp – Tử thủ một ngọn đồi
chờ địch pháo cho tan nát, sau đó ào ào tấn công. Cứ đà này
tiếp diễn hơn tuần lễ, chắc chắn mình sẽ tổn thất nặng. Nhớ
ngày ở Hạ Lào, Dambe, địch tung cả Trung Đoàn, nhưng tao coi
như “pha”, vì mình có địa thế để vùng vẫy, không có cái
nhiệm vụ “tử thủ”. Còn bây giờ thì khác, phải “ôm lấy”
Charlie để ăn pháo và chấp nhận thương đau...
– Không
lẽ sinh nhật tháng này cũng là ngày đi tàu suốt tại đây? Bếp
lửa gia đình mịt mờ xa tắp cuối phương Nam!
– Thôi
ngủ đi ông ơi. Mình chiến trận nhiều rồi, đâu có sao.
– Nhưng lần này tôi thấy không ổn. Hồi chiều Anh Năm mặc
lại bộ đồ Hoa Huyết Ðỏ, tôi tính nói mà sợ ông giận.
– Bộ đồ đó sui bỏ mẹ! Ông nhớ kỳ Quốc lộ 22 giải tỏa Thiện
Ngôn, chút xíu là tịch rồi...
– Mẹ kiếp, cứ mỗi lần
ông ấy bận đồ đỏ là đụng liên miên. Sáng mai tôi phải nói
ông ấy vứt mẹ nó đi.
– Dị đoan quá, nhưng không tin
không được.
Trao đổi vài câu tâm sự với Toubib Liệu,
tôi thiếp đi trong giấc ngủ nặng nề, đầy mệt mỏi trong cái
lạnh của rừng núi Tây Nguyên.
Vừa viết xong chữ “Ngày
10 tháng 4” trên cuốn nhật ký hành quân thì địch bắt đầu
pháo ngay Bộ Chỉ Huy. Nép mình trong giao thông hào, tôi kêu
máy cho các Đại Đội. Tất cả đều đang bị pháo. Tiếng rít của
hỏa tiễn và pháo 130ly làm tê liệt lệnh lạc. Tôi nói như hét
trên máy truyền tin, báo cáo lên Lữ Ðoàn để xin phi cơ quan
sát lên vùng với hy vọng thấy vị trí pháo địch. Lữ Ðoàn có
vẻ không tin là pháo 130. Tôi bực tức cúp máy và chửi thề
vài câu cho bớt giận!
Ðắng môi, khô miệng vì căng
thẳng mỗi khi nghe tiếng “depart” của pháo, vài giây chờ
đợi, giây phút ngắn ngủi lằn ranh của tử sinh.
– Nó
pháo ra ngoài, hình như đạn rơi về phía suối?
– Ừ, nó
pháo ra ngoài...
Thật ra đó chỉ là ảo giác, nói để
trấn an, nói để hy vọng, nói để tự dối lừa mình, nói để biết
mình đang sống trong nỗi chết gần kề.
Tôi nghe tiếng
phi cơ quan sát trên đầu. Vào tần số Không Lực, nhận ra
giọng Xuân trên chiếc L19. Tôi hét lên:
– Mở mắt ra
coi tụi nó đặt pháo ở đâu? Hướng dẫn thằng “Fulro” diệt nó
đi cha nội. Nó hỏi thăm tao hơi nhiều rồi đó.
– OK.
Có đám thằng Long “đất” khu trục vào vùng rồi đấy.
Căn cứ lãnh gần 3000 quả 130 nổ chậm và hỏa tiễn. Ðịch bắt
đầu tấn công...
Hình như địch muốn dò xét khả năng
phòng thủ và hỏa lực Không, Pháo yểm, nên chúng vừa dứt pháo
thì lại tấn công, lúc hướng Đông, lúc hướng Nam, xong chúng
lại rút... Trò chơi tiếp diễn suốt ngày. Rõ ràng địch đánh
thăm dò và pháo 130 vẫn là trò chơi hữu hiệu và độc hại
nhất, vừa tiêu hao, vừa làm thần kinh căng thẳng. Tiền sát
viên của địch trên những hốc núi cao dùng ống nhòm điều
chỉnh pháo mỗi khi thấy binh sĩ di chuyển. Ðể tránh tối đa
thiệt hại, chúng tôi chỉ di chuyển trong giao thông hào kiên
cố quanh vị trí đóng quân.
Trực thăng tản thương cố
gắng mấy lần, nhưng không thể đáp được vì hỏa lực phòng
không quá mạnh của địch, toàn 12.7ly từ các khe núi bắn ra.
Trực thăng võ trang, không quân oanh kích ít gây tổn thất
cho địch. Duffy xin được mấy phi vụ B52 sẽ thả lúc nửa đêm.
Sau khi cho tọa độ, anh Cố vấn hét lên vì xin thả quá gần,
chỉ cách vị trí đóng quân hơn 500 thước.
Ðêm xuống
thật nhanh, sao lấp lánh trên cao, núi đồi đen thẫm đầy đe
dọa, những đốm lửa bập bùng trong đêm sau các cuộc oanh kích
trong ngày làm những bụi cây chập chờn di động như bóng địch
quân. TÐ 11 ND chống mắt đợi chờ, mệt mỏi đói khát sau mấy
ngày đêm ăn pháo và tấn công của địch. Tựa lưng vào giao
thông hào chờ B52 tới thả bom, tôi buột miệng:
– Anh
Năm, sao anh khoái bộ hoa dù Angle quá vậy? Bộ này coi bội
sui lắm, hay là anh thay đi, có tin có lành mà Anh Năm.
– Sui cái gì, tụi mày chỉ dị đoan. Bộ đồ vừa đẹp lại vừa
hiếm, tao kiếm mãi mới ra đấy!
Mễ phang thêm một câu:
– Lần trước ở Dambe, đụng mấy ngày đêm, Anh cũng bận bộ
đồ này.
– Lần đó thắng lớn, tao ngồi trên thiết giáp
điều quân như Patton, dứt điểm một Trung Đoàn của Công
Trường 9 như lấy đồ trong túi. Vũ khí thu như núi, rửa mặt
cho Quân Ðoàn III. Nghĩ lại tao còn thấy khoái.
–
Nhưng mình mất một Đại đội trưởng và hai Trung đội trưởng.
– Thì biết làm sao. Chiến tranh có những tổn thất mà tao
đâu có bao giờ mong muốn.
Toubib Liệu thêm một câu:
– Cú giải tỏa Quốc lộ 22 gần Thiện Ngôn, một mảnh cối
vào mắt, nằm Cộng Hòa cả tháng, bộ ông không nhớ sao?
Tôi châm thêm ngòi:
– Hôm vi vút ở Văn Cảnh, kỳ
đóng quân ở vườn Tao Ðàn, chút xíu có chuyện lớn, bộ anh
quên rồi hả? Cứ mỗi lần Anh “chơi” bộ hoa dù Angle này lên
là có chuyện... Vía nó nặng lắm, hay là anh cho tôi đi...
– Ðể mai tính, giờ tối rồi, còn nửa giờ nữa là đúng nửa
đêm, check lại với Duffy chưa? Chúng mày chỉ lắm chuyện, hay
là tụi mày muốn “chôm” bộ đồ của tao. Áo quần thì ăn thua mẹ
gì mà sui với hên.
– Rồi Anh Năm! Mấy cái hỏa châu
tôi đuổi ra khỏi vùng rồi. Mấy thằng nhỏ tiền đồn tôi cho về
hồi chiều và đã báo tất cả chuẩn bị với sức chấn động của
B52.
Duffy giơ ngón tay cái lên trời, tay kia chỉ
hướng Nam. Ðột nhiên, trời đất rung chuyển, lửa cuốn cuồn
cuộn bốc lên trong tiếng nổ giây chuyền của hàng ngàn trái
bom 500 cân Anh từ B52 trút xuống. Không khí như nghẹt thở.
Ðứng tựa mình vào giao thông hào, hai ngón tay bịt chặt hai
lỗ tai, mồm há to để chống lại sức dội, nhưng tôi muốn tắt
thở, máu muốn ào ra từ lòng ngực, người rung lên, đất đá,
cành cây rơi lộp bộp trên nón sắt. Ðợt ném bom chấm dứt sau
vài phút. Lửa vẫn cuồn cuộn bốc lên ở phía Nam căn cứ.
Ngày hôm sau, địch không tấn công chỉ pháo cầm chừng.
Buổi sáng sương mù nên mãi gần trưa trực thăng tản thương
mới vào vùng. Khu trục bao vùng, gunships tác xạ những điểm
nghi ngờ trong các khe núi để trực thăng cố gắng đáp. Nhưng
vô hiệu, phòng không địch vẫn tác xạ như đan lưới. Một trực
thăng trúng đạn đang lết ra khỏi vùng... Hy vọng hoàn toàn
tan vỡ...
Anh Năm cất tiếng:
– Tao nghĩ cú này
nặng đấy. Tao đã báo cáo rất rõ tình hình địch với Lữ Ðoàn.
Vũ khí và quân số mình quá yếu so với địch. Một Tiểu Đoàn Dù
so với hai Trung Đoàn địch và cả rừng pháo, phòng không.
Chắc chỉ hơn một tuần nữa ăn pháo và vài đợt biển người tấn
công là mình sẽ bị...
Anh Năm bỏ dở câu nói. Trong
đôi mắt xa xăm của Anh đã linh cảm một điều không may sắp
đến. Anh lầm bầm:
– Duffy đã báo cáo qua hệ thống Cố
vấn, nhưng chẳng ai buồn nghe, lúc nào cũng chỉ là lệnh Tử
Thủ... Ðánh nhau mà như thế này, tao nản lắm. Tao là con nhà
võ, tao không thích bị trói tay, rồi chìa mặt cho địch đánh.
Người trực tiếp chỉ huy mặt trận phải biết rõ địch và tình
hình hơn Bộ Chỉ Huy... Thôi! Mình cố gắng một hay hai hôm
nữa, nếu cứ tình hình này, tao sẽ tính...
Tôi chán
nản đề nghị:
– Ðể lại một Trung Đội, rồi mình di động
đi Anh Năm. Ra ngoài dễ xoay sở hơn. Nằm đây đợi pháo, tôi
nghĩ không khá. Nhảy Dù chuyên tìm và diệt địch, nay đóng
quân chờ pháo... là tiêu rồi.
– Tao đã nói rồi, nhưng
không ai nghe. Tao cũng chán với cái chữ Tử Thủ rồi!
– Sương mù ngày nào cũng dầy đặc đến gần trưa mới tan. Bốn
năm giờ chiều là trời bắt đầu nhá nhem tối thì Không Quân
đánh đấm gì được. Có hôm chờ dài cổ cũng chả có bóng ma nào
trên trời... Thôi thì nhờ ông “Lạc” pháo binh nấu “phở” cho
ăn vậy.
– Thôi đừng lèm bèm nữa. Tao không muốn ra
tòa. Lữ Ðoàn còn không tin nó pháo mình bằng delay 130 nữa
đấy. Ê, Khều, mày lượm vài mảnh gửi về cho họ... coi đi!
– Nếu họ muốn thì vào đây mà lấy. Bộ mình đùa với xương
máu anh em hay sao?!
Tựa giao thông hào, mỗi người
mang một tâm sự khác nhau. Tôi thấy không vui và bâng khuâng
tự hỏi: “Không lý đây là trận đánh cuối cùng trong đời?”
Cảnh vật mờ dần trong nắng chiều. Ðêm xuống nhanh, đêm
yên lặng rợn người... Biết đâu ngoài kia địch đang bò tới
gần căn cứ và ở một nơi không xa, trong các dãy núi phía Tây
pháo địch đang căn [điều chỉnh] lại hướng súng và dùng loại
đạn tàn phá khốc liệt hơn.
Tôi đang mải suy nghĩ thì
Toubib Liệu buông một câu, rồi gục gặc cái đầu:
– Dám
kỳ này không được nhìn mặt đứa con sắp sinh lắm! Mấy thằng Y
sĩ khác giờ này đang “phè cánh nhạn” chứ đâu có đứng tựa
giao thông hào chờ pháo như tao.
– Có ai bắt đi Nhảy
Dù đâu. Thôi rán đi. Vài tháng nữa về Lữ Ðoàn hay bệnh xá Sư
Ðoàn thì tha hồ vi vút.
– Mẹ kiếp, tôi không thích về
đó. Tính tôi ngang bướng, hay nhậu nhẹt, đụng mấy Sếp mất
công. Mấy cha không ưa tôi, thôi tan hàng đi ngủ.
Trằn trọc trên võng căng dưới giao thông hào, tôi nghe rõ
tiếng rên siếc đau đớn của các thương binh. Lòng tôi chùng
xuống khi thấy poncho bó xác các binh sĩ tử thương càng ngày
càng nhiều. Hồi chiều anh Toubib cho biết thuốc men sắp cạn.
Tiếng “em gái hậu phương”, giọng anh ca sĩ quen thuộc
trong bản “Lính Ða Tình” làm tôi muốn đá văng cái radio đi
chỗ khác. Mẹ kiếp, lúc này mà đa tình đa tiếc cái mẹ gì...
Tôi buồn bực thiếp đi trong mệt mỏi.
Tảng sáng 12
tháng 4, quây quần bên ly cà phê dã chiến, tôi hỏi đùa Anh
Năm:
– Sao Anh không thay bộ đồ đi. Anh nói anh cho
tôi mà?
– Tụi mày chỉ vớ vẩn và nói dai như đỉa. Hải,
mày hỏi thằng Hùng “mập” có động tĩnh gì không? Nói nó bung
ra lục soát tìm một cái trảng trống để tản thương cho mấy
thằng “rách áo”. Mễ, mày cho thằng Móm bung ra thật xa phía
Đông tìm cái LZ (bãi đáp) khác đi!
Rồi Anh Năm đứng
dậy nói:
– Tao về thay bộ đồ, nói không lại tụi
mày... Cứ coi ba cái sách bói tướng, rồi nói nhảm. Nhớ dặn
“tụi nhỏ” lấy súng đạn của địch mà xài. Tình hình này hy
vọng tiếp tế, tản thương coi bộ gay go lắm. Ðể thương binh
như thế này tao chịu không nổi. Tao về hầm viết lá thư, khi
nào có trực thăng thì gửi, nhớ kêu tao nếu có gì lạ.
Anh nói xong hơi chồm về phía trước đi về hầm, Liệu đánh một
câu:
– Tướng hơi lộ xỉ, đi chồm về phía trước là
tướng ít gặp may, tướng vất vả!
– Lại đến phiên ông.
Bụng ông to chứa đầy cognac chắc hậu vận khá.
– Dĩ
nhiên “Ðệ Nhất Ẩm Sĩ” (người uống rượu số 1) họ Tô có bao
giờ thiếu VSOP đâu!
Vừa nói xong thì nhiều tiếng rít
qua đầu và nhiều tiếng nổ liên tiếp. Ðịch bắt đầu pháo đón
chào một ngày mới. Lại hỏa tiễn, lại 130 nổ chậm. Tôi chép
miệng nép mình trong giao thông hào, để mặc cho số phận. Mễ
chụp máy hỏi các Đại Đội. Tất cả báo cáo đều bị pháo. Mễ lẩm
bẩm: “Kỳ này nó nhất định dứt điểm mình.”
Một quả rớt
cách tôi và Mễ vài thước. Mễ bị hất văng ra xa tôi, tôi nhào
lên vừa đúng lúc Mễ lăn mình trở lại. Thật may mắn, quả đạn
rớt vào giao thông hào bên cạnh nên Mễ chỉ bị thương nhẹ,
máu lấm tấm đầy người. Toubib Liệu khám qua cho Mễ và nói:
– Không sao, sây sát chút đỉnh, còn đánh được thằng
VSOP.
Tôi kêu máy gọi Anh Năm, không có tiếng trả
lời. Tôi chạy lại hầm trú ẩn của Anh và Duffy. Tôi muốn ngộp
thở đứng tim khi thấy hầm Anh Năm trúng đạn, mấy thân cây
lớn đặt ngang hầm sụp đổ hoàn toàn. Ngay lúc đó, Duffy vừa
chui ra khỏi hầm, đầu ngực đầy máu. Mễ, Liệu và tôi, Long và
chú đệ tử của Anh vội moi đất kéo Anh ra khỏi hầm, mặc cho
pháo vẫn rơi đều trên căn cứ.
Chúng tôi mang Anh ra
khỏi hầm, đặt ngay dưới giao thông hào. Thân thể Anh còn
nóng, tôi bịt chặt vết thương cho Anh, máu ấm chảy qua kẽ
ngón tay. Liệu cúi xuống coi kỹ lại vết thương rồi ngẩng lên
nhìn chúng tôi lắc đầu:
“Anh
đã đi...”.
Thi thể thân thiết đó sẽ lạnh dần, đời sống đã ngưng
lại, những giọt máu hồng vẫn nhỏ giọt thấm vào lòng đất. Bộ
áo hoa dù Angle bê bết máu, mùi thuốc súng và mùi da thịt
thoảng trên không. Tai tôi ù đi như không còn nghe tiếng
bom, tiếng đạn. Mắt tôi nhòa đi và thấy rõ lại hình ảnh Anh
mới lúc trước đây hơi chồm về phía trước, đá tung cục sỏi,
đi nhanh về hầm. Tôi lẩm bẩm một mình:
– Ðã nói rồi
mà Anh Năm! Bộ đồ sui lắm, sao Anh không thay từ trước. Biết
đâu nếu không mặc nó, Anh chả được bình an?!
Hôm ở
hậu cứ Long Bình, Anh đã nói với tôi rằng năm nay là năm sui
của Anh. Anh nói Anh sẽ cẩn thận, nhưng Anh cẩn thận thế
nào, Anh chống chõi làm sao với một cái lệnh hành quân quái
ác “Tử Thủ Charlie” và một định mệnh tàn khốc đã dành sẵn
cho Anh.
Ngày khánh thành câu lạc bộ Ðồi Mũ Ðỏ (Red
Hat Hill) trong doanh trại của Tiểu Ðoàn, Anh bê về bức
tượng Mẹ Bồng Con của anh Thịnh và anh Huấn ở báo Diều Hâu
biếu Anh. Anh nói: “Bức tượng ám ảnh tôi hoài. Tượng đẹp thì
có đẹp, nhưng sao lại là nàng chinh phụ bế con và choàng
vòng hoa đại trắng.”
Tôi biết Anh không vui từ lúc
lãnh nhiệm vụ trấn thủ Charlie. Với bao lần vào sinh ra tử,
Anh biết sớm muộn gì cũng gặp tai ương khi phải đóng quân
tại một đỉnh đồi quá vài ngày. “Song Kiếm Trấn Ải 11 Dù” đã
san bằng Dambe, đánh tung A–shao, A–lưới... nhưng cũng không
thể đánh bật cả rừng phòng không và hai Trung Đoàn địch đang
vây hãm Charlie. Với một Tiểu Đoàn Dù, vài trăm binh sĩ. Anh
biết và chúng tôi cũng biết, nhưng nào ai có biết cho Anh!
Lấy bông và cồn lau cho Anh, gói ghém Anh... rồi thẫn
thờ chào Anh lần cuối. Tiếng gọi thân quen “mày, tao” đơn sơ
mộc mạc nhưng nồng ấm tình người. Anh thường hay nói với tụi
tôi:
“Tao Khoá 14, tụi mày Cùi 18, 19, 22... Tao coi
như em út trong nhà nên mày tao với tụi mày cho thân mật.”
Thường mỗi lần Anh nói như thế, thì Toubib Liệu hỏi
ngay:
– Còn Quân Y thì sao?
– Thì cũng thế
thôi. Năm nào ông chẳng khăn gói lên học quân sự trên Ðà
Lạt. Thái Phiên, Chi Lăng... ông đi mòn mấy đôi giầy thì rõ
ràng là ông cũng dân Võ Bị...
Nằm đó đi Anh Năm,
Chalie sẽ mãi mãi là tên Anh. Rừng núi Tây Nguyên nơi Anh
đến và đi. Tôi sẽ nhớ mãi cả đời Charlie oan nghiệt.
* * * * *
“Anh Năm,
Anh mất đi, Mễ lên thay
Anh, tôi thay Mễ làm những chuyện Mễ vẫn làm. Trách nhiệm
đơn vị đang đè nặng trên vai Mễ.
– Ðã quá trưa, địch
vẫn pháo. Căn cứ như bị đào xới. Cây cối đổ gẫy ngổn ngang,
lính chết và bị thương càng lúc càng cao. Tử thương gần 30
và bị thương nặng nhẹ trên 100. Charlie vẫn mịt mờ bom đạn.
Tôi cũng chẳng biết là bao nhiêu đạn đã nổ trên Charlie và
trên Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn, mà chỉ biết lòng đang đầy rẫy
những muộn phiền, căng thẳng. Pháo giăng giăng bao phủ khung
trời. Ngày nào cũng ăn pháo từ sáng tới chiều thì chắc ít
nhất cũng vài ngàn...
– Pháo vừa ngưng thì địch tấn
công. Từ đồi cao nhìn xuống Charlie, những bộ ka–ki vàng
giắt lá cây, hàng hàng lớp lớp xung phong.
– Giọng
Thịnh chắc nịch vang lên trong máy điều động Đại Đội chống
trả. Pháo binh, Không Quân yểm trợ rất hữu hiệu. Ðã mấy lần
địch khựng lại, rồi lại tấn công. Mễ điều động mấy tổ đại
liên và đại bác 90 của Hùng ‘móm’ kéo xuống lưng đồi tác xạ
ngang hông địch. Tôi hướng dẫn và chỉ điểm cho L19 hướng tấn
công của địch.
– Khu trục tác xạ oanh kích mục tiêu,
tôi nhìn rất rõ từng chiếc nón bay của bạn bè khi phi cơ
chúi xuống trút bom Napalm trên đầu địch. Cả một biển lửa
bùng lên quanh Charlie. Lửa hừng hực thiêu đốt rừng người,
lửa nhân gian cuồng bạo. Bắc quân la hét lăn lộn trong biển
lửa. Lửa từ lưng trời chụp xuống, lửa từ chân núi cháy
lên... chỗ nào cũng lửa và lửa.
– Phòng không địch
tác xạ như đan lưới. Hai khu trục trúng đạn, một nổ cháy như
một cây đuốc trên không, chiếc còn lại với làn khói trắng
sau đuôi bay chớp choáng về hướng Tân Cảnh. Tôi hét lên
trong máy hỏi Xuân L19 và biết Kỳ bị bắn rớt, còn Long bị
bắn ngay đuôi, sống chết chưa biết ra sao?
– Không
gian, tổ quốc, bầu trời! Vì nhiệm vụ, vì bạn bè... đại bàng
đã gẫy cánh. Vĩnh biệt Thần Phong can đảm tài ba mà tôi mới
gặp mấy tuần trước tại Pleiku.
– Sau nửa ngày thiêu
đốt Charlie, từng thảm TOT hỏa tập pháo binh bắn cận phòng
với đầu nổ chụp. Ðịch bắt đầu tháo chạy. (TOT là lối tác xạ
của nhiều pháo đội Pháo Binh từ nhiều hướng khác nhau cùng
bắn tập trung rất nhiều quả đạn vào cùng một mục tiêu).
– Tiếng súng thưa dần, xác địch cháy cứng sườn đồi. Mùi
da thịt cháy, mùi thuốc súng, làm tôi lợm giọng muốn ói.
Ðánh bao nhiêu trận, đụng địch bao nhiêu lần, nhưng thật
tình tôi chưa bao giờ thấy địa ngục rực lửa thiêu đốt con
người như hôm nay.”
“Anh Năm,
– Tôi vẫn làm
nhiệm vụ hàng ngày để báo cáo với Anh là ‘tụi nhỏ’ đã làm
theo lời Anh, đã chiến đấu như bày sư tử dữ, đã đánh đẹp như
ngày theo Anh vào Dambe, Thiện Ngôn, Trại Bí... ‘Song Kiếm
Trấn Ải’, biệt danh của TÐ 11 ND do Anh đặt đã làm những gì
Anh muốn với trên 400 xác địch quân cháy la liệt quanh
Charlie và cả trăm vũ khí bỏ lại chiến trường.
–
Hoàng hôn trên Charlie vẫn đẹp, tôi vẫn tựa giao thông hào
nhìn những đám mây giăng mắc với hàng ngàn hình thể khác
nhau. Mây trời như biển động dậy sóng theo gió đổi hình và
theo nắng chiều đổi thay màu sắc, có lúc ánh vàng rực rỡ, có
lúc rực đỏ như máu lửa Charlie, lại có lúc như ngàn vạn tinh
binh cờ xí rợp trời bao vây thành quách. Sao Hiệp Sĩ vẫn rực
sáng trên trời. Chùm sao Thơ Ấu của Anh, chùm sao trong giải
ngân hà Anh đã theo đó về quê tìm lại tuổi thơ ấu nơi miền
quê đất Bắc. Anh về tận Hà Ðông, nơi Anh cất tiếng khóc chào
đời, nơi êm đềm chỉ có diều bay theo gió và không có chiến
tranh...
– Tôi chỉ nhắc lại những gì Anh mơ ước trong
những chiều cấm trại, bó gối ngồi ở lưng đồi trên hậu cứ
Long Bình, lơ đãng nhìn xuống dòng sông Ðồng Nai mênh mông
uốn khúc quanh các lò gạch nhả khói dưới chân làng Cao Thái,
gần Tân Mai, Tam Hiệp... và xa xa pho tượng Tiếc Thương để
súng ngang đùi như đang thương tiếc những người lính trong
Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hòa.
– Hùng ‘mập’ và Thinh
hỏi tôi sao vắng tiếng Anh. Tôi nói Anh còn đang say ngủ...
– Số thương vong lên cao, quanh Charlie đầy xác địch. Mễ
nói Thinh để lại mấy toán tiền đồn nhỏ, gài tối đa phục kích
tự động, rồi rút về tăng cường phòng thủ Bộ Chỉ Huy. Tôi
trằn trọc cả đêm, chỉ chợp mắt được vài tiếng đồng hồ thì
trời sáng. Tôi nghe Liệu nói với Mễ:
– Hôm nay là
ngày 13, con số không lành, thế nào chúng cũng pháo và tấn
công mình nữa. Tôi lo cho thương binh quá. Nếu không có
thuốc và di tản kịp thì chắc sẽ không qua khỏi. Mê Linh đưa
tôi cây M16 hay M79 cho được việc. Tôi hết thuốc men rồi...
– Không Quân và trực thăng võ trang bắn phá để trực
thăng tản thương cố gắng vào vùng. Nhưng tất cả đều vô hiệu,
một trúng đạn ở phía Bắc Yankee, một nổ tung gần Charlie, và
một chập choạng bay khỏi vùng với làn khói trắng bên hông.
Thế là hết! Hy vọng tan theo mây khói.
– Mễ ra lệnh
cho Hùng 113 lục soát kiếm bãi đáp phía Bắc Charlie. Hùng
báo cáo đụng địch khi kiếm ra bãi đáp. Hình như địch bố trí
tại tất cả những trảng trống chung quanh Charlie để ngăn
chặn tiếp tế hoặc đổ quân tiếp viện. Thinh dẫn Đại Đội 111
bung mạnh về hướng Đông. Giao tranh dữ dội khi Thinh ra khỏi
căn cứ hơn nửa cây số. Trung uý Thinh, Đại đội trưởng Đại
Đội 111 hy sinh trong trận đánh tàn khốc đầy máu lửa. Ðịch
bố trí phòng không 12.7ly và đại bác trực xạ kèm theo hàng
hàng lớp lớp tấn công. Trung sĩ Lung, tay tổ trưởng nổi
tiếng tháo vát, lỳ lợm của Tiểu Đoàn, chưa bao giờ thất bại
trước bất kỳ một nhiệm vụ giao phó nào, cũng vừa gục ngã.
Chuẩn uý Khánh, sĩ quan tiền sát pháo binh độc nhất không bị
thương và đã chiến đấu cực kỳ dũng mãnh để mang xác Thinh và
đồng đội về căn cứ.
– Xế chiều ngày 13, địch tấn công
sau khi đã mưa pháo vào căn cứ từ lúc trưa. Hơn tuần lễ nay,
hầu như ngày nào cũng vài tiếng đồng hồ ăn pháo. Cây cối đổ
gẫy thêm, nằm ngổn ngang. Binh sĩ móc thêm những hàm ếch
thật sâu trong các giao thông hào. Chỉ còn đường tơ kẽ tóc
để sống còn, nên hệ thống trú ẩn đã được đào xới rất công
phu.
– Bây giờ thì đi không được mà ở cũng không
xong. Giao tranh tiếp diễn suốt đêm. Nhờ quen thuộc địa thế,
quen từng ngã rẽ đường hầm. Nhiều khúc giao thông hào địch
đã xâm nhập, nhưng cuối cùng cũng bị tiêu diệt vì chúng
không quen hệ thống địa đạo của ta. Hỏa châu vẫn bập bùng
soi sáng núi đồi...
– Trời sáng dần, ta và địch vẫn
quần thảo đẫm máu, bám sát lấy nhau. Ðã có lúc tôi, Mễ,
Duffy, và Toubib Liệu chiến đấu như những khinh binh khi
địch đánh vào tới sát vị trí chỉ huy.
– Ðại Đội 113
bị cầm chân nên không thể về tăng cường cho căn cứ. Tôi đề
nghị với Mễ cứ để 113 ở ngoài làm trừ bị cuối cùng và tôi
cũng đề nghị bỏ Charlie vì thương vong quá cao, đạn dược còn
rất ít. Mễ nhìn hàng loạt poncho bó xác Anh Năm, các sĩ
quan, binh sĩ tử thương và các thương binh rên siếc nằm chật
giao thông hào.
– Có cái đớn đau, dằn vặt nào hơn khi
thế cùng lực kiệt, không tiếp tế, không tản thương, không
lương thực thuốc men... mà vẫn phải đương đầu với hàng hàng
lớp địch quân, để rồi lần lượt gục ngã vì kiệt sức!
–
Mễ, tôi, Duffy lấy quyết địch cuối cùng: Bỏ Charlie vào lúc
xế chiều, sau khi Duffy xin được mấy phi vụ B52 thả xuống
phía Nam và phía Đông căn cứ để Tiểu Đoàn di tản. Ðợt bom
lửa cuối cùng thả ngay trên tuyến phòng thủ Đại Đội 114 của
Trung uý Cho đã đánh bật địch quân ra khỏi tuyến phòng thủ.
Chiến trường tạm lắng dịu, chỉ còn tiếng pháo binh tác xạ
yểm trợ vào những điểm nghi ngờ địch quân tập trung dưới
chân đồi. Chúng tôi biết chắc địch đang điều động mở một đợt
tấn công khác.
– Tôi thẫn thờ buồn bã châm điếu thuốc
cho chú đệ tử bị thương. Thầy trò chia ngọt sẻ bùi với nhau
từng miếng ăn, giấc ngủ trong mấy năm liền. Qua ánh mắt như
chờ đợi, như ước mong khi tôi dìu chú về chỗ của tôi. Vết
thương ở vai khá nặng, máu ra nhiều. Tôi nhắc chú cố gắng đi
sát tôi, tới đâu hay tới đó. Chú mỉm cười bóp chặt tay tôi.
Giọt nước mắt nóng rớt trên mu bàn tay...
– Chiều nay
di tản. Thương binh nhẹ thì đi theo, còn thương binh nặng
thì sao?! Không còn một phép nhiệm mầu nào đến với chúng
tôi. Tôi báo cho Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn II Nhảy Dù biết rằng
chúng tôi sẽ phải di tản hai phần ba quân số thương vong,
lương thực, thuốc men đã hết từ hai hôm trước.
– Vĩnh
biệt Anh Năm và các chiến hữu! Thôi thì biết làm sao, đời
lính chiến nay ở mai đi! ‘Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi’...
Có mấy ai đi mà trở về trong buổi loạn ly?!
– Tôi và
Hùng ‘móm’ lấy hướng 800 dẫn đầu đoàn quân ào ra khỏi
Charlie khi ánh nắng chiều cuối cùng vừa khuất sau dãy núi
phía Tây, trong khi pháo binh bắn ngăn chặn phía sau và bên
hông để ngăn địch truy kích. Nhờ mấy phi vụ đánh bom hồi
chiều và ba toán tiền đồn nằm sẵn từ buổi trưa, đoàn quân ào
đi không gặp kháng cự.
– Xuống khỏi chân đồi chừng
400 thước thì B52 rải từng thảm bom ở phía Nam, Đông–Nam căn
cứ. Chúng tôi cố tránh thả bom ngay đỉnh đồi, vì nghĩ rằng
biết đâu những thương binh nặng còn chưa theo kịp và thân
xác Anh Năm cùng bao đồng đội tử thương còn nằm tại đó. Bom
rít qua đầu. Cơn địa chấn bom và sức ép làm cả đơn vị lăn
lộn bên sườn núi. Tất cả đều kiệt lực. Mễ nằm gục vì vết
thương hôm qua. Mồm tôi ứa máu vì quá mệt mỏi và kiệt sức.
Duffy cũng chẳng hơn gì, còn Toubib Liệu gục xuống bên gốc
cây bất động.
– Hải! Coi hướng cho đúng và hỏi coi
thằng 3 tới đâu rồi?
Với bản năng sinh tồn, chúng tôi
lại vùng lên lao về điểm hẹn. Ðêm tối đen, lính nắm vai áo
nhau mà đi, kẻ mạnh dìu kéo thương binh, tựa lưng vào cây
rừng để lấy thêm sức tiến qua cây khác. Kim địa bàn lân tinh
giao động, hướng 800, hướng của sự sống và hy vọng. Hỏa châu
vẫn bập bùng trong đêm tối.
– Khều! Ông nghĩ mình
thoát không? Nó mà phục kích là kể như chết chắc!
–
Còn chừng một cây số nữa thì tới nơi. Tao đã liên lạc được
với Hùng ‘mập’ rồi, hắn sắp tới. Ðừng nói nhảm, cái miệng
lép xép, sui bỏ mẹ!
– Ðiểm hẹn Mễ và tôi chọn là một
khoảng trống ngay cạnh bờ sông Pô–kô để đơn vị lấy nước và
di tản thương binh. Trảng trống trong khu rừng lau là điểm
hy vọng, điểm mong đợi cuối cùng của những người lính Dù sau
7 ngày đêm quần thảo với 2 Trung Đoàn địch, kèm theo những
trận mưa pháo đẫm máu trên hỏa ngục Charlie.
– Trời
sáng dần, bắt tay được với Đại Đội 113, Hùng ‘mập’ đang rải
quân sát bìa rừng và tung các toán tiền đồn ra xa.
–
Như một gáo nước lạnh tạt vào mặt tôi và Mễ, vì Lữ Ðoàn cho
biết chưa có trực thăng và ra lệnh cố gắng chiến đấu để về
Tân Cảnh.
– Chiến đấu?! Chiến đấu trong thế cùng lực
kiệt với quân số 167 người, kể cả thương binh đang kiệt sức
vì đói khát đã 3 ngày. Nhưng Nhảy Dù là ‘cố gắng’ nên chúng
tôi lại vùng lên. Tôi không buồn trả lời và đưa mắt nhìn
Duffy, viên Thiếu tá Lực Lượng Ðặc Biệt đã sống với tụi tôi
như anh em, chia nhau từng bát cơm hộp cá. Vết thương rỉ máu
trên đầu, trên ngực, nhưng Duffy vẫn cứng như một thỏi thép
với cây XM18 và chiếc máy truyền tin đặc biệt của các toán
Lực Lượng Ðặc Biệt khi nhảy xâm nhập.
– Chúng tôi sẽ
có máy bay Mỹ trong vài phút!
– Ngả lưng nhìn trời
xanh qua khe lá, chưa hút tàn điếu thuốc thì có tiếng súng
nổ của các toán tiền đồn của Đại Đội 113. Hùng ‘mập’ báo cáo
tất cả đều chạm địch. Pháo 82, B40, B41, và AK nổ vang một
góc rừng. Ðịch ào tới tấn công. Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù vùng
lên chống trả, lính Đại Đội 113 ào ra ngăn địch. Giọng Hùng
sang sảng điều động các Trung Đội. Ðúng là kẻ đến không
mong, giặc Bắc phương ào vào vị trí đóng quân. Chúng tôi vừa
bắn vừa rút vào khu rừng lau cao quá đầu người...
–
Ðơn vị tan thành từng mảnh nhỏ, từng toán chiến đấu đơn độc.
Tiếng chửi thề và tiếng la hét của ta, của địch vang khắp
khu rừng lau và các sườn đồi kế cận, chỗ nào cũng có súng
nổ. Ðịch gọi tên Mễ, tên tôi ra đầu hàng! Chắc chúng tra
khảo thương binh để lấy tin tức. Ngay lúc đó, Duffy vừa liên
lạc được với 2 chiếc trực thăng võ trang Cobra, một chở quân
và một O2 quan sát. Nhờ địa thế trống trải của khu rừng lau
nên Cobra thấy rất rõ đâu là địch, đâu là bạn. Toán còn 36
người nên di tản làm 5 đợt vì chỉ có một trực thăng chở
quân.
– Với hỏa lực khủng khiếp và chính xác của
Cobra, địch khựng lại, trực thăng đáp xuống rừng lau:
– Liệu, ông đi trước đi! Chân ông bị thương ông không
chạy nổi đâu!
– Tôi không đi, tôi ở lại với các ông.
– Ði đi, chân cẳng như thế mà ở lại. Ông nặng bỏ mẹ, tôi
cõng ông không nổi đâu.
– Vừa nói, tôi vừa lùa Liệu
lên trực thăng với 6 người lính khác. Máy bay vút đi. Trong
ánh mắt Liệu có một chút gì vương vấn xót xa.
– Ðịch
lại ào về phía chúng tôi. Cả toán vừa chạy vừa bắn lại. Nhờ
hỏa lực yểm trợ của Cobra, thêm được 3 đợt bốc quân an toàn.
Toán còn lại Mễ, Duffy, tôi, và Trung uý Long bị địch đuổi
bắt tới cùng.
– Trong mấy chuyến trực thăng di tản
vừa qua, phi công Mỹ muốn Duffy được bốc đầu tiên, nhưng
Duffy nhìn tôi và nói:
– Tôi không bỏ các anh, những
chiến hữu đúng nghĩa nhất mà tôi chưa hề gặp trong cả đời
chinh chiến. Tôi biết rõ, nếu tôi đi đợt đầu thì chắc khó hy
vọng có máy bay trở lại bốc nốt các anh.
– Ngay lúc
đó, cặp Cobra, trực thăng võ trang mới vào vùng, chúng tôi
sẵn sàng chờ đợi di tản đợt cuối cùng.
– Trực thăng
vừa đáp, tôi lên sau cùng. Máy bay vừa lên cao vài thước thì
một loạt AK bắn lên tàu, tôi trúng đạn ở chân phải và rớt từ
trực thăng xuống đất. Tôi hét lên và chỉ kịp nhìn đuôi trực
thăng vút lên... Trời xanh mây trắng ngang tầm mắt. Tôi đứng
lên, nhưng gục xuống ngay vì đạn bắn trúng bàn chân và ống
chân bên phái. Tôi tự nghĩ chắc sẽ chết vì vết thương ra hết
máu, vì đói, vì khát, vì kiệt sức cho dù địch không bắt được
tôi. Khẩu súng Colt và cây M16 còn đầy đạn. Tôi chợt nghĩ
đến hồi tháng 6 năm 1965, một lần Ðồng Xoài tan nát, tôi đã
mất Dũng, thằng bạn thân cùng khoá. Tôi đã thấy Tiểu đoàn
trưởng, Tiểu đoàn phó và mấy trăm chiến hữu gục ngã trong
trận đánh kinh hãi hồi tôi mới ra trường Võ Bị. Lần đó, với
vết thương bể mặt nát tay, tôi vẫn về được sau 5 ngày lê
lết, đói khát trong rừng với vết thương đã làm độc.
–
Giờ là tháng 4 năm 1972, Charlie rực lửa, tôi đã mất Anh Năm
và bao nhiêu chiến hữu còn nằm lại Charlie. Tôi ước tính từ
đây về Tân Cảnh chỉ còn 5 cây số, nhưng là 5 cây số đồi cao
vực thẳm, 5 cây số đường rừng, và tôi lại đang bị thương ở
chân thì làm sao tôi đi được. Tôi có thể sẽ gục chết ở một
xó rừng, khe suối, và bày kiến sẽ kéo nhau rúc vào thân thể,
thịt xương sẽ rữa nát hình hài. Hình ảnh thân yêu vợ con,
cha mẹ chập chờn trong trí óc. Thằng bé mới sinh chỉ gặp mặt
đôi lần... Còn phép lạ nào sẽ đến với tôi?! Sau 7 ngày chiến
đấu quên ăn quên ngủ, sao giờ này tôi lại trúng đạn từ trực
thăng rớt xuống. Chỉ chậm một giây nữa là tôi sẽ bay về vùng
trời êm ấm...
– Tiếng trực thăng trên đầu làm tôi vụt
đứng lên bằng bàn chân trái. Tôi giơ cao tay, miệng hét lớn.
Tôi không thể tin, mồm tôi há to, mắt mở lớn. Trực thăng sà
xuống bãi cỏ. Duffy giơ hai tay nắm chặt giây đạn và một tay
tôi, rồi kéo mạnh tôi lên. Máy bay vút lên với một loạt đạn
bắn trúng thân tàu. Chiếc trực thăng nghiêng một bên rồi bay
thẳng, máu phun có vòi từ anh xạ thủ đại liên người Mỹ làm
ướt mặt tôi và Duffy. Mễ kéo tôi vào giữa thân tàu khi nửa
người tôi và hai chân còn đong đưa ngoài không khí. Duffy
chồm tới bịt chặt vết thương trên ngực anh xạ thủ đại liên.
– Nằm trên sàn tàu, tôi không thể tưởng và không thể tin
tôi còn sống trước tình chiến hữu cao cả của hai người lính
ở hai đất nước khác nhau. Duffy ôm lấy tôi... Có một chút
nghẹn ngào trong khoé mắt. Vì vết thương quá nặng, anh xạ
thủ đại liên Mỹ đã qua đời, anh phi công phụ đang gục đầu
bên cửa máy bay với vết thương ở tay.
– Khi về đến
trạm cứu thương, tôi mới biết anh xạ thủ đại liên Mỹ đã hết
nhiệm kỳ, ngày mai anh sẽ về Mỹ, anh đang có mặt trên trực
thăng thì vô tình chiếc máy bay nhận được lệnh vào bốc tụi
tôi. Ðịnh mệnh thật trớ trêu!
– Tảng sáng hôm sau 15
tháng 4, Thành ‘râu’, bạn cùng khoá 19 của tôi, từ Bộ Chỉ
Huy Lữ Ðoàn vần vũ trên trực thăng bay ngang Charlie, ngó
cảnh hoang tàn đổ nát đang âm ỷ cháy để chào Anh Năm lần
cuối và tìm cách bốc các binh sĩ lạc lõng sau trận đánh hãi
hùng ngày hôm trước.”
“Anh Năm,
– Ðó là tất cả
những gì đã đến với đơn vị, sau khi Anh ra đi. Mặc dù Anh ở
lại Charlie, nhưng Anh không cô độc, anh có ‘tụi nhỏ’ ở lại
cùng Anh. Anh sẽ ngắm hoàng hôn để nhớ thời trai trẻ, Anh sẽ
gặp lại hình ảnh một ‘công tử càn’ của Hà Nội năm xưa hay
một thanh niên mới vào đời trong Trại Học Sinh Nghèo Phú
Thọ, bỏ Bắc vào Nam năm 1954 khi đất nước chia đôi. Chiếc
đai đen nhu đạo và những kỷ niệm ‘giang hồ’ Anh hay kể cho
tụi tôi nghe vẫn mãi mãi là những gì đẹp nhất khi bạn bè
ngồi nhắc tới anh.”
“Anh Năm thân kính,
– Ðúng
như Anh đã tiên liệu khi đặt chân lên Charlie, nỗi lo âu, sự
tiên đoán của Anh đã thực xảy ra cho Bộ Chỉ Huy Nhảy Dù và
các đơn vị bạn.
– Charlie mất ngày 14 tháng 4 thì
Delta, Metro ở phía Nam cũng phải di tản. Vòng đai Nhảy Dù
bỏ trống bên hông, Sư Ðoàn 320 Cộng quân tăng thêm Sư Ðoàn 2
ào ào như nước vỡ bờ đánh chiếm Tân Cảnh, khởi đầu cho những
ngày Hè rực lửa trên quê hương.
– Sông Lô, Tiểu Ðoàn
7 Nhảy Dù phải mở huyết lộ đánh qua đỉnh Chu–pao, kéo toàn
Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn II Nhảy Dù về Kontum.
– Ngày 24
tháng 4 năm 1972, Tân Cảnh rơi vào tay giặc, đúng 12 ngày
sau khi Anh đi khuất, dòng sông Dapla quanh thị trấn Kontum
đỏ ngầu, xác ta và địch hòa với màu đỏ của những hàng phượng
vĩ buồn thảm gục ngã hai bên bờ sông. Kontum, Pleiku đang
chiến đấu một mất một còn với giặc. Mùa hè thảm khốc đang ập
đổ trên quê hương, mở đầu cho thiên Chiến Sử oai hùng của
Quảng Trị, Kontum, và Bình Long anh dũng.”
“Anh Năm,
– Sau ngày tôi bị thương, tôi được đưa về bệnh viện Ðỗ
Vinh trong Căn cứ Hoàng Hoa Thám. Loạt đạn AK bắn bể xương
bàn chân và mắt cá chân bên phải. Mổ xẻ xong xuôi, mấy anh
Toubib cho biết tôi không còn hy vọng quay lại đơn vị tác
chiến và Nhảy Dù được nữa, vì xương bàn chân và mắt cá đã
gẫy vụn làm nhiều mảnh. Tôi lê bàn chân bó bột về nhà chờ 29
ngày tái khám và bắt đầu làm quen với đôi nạng gỗ trên vai.”
“Anh Năm,
– Ðã năm lần bảy lượt tôi vào cư xá sĩ
quan Chí Hòa muốn thăm Chị và cháu Tường, nhưng lần nào cũng
vậy, khi đỗ xe gần cửa nhà Anh, nhìn vành khăn tang trên đầu
chị và cháu thì tôi lại không có can đảm và đổi ý ra về. Tôi
sợ sự thật, tôi sợ khi phải đối diện với chị. Tôi biết ăn
nói làm sao, giải thích thế nào về sự ra đi của Anh. Còn cái
cảnh khổ và chua xót đớn đau nào hơn khi hình Anh trên bàn
thờ nghi ngút khói hương, nhưng thân Anh lại không có được
một nấm mồ? Người ta nói nghĩa tử là nghĩa tận, sống mỗi
người mỗi nhà, chết mỗi người mỗi mồ, nhưng chúng tôi đã bất
lực, đã bỏ Anh mà đi, bỏ Anh ở lại Charlie nơi rừng xanh núi
đỏ xa hút mãi tận Trường Sơn.”
“Anh Năm,
–
Ngoài đời Anh sống hào sảng, phóng khoáng, và thật ‘giang
hồ’ với bằng hữu anh em, còn trong quân ngũ, Anh như một cây
tùng ngạo nghễ giữa bão táp phong ba, Anh không nịnh cấp
trên đè cấp dưới, Anh chia sẻ vinh quang buồn thảm với sĩ
quan và binh sĩ thuộc cấp. Anh sống hùng và đẹp như thế mà
sao lúc ra đi lại quá phũ phàng!?
– Tôi lang thang ra
phố, người ta vẽ chân dung nhiều sĩ quan tử trận trên khắp 4
Quân Khu thuộc đủ mọi binh chủng, trên những khung vải thật
lớn dựng trên công viên hay những giao lộ tấp nập người qua
lại, với hàng chữ ‘Anh Hùng’ và hai chữ ‘Tiếc Thương’. Người
họa sĩ có nét bút xuất thần vẽ thật giống Anh với đôi hàng
chữ: ‘Tiếc Thương Cố Ðại tá Nhảy Dù Nguyễn Ðình Bảo, Người
Anh Hùng Ðã Ở Lại Charlie’ trên khung hình treo trước công
viên Quốc Hội.
Tôi ngừng xe, nhìn Anh thật lâu giữa
dòng người xa lạ trên hè phố, nhưng đầu óc thì chỉ thấy khói
lửa ngập trời bên tiếng hò reo ở trận chiến Charlie.
Tôi về lại vườn Tao Ðàn, vẫn những hoa nắng tròn tròn xuyên
qua khe lá, lấp loáng trên bộ đồ hoa ngụy trang theo mỗi
bước chân. Cây vẫn xanh, chim vẫn hót, ông lão làm vườn vẫn
lom khom cầm kéo tỉa những chùm hoa loa kèn, những cụm hoa
móng rồng và những bụi hồng đầy mầu sắc. Bên gốc cây cạnh
căn lều chỉ huy của Anh hồi tháng trước khi còn đóng quân ở
đây, tôi thấy có bó hồng nhung đỏ điểm vài cánh hoa loa kèn
trắng.
Chống đôi nạng gỗ xuống xe, tiếng gõ khô cứng
của đôi nạng trên mặt đường khiến ông lão ngẩng đầu và nhận
ra tôi. Siết chặt tay ông cụ, trong ánh mắt già nua chùng
xuống nỗi tiếc thương, chòm râu bạc lưa thưa phất phơ trước
gió. Ông cụ đọc báo, nghe đài phát thanh nên biết Anh đã ra
đi, nên sáng nào cũng để một bó hoa tưởng nhớ và tiễn đưa
Anh. Cụ mời tôi điếu thuốc Quân Tiếp Vụ, rồi ngồi xuống cạnh
gốc cây, tay vuốt nhẹ trên những cánh hồng, sợi khói mỏng
manh của điếu thuốc nhà binh quện trong tiếng nói:
‘Thuốc lá Ông Quan Năm cho, tôi vẫn còn đủ dùng cho đến cuối
năm. Mấy chục năm nay tôi mới gặp một ông quan nói chuyện
thân mật và tốt bụng với những người dân như tôi. Người tốt
mà sao Ông Trời bắt đi sớm như vậy!?’
– Tôi lên xe
theo xa lộ Biên Hòa để về hậu cứ Tiểu Đoàn. Doanh trại Ðồi
Mũ Ðỏ hoang vắng buồn tẻ khi các đơn vị đang bận hành quân.
Qua khu trại gia binh, khăn sô trải trắng trên đầu góa phụ,
bầy em bé thơ ngây đang nô đùa hồn nhiên trước sân trường.
– Vượt con dốc, chạy một vòng quanh doanh trại, sông
Ðồng Nai vẫn mênh mông uốn khúc quanh các lò gạch nhả khói
dưới chân đồi, rừng cây khuynh diệp bên kia vẫn thoang
thoảng mùi dầu gió trên không. Giàn hoa dưa tím trước phòng
Anh và tôi thoảng mùi thơm đong đưa trước gió. Cảnh cũ còn
đây, nhưng người xưa sẽ chẳng trở về.
– Tôi chợt nghe
tiếng kèn hạ cờ buổi chiều trên đỉnh đồi doanh trại. Tôi lại
nghĩ tới Anh. Lúc nằm xuống không một tiếng kèn đưa tiễn và
thiếu cả một lá cờ phủ lấy xác thân. Tôi giục chú tài xế lái
xe xuống đồi thật nhanh, tôi đang chạy trốn Anh, chạy trốn
đồng đội, và thằng bé đệ tử của tôi. Tất cả hình như đang
nói nói cười cười đâu đây trong doanh trại...”
“Anh
Năm,
– Anh đã ra đi hơn một phần tư thế kỷ, 26 năm
biết bao vật đổi sao dời. Ðể tôi làm lại nhiệm vụ ngày xưa
kể lại anh nghe...
– Mễ, Liệu, và tôi, những người
gần gũi Anh nhất trong trận chiến Charlie đã không còn ở quê
nhà và chúng tôi đã nhấp nhô theo vận nước nổi trôi. Ðàn em
của Anh đã bỏ quê hương đi về ‘quê hương mới?!’ Mặc dù Anh
đã đi thật lâu, con trai của Anh đã là một y sĩ, chiến hữu
của Anh kẻ ở người đi, nhưng những người còn lại vẫn nhớ
Anh, họ vẫn nhắc đến tên Anh qua bài hát mà Nhật Trường viết
tặng riêng Anh, viết cho ‘Người Ở Lại Charlie.’
– Mấy
chục năm sau, vượt đại dương muôn trùng sông nước, theo gió
bay ngang dọc địa cầu, dù ở nơi đâu, chân trời góc biển, nơi
đâu có người Việt thì nơi đó họ hát bài ca bất hủ để nhớ
Anh. Ngay cả ở quê nhà, kẻ thù của Anh cũng vẫn nghe dân
chúng hát bài ca để nhắc đến tên Anh.
– Chắc Anh chưa
quên ông ‘Sĩ Quan Võ Bị Quân Y’ Tô Phạm Liệu, ông Toubib
Nhảy Dù ngực đỏ huy chương, người uống VSOP (Very Sexy Old
Parachutist) như hũ chìm. Khi hành quân thì một bên ống
chích, một bên M16, cũng ăn pháo, cũng la hét, cũng bắn hết
băng M16 này đến băng M16 khác khi đánh ở Charlie, Dambe, Hạ
Lào, A–shao, A–lưới...
– Tháng 4 năm 1975. Cũng lại
tháng 4, tháng mà Anh đã đi khuất, Liệu di tản qua Mỹ, thi
lại bằng y sĩ và hành nghề tại tiểu bang Lousiana trong một
bệnh viện tâm thần. Liệu vẫn như xưa, vẫn vui vẻ, ồn ào. Ông
đội trưởng ‘Ðội Hổ Sói Con’ vẫn gặp tôi, Duffy và Mễ vài
tháng một lần, nhưng Liệu có cái tên mới, để tôi đọc Anh
nghe, chắc Anh lại búng tay, đá sỏi mà cười: ‘Ðệ Nhất Ẩm Sĩ,
Cuồng Thái Y Tô Phạm Liệu’.
Làm gì có ai trên đời có
cái tên lạ lùng và hay như vậy. ‘Ðệ Nhất Ẩm Sĩ’, người uống
rượu số 1 thì Anh đã biết rồi, còn ‘Cuồng Thái Y’ là anh
Toubib làm việc ở nhà thương chữa cho mấy người điên.
– Liệu vẫn ‘ra đi không mang ba–lô, quần áo cứ thế đút
túi’ mà giang hồ với anh em. ‘Bến Cũ’ nào cũng nồng ấm khi
Liệu ghé ngang. Nếu ngày xưa chinh chiến có cướp mất Anh,
thì ngày nay, bệnh hoạn đâu có tha Tô Phạm Liệu. Mặc dù là
‘Quan Thái Y’ nhưng Liệu cũng không tránh khỏi bệnh nan y.
‘Ẩm Sĩ’ họ Tô đã bỏ ‘Bến Cũ’ mà đi. A Lịch Sơn thành
(Alexandria) là nơi Liệu làm việc và lặng lẽ ra đi sau cả
năm bạo bệnh cuối đời...
– Mê Linh, Phương Hải, Sông
Lô, từ Bắc Cali ‘đội pháo’ mà đi. ‘Bến Cũ’ Nam Cali, Dallas,
Houston, New Orleans ‘hành quân’ kéo tới. Ðám gà nhà Tịnh
Hô, Ðà Lạc, Phán, Trác từ New York, DC kéo sang. ‘Nam
Xương’, người kể chuyện Anh trong thiên bút ký Mùa Hè Ðỏ Lửa
đọc bài điếu văn, có nhắc đến Anh, nhắc đến Charlie... cỏ
cây hoa lá còn rung động, nói chi đến đám bạn bè đỏ mắt đứng
quanh.
Ở đâu ‘Bến Cũ’ cũng về để dự đám táng, đến để
nhìn Liệu ra đi, đến để mỗi người một ly nhỏ VSOP với ‘Ẩm
Sĩ’ họ Tô. Ngày xưa thì bạn bạn bè bè. Bây giờ thì tro tàn
thiêu xác!
Gần một phần tư thế kỷ sau, Liệu ra đi ở
một nơi cách Charlie nửa trái địa cầu.”
“Anh Năm và
Toubib Liệu thân kính,
– Viết để nhớ Anh, để kể sự
thật về Charlie và cũng để báo cáo với Anh là Liệu đã trở
lại Charlie với Anh, với tụi nhỏ trong ngày giỗ tròn một năm
của Liệu. Ðáng lẽ tôi muốn báo cáo với Anh từ lâu, nhưng mỗi
lần cầm bút lên thì lại không biết viết gì. Không biết viết
làm sao, toàn là chuyện kẻ ở người đi làm lòng chùng xuống,
viết hoài không nổi.
– Hôm tháng rồi đi xem một phim
chiến tranh. Phim chiếu cảnh một ông già mang gia đình qua
bãi biển Normandie bên Pháp. Ông cụ đi một mình vào nghĩa
trang, bóng người chập chững trong nghĩa địa toàn thập tự
giá trắng tinh. Từ ngàn dặm xa xôi ông mang bó hoa đến thăm
cấp chỉ huy, thăm những chiến hữu cùng chung Đại Đội với ông
đã nằm xuống khi cùng ông cụ đánh chiếm một khu phố. Bao
nhiêu bạn bè hy sinh, chỉ còn một mình ông cụ sống sót. Ngày
Chiến Sĩ Trận Vong, một mình đứng nhìn bãi biển đổ quân,
tiếng binh đao khói lửa, hình ảnh bạn bè gục ngã, cụ chập
choạng với nước mắt lưng tròng. Ði vào nghĩa trang, gục đầu
bên mộ để nhớ bạn và hình ảnh chiến trận năm xưa. Gia đình,
vợ con rời xa nghĩa trang để cụ một mình sống lại với những
huy chương dĩ vãng.
– Ngày Chiến Sĩ Trận Vong, tôi
không thể đi thăm Anh, đồng đội, và thằng bé đệ tử thân tín
của tôi đã ở lại Charlie. Không phải vì Anh ở quá xa, nhưng
vì 23 năm qua tôi chưa có ý định trở về. Nơi nào người ta
cũng kèn hoa cho người đi khuất, vinh danh tưởng nhớ những
chiến sĩ vị quốc vong thân, chỉ riêng nơi quê cũ, từ khi đất
nước đổi thay, đâu có ai còn nhắc đến Ngày Chiến Sĩ Trận
Vong!?
– Xin thắp nén hương lòng để tưởng nhớ Anh và
tất cả bạn bè đã hy sinh cho tổ quốc.
– Tôi tự nhủ
lòng, một ngày nào đó, nếu có dịp, tôi sẽ về, sẽ dến
Charlie, sẽ đến những chiến trường xưa cũ, để nhớ bạn bè, để
thắp một nén nhang thăm Anh và đồng đội. Nhưng, chả biết bao
giờ thì làm được, mặc dù bây giờ tóc đã điểm sương!
–
Xin tạ lỗi cùng Anh và Chiến Hữu.
– Toubib Liệu, gọi
tên ông một lần nữa: ‘Ðệ
Nhất Ẩm Sĩ, Cuồng Thái Y Tô Phạm Liệu’
để nhớ Giỗ đầu của ông và gửi về ông hai chữ ‘Hồ Trường’:
...... ‘Hồ trường, Hồ trường... nay biết rót về đâu...’”
Mũ Ðỏ: Ðoàn Phương Hải
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by tqh chuyển
Đăng ngày Thứ
Hai, June 2, 2025
tkd. Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH