Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản
mạn Cá sông–Cá Biển
Chủ đề:
Mùi tanh của Cá
Tác giả: Vũ Thế Thành
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Mùi
tanh thường được hiểu theo nghĩa tiêu cực (tanh hôi, tanh tưởi...),
thậm chí theo nghĩa bóng. Hiểu như thế, thì cũng hơi oan cho mùi
tanh.
Có lần tôi
ghé vào quán bún cá ngoại ô Phan Rang, dọc quốc lộ. Quán nhà lá lụp
xụp, bàn bên cạnh là vài ngư dân đang nhậu đầu cá ngừ hấp. Hơi cá
bay ra, trời mưa tầm tã... Lần đầu tiên trong đời, tôi cảm nhận mùi
cá ngừ thật dễ chịu, ấm áp... Chữ “tanh” trong đầu tôi đã được hiểu
theo nghĩa khác. Đó là câu chuyện của hơn 20 năm về trước.
Chỉ dân vùng biển mới có được cá biển
tươi, và mùi tanh của cá đã trở thành nghệ thuật ẩm thực dân dã. Kho
cá biển cũng phải để nước xâm xấp, hơi cá bay ra mới thưởng thức
được mùi tanh của cá biển. Đó là chưa kể mùi tanh còn thấm vào từng
thớ thịt của cá.
Dân đồng bằng, vùng núi làm gì có được cá biển tươi. Phương tiện vận
chuyển, bảo quản hồi xưa đâu như bây giờ. Hồi nhỏ, tôi thường thấy
những ngư dân Phan Thiết nướng cá nục, cá thu kẹp vào hai thanh tre,
quẩy đi bán dạo ở Sài Gòn. Bảo quản thô sơ như vậy đó; đá cục đá vảy
thuộc hàng xa xỉ phẩm với ngư dân. Xài u–rê, dân quê chưa nghĩ tới.
Mùi tanh của cá lúc về tới phố đã khác, nên phải được khử bằng cách
kho cạn, cho trà, thêm giấm, thêm chanh...
Như vậy, mùi tanh cá biển là một chuỗi
dài. Mùi tanh lúc cá còn tươi khác, lúc kém tươi khác.
Mùi tanh tinh tế của cá biển
Cá biển vừa đánh bắt có mùi vị của biển,
chưa có mùi tanh. Một thời gian ngắn sau, cá mới bắt đầu tanh, một
mùi tanh dễ chịu, và dễ ghiền. Chỉ có dân sành điệu mới biết thưởng
thức mùi tanh của cá biển.
Cá để lâu hơn nữa, mùi tanh chuyển dần
sang mùi ươn do quá trình phân hủy. Tới cỡ này, mùi vị cá coi như
thua.
Về mặt khoa
học, mùi tanh của cá từ lúc chưa thành hình cho đến khi thành mùi
ươn thối được giải thích như sau:
Nước biển có nồng độ muối khoảng 3%, nhưng
nồng độ tốt nhất của các khoáng hòa tan bên trong tế bào không được
quá 1%. Do đó, để tạo cân bằng dịch bên trong và ngoài tế bào, các
loại tôm cua sò mực bạch tuộc... chứ chẳng riêng gì cá phải thu hút
các acid amin và amin vào bên trong tế bào để chống đỡ với độ mặn
của nước biển.
Một trong các amin đi vào bên trong tế bào có tên là trimethylamine
oxide (TMAO). Chất TMAO không có mùi vị gì cả. Đó là lý do vì sao cá
vừa đánh bắt chỉ có mùi vị của biển, chưa có mùi tanh.
Tuy nhiên, theo thời gian từ khi cá “tử
vong”, chất TMAO chuyển dần thành chất trimethylamine (TMA) do tác
động của enzyme và vi khuẩn trên bề mặt cá. Chính chất TMA tạo ra
mùi tanh của cá. Vậy đó, hai chất TMAO và TMA chỉ khác nhau có chữ
“oxide” thôi mà đã sanh mùi “khó ngửi”.
Cá chết càng lâu, TMA tạo ra càng nhiều,
mùi tanh càng nồng. Dân vùng biển, ăn toàn cá tươi nên thưởng thức
được mùi tanh thoang thoảng của cá và hương vị rong rêu của biển.
Vi khuẩn trên bề mặt cá là thủ phạm gây
chuyển hóa chất TMAO thành TMA, nên chính lớp da cá, mang cá, đầu cá
là nơi có mùi tanh nhất nếu cá để lâu.
Tiếng Anh gọi mùi tanh của cá là fishy
odor. Đó là nói về thực phẩm, các bạn ngành Y không nên liên tưởng
“fishy odor” sang bệnh lý đấy nhé.
Còn khi cá đã chuyển qua giai đoạn ươn
thối, cộng thêm mùi tanh tưởi thì gọi là stale, stinking odor, dân
dã hơn là ill-smelling.
Khi ươn thối xảy ra là đã có sự can thiệp
tích cực của vi khuẩn gây hư (spoling bacteria) rồi. Đó là quá trình
phân hủy (decomposition). Lúc đó, cơ thịt của cá bị phân rã dần,
nước rỉ ra nhiều, dinh dưỡng chẳng còn, mà lại phát sanh nhiều hợp
chất bốc mùi ươn thối. Khoa học đã chỉ ra những chất gây thối có gốc
amin như skatole, putrescine, có gốc lưu huỳnh như cadaverine,
hydrogen sulfide, và còn các hợp chất ammoniac nữa... Những thứ này
mới là chánh phạm, còn mùi tanh do mức TMA quá cao chỉ góp phần vào
cái mùi khó ngửi này thôi.
Giai đoạn cuối của sự ươn thối là thế, chứ
giai đoạn đầu phân hủy thì chưa đến nỗi. Ở thời gian đầu, mức dinh
dưỡng vẫn còn tạm xài được, cơ thịt cá mới chỉ lỏng lẻo đôi chút,
mùi đôi chút. Dân làm nước mắm ở những vùng có thời tiết không thuận
lợi thường ủ chượp cá với muối ở giai đoạn này để cá dễ lên men,
phân giải đạm, chứ còn đã ươn thối ở giai đoạn giữa hay cuối thì
protein còn được bao nhiêu nữa đâu mà lên men phân giải đạm. Cá ươn
thối như thế làm mắm còn không được, nói gì đến làm nước mắm. Người
đời miệt thị nước mắm truyền thống dơ dáy, mất vệ sinh... vì làm từ
cá ươn thối. Nói thế thì oan ức cho dân làm mắm. Tình không có, mà
lý cũng chẳng thông.
Thế còn cá nước ngọt thì sao?
Cá nước ngọt sống trong vùng nước...
“ngọt”, không mặn, nên không cần huy động TMAO hay các acid amin vào
trong tế bào để cân bằng áp lực muối.
Thật ra thì cá nước ngọt cũng có TMAO, và
cũng bị chuyển hóa thành chất gây mùi tanh là TMA, nhưng số lượng
rất ít, nên mùi tanh không nhiều. Nhưng một khi để cá đến giai đoạn
cuối của sự ươn thối, thì cá sông hay cá biển đều có mùi khó ngửi
ngang ngửa nhau.
Cá nước ngọt sống ở kênh hẹp, sông cạn hay nuôi trong ao hồ, nước ít
lưu thông, nên thịt cá có hương vị ngai ngái của mùi bùn. Mùi bùn là
do hai chất geosmin và methylisoborneol có trong khuẩn lam
(blue-green algae) mà cá ăn. Những chất này tập trung ở da và phần
thịt sẫm của cá.
Dân Tây, dân Mỹ không mặn mà lắm với cá nước ngọt, mà thích ăn cá
biển hơn. Họ thích mùi tanh hơn mùi bùn chăng? Không ưa mùi bùn chỉ
là phần nhỏ thôi. Phần lớn họ thích là do vị của thịt cá biển đậm đà
hơn. Sao vậy?
Thì
cũng do cá biển huy động các acid amin và amin vào tế bào để tránh
áp lực độ mặn của nước biển. Chính các acid amin như glycine,
glutamate... đã tạo ra vị ngọt thịt cho cá.
Sau này dân Mỹ mới tập tành ăn cá nước
ngọt vì giá rẻ. Đó chính là catfish. Loại cá này được nuôi nhiều ở
bốn tiểu bang nông nghiệp phía Nam. Nuôi trong ao hồ thì không thể
tránh được ít nhiều mùi bùn. Thế là đụng hàng với cá tra của Việt
Nam.
Tôi gọi
thẳng là cá tra, chứ hồi đó cá basa xuất qua Mỹ chiếm tỉ lệ rất
thấp, chỉ khoảng vài phần trăm. Mấy ông bà xuất cảng cá sang Mỹ nhập
nhằng gọi cá tra là cá basa, thành thử vụ kiện được gọi là “Basa
antidumping” (Chống phá giá cá basa). Em làm, chị lãnh đủ.
Cá tra nuôi bè trên sông, nước chảy xiết
nên cơ thịt trắng, không vướng mùi bùn. Sau này cải tiến, nuôi đăng
quầng, nghĩa là nuôi ao, gần sông lớn, dẫn nước ra vào giữa sông và
ao, thành thử phẩm chất ngang ngửa với cá tra nuôi bè, giá thành lại
rẻ hơn. Hồng nhan còn bạc mệnh, huống chi cá ngon mà lại rẻ, nên cá
tra dính “chưởng” chống phá giá của Mỹ cũng là chuyện... đời.
Thuế chống phá giá không rẻ đâu, có khi
lên cỡ 45%, tùy lượng xuất và bán phá giá nhiều hay ít. Và đến nay
fillet cá tra xuất vào Mỹ vẫn còn ăn “chưởng” này. Ít người biết,
một phần tiền thuế “chống phá giá” được trả cho người nuôi catfish.
Cần câu cá biến thành cần câu chống phá giá. Nông dân Mỹ sướng chỗ
đó.
Vụ kiện cá
tra coi vậy chứ một thời nổi đình đám lắm, cũng hai mươi năm trôi
qua rồi. Thế giới hiếu kỳ theo dõi vụ kiện con nhà giàu bắt nạt con
nhà nghèo, rồi mua fillet cá tra ăn thử chơi cho biết. Đồng bằng
Mekong trở thành vương quốc cá tra từ đó. Giới khoa học quốc tế cũng
nhập cuộc, yêu cầu phải ghi nhãn phụ chú cá tra theo danh pháp khoa
học: Pangasius hypophthalmus. Chơi nhập nhằng tên gọi với thế giới
không được, thì nhập nhằng với anh em trong nhà. Các siêu thị trong
nước bán cá tra nhưng vẫn ghi nhãn là fillet cá basa, đậu hũ ba sa,
cá viên basa... Dân bị xí gạt ngọt xớt, mà cơ quan hữu trách vẫn vô
tư. Dễ tính thiệt!
Vương vấn mùi tanh của cá
Cá không mùi tanh, còn gì là cá. Mùi tanh
là thuộc tính của mọi sinh vật dưới nước: cá, tôm, cua, mực, ghẹ...
đều có mùi tanh, ngay cả rong biển cũng thế, chỉ là ít hay nhiều.
Rồi mùi tanh này quyện với mùi “nền” (body) của sinh vật đó, tạo ra
mùi đặc trưng riêng. Cá có mùi tanh của cá, tôm có mùi tanh của
tôm... Mà vị cá biển cũng đậm đà hơn cá sông.
Cá biển về tới đồng bằng, mùi tanh đã
nồng. Dân miệt này khử mùi tanh bằng chất chát của trà, chất chua từ
chanh, giấm, sấu, me... Chất chát trong trà là tannin có thể “còng”
(tạo phức) với chất tanh TMA của cá. Chất chua của chanh giấm có
tính acid sẽ vô hiệu hóa tính kiềm của chất tanh TMA để nó khỏi bay
hơi, không ngửi thấy mùi tanh.
Dân đồng bằng, từ đời này qua đời nọ khử
mùi tanh riết, rồi thành thói quen ẩm thực, không chịu được mùi tanh
cá biển. Vậy mà lại khoái ăn cua ghẹ. Mùi tanh từ cua ghẹ luộc đâu
kém gì mùi tanh cá biển. Vất vả ăn xong được con cua, lại phải rửa
tay bằng nước trà. Chất chát chưa đủ, còn phải đưa thêm vài lát
chanh acid vào trà nữa. Xài hết cách mà cả vài giờ sau mùi tanh cua
ghẹ ở tay mới chịu bay đi. Có người mách, dùng giá sống chà tay, khử
mùi sẽ hiệu quả hơn. Tôi ít ăn cua ghẹ, nên chưa thử, không rõ đúng
sai. Ai không tin, thử cái chơi cho biết.
Thưởng thức được mùi tanh của cá biển phải
là những người điệu nghệ về ẩm thực. Dân đồng bằng nấu canh chua cá
lóc, cá bông lau, chứ dân vùng biển đâu chịu nấu canh chua cá thu,
cá ngừ... Họ trân trọng gìn giữ mùi tanh của cá.
Những đứa con của biển cả, dù tha phương
cầu thực nơi nào vẫn tơ tưởng đến hương vị của nồi cá kho xâm xấp
nước, phải thế không?
Vũ Thế Thành
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những bài liên quan
8 loại cá không nên ăn tại nhà hàng
Cá biển, mùi tanh đầy ma mị...
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh bờ biển Ninh Chữ, Phan Rang–VN. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Patrick WILLAY chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, December 22, 2021
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang