Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Sưu tầm
Chủ đề:
Kiến trúc Thánh đường CG
Tác giả: bkt sưu tầm
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Tên
chính thức của Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn là:
Vương cung Thánh đường Chính tòa Đức
Bà Vô nhiễm Nguyên tội.
– Tôn giáo:
Công giáo Rô–ma
– Thiên chức: Nhà thờ chính tòa
– Quốc gia: Việt Nam
– Thuộc:
Tổng Giáo phận Sài gòn
– Thành phố: Sài gòn
–
Địa chỉ: Công trường Công xã Paris
–
Kiến trúc sư: J. Bourad
– Kiểu: Roman;
Cao 57 mét (đỉnh thánh giá)
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn,
tên chính thức là Vương cung thánh đường Chính tòa Đức Bà Vô
nhiễm Nguyên tội (Immaculate Conception Cathedral Basilica),
là nhà thờ lớn nhất và đặc sắc nhất tại Sài Gòn với 2 tháp chuông
cao 60m, tọa lạc tại trung tâm thành phố (Số 1 Công trường Công xã
Paris, Quận 1). Đây là một trong những công trình kiến trúc tôn giáo
đặc sắc thu hút nhiều khách tham quan nhất tại thành phố.
Lịch sử
Ngay sau khi chiếm Sài Gòn, Pháp đã cho lập nhà thờ
để làm nơi hành lễ cho tín đồ Công giáo trong đoàn quân viễn chinh.
Ngôi nhà thờ đầu tiên được lập ở đường số 5 (nay là đường Ngô Đức
Kế).
Nhà thờ đầu tiên đó quá nhỏ nên vào năm 1863, Đô đốc
Bonard đã quyết định cho khởi công xây dựng ở nơi khác một thánh
đường bằng gỗ bên bờ “Kinh Lớn” (còn gọi là kinh Charner, thời Việt
Nam Cộng Hòa là trụ sở Tòa Tạp tụng). Cố đạo Lefebvre tổ chức “Lễ
đặt viên đá đầu tiên” xây dựng nhà thờ vào ngày 28 tháng 3 năm 1863.
Nhà thờ xây cất bằng gỗ, hoàn thành năm 1865, ban đầu gọi là Nhà thờ
Saigon. Về sau, do nhà thờ gỗ này bị hư hại nhiều vì mối mọt, các
buổi lễ được tổ chức trong phòng khánh tiết của “dinh Thống Đốc” cũ,
về sau cải thành chủng viện Taberd, cho đến khi nhà thờ lớn xây
xong.
Tháng 8 năm 1876, Thống đốc Nam kỳ Duperré đã tổ chức
một kỳ thi vẽ đồ án kiến trúc nhà thờ mới. Ngoài mục tiêu có chỗ thờ
phụng, hành lễ cho tín đồ, việc xây dựng nhà thờ lớn cũng nằm trong
mục đích phô trương đạo Công giáo và sự vĩ đại của nền văn minh Pháp
trước người dân thuộc địa. Vượt qua 17 đồ án thiết kế khác, đồ án
của kiến trúc sư J. Bourad với kiến trúc theo kiểu Roman cải biên
pha trộn nét Gotich đã được chọn.
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn (mặt
sau) Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn (mặt bên)
Ban đầu, địa điểm xây
cất được đề nghị ở 3 nơi:
• Trên nền Trường thi cũ (nay là
góc đường Lê Duẩn và Hai Bà Trưng, tức vị trí tòa Lãnh sự Pháp).
• Ở khu Kinh Lớn (tại vị trí nhà thờ cũ, nay thuộc đường Nguyễn
Huệ).
• Vị trí hiện nay.
Ngay tại vị trí hiện nay, vẫn
từng có dư luận về sự tranh chấp của ba phía: nhà cầm quyền Pháp
muốn xây cất một nhà hát ở đây, phía Tin Lành muốn cất nhà thờ Tin
Lành và phía Công giáo muốn xây nhà thờ Công giáo. Sau một thời gian
tranh chấp, ba bên đành phải bắt thăm. Riêng phía Công giáo, giám
mục Colombert yêu cầu giáo dân toàn giáo phận ăn chay cầu nguyện và
xin dâng cho Đức Trinh Nữ Maria lo liệu.
Đến ngày bắt thăm,
phía Công giáo bắt thăm trước và trúng thăm, hai phía kia bất bình
và yêu cầu bắt thăm lại. Lần này, nhà cầm quyền Pháp dành bắt thăm
trước, kế đến phía Tin Lành, nhưng phía Công giáo lại trúng thăm.
Sau khi đề án thiết kế được chọn, Đô đốc Duperré cho đấu thầu
việc xây dựng thánh đường và cũng chính kiến trúc sư J. Bourad là
người trúng thầu và trực tiếp giám sát công trình này. Mọi vật liệu
từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Đặc biệt mặt
ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille (Pháp)
để trần, không tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi), không
bám bụi rêu.
Ngày 7 tháng 10 năm 1877, Giám mục Isidore
Colombert đặt viên đá đầu tiên trước mặt Phó soái Nam Kỳ và đông đủ
nhân vật tai mắt thời ấy. Thánh đường được xây dựng trong 3 năm. Lễ
Phục sinh, ngày 11 tháng 4 năm 1880, lễ cung hiến và khánh thành
được cố đạo Colombert tổ chức trọng thể với sự có mặt của Thống đốc
Nam Kỳ Le Myre de Vilers.
Hiện nay, trên bệ phía trên, bên
trong cửa ra vào nhà thờ, có chiếc bảng cẩm thạch gắn trong hành
lang (transept) ghi ngày khởi công, ngày khánh thành và tên vị công
trình sư.
Tất cả mọi chi phí xây dựng, trang trí nội thất đều
do Soái phủ Nam Kỳ đài thọ, với số tiền 2,500,000 franc Pháp theo tỷ
giá thời bấy giờ.
Ban đầu, thánh đường có tên gọi là Nhà thờ
Nhà nước vì thánh đường do nhà nước Pháp bỏ tiền xây dựng và quản
lý.
Năm 1895, nhà thờ xây thêm hai tháp chuông, mỗi tháp cao
57.6m và hai tháp có 6 chuông đồng lớn nặng 28.85 tấn. Trên đỉnh
tháp có đính một cây thánh giá cao 3.50m, ngang 2m, nặng 600kg. Tổng
thể chiều cao từ mặt đất lên đỉnh thánh giá là 60.50m.
Trên
vườn hoa trước nhà thờ, năm 1903, người Pháp cho dựng tượng đồng
Pigneau de Béhaine (còn gọi là Giám mục Adran vì vị này làm Giám mục
hiệu tòa Adran) dẫn hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long) để ca ngợi công
lao của nước Pháp “bảo hộ”, “khai hóa” cho Việt Nam.
Tượng
đài này bao gồm một bệ bằng đá hoa cương đỏ hình trụ tròn và bên
trên là bức tượng tạc hình đức cha Adran với phẩm phục giám mục, tay
trái dẫn hoàng tử Cảnh. Tượng làm bằng đồng, được đúc tại Pháp, giới
bình dân thời đó thường gọi là tượng “Hai hình” để phân biệt với
tượng “Một hình”, là bức tượng của Đô đốc Hải quân Pháp Genouilly ở
phía công trường Mê Linh (cuối đường Hai Bà Trưng, gần bờ sông Sài
Gòn). Năm 1945, tượng này bị phá bỏ, nhưng cái bệ đài bằng đá hoa
cương đỏ thì vẫn còn tồn tại ở đó mà không có bất cứ một bức tượng
nào ở trên.
Tượng đồng Giám mục Adran và Hoàng tử Cảnh Năm
1959, Linh mục Giu–se Phạm Văn Thiên (sau làm Giám mục giáo phận Phú
Cường, nay đã qua đời), cai quản Giáo xứ Sài Gòn bấy giờ, đi dự đại
hội Thánh Mẫu ở Vatican, đã đặt tạc một tượng Đức Mẹ Hòa Bình bằng
loại đá cẩm thạch quý hiếm.
Khi tượng từ Roma gửi sang Sài
Gòn bằng đường thủy, Linh mục Giu–se Phạm Văn Thiên đã làm lễ dựng
tượng trên cái bệ đài vẫn còn để trống kể từ năm 1945 vào ngày 16
tháng 2 năm 1959 và dâng tước hiệu Nữ Vương Hòa Bình. Tự tay linh
mục viết câu kinh cầu nguyện “Xin Đức Bà cho Việt Nam
được hòa bình” rồi đọc trước đông đảo quan khách có
mặt hôm ấy.
Ngày hôm sau, Hồng y Aganianian từ Roma qua Sài
Gòn để chủ tọa lễ bế mạc Đại hội Thánh Mẫu, đã làm phép bức tượng
này vào buổi chiều ngày 17 tháng 2 năm 1959. Do bức tượng này mà từ
đó Nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Đức Bà.
Ngày 05/12/1959, Tòa
Thánh đã cho phép làm lễ “xức dầu”, tôn phong Nhà thờ Chánh tòa Sài
Gòn lên hàng Vương Cung Thánh Đường (basilique). Từ đó, tên gọi
chính thức của thánh đường là Vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn.
Năm 1960, Tòa Thánh thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam với ba tòa
Tổng Giám mục tại Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Nhà thờ trở thành nhà thờ
chính tòa của vị Tổng giám mục Sài Gòn cho đến ngày nay.
Những nét đặc sắc
Trong quá trình xây dựng, toàn bộ vật liệu
xây dựng từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang.
Mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại
Marseille để trần, không tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng
tươi), không bám bụi rêu.
Một số ngói vỡ trong nhà thờ có in
hàng chữ Guichard Carvin, Marseille St André France (có lẽ là nơi
sản xuất loại ngói này), mảnh ngói khác lại có hàng chữ Wang–Tai
Saigon. Có thể đây là mảnh ngói được sản xuất sau tại Sài Gòn dùng
để thay thế những mảnh ngói vỡ trong thời gian Thế chiến thứ hai do
những cuộc không kích của quân Đồng Minh.
Toàn bộ thánh đường
có 56 ô cửa kính màu do hãng Lorin của tỉnh Chartres (Pháp) sản
xuất.
Móng của thánh đường được thiết kế đặc biệt, chịu được
trọng tải gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc ngôi nhà thờ nằm bên trên. Và
một điều rất đặc biệt là nhà thờ không có vòng rào hoặc bờ tường bao
quanh như các nhà thờ quanh vùng Sài Gòn – Gia Định lúc ấy và bây
giờ.
Nội thất thánh đường được thiết kế thành một lòng chính,
hai lòng phụ tiếp đến là hai dãy nhà nguyện.
Toàn bộ chiều
dài thánh đường là 133m, tính từ cửa ngăn đến mút chót của phòng đọc
kinh.
Chiều ngang của hành lang là 35m.
Chiều cao của
thánh đường là 21m.
Sức chứa của thánh đường có thể đạt tới
1,200 người.
Nội thất thánh đường có hai hàng cột chính hình
chữ nhật, mỗi bên sáu chiếc tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ.
Ngay sau hàng cột chính là một hành lang với khá nhiều khoang có
những bàn thờ nhỏ (hơn 20 bàn thờ) cùng các bệ thờ và tượng thánh
nhỏ làm bằng đá trắng khá tinh xảo. Bàn thờ nơi Cung Thánh làm bằng
đá cẩm thạch nguyên khối có hình sáu vị thiên thần khắc thẳng vào
khối đá đỡ lấy mặt bàn thờ, bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm
điêu khắc diễn tả thánh tích.
Trên tường được trang trí nổi
bật 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh Kinh, 31
hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng kính nhiều màu ghép lại
với những hình ảnh rất đẹp.
Tất cả các đường nét, gờ chỉ, hoa
văn đều tuân thủ theo thức Roman và Gô–tich, tôn nghiêm và trang
nhã. Tuy nhiên, trong số 56 cửa kính này hiện chỉ còn hai cửa là
nguyên vẹn như xưa.
Nội thất thánh đường ban đêm được chiếu
sáng bằng điện (không dùng đèn cầy) ngay từ khi khánh thành. Vào ban
ngày, với thiết kế phối sáng tuyệt hảo, hài hòa với nội thất tạo nên
trong nội thất thánh đường một ánh sáng êm dịu, tạo ra một cảm giác
an lành và thánh thiện.
Ngay phía trên cao phía cửa chính là
“gác đàn” với cây đàn organ ống, một trong hai cây đàn cổ nhất Việt
Nam hiện nay. Đàn này được các chuyên gia nước ngoài làm bằng tay,
thiết kế riêng, để khi đàn âm thanh đủ cho cả nhà thờ nghe, không
nhỏ mà cũng không ồn. Phần thân đàn cao khoảng 3m, ngang 4m, dài
khoảng 2m, chứa những ống hơi bằng nhôm đường kính khoảng một inch.
Phần điều khiển đàn nằm riêng nối với thân đàn bằng những trục, có
những phím đàn như đàn organ bình thường và những phím to đặt dưới
sàn nhà (dài chừng 3m, ngang khoảng 1m) để người điều khiển đàn đạp
lên khi dùng nốt trầm. Đàn còn có những thanh gõ lớn để đập vào phần
dưới các ống hơi phát ra âm thanh.
Hiện nay, cây đàn này đã
hoàn toàn hỏng do bị mối ăn phần gỗ bàn phím điều khiển bằng tay.
Ban đầu, hai tháp chuông cao 36.6m, không có mái và chỉ có độc
một chiếc cầu thang hẹp chừng 40cm bề ngang. Nội thất gác chuông rất
tối và sàn được lót sơ sài bằng những miếng gỗ nhỏ cách khoảng, nhìn
xuống thấy sâu hút. Vào năm 1895, thánh đường xây thêm hai mái chóp
để che gác chuông cao 21m, theo thiết kế của kiến trúc sư Gardes,
tổng cộng tháp chuông cao 57m. Có tất cả 6 chuông lớn (sol, la, si,
đô, rê, mi), gồm sáu âm, nặng tổng cộng 28.85 tấn, đặt dưới hai lầu
chuông. Bộ chuông này được chế tạo tại Pháp và mang qua Sài Gòn năm
1879. Trên tháp bên phải treo 4 quả chuông (sol, si, rê, mi); tháp
bên trái treo 2 chuông (la, đô). Trên mặt mỗi quả chuông đều có các
họa tiết rất tinh xảo.
Ba quả chuông to nhất là chuông si
nặng 3,150kg, chuông re nặng 2,194kg và đặc biệt là chuông sol là
một trong những quả chuông lớn nhất thế giới: nặng 8,785kg, đường
kính miệng chuông 2.25m, cao 3.5m (tính đến núm treo). Chuông này
chỉ ngân lên mỗi năm một lần vào đêm Giáng Sinh.
Các chuông
đều được điều khiển bằng điện từ bên dưới. Riêng ba chiếc chuông lớn
trước khi đánh đều được khởi động bằng cách đạp (vì quá nặng) cho
lắc trước khi bật công tắc điện.
– Vào ngày thường, thánh
đường chỉ cho đổ một chuông mi hoặc rê vào lúc 5 giờ và 17g30.
– Vào ngày lễ và Chúa nhật, nhà thờ thường cho đổ ba chuông.
– Vào đêm Giáng Sinh thì mới đổ cả 6 chuông. Tiếng chuông ngân
xa tới 10km theo đường chim bay.
Bộ máy đồng hồ trước vòm mái
cách mặt đất chừng 15m, giữa hai tháp chuông được chế tạo tại Thụy
Sĩ năm 1887, hiệu R.A, cao khoảng 2.5m, dài khoảng 3m và ngang độ
hơn 1m, nặng hơn 1 tấn, đặt nằm trên bệ gạch. Dù thô sơ, cũ kỹ nhưng
hoạt động khá chính xác. Để điều chỉnh đồng hồ, phía sau máy có một
chiếc đồng hồ to cỡ đồng hồ reo trong gia đình. Chỉ cần theo dõi
chiếc đồng hồ con này, có thể biết đồng hồ lớn chạy chậm, nhanh,
đúng hay sai giờ.
Mỗi tuần phải lên giây đồng hồ một lần và
chiếc cần để lên giây đồng hồ giống như tay quay máy xe. Đồng hồ còn
có hệ thống chuông riêng, tuy nhiên đã không còn hoạt động do dây
cót quá cũ.
Mặt trước thánh đường là một công viên với bốn
con đường giao nhau tạo thành hình thánh giá.
Trung tâm của
công viên là bức tượng Đức Bà Hòa bình (hay Nữ vương Hòa
bình). Tượng do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện
năm 1959. Tên của tác giả được khắc ở trên tà áo dưới chân, phía bên
trái của bức tượng. Bức tượng cao 4.6m, nặng 5.8 tấn, bằng đá cẩm
thạch trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên không
đánh bóng, vì vậy mà toàn thân tượng, kể cả vùng mặt vẫn còn những
vết điêu khắc thô. Tượng Đức Bà trong tư thế đứng thẳng, tay cầm
trái địa cầu, trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, mắt Đức Bà
đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu nguyện cho Việt Nam và cho thế
giới được hòa bình. Chân Đức Bà đạp đầu con rắn (mà hiện nay, đầu
con rắn đã bị bể mất cái hàm trên).
Trên bệ đá, phía trước
bức tượng, người ta có gắn một tấm bảng đồng với hàng chữ La–tinh:
REGINA PACIS
– OPRA PRONOBIS – XVII.II.MCMLIX
NỮ
VƯƠNG HÒA BÌNH – CẦU CHO CHÚNG TÔI – 17/02/1959
Phía dưới bệ
đá, người ta đã khoét một cái hốc chỗ giáp với chân tượng Đức Bà,
trong đó có một chiếc hộp bằng bạc, chứa những lời kinh cầu nguyện
cho hòa bình của Việt Nam và thế giới. Những lời cầu nguyện đó được
viết lên trên những lá mỏng bằng những chất liệu khác nhau như bằng
vàng, bạc, thiếc, nhôm, giấy, da và đồng, được gởi tới từ nhiều miền
của Việt Nam, kể cả từ một số vùng ngoài miền Bắc.
Ban Kỹ Thuật Sưu tầm từ Internet
bkt ghi chú: Thời Đệ I Việt Nam Cộng Hòa, nơi này đặt Bộ chỉ huy của quân đảo chánh chống lại cố Tổng thống Ngô Đình Diệm nhưng bất thành. Một trong những tên phản loạn chính phủ Đệ I Cộng Hòa phải trốn sang đất Miên. Chi tiết về cuộc Binh biến 1960 được kể ở đây. Vào trang này, nếu quý vị không muốn đọc nguyên bài thì bấm CTRL+F cùng lúc, và đánh vào chữ đức bà để đến ngay đoạn kể về Bộ chỉ huy quân đảo chánh & nhà thờ Đức Bà Sài Gòn.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Phụ lục – Hình ảnh Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn–VN
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn
với kiến trúc hình Thánh Giá nhìn từ máy bay
(Mặt tiền: chuôi
Thánh giá với hai tháp chuông; mặt hậu/sau: đầu Thánh giá)
Mặt tiền Thánh đường
Bức Tượng Nữ Vương Hòa
Bình
do cố Giám Mục Phạm Văn Thiên đặt từ Ý–Đại–Lợi
Nhìn gần
Mặt sau Thánh đường nhìn từ trên cao
(đầu Thánh giá)
Mặt sau Thánh đường nhìn trên mặt
đường (đầu Thánh giá)
Khuôn viên Nhà thờ Đức Bà Sài
Gòn thời thuộc địa
Đây là phía bên hông phải Thánh
đường nếu đi từ
cửa chính (chuôi Thánh giá) về hướng Cung Thánh
Đây là Cửa vào Thánh đường bên hông phải
Đây là phía bên hông trái Thánh đường nếu đi từ
cửa chính (chuôi
Thánh giá) về hướng Cung Thánh
Đây là Cửa vào Thánh
đường bên hông trái
Đây là tượng đài Vinh Danh nhà
Bác Học danh tiếng của Việt Nam,
cụ Trương Vĩnh Ký, người thông
thạo hơn 20 ngoại ngữ ngoài chữ Quốc ngữ
Đây là Cửa
vào Thánh đường bên hông trái (nhìn gần)
Mặt tiền
Thánh đường và hông trái
Tượng đài Đức cố Giám Mục
Adran với Hoàng tử Cảnh – con vua Gia Long.
Bệ của đài này sau đó
được dùng để đặt tượng Nữ Vương Hòa Bình
như ta thấy bao
đời nay.
Cửa chính vào Thánh đường,
bên trên có
ghi Năm Khánh Thành Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn
NTĐBSG
được xây bằng gạch nung đỏ đặc biệt chế tạo tại nước Pháp.
Toàn
ngôi thánh đường hoàn toàn bằng gạch đỏ không phải tô hồ (xi–măng &
cát).
Gạch đặc biệt đỏ tươi mãi ngàn thu, không hề bị rêu phong
của thời gian che phủ...
Nhà nguyện
Đức Bà được đặt bên trái trong Thánh đường
Cửa sổ Thánh đường được trang trí với hình các
Tổng Lãnh Thiên Thần đang vung gươm tiêu
diệt quỷ dữ
để bảo vệ Hội Thánh...
Đây là ngôi
Chính điện.
Hàng ghế phía Nam chính điện (phải) & Nữ
(trái) –
Ngụ ý “Nam–Nữ thọ thọ bất tương thân.”
Sự sắp xếp như
vầy là đúng ý của Điều răn thứ I:
“Thờ phượng 1 Đức Chúa Trời &
kính mến Người trên hết mọi sự.” Vào nhà Chúa thì
chỉ nhìn thấy &
yêu 1 mình Chúa mà thôi. Tuyệt đối không tơ tưởng ai sất!
Các Thánh đường ở xứ nhiệt đới thường hay để quạt điện hai
bên hành lang
vì nghèo không đủ ngân sách để trang bị máy điều
hòa không khí (AC)
cho một ngôi Thánh đường khổng lồ như NTĐBSG
này.
Đài Nữ Vương Hòa Bình &
Sài Gòn vẫn luôn là
Sài Gòn bất diệt!
Quang cảnh về đêm xung quanh ngôi
Thánh đường NTĐBSG...
NTĐBSG trong đêm Chúa Cứu Thế
Giáng Sinh...
Cửa chính vào Thánh đường,
bên trên
có ghi Năm Khánh Thành Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn
Đây là
chiếc đồng hồ được điều khiển bằng dây thiều, gắn trước mặt tiền
NTĐBSG,
được chế tạo tại Thụy Sĩ vào năm 1887, hiệu R.A, cao
khoảng 2.5m,
dài khoảng 3m và ngang độ hơn 1m, nặng hơn 1 tấn.
Phía sau của chiếc đồng hồ lớn là chiếc đồng hồ con như
ta thấy ở trên đây,
được dùng để kiểm soát & điều chỉnh đồng hồ
lớn đang xoay mặt ra phía công chúng.
Nhà Thờ Đức Bà
Sài Gòn có 6 quả chuông đồng lớn được treo
trên 2 tháp chuông cao
57.6m. Hệ thống chuông của ngôi
Thánh đường này có sức nặng tổng
cộng 28.85 tấn &
được điều khiển bằng điện lực.
Các quả chuông này được đúc tại Pháp quốc &
chúng có thể ngân
vang trong một chu vi 10km.
Và kính mời quý độc giả thưởng
thức tiếng chuông mẫu (A)
đã được ngân lên tại Thờ Đức Bà Sài
Gòn,
file MP3 1.2MB, thời gian: 1phút 15giây.
Toàn bộ tiếng
chuông NTĐBSG (B) dài 7phút 23giây,
file MP3: 6.77MB.
Nghe chuông NTĐBSG đổ:
Tiếng chuông NTĐBSG
Cầu thang lên gác chuông Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn.
Trên đây là cây đàn
Pipe–Organ (đàn ống nhôm) của NTĐBSG.
Cũng được chế tạo ở Pháp.
Ô nhiễm môi trường đã làm hư nát một góc mặt tiền Thánh đường
Kiến Trúc Sư J. Bourad, người Pháp, đã vẽ kiểu &
điều
khiển công trình Kiến thiết Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn
Đức cố Giám Mục Giu–se Phạm Văn Thiên,
LM Việt Nam đầu tiên quản
xứ GX Sài Gòn.
Khi còn là LM, ngài đã sang Ý–Đại–Lợi để đặt tượng
Nữ Vương Hòa Bình
như chúng ta đang mục kích hôm nay!!
Đài Nữ Vương Hòa Bình trước
Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Vô Nhiễm Nguyên Tội Sài Gòn
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: BKT Sưu tầm, trình bày & Ấn loát
Đăng ngày Chúa Nhật,
August 20, 2017
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang