Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản
mạn Khoa học Thiên nhiên
Chủ đề:
Rừng & Con người
Tác giả:
Thái Công Tụng
Bấm vào đây để in ra giấy(Print PDF)
Abstract: Classification of various types of forests, role of forests, forest problems in Viet Nam.
1. Tổng quan
Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã tuyên bố năm 2011 là năm quốc
tế về rừng để báo động về sự tàn phá rừng một cách đại quy mô với
trung bình 350km² rừng bị mất đi mỗi ngày, làm tổn thương sự đa
dạng sinh học và làm tăng thêm sự sưởi nóng toàn cầu.
Trái Đất xưa kia rất nhiều rừng; rừng che phủ mọi nơi; sự mục
rữa cây cối trong những điều kiện nhất định đã tạo nên dầu hoả,
mỏ than. Xưa kia, người thưa thớt, sống du mục, săn bắn. Nhưng
dần dà, dân đông, nhu cầu chất đốt, nguyên liệu làm nhà cửa, đồ
mộc nên con người khai thác rừng làm diện tích rừng thu hẹp.
Nếu có ai hỏi hãy tìm chỉ một cá thể duy nhất vừa bảo đảm đất
giàu, vừa điều hòa được nước và lụt, vừa phát sinh hơi nước, vừa
tồn trữ cacbon, vừa thanh lọc không khí, vừa điều hòa nhiệt độ,
vừa chứa động vật và thực vật, vừa làm đẹp thắng cảnh thì chắc
hẳn câu trả lời đó là một, cây, và cây lại là một phần của
rừng... Con người từ thời thượng cổ cách đây mấy trăm ngàn năm
cũng phải dựa vào rừng mà sống: săn bắn, củi đốt, làm nhà, thuốc
thang đều nương vào rừng. Không rừng, con người không có nguyên
liệu, không muông thú để săn bắn... Trong bài quốc ca của Việt
Nam thời trước 1945, còn gọi là Đăng Đàn Cung, có câu hát:
Kìa núi vàng bể bạc,
có
sách trời,
sách trời định phần...
Núi vàng không phải là núi có vàng mà ý nói là núi chứa đựng
nhiều tài nguyên trong đó rừng là một. Rừng chính là vàng xanh;
rừng còn quý hơn vàng vì rừng ảnh hưởng đến khí hậu, đến thủy
văn, đến sức khoẻ con người. Quả vậy, rừng có nhiều chức năng
liên hệ đến môi trường thiên nhiên và nhân văn.
2. Các loại rừng trên
thế giới.
Đi
từ cực địa cầu đến xích đới, có 8 loại rừng lớ như: đồng rêu đới
lạnh, rừng taiga còn gọi là rừng thông phương bắc, rừng lá ôn
đới, rừng Địa Trung Hải, thảo nguyên, xavan hay rừng có đới nóng,
rừng rậm nhiệt đới, rừng ngập nước.
Đồng rêu
đới lạnh (toundra) nằm trên các vùng có băng đóng
vĩnh viễn trên mặt đất. Ngày mùa hạ rất dài. Mùa đông, đêm kéo
dài hàng tháng. Do đó thực vật chỉ là rêu và địa y (lichen).
Rừng taiga còn gọi là rừng thông
phương Bắc (forêt boréale de Conifères) có phía bắc giáp với vùng
toundra, phía nam giáp với vùng rừng hỗn hợp lá kim và lá rộng.
Rừng taiga ở phía Alaska, bắc Canada, Bắc Âu, bắc Siberia nằm
thành một đới dài trên Trái Đất. Rừng taiga có những loài cây lá
nhọn như thông (Pinus), linh sam (Abies), vân sam (Epicea), thông
rụng lá (Larix). Khí hậu rừng taiga lạnh, mùa đông kéo dài. Động
vật thường gặp là tuần lộc (caribou), nai sừng tấm (orignal) sống
và di chuyển từng đàn hàng ngàn con và các loài thú ăn thịt như
gấu, chó sói, cáo...
Rừng lá ôn đới còn gọi là rừng lá
rộng hay rừng rụng lá phát triển mạnh ở Đông Canada, Đông Bắc Hoa
Kỳ, Tây Âu và Đông châu Á. Đây là vùng nhiều cây phong (Acer) có
lá vàng đỏ vào mùa thu. Lượng mưa vừa phải; lá rụng vào thu, tạo
một lớp lá khô dày đặc trên đất. Có nhiều thú như hươu, nai...
Sau đây là vài loại cây tiêu biểu của loại rừng này:
Rừng Địa Trung Hải
thường gặp không những ở các xứ quanh bờ Địa Trung Hải mà còn có
mặt ở Nam Cali (Hoa Kỳ), Nam Australia, Nam Phi... Mùa hè nóng.
Thực vật khá đa dạng vì gồm những cây như sồi xanh (Quercus
ilex), sồi bần (Quercus suber), nhiều loài thông bá hương
(Cedrus) cũng như cây bạc hà (Eucalyptus) trong các rừng ở
Australia.
Thảo nguyên (steppe)
gặp ở các xứ Trung Á và Trung Hoa. Thực vật rất nghèo, chỉ vài
cây bụi nhỏ với đám cỏ thấp, có rễ rất dài ăn xuống các lớp đất
sâu để hút nước. Nhiều cây mọc rất nhanh về mùa xuân khi mặt đất
còn ẩm ướt, chúng lớn lên ra hoa, tạo quả trong vòng 1 tháng rồi
chết. Động vật hoang mạc có lạc đà một bướu, linh dương. Sự thích
nghi của động vật với đời sống hoang mạc rất rõ nét biểu hiện ở
các điểm chống cự được với khô nóng như giảm sự tiết mồ hôi và
nước tiểu, hoạt động chủ yếu về đêm, có đời sống chui rúc trong
đất.
Savan hay rừng có đới nóng
như ở Mali, Niger có đặc điểm mưa ít, mùa mưa rất ngắn, mùa khô
thì dài. Vào mùa khô, cây rụng lá vì thiếu nước, cỏ cũng bị khô
cằn. Châu Phi có cây baobab có thân rất to. Động vật có antilope,
gazelle, ngựa vằn, hươu cao cổ. Chúng thích nghi với sự vận
chuyển trên đồng cỏ hoang vu. Có những loài thú ăn thịt (sư tử,
báo) thích nghi với sự chạy nhanh, chúng săn bắt thú ăn cỏ, có
những loại chim như đà điểu... Có giả thuyết cho rằng người
nguyên thủy sinh sống trước kia là vùng savan châu Phi vì có
nhiều thú ăn cỏ, môi trường savan giúp cho thị giác loài người
phát triển. Việt Nam có nhiều savan cỏ tranh (Imperata
cylindrica).
Rừng rậm rụng lá
nhiệt đới (deciduous dense forest) như ở Việt Nam, Thái Lan,
Indonesia và vùng xích đạo Amazone, Phi Châu. Khí hậu nóng và ẩm.
Lượng mưa lớn do đó rừng có nhiều tầng, cao, rậm rạp. Mặt trời ít
khi xuống tận mặt đất. Cây to, dưới gốc có “bạnh” như cây bằng
lăng, trên thân có phong lan, tầm gửi chằng chịt. Động vật phong
phú vói vượn, khỉ, sóc, chim, voi, trâu rừng, thỏ...
Rừng ngập nước (mangrove), nhiều cây
đước, bần, có mặt gần cửa biển tại nhiều xứ nhiệt đới, từ Phi
châu, Nam Mỹ đến Đông Nam Á. Rừng này cung cấp gỗ làm than (như
than Cà Mâu) và là nơi sống đa dạng cho nhiều loại động thực vật,
đóng góp to lớn vào sự đa dạng sinh học trên toàn cầu.
Nhưng càng ngày loại rừng này bị phá nên các vùng duyên hải không
có bức tường thiên nhiên chắn gió và làm nước mặn tiến sâu vào
đất liền. Nhận thức được tầm quan trọng của các vùng đất ngập
nước, cho nên vào ngày 2/2/1971 tại thành phố Ramsar (Iran), Công
ước về các vùng đất ngập nước (gọi tắt là Công ước Ramsar) đã ra
đời nhằm bảo vệ loại rừng này trên thế giới.
Rừng mưa nhiệt đới (rainforest) là loại rừng chiếm
diện tích rất lớn ở các xứ Nam Mỹ (Bresil, Guyane...), chứa chằng
chịt cây lớn, cây nhỏ, bụi rậm.
Trên đây nói về các loại
rừng. Nhưng sự phân phối địa lý rừng thì không đồng đều: 5 xứ rất
giàu về rừng (Liên Bang Nga, Bresil, Canada, Hoa Kỳ và Trung Hoa)
và diện tích rừng 5 xứ này đã chiếm trên nửa (53%) của diện tích
rừng trên toàn thế giới. Nam Mỹ với rừng Amazonie chiếm 21% diện
tích rừng trên thế giới. Trong 64 xứ tổng số trên 2 tỷ người thì
trái lại rừng chỉ chiếm 10% của lãnh thổ. Cũng lại có nhiều xứ
nhỏ khác thì hầu như toàn là rừng như đảo Dominica miền Caraibes,
Guyane thuộc Pháp (98%), Suriname (95%), Seychelles (88%). Ở lục
địa Phi châu, rừng chiếm nhiều diện tích ở Congo, Gabon, Nam Phi.
3. Vai trò của rừng
trong môi trường và cuộc sống.
– Rừng bảo vệ đất: Khi mưa xuống, nước mưa
một phần được tàn cây ngăn chận, một phần chảy xuống thân cây rễ
cây nên tốc độ dòng chảy chậm hơn và có thì giờ thấm dần vào lớp
đất sâu tới lớp nước ngầm, tạo thành dòng chảy trong đất, nhờ
vậy, đất bớt xói mòn hơn. Nếu không có rừng, sự xói mòn sẽ chuyên
chở các bùn cát xuống các hồ nhân tạo trữ nước trên núi, làm
lượng nước trữ trong hồ bị giảm mạnh. Khác với đất trồng trọt,
đất rừng tự cung cấp lấy các dưỡng chất vì nhờ rừng nên đất có
thảm cỏ lá mục, cải tạo môi trường đất, có tác dụng nâng cao độ
phì nhiêu của đất.
– Rừng với khí quyển:
rừng chuyển vào không khí nhiều oxy hơn; do quang hợp, cây rừng
đã đưa vào khí quyển trung bình 16 tấn ô–xi/ha rừng, giữ cân bằng
nồng độ ô–xi của bầu khí quyển. Đó là lý do các công viên có cây
xanh rất cần trong thành phố.
– Rừng chống nạn cát
bay/chắn sóng ven biển: Nhiều nơi như Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên có nạn cát bay làm cát chiếm các đồng ruộng,
đường sá: mùa mưa, cát trôi thành suối cát; mùa hè, gió Lào khô
nóng thổi mạnh xen kẽ với gió mùa Đông Nam gây nạn sa mạc hoá. Do
đó, trồng cây cố định các đồi cát là việc ảnh hưởng tích cực đến
môi trường.
– Rừng giúp cho sức khoẻ.
Rừng tác động thuận lợi đến sức khoẻ loài người vì trong rừng,
khí hậu trong lành, ít ô nhiễm, ít tiếng động, ít bụi bặm và nhờ
vậy, tâm hồn bớt căng thẳng.
– Rừng cung cấp gỗ
củi: gỗ làm bàn ghế giường tủ; củi nấu ăn, nung trong lò
gạch, làm than. Kỹ nghệ gỗ và nhất là kỹ nghệ bột giấy ở Canada
rất phát đạt. Riêng tại tỉnh bang Quebec, cứ trong 6 công việc
thì đã có 1 liên quan đến ngành rừng như nhà máy cưa xẻ, nhà máy
giấy, xưởng làm đồ mộc.
– Rừng cung cấp các lâm
sản ngoài gỗ. Các dân tộc ít người sống miền núi thường
thu lượm, biến chế, buôn bán các sản phẩm ngoài gỗ như: nấm, mật
ong, măng tre, mây, hoa lan, dược thảo, trầm... Nấm trong rừng có
nhiều loại: nấm mèo đen, nấm mèo trắng, bào ngư, linh chi, hầu
thủ, v.v. Nấm mèo (Auricularia polytricha), còn có tên là mộc nhĩ
là nấm sống trên gỗ mục. Vùng núi có nấm hương (Agaricus
rhinozerotis) có mùi thơm, ăn ngon... Trong rừng có tre, có nứa
(Neohouzeaua), sặt (Arundinaria), luồng (Dendrocalamus), trúc
(Phyllostachys) và các loài tre này dùng trong nhiều việc: dụng
cụ trong nhà (làm đuã, đan thúng, tăm, giường), dụng cụ bắt cá
(lờ, rọ, cần câu...), bẫy chuột, làm vách phên nhà, làm dụng cụ
săn bắn (cung, tên), làm dụng cụ âm nhạc (sáo), làm giấy.
– Rừng có nhiều cây cho tinh dầu. Nhiều thực vật
cho phẩm nhuộm: phẩm vàng như nghệ, hoa hoè; phẩm đỏ như lá cẩm.
– Rừng cung cấp thuốc trị bệnh. Xưa kia, con
người nhờ các loại cây cỏ trong rừng để chữa bệnh vì cây cỏ có
chất làm lành vết thương, giải nhiệt, giải độc, mụn nhọt, trị cảm
cúm, trị ho... Ngày nay, dù khoa học có tiến bộ nhưng rừng vẫn là
nơi các thực vật cung cấp nguyên liệu để khảo cứu, trích các tinh
dầu.
Nạn sốt rét gây tàn phá làm chết rất nhiều sinh mạng.
Cây quinquina (Cinchona sp) cho chất quinine
[ký–ninh] và các
thuốc trị sốt rét như chloroquine, quinacrine, primaquine đều từ
quinine mà ra. Chất này không phải chỉ trị sốt rét mà còn dùng
chữa nhều bệnh khác nữa.
Trong khoảng 3,000 cây chứa các
đặc tính chống ung thư thì có đến hơn 2,000 cây từ rừng nhiệt
đới. Riêng Việt Nam có hàng trăm loài thực vật chứa các alcaloit
khác nhau và các alcaloit có thể dùng làm nhiều loại thuốc, đáng
chú ý là các alcaloid có tính chất kháng sinh và an thần.
– Rừng là kho gen quý giá. Rừng là một ngân hàng
tài nguyên gen to lớn vì chứa rất nhiều thực vật, động vật từ
chim, thú, thực vật khác nhau nên một khi phá rừng thì nguồn gen
vĩnh viễn bị mất đi.
– Rừng cho nhiều loại trái
cây ăn được. Nhiều loài cây trong rừng có trái ăn được:
sim, mồng quân, dâu rừng, giẻ...
Đói lòng ăn mớ trái sim
Nhịn ăn khát nước đi tìm người thương.
– Rừng là lá phổi của hành tinh ta ở. Khi trái đất còn hỗn
mang, trái đất không có cây cối. Dần dà, trái đất có cây xanh lá
chứa chất diệp lục; chất này có đặc tính hấp thụ được một phần
năng lượng mặt trời qua hiện tượng quang hợp. Trước kia, trái đất
cũng không có oxy và cũng chính nhờ hiện tượng quang hợp này, mà
có oxy: trong sự quang hợp, cây hút CO2 và nhả ra oxy. Chính nhờ
rừng hút bớt được chất CO2 do khói nhà máy, khói xe cộ nên rừng
là “giếng” chứa cacbon (carbon sink).
– Rừng với nước.
Rừng bảo vệ nguồn nước, hạn chế thiên tai. Nếu không có rừng đầu
nguồn trên lưu vực thượng lưu, sự xói mòn đất đai của thượng lưu,
dòng sông sẽ chuyên chở bùn cát hư hại mùa màng ở hạ lưu, khiến
hoa màu bị thiệt hại. Lượng nước bốc hơi từ đất rừng thấp hơn ở
nơi không cây cối vì trong rừng, nhiệt độ thấp hơn ngoài đồng
trống, gió yếu, độ ẩm cao. Lớp thảm mục dưới tàn cây rừng che chở
đất bớt bốc hơi nên ẩm độ trong đất rừng cao hơn đất trống vì
nước được giữ lại; nhiệt độ đất trên đất rừng thấp hơn đất trống
trải. Khi nước khô hạn (hạn hán), khi nhiệt độ trên đất cao thì
đó là các điều kiện để đất biến thành sa mạc dễ dàng.
–
Rừng và tâm linh. Vào rừng, đầu óc ta yên tĩnh hơn, bình lặng
hon, nó giúp ta nghiệm thấy một cái gì mới mẻ khác, vượt ra ngoài
các quan niệm thông thường... Vào rừng yên tĩnh thì con người thư
giãn, thoải mái hơn, vì vậy, rừng là nơi an dưỡng tinh thần; các
tu viện Thiền thường ở các vùng có rừng núi thiên nhiên.
Tóm lại rừng cung cấp nguyên liệu cho kỹ nghệ (cưa xẻ, giấy, đồ
mộc), tạo công ăn việc làm, giảm lụt lội, chống xói mòn, nơi trú
ẩn cho động vật hoang dã, đóng góp rất lớn vào cải thiện khí hậu
và đất đai, tạo môi trường sinh thái cho du lịch và như vậy đóng
góp không nhỏ vào sức khỏe và đời sống con người.
Bảng sau đây tóm tắt các dịch vụ của rừng.
4. Các vấn nạn của rừng Việt
Nam.
Sau đây là vài vấn nạn:
–
Phá rừng để có đất trồng trọt. Dân số tăng
nhanh, nảy sinh ra một số nhu cầu về chất đốt, về đất trồng trọt,
về gỗ xây dựng. Sự phá rừng bừa bãi, đốn cả cây lớn lẫn cây bé đã
kéo theo xói mòn đất đai, suy thoái phì nhiêu, trầm tích các hồ
chứa nước, giảm đa dạng sinh học, suy giảm lượng nước ngầm trong
mùa khô, gia tăng cường độ cũng như tần suất lũ lụt trong mùa
mưa.
– Người miền núi vẫn sống theo lối đốt
rừng làm nương rẫy trồng trọt vài năm sau đó khi
đất mất đi sự phì nhiêu lại sang một cánh rừng khác đốt rừng tiếp
tục làm nương rẫy. Vì vậy, rừng càng ngày càng thoái hoá, cả về
diện tích lẫn số lượng các loài.
– Đốn củi
để có chất đốt. Đốn củi liên tục trên những khu rừng gần các thôn
bản ở các chân núi dãy Trường Sơn, làm cho rừng không còn điều
kiện thuận lợi để có thể tái tạo thiên nhiên khiến rừng thêm suy
thoái và đất có đồi trọc rất nhiều ngày nay ở Việt Nam.
–
Cháy rừng: nạn cháy rừng mỗi năm làm
thiệt hại rất nhiều rừng và thảo nguyên: chỉ cần một đóm lửa gặp
thảm cỏ khô mùa hạ nóng bức... là có thể tạo ra nạn cháy rừng.
– Phát triển hạ tầng: sự tạo dựng
các hồ chứa nước, xẻ đường cũng làm nhiều cánh rừng bị hủy diệt.
Hiện nay, nhiều vùng như vùng Tây Bắc (Sơn La, Lai Châu) rừng
chỉ còn khoảng 10% tổng diện tích đất đai thiên nhiên, trong khi
tỷ lệ che phủ các vùng núi cao đầu nguồn phải cao (50–70%) mới
bớt được lụt lội.
Và sau đây là vài phát biểu từ trong
nước trong cuộc họp về rừng ở Ban Mê Thuột năm 2016:
...
Lợi dụng chủ trương giao đất, giao rừng, nhiều cán bộ công an,
kiểm lâm... đã thâu tóm đất, sang nhượng đất rừng để kiếm lời dẫn
đến việc rừng bị phá tan hoang.
... Trong rất nhiều vụ vi
phạm lâm luật có nhiều lực lượng ngầm đứng đằng sau. Nếu không
phối hợp tốt hơn như công an, kiểm lâm, chính quyền địa phương
không cách gì phát hiện đầu nậu gỗ, đầu nậu rừng, đầu nậu lâm sản
mà chỉ bắt được mấy ông cửu vạn.
Những vụ phá rừng không
xử lý được vì có cán bộ trong đó. Cán bộ có nhận đất, có nhận
rừng, có buôn bán đất đai, có chỉ đạo bật đèn xanh cho phá rừng.
Do đó nó cứ lùng nhà lùng nhùng, sang nhượng lung tung đâu xử lý
được, công an cũng bó tay.
KHẮC TƯỢNG TRÊN CÂY CÒN
SỐNG (Live Wood Carving)
5. Cháy rừng trên thế giới.
Năm
2019 vừa qua, cháy rừng sớm và kéo dài diễn ra ở nhiều nơi trên
thế giới. Mặc dù các vụ cháy rừng xảy ra theo chu kỳ tự nhiên của
một số vùng sinh thái, nhưng cường độ và quy mô tăng lên của
chúng đã gây hại đến sức khỏe cộng đồng và môi trường với những
hậu quả đáng báo động. Hơn 1,600 vụ cháy, hơn gấp ba số vụ trung
bình của thập kỷ qua, đã tàn phá các nước thuộc Liên minh châu Âu
(EU) trong năm qua. Pháp và Tây Ban Nha có số vụ hỏa hoạn cao hơn
bình thường. Trong tháng 6/2019, Hệ thống giám sát khí quyển
Copernicus (CAMS) giám sát phát thải từ cháy rừng trên toàn cầu
đã ghi nhận các vụ cháy dữ dội ở Siberia và Bắc Cực, trên một
diện tích rộng bằng kích thước 100,000 sân đá bóng.
Ở khu
vực rừng Amazon, 70,000 vụ cháy, đốt rừng đã xảy ra trong năm
qua. Ở Indonesia, cháy rừng vào tháng 9/2019 có cùng mức độ tàn
phá so với vụ cháy từng xảy ra năm 2015, tạo ra 884 triệu tấn khí
thải cacbon.
Ở bờ tây nước Mỹ, theo Cơ quan Hàng không và
vũ trụ Mỹ (NASA), số vụ và diện tích rừng bị cháy tăng không
ngừng kể từ những năm 1950.
Một đám cháy rừng phải hội đủ các
điều kiện thời tiết khô, vật liệu cháy và mồi lửa. Trong đó, thời
tiết là yếu tố quan trọng nhất và cũng thay đổi nhất đối với các
vụ cháy rừng – các yếu tố của thời tiết như nhiệt độ, độ ẩm,
lượng mưa và tốc độ gió đều ảnh hưởng đến tốc độ và cường độ lây
lan của đám cháy. Những đám cháy lớn nhất xảy ra khi thời tiết
nóng, khô và gió mạnh.
Phân tích dữ liệu thời tiết 35 năm
do hai cơ quan khí tượng hàng đầu là của Trung tâm châu Âu về dự
báo thời tiết tầm trung (ECMWF) và Cục Quản lý Đại dương và Khí
quyển quốc gia Mỹ (NOAA), các nhà khoa học nhận thấy mùa cháy đã
kéo dài hơn ở 1/4 đất trồng trên toàn cầu, một số khu vực ở Nam
Mỹ và Đông Phi mùa cháy dài hơn một tháng so với gần 4 thập kỷ
trước đây.
Mặc dù các vụ cháy rừng là một phần của chu kỳ
thiên nhiên, các hệ sinh thái và người dân có thể không thích
nghi được với những thay đổi này.
Cháy rừng gây ô nhiễm
không khí do phát tán một lượng bụi siêu mịn vào không khí. Ngoài
ra, sự kết hợp của nhiều vật liệu ô nhiễm bị cháy khiến các vụ
cháy rừng gây ô nhiễm không khí nhiều hơn so với phát thải công
nghiệp.
6. Cải thiện môi
trường rừng.
Vài biện pháp để cải thiện:
– Bảo tồn và làm
giàu tài nguyên rừng: trồng cây gây rừng, trồng thâm
canh ở các thung lũng hoa màu lương thực để giảm bớt sức ép trên
các đất dốc; kết hợp trồng cây rừng và cây ăn quả; đề phòng nạn
cháy rừng. Nên có nông lâm kết hợp, cộng thêm các biện pháp công
trình (bực thềm, hố) và biện pháp sinh học (băng cây, trồng cây
họ Đậu cố định được chất đạm và bảo vệ đất như Pueraria
phaseoloides, Mucuna utilis, Tephrosia, Crotalaria...) để giữ đất
chống xói mòn.
– Sử dụng các nguồn tài nguyên tái
tạo được và không ô nhiễm như gió, mặt trời, nước để bớt
sử dụng năng lượng từ rừng. Các khí sinh học (biogas) dùng phế
thải động vật và thực vật để nấu nướng, cũng giúp giảm sức ép
trên tài nguyên rừng. Từ năm 2013, Tổ chức Lương thực và Nông
nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) đã chọn ngày 21/3 hằng năm là ngày
thế giới trồng cây để kêu gọi các địa phương, quốc gia cùng nỗ
lực trồng cây và nâng cao nhận thức bảo tồn rừng, phát triển
trường kỳ trong tương lai. Theo ủy ban liên chính phủ về biến đổi
khí hậu, rừng là lá phổi xanh của con người, là môi trường sống
của mọi loài sinh vật khác. Sự suy thoái đa dạng sinh học rừng và
biến đổi khí hậu có mối tương quan chặt chẽ, rừng càng cạn kiệt
và sụt giảm diện tích thì tác động của biến đổi khí hậu càng lớn
và thời tiết càng cực đoan.
7. Kết luận.
Rừng chỉ là một bộ phận của sinh quyển trong đó phải kể thêm
nước và đất. Cả ba yếu tố đất, nước và rừng có tương quan hữu cơ
với nhau:
Rừng tác động trên đất, trên nước và trên con
người. Ví dụ: phá rừng sẽ làm dòng nước chảy giảm đi, khiến nước
mặn xâm nhập. Phá rừng làm xói mòn đất, giảm độ phì nhiêu của đất
và tác động xấu đến an ninh lương thực. Rừng đầu nguồn bị chặt
hết cây nên không còn giữ nước do đó khi mưa lớn đến là đương
nhiên lũ quét đến.
Suy thoái đất có nhiều hậu quả quan
trọng trên các môi trường có liên hệ đến đất: Đất hẹp, người đông
mà nếu đất không được sử dụng hợp lý thì con người tự làm hại đến
mình vì đất thoái hoá thêm, nghèo thêm sẽ ảnh hưởng xấu đến sản
xuất lương thực. Nếu đất mất phì nhiêu, người dân có khuynh hướng
mở mang thêm đất bằng cách khai hoang, ảnh hưởng đến quỹ đất
rừng.
Cũng vậy, thiếu nước, hạn hán cũng tác động trên
thực vật và động vật, làm kế hoạch thủy văn bị đảo lộn, làm nước
mặn xâm nhập vào đất.
Với sự biến đổi khí hậu do các khí
nhà kính gây nên làm trái đất nóng dần thì vai trò của rừng lại
càng quan trọng hơn. Yêu rừng, chính là yêu ta, yêu con người
vậy.
Thái Công Tụng
Bấm vào đây để in ra giấy(Print PDF)
Những trang liên quan
Khí Hậu & Con Người trong Thi Ca Việt
Thế giới thực vật qua thi ca Việt
Mây & con người
Gió & con người
Nước & Con người
Đất & Con người
Rừng & Con người
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Đêm Thánh với muôn muôn vàn vì tinh tú... Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Thái Công Tụng chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, December 24, 2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang