|
Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Hòa Bình là
kết quả của Công Lý và Tình Liên Đới
Peace As The FruitOf Justice
and Solidarity
(Is 32,17; Gc 3,18; Srs 39)
http://www.conggiaovietnam.net
conggiaovietnam@gmail.com
Tản
mạn Việt Sử
Chủ đề:
Triều Nguyễn & GHCGVN
Tác giả:
Linh mục Giáo sư Ngô Anh Lân, S.J.
[1]
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
LTS:
Kính thưa
Quý Vị,
Không có
gì kém may mắn cho bằng chẳng được biết gì về nguồn cội của chính
mình, và càng bất hạnh hơn khi hiểu sai, biết không đúng về lịch sử
của bản thân, gia đình, dòng tộc, quốc gia, dân tộc của mình...
Vì thế, trong tâm tình biết ơn Tác giả,
cũng chính là Linh mục Giáo sư Ngô Anh Lân, S.J., hiện đang giảng
dạy trong khoa Á Châu Học tại trường Đại Học Loyola–Marymount (Los
Angeles). Tác giả tốt nghiệp Tiến Sĩ ngành Sử Học năm 2016 tại Đại
Học Georgetown với luận án tiến sĩ Nguyễn–Catholic History
(1770s–1890s) and the Gestation of Vietnamese Catholic National
Identity. BBT CGVN xin kính chuyển đến mọi người một tư liệu quý có
tựa đề là: “Nhận diện các vị Vọng Các công thần theo Công giáo trong
thời đầu triều Nguyễn”.
Để thuận tiện cho mọi người, BBT xin kèm
cả file Word và PDF trong email này.
Xin chân thành cám ơn.
BBT CGVN
Tóm Lược: Khi
bàn về triều Nguyễn, các nhà sử học thường hay bắt đầu từ cuộc gặp
gỡ lịch sử giữa Gia Long và Đức giám mục Bá Đa Lộc. Nhưng thời điểm
hai vị ấy tiếp xúc với nhau chưa được xác định rõ rệt. Bài trình bày
hôm nay khởi đầu chỉ là một cuộc rà soát đơn thuần nhằm xác định
được mốc điểm trong lịch sử Việt Nam cận đại, nhưng cuộc rà soát ấy
dẫn đến khám phá thêm những nhân vật Công giáo góp phần đáng kể
trong việc thành lập triều Nguyễn. Trong nhóm đó, có những người
hoàng thân quốc thích, có người là linh mục bản xứ, và hơn nữa có
vài người có nhiều yếu tố trùng hợp với danh tính các vị khai quốc
công thần được thờ tại Thế Miếu. Những khám phá này không dám quả
quyết tất [cả] các nhân vật này đều theo Công giáo, nhưng chỉ nằm
trong phạm trù khả năng cao có thể có. Lý do cho việc kết luận dè
dặt là vì hoàn cảnh bài Công giáo sau đó đã đưa nhiều nhân vật này
vào bóng tối khi đề cập đến tâm linh tín ngưỡng của họ. Mặc dù vậy,
khi so sánh và đối chiếu các nguồn tư liệu khác nhau, từ sử liệu của
triều đình đến các thư từ của các nhà truyền giáo, và những tư liệu
địa phương về các vị này, chúng ta có thể nhận diện vài nhân vật
Công giáo nổi bật vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX của triều
Nguyễn. Việc khám phá các nhân vật này cho thấy cộng đồng Công giáo
vào cuối thời Tây Sơn và vào đầu nhà Nguyễn đã chuyển hướng từ một
“thiểu số ẩn” (invisible minority) trong xã hội thành “thiểu số nổi”
(visible minority) trong chính trường Gia Long
[2].
Vào sáng sớm ngày 16 tháng 12 năm 1799 (Kỷ
Tỵ) [3], là sau gần hai tháng từ lúc Đức giám mục Bá Đa Lộc (Pierre
Joseph Pigneau[x] de Béhaine, 1741–1799) qua đời tại Qui Nhơn
[4],
dân Đồng Nai náo nức ngóng chờ để được chứng kiến cuộc tang lễ có
một không hai trong xứ. Sách xưa thuật lại, quan tài sơn son thếp
vàng với năm mươi đèn cầy thắp sáng trên áo quan. Tám mươi người
được cắt cử khiêng hòm và đi theo sau là Đông cung Thái tử Nguyễn
Phước Cảnh (1780–1801). Hơn thế nữa, quốc vương Nam triều Nguyễn
Phước Ánh (1762–1820) cùng quốc mẫu, hoàng hậu, các bà công chúa và
các vị phi tần khác cùng tham dự. Đó là chưa kể các quan văn võ. Rồi
thêm hai mươi ngàn binh lính nhập đoàn cùng với một trăm hai mươi
con voi trận hộ tống [5]. Đám tang của vị giám mục chắc chắn thu hút
nhiều sự chú ý tò mò của mọi người vì thấy cả vua quan Nam triều
đứng ra chủ lễ cho vị “Thái tử Thái phó Quận công.” Trong dân chúng,
nếu chưa [có] dịp nghe hay biết về Công giáo, cũng trong dịp này
cũng sẽ thắc mắc về một nhóm người theo đạo và “Đức Thầy Vêrô” quá
cố của họ. Không chỉ có dân Đồng Nai–Gia Định của năm Kỷ Tỵ ấy thắc
mắc dò xem, mà từ đó đến nay trong các tài liệu lịch sử trong và
ngoài nước, có nhiều kẻ bỉu người khen quanh vai trò của vị giám mục
thừa sai xứ Pháp này.
Nhưng có một yếu tố khác đáng ngạc nhiên
là các sử sách lại không thống nhất tháng ngày và hoàn cảnh mà vị
giám mục này đã gặp hoàng đế Gia Long tương lai như thế nào. Bài
nghiên cứu này không chỉ mong xác định mốc điểm lịch sử ấy, nhưng
muốn giới thiệu thêm các công thần của nhà Nguyễn theo Công giáo
thời đó. Vì những nhân vật nổi bật trong chính trường này, nhóm Công
giáo “thiểu số ẩn” (invisible minority) đã trở nên nhóm “thiểu số
nổi” (visible minority) trong lịch sử Việt Nam cận đại.
Gởi con, chẻ vàng
Theo chính sử triều Nguyễn, Đại Nam thực
lục [từ đây trở đi bài viết xin được gọi tắt là Thực lục], Đức
giám mục Bá Đa Lộc được nhắc đến nhưng chỉ là vai phụ trong một bước
ngoặt lịch sử éo le vào sinh ra tử của nhà Nguyễn. Đó là vào năm Quý
Mão (1783). Biến cố này quan trọng đến độ, nhà Nguyễn trung hưng đã
gìn giữ một kỷ vật còn lại của dịp này và tôn kính nó như một thánh
vật của triều đình—thoi vàng khắc chữ
“Thế Tổ Đế Hậu Quý Mão bá
niên thiên tín vật (Vật giữ làm tin của Thế Tổ Đế Hậu lúc phiêu dạt
đi xa về năm Quý Mão)—được thờ tại điện Phụng Tiên. Đầu năm 1783 số
phận của Nam triều giống như ngàn cân treo đầu sợi tóc. Tân vương
mười tám tuổi Nguyễn Phước Ánh và đám tàn quân hợp tan liên tục.
Tháng hai năm ấy, sau khi thua trận tại Cần Thơ, ông chỉ còn vỏn vẹn
năm hay sáu thủ hạ và chưa đầy một trăm lính. Họ phải long đong từ
đảo này trốn qua đảo kia. Trong bước đường cùng, vị vương trẻ liên
lạc được với Đức giám mục Bá Đa Lộc và trao gởi người con cả mới bốn
tuổi là Hoàng tử Cảnh nhờ vị giám mục chăm lo
[6]. Sử quan triều
Nguyễn sau này tả lại cảnh chia ly đầy kịch tính dồn dập trong những
tháng đó. Trong cơn nguy cập và sắp trốn khỏi Phú Quốc để qua Xiêm,
Nguyễn Phước Ánh đã gởi mẹ mình lại cho Tống Phước thị Lan
(1762–1814), người vợ ông mới cưới được năm năm. Đại Nam liệt truyện [từ đây trở đi bài viết xin được gọi tắt là Liệt truyện]
ghi: Vua ‘bèn đem ra nửa dật vàng tốt cho Hậu, bảo rằng con ta đi
rồi, ta sẽ đi đây, Phi phụng dưỡng Quốc mẫu ở đây, chưa biết sau này
gặp nhau ở nơi nào và ở ngày nào, đem vàng này để làm của tin.’”
[7]
Câu chuyện thoi vàng gần như bị quên lãng cho đến khi Gia Long trị
vì được vài năm. Sử quan nhắc lại biến cố Quý Mão năm xưa để kết
thúc đoạn tiểu sử của vị hoàng hậu đầu tiên của triều Nguyễn: “Kịp
khi thiên hạ đã yên định, Hậu thong dong trình dâng. Vua nói rằng:
Vàng giữ làm tin đây, thực trời giúp đấy, không thể quên lúc gian
nan, vậy nên lưu lại để bảo cho con cháu biết. Hậu nhận lấy dật vàng
ấy cho Thánh Tổ Nhân Hoàng đế [Minh Mạng].”
[8] Qua câu chuyện “gởi
hoàng đi Tây” và “thỏi vàng Quý Mão,” chúng ta có thể hiểu tại sao
thuở đầu Nam triều Gia Định đã đứng ra tổ chức một cuộc an táng cho
một vị giám mục với lễ nghi xứng bậc vương tôn cùng với sự hiện diện
của tất cả hoàng thân quốc thích và cả bá quan văn võ vào năm Kỷ Tỵ
ấy.
Lấn cấn ngày
giờ gặp gỡ
Dù
biến cố “gởi con, chẻ vàng” mang một dấu ấn tâm lý lịch sử cho hoàng
tộc và triều đình nhà Nguyễn như vậy, nhưng tài liệu và sử sách sau
này lại không thống nhất về thời gian Đức giám mục Bá Đa Lộc và vị
vương lưu vong đã gặp nhau trong thời điểm và tình huống nào. Theo
chính sử nhà Nguyễn và Linh mục Đặng Đức Tuấn (1806–1874) thì cuộc
gặp gỡ định mệnh này xảy vào năm 1783
[9]. Theo lá thư của chính Đức
giám mục Bá Đa Lộc thì vị giám mục nói đến hai cuộc gặp gỡ với ông
hoàng thất thế vào tháng một và tháng hai năm 1784
[10]. Đầu thế kỷ
XX, sử gia Trần Trọng Kim dù không xác định thời điểm nhưng cho rằng
trước chuyến cho ông hoàng Cảnh đi Tây cầu viện thì Nguyễn vương đã
“có quen một người nước Pháp làm giám mục đạo Gia Tô” rồi
[11].
Những nghiên cứu gần đây cho thấy cuộc gặp
gỡ đã có thể xảy ra sớm hơn. Giáo sư Nguyễn Quang Hưng đưa ra mốc
điểm sớm nhất là vào khoảng tháng 11 năm 1776
[12]. Hai sử gia, Tạ
Chí Đại Trường và Trương Bá Cần, thì cho là vào ngay sau tháng 10
năm 1777 khi bên Tây Sơn tàn sát gần hết chúa tôi nhà Nguyễn gần
Long Xuyên, Hà Tiên [13]. Nhà nghiên cứu giáo sử Cao Thế Dung đặt
vào tháng Giêng 1778 [14]. Trần Mỹ Vân, học giả chuyên về Cường Để
và lịch sử thời thực dân, thì trích dẫn năm 1782
[15]. Bộ
Lịch sử
Việt Nam của Viện Sử học, Tập 4 do Trần Thị Vinh chủ biên, đồng ý
với các học giả gần đây thống nhất chọn giữa những tháng cuối của
năm Đinh Dậu (1777) và vào đầu năm Mậu Tuất (1778) là khởi đầu cuộc
một mối liên hệ lâu dài giữa vị hoàng đế tương lai và Đức giám mục
Bá Đa Lộc [16]. Nhưng hoàn cảnh gặp gỡ chính xác ra sao thì khó có
thể nói; sử gia Trương Bá Cần lưu ý độc giả: “Chúng ta không rõ là
Nguyễn Phước Ánh trốn trong nhà của Đức giám mục Pigneau[x] ở Hà
Tiên hay ở Cao Miên, bởi vì trong thời gian chờ đợi vào Đàng Trong
(1775–1778), Đức giám mục Pigneau[x] khi thì ở kinh đô Cao Miên, khi
thì ở Hà Tiên.” [17] Nói tóm lại, dù bao sách vở sử liệu đã được dò
tìm, học giả vẫn không thống nhất với nhau về địa điểm và năm tháng
của cuộc hội ngộ này. Nơi gặp thì có thể bất cứ nơi đâu từ Hà Tiên
cho đến thủ phủ của Cao Mên; thời điểm thì lại rơi vào trong vòng
sai suất khá lớn ít là từ vài tháng cho đến tám năm!
Tài liệu dã sử Sử ký Đại Nam Việt Quấc Triều
Để so sánh và xác định sử sự quanh biến cố Quý Mão (1873), bài
nghiên cứu này dựa vào một dã sử công giáo, Sử
ký Đại Nam Việt quấc triều [từ đây trở đi bài viết xin được gọi tắt
là Sử ký], được xuất bản từ nhà in Imprimerie de la Mission, Tân
Định năm 1879 [18]. Rất tiếc vì chưa có thể tìm ra nguyên bản 1879,
nên bài nghiên cứu này phải dựa trên tái bản lần hai của Sử ký vào
năm 1885. Tác giả khuyết danh bắt đầu với thời suy sụp của Đàng
Trong từ năm 1737 và kết với việc Gia Long đổi tên nước thành Việt
Nam năm 1812. Nội dung của dã sử rõ ràng là trên quan điểm của một
tác giả Công giáo, nhưng lối viết không có thần thoại hoá hay luân
lý hoá các nhân vật mà chúng ta thường thấy trong các sách Sử ký
theo thể loại hạnh tích các thánh tử đạo. Đó là so với luồng sách
nhà đạo, còn khi so chính sử, thông sử, hoặc dã sử khác cùng thời
kỳ, Sử ký không dùng niên hiệu của các đương kim hoàng đế mà dùng
dương lịch. Văn thanh của Sử ký theo âm từ Nam bộ cho độc giả địa
phương. Khi nhắc đến các địa danh, tác giả vẫn dùng tên thông dụng
như “Cao mên” thay vì tên gọi hành chánh “Chân lạp.”
[19] Vì Sử ký
viết cho độc giả Công giáo nhưng không theo thể loại hạnh các thánh
tử đạo, nên các nhân vật Công giáo dù không chết vì đạo vẫn được
nhắc đến. Yếu tố này góp phần quan trọng cho việc truy tìm các người
theo đạo trong thời đầu triều Nguyễn của bài nghiên cứu này. Độc giả
của Sử ký sẽ hiểu rõ và với đầy mầu sắc điạ phương và đối thoại
đằng sau các sự kiện mà văn phong triều chánh của Thực lục không
cho phép, lướt qua hay lược bỏ. Lối diễn tả sống động như ghi lại
“tai nghe mắt thấy” từ nhân chứng sống có thể kiểm chứng dễ dàng với
chính sử. Do đó, Sử ký có tính cách sử liệu dồi dào để đọc song
song, xác tín và bổ khuyết vào sự thiếu sót của Thực lục do các sử
quan ghi chép. Nhưng vì Sử ký mang nhiều sắc thái điạ phương tính,
nên việc truy tầm danh tánh các nhân vật Công giáo là một thách đố
lớn. Trong Sử ký, tên gọi thường dùng chức danh giản lược và thêm
phong tục kỵ huý nên không đầy đủ họ tên chức tước như tài liệu
trong chính sử thường hay có. Do đó, để xác tín giá trị sát thực của
sử liệu cũng như về nội dung sự kiện quanh các nhân vật có thể theo
Công giáo trong triều, bài nghiên cứu này phải dựa vào việc đối
chiếu giữa Sử ký với Thực lục, Liệt truyện, mười bốn bức thư
của Nguyễn Phước Ánh được ghi lại trong Bulletin des amis du vieux Huế [từ đây trở đi bài viết xin được gọi tắt là BAVH]
[20], thư
của các thừa sai được in trong Lettres édifiantes et curieuses [từ
đây trở đi bài viết xin được gọi tắt là LEC], và một bài nghiên
cứu mô tả Thế Miếu vào năm 1914
[21].
Bốn câu chuyện của ba mươi năm triều Gia
Định
Như đã nêu
về nhiều điểm bất cập thời gian chưa kể khác biệt trong nội dung sử
liệu, bài viết này xin tạm đặt lại các sử kiện theo mốc năm tháng
gần ba thập niên từ lúc chúa Nguyễn mất Phú Xuân chạy vào Gia Định
năm Giáp Ngọ (1774) cho đến lúc Nguyễn vương xưng đế vào Nhâm Tuất
(1802). Các sử kiện được chọn vì chúng liên quan trực tiếp hay gián
tiếp tới sử Công giáo, và xin được nôm na gọi là bốn câu chuyện gồm:
tư–sự, chiến–sự, chánh–sự và giáo–sự.
Chuyện tư–sự
Chúng ta có thể tạm gọi giai đoạn tư–sự là
từ lúc nhà Nguyễn mất nghiệp chúa ở Phú–xuân năm Giáp Ngọ (1774) cho
đến trận Long Hồ năm Đinh Dậu (1777). Trong ba năm này, Nguyễn Phước
Ánh chỉ là một nhân vật trẻ và thứ yếu trong đoàn tùy tùng của Định
vương Duệ Tông Nguyễn Phước Thuần (1765–1776)
[22]. Nếu có cuộc gặp
nhau nào giữa nhóm Công giáo và chúa tôi nhà Nguyễn, thì Đức giám
mục Bá Đa Lộc chỉ có thể có vài sơ giao hay đơn thuần biết mặt một
chút về cậu hoàng tôn mười mấy tuổi trong đoàn lưu vong Phú Xuân.
Tình hình trở nên bi đát khi quân Tây Sơn bắt giết gần hết nhà chúa
Nguyễn. Sau bốn tháng lẩn trốn tại Sa Đéc, vị hoàng tôn trẻ sống sót
và tập hợp lại tàn quân [23]. Qua lời giới thiệu của Đức giám mục Bá
Đa Lộc, một người Pháp, “ông Gioang,” đã góp mẹo binh với quân
Nguyễn để chế tạo và sử dụng một loại kiểu trái phá dù đơn sơ nhưng
đủ tạo rối loạn trong trận thủy chiến Long Hồ, Vĩnh Long
[24].
Sau trận này, tướng tá cũ tôn vị hoàng tôn sống sót lên làm đại–nguyên–súy. Cuối năm 1777, Nguyễn Phước Ánh thu lại được đất
Gia Định.
Chuyện
dài chiến–sự
Từ
năm Đinh Dậu (1777) đến Mậu Thân (1788), xin được tạm gọi đây là
những năm thay đổi trong quen biết từ “tư–sự” đến “chiến–sự.” Đây là
mười một năm hợp tác giữa Đức giám mục Bá Đa Lộc cùng nhóm Công giáo
với quan quân nhà Nguyễn Nam triều. Đây là những ngày tháng cam go
và có khi gần như tan rã hoàn toàn cho phía theo Nguyễn Phước Ánh.
Ba lần (1777, 1782 và 1784), họ cố gắng chiếm lại Gia Định và những
vùng phục cận, và ba lần đều bị Tây Sơn sát phạt. Chỉ đến năm 1788,
nhà Nguyễn mới bám trụ được vùng tái chiếm từ Tây Sơn. Trong những
năm đầu long đong, nhóm Công giáo dù chỉ là một thiểu số không đáng
kể, nhưng đã sát cánh sống còn với đoàn cựu triều mà nhiều lúc chỉ
là đồng hành với nhau qua việc chia cơm sẻ muối trôi nổi từ thuyền
này qua đảo nọ. Nhóm tàn quân Gia Định và một số người Công giáo
chạy loạn nương tựa vào nhau và đôi lúc hỗ tương trong chiến sự để
chống trả lại các lần càn quét săn lùng của quân tướng Tây Sơn.
Có lẽ sau trận Long Hồ 1777 một thời gian,
Đức giám mục Bá Đa Lộc mới tìm gặp và hứa cộng tác hay ủng hộ trong
dịp vị đại–nguyên–súy trẻ vừa xưng vương vào năm Canh Tý (1780).
Theo Liệt truyện viết về một người trong nhóm “Vọng Các công thần” — đó là những trung thần đã theo phò Nguyễn vương từ thời lưu
vong bên thủ phủ Vọng Các, nước Xiêm, đơn cử như “Trần Văn Học:
Người huyện Bình Dương thành Gia Định, lúc đầu theo Bá Đa Lộc đến
yết kiến Thế Tổ Cao Hoàng Đế ở Gia Định, năm Nhâm Dần.”
[25] Vậy dù
Đức giám mục Bá Đa Lộc có biết và ngay cả giới thiệu người Pháp như
“Ông Gioang” chế thuốc nổ đến với Nguyễn Phước Ánh trước đây, nhưng
có vẻ ra mặt công khai hợp tác khi vị tướng trẻ chính thức lên ngôi
vương vào năm 1780. Không chỉ trong Sử ký mà hai bức thư của
Stanis Lefebvre, một trong những người sĩ quan Pháp sau này tham gia
với quân nhà Nguyễn, đều nhắc đến việc Đức giám mục Bá Đa Lộc ra gặp
vị tân vương. Theo ba sử liệu đó thì lần này, vị giám mục giới thiệu
thêm một người Pháp nữa là “Ông Màn Hoè [Ma–no–e hay Emmanuel].”
[26] Vậy lúc này qua trung gian của vị giám mục, trong hàng ngũ Nam
triều có ít nhất hai người Pháp: “Ông Gioang” và giờ thêm “Ông
Màn–Hoè.” Chúng ta không biết nhiều gì về “Ông Gioang” ngoại trừ qua
Sử ký, nhưng “Ông Màn Hoè” thì được ghi công trong Thực lục do
hy sinh chết trong một trận thủy chiến với quân Tây Sơn
[27]. Trong
thời gian ngắn, lòng tin và sự thân tín giữa tân vương và vị giám
mục tăng nở. Hành dinh của vị vương trẻ và chủng viện Gò Mít gần
nhau chỉ vài bước đi bộ. Nguyễn Phước Ánh tin vị giám mục đến độ dám
chia sẻ lòng uất ức vì bị tướng Đỗ Thành Nhân lấn áp, và tiết lộ âm
mưu trừ khử vị tướng này [28]. Các thừa sai khác thì tường trình lại
bề trên bên Pháp chuyện họ cho rằng vị giám mục đã nhúng tay quá lố
vào nội bộ chính trị tại địa phương
[29]. Lòng người mấy ai nào có
tài cán cao siêu dám chủ quan nói có thể đo biết thâm tâm và dụng ý
của kẻ khác, nhưng các sự kiện này khách quan cho thấy vị tân vương
và Đức giám mục Bá Đa Lộc qua lại rất thân quen và tin tưởng thêm
với nhau trong mấy năm này hơn chỉ là “tư–sự” sơ sài như thời trước
trận Long Hồ 1777.
Tiếp đến là câu chuyện lịch sử nhiều người
biết đến: Đức giám mục Bá Đa Lộc nhận nuôi cậu bé bốn tuổi, Nguyễn
Phước Cảnh. Bắt đầu vào tháng hai năm 1783, quân Tây Sơn tiến chiếm
và đẩy quân nhà Nguyễn ra khỏi vùng Gia Định lần thứ nhì. Đức giám
mục Bá Đa Lộc và Linh mục Trần Văn Học đã đem gia đình vợ con vị tân
vương đi lánh nạn với mấy người bên đạo qua Chân Lạp (Campuchia)
[30]. Nhưng khi được tin Chân Lạp ngầm bắt nộp nhóm lưu vong cho
quân Tây Sơn, Nguyễn Phước Ánh phải gởi người thân tín đến giải cứu
trong lúc phải đối đầu và bị thua thảm hại tại trận thủy chiến Cần
Giờ [31]. Nguyễn vương ít nhất đã giải nguy được gia đình, nhưng
không cứu vãn được đội quân mới thành lập trong mấy năm qua. Sau
trận Cần Giờ, quân nhà Nguyễn chỉ còn lại vỏn vẹn chưa đầy bảy trăm
người. Trong trận này, Thực lục nhắc tới Nguyễn vương may mắn
thoát dù phải nhảy bơi trên đoạn sông đầy cá sấu
[32]. Họ lên thuyền
chạy thoát ra biển và tạm trú lòng vòng các đảo hoang. Hy vọng được
tăng lên chút đỉnh khi có thêm tám mươi người Công giáo đến nhập
đoàn với họ [33]. Về phía Đức giám mục Bá Đa Lộc, ông và chủng sinh
chạy trốn xuống Hà Tiên và sau đó họ đi thuyền trốn ra Phú Quốc. Tại
Phú Quốc, Nguyễn vương, gia đình và đoàn tùy tùng gặp lại giám mục
và sống nương vào gạo mà thuyền vị mang theo
[34]. Nhưng không được
bao lâu, mỗi người lại chạy mỗi ngã vì Tây Sơn kéo binh ra truy
lùng. Theo thơ của Đức giám mục Bá Đa Lộc, sau khi ổn định tại
Chanthaburi, vương quốc Xiêm, ông đã nhắn người dò xem gia quyến
Nguyễn vương lưu lạc nơi đâu. May mắn là “ông trùm Nam” đã tìm gặp
được họ đang trốn tại Hòn Dừa và tiếp tế cho ít gạo trước khi quay
về khẩn báo cho giám mục tại Chanthaburi
[35]. Được tin từ “ông trùm
Nam,” Đức giám mục Bá Đa Lộc kể lại, “tôi ngay lập tức đến và tìm ra
được ông hoàng tội nghiệp đang trong một hoàn cảnh đáng thương. Ông
ta có với ông chừng sáu đến bảy trăm quân chen sống trên một chiến
thuyền lớn và chừng hơn kém mười lăm ghe nhỏ khác. Nhưng đó cũng là
một số quá lớn để ông ta lo cho họ ăn. Quân lính đã phải quay qua ăn
gốc củ rau cỏ. Tôi phải đành nhường lại một số lương thực của chúng
tôi.” [36]
Trong
dịp này mới có câu chuyện của năm 1783 khi Nguyễn vương gởi gắm
người con cả của mình cho Đức giám mục Bá Đa Lộc. Nhưng chuyện Đông
cung đi cầu viện thì không đơn giản như vài dòng được ghi trong
Thực lục. Chuyến Tây du không bắt đầu ngay vào năm 1783 mà chỉ xảy
ra ba năm sau đó. Có thể ý định đi Tây cầu viện chỉ là một trong
nhiều dự định ban đầu, và lúc này nhóm quân nhà Nguyễn vẫn còn đặt
nhiều hy vọng vào quân trợ giúp từ Nước Xiêm. Năm sau Giáp Thìn
(1784), Nguyễn vương cùng với hai mươi ngàn quân và ba trăm chiến
thuyền do Chiêu Tăng và Chiêu Sương về đánh lực lượng Tây Sơn, nhưng
Nguyễn vương đã phải trả giá đắt trong vụ này. Ngay từ sớm, Nguyễn
vương nhận ra, nhưng lại quá trễ, khi thấy cái sai lầm chọn theo
quân Xiêm về giành lại nam bộ vì tính cách hà hiếp quấy nhiễu và vô
kỷ luật của họ. Sau khi thua trận Rạch Gầm và Xoài Mút, Nguyễn vương
than: “Muốn lấy được nước, phải được lòng dân... Nếu được Gia Định
mà mất lòng dân thì ta cũng không nỡ làm. Thà hãy lui quân để đừng
làm khổ nhân dân.” [37] Theo Thực lục, trong trận này, Nguyễn
Phước Ánh thua chạy và còn lại chỉ vỏn vẹn ba vị tướng và mười quân
sĩ [38]. Vào cuối năm 1784, Đức giám mục Bá Đa Lộc dẫn đầu đoàn Nam
triều đi Pháp (Đại Tây) cầu viện qua đường Pondichéry (Tiểu
Tây), thuộc địa Pháp tại Ấn Độ. Nhân tiện, ông cũng đem theo ba
mươi chủng sinh và lánh dời chủng viện tới Pondichéry
[39]. Các nhà
viết sử sau này hay cho rằng việc truyền giáo là mầm mống của một
chương trình xâm chiếm thực dân đặt sẵn cả trăm năm trước, nhưng sự
thật là Đức giám mục Bá Đa Lộc không được sự ủng hộ nồng nhiệt nào
từ chính phủ thuộc địa tại Pondichéry. Toàn quyền David Charpentier
de Cossigny (1740–1801) của Pondichéry không muốn tham dự và dính
líu với một nhóm lưu vong nhà Nguyễn tại nước Xiêm mà theo họ là
không có một cơ hội thành công nào
[40]. Khi phái đoàn sáu người của
Nam triều đặt chân tới cảng Lorient, Pháp, năm Đinh Mùi (1787), Đức
giám mục Bá Đa Lộc nhận được thư đón tiếp lạnh nhạt từ Thống chế
Charles de Castries (1743–1801): “Mong muốn lâu nay của chúng tôi là
ngài không đứng ra lãnh giúp mấy người này cho đến khi có ý định rõ
ràng từ hoàng thượng. Nhưng với sự thể bây giờ, ngài hãy đem họ tới
Paris. Tôi sẽ báo với bề trên của Hội Thừa Sai Paris. Ngài hãy liên
lạc với vị bề trên này để lo những chuyện cần thiết và chỗ tá túc
cho những người này.” [41]
Đến năm Kỷ Dậu (1789), phái đoàn đi sứ
mới về lại Gia Định với hiệp ước bất thành vì lúc này chế độ quân
chủ của Pháp đã bị lật đổ. Tuy vậy Hiệp ước Versaille vẫn là cái cớ
sau này cho chính phủ Pháp áp đặt chế độ thuộc địa trên Việt Nam.
Vai trò và đóng góp thật sự của người Công
giáo Việt, thừa sai, và lính Pháp đánh thuê trong giai đoạn cho việc
trung hưng của nhà Nguyễn là bao nhiêu? Cho tới nay, các sử gia chưa
bao giờ nhắc đến người Công giáo Việt mà chỉ nói về Đức giám mục Bá
Đa Lộc và những sĩ quan Pháp. Mà dù có nhắc đến các thừa sai và vài
trăm quân nhân Pháp, theo lời sử gia Alexander Woodside nhận định,
những người Pháp này cũng không phải là một thực lực đáng kể.
Woodside cho rằng sử sách sau này thổi phồng vai trò của người Pháp
trong thời điểm tái lập nhà chúa Nguyễn ở Gia Định. Và, học giả này
có thể đúng vì nhóm người Công giáo có giúp được gì thì giỏi lắm
cũng chỉ là vài thúng gạo hay hơn nữa là vài ghe gạo
[42]. Số tám
mươi người của năm Quý Mão thì thấm vào đâu so với những đoàn quân
vạn người trở lên. Nhưng với tấm lòng người Việt thì chắc sẽ thấy sự
kiện này với góc này cạnh khác. Ông bà ta thường nói:
“Một miếng khi đói, bằng một gói khi no.”
Hay,
“Của một đồng, công một lượng.”
Có thể vì vậy, mà ngay cả trong thời với
quốc sách diệt sạch cội rễ “Gia Tô tả đạo” trên vương thổ của mình,
nhất là thời cấm đạo của thời Minh Mạng, triều đình Huế cũng cam
lòng chịu, và dù có muốn tẩy đi cái dính dáng bất tiện của quá khứ,
cũng chỉ có thể hạ chỉ cắt bớt công thổ và người lo cho lăng tẩm
này, mà triều Gia Long trước đây đã cấp, chứ không đào mồ đập mả của
Đức giám mục Bá Đa Lộc hay các biểu tượng sỉ nhục trên mộ phần người
quá cố như đã làm trên lăng tẩm của Tả quân Lê Văn Duyệt
(1764–1832).
Chuyện chính sự
Trong thời gian đoàn sứ bộ qua Pháp, tình
hình Nam bộ thay đổi với lợi thế cho Nguyễn vương. Năm Mậu Thân 1788
nhà Thanh kéo quân vô Bắc bộ mượn tiếng cứu nhà Lê, nên khi Nguyễn
Huệ chuyển quân lực về hướng bắc, vùng Gia Định trở nên dễ dàng hơn
cho quân nhà Nguyễn về tái lập Nam triều. Nếu cái mạnh của lực lượng
Tây Sơn là chiến thuật quân sự, thì ưu điểm của triều đình Gia Định
là khả năng tổ chức hành chính
[43]. Điền địa và làng mạc được tổ
chức lại rất nhanh đặc biệt là hệ thống đồn điền. Các ty nha chiêu
dân lưu tán trở về khai hoang lập đồn điền. Ai chiêu mộ được mười
người thì được phong làm cai trại và được miễn lao dịch
[44]. Dân
Công giáo lưu lạc và sinh cơ lập nghiệp tại Vương quốc Xiêm trở
thành tai mắt đối ngoại cho Nguyễn vương. Như năm 1785, Nguyễn vương
sai “thầy cả Minh” dò xét tình hình:
Vậy sai quan tham tướng đệ tờ trình tấu
Nhị vương sự cớ, lại có sai thầy cả Minh tùng sự vào đó, phải đạt
phiến tờ ngõ tường âm tín. Như cơ thường, biến dường nào thì thầy
Minh tựu đó sự cơ hiệp liệu cùng theo. Bằng có ghe, phiền tu [hãy
ngay liền] đưa thầy Minh trở về khải tấu ngõ tường hư thiệt cơ yếu
Xiêm tình [45].
Khi tình thế, Gia Định ổn định và tổ chức hơn, Nguyễn vương vẫn tiếp
tục nhờ dân Công giáo ngoại kiều như một hệ thống ngoại giao bán
chính thức. Trong thư của Nguyễn vương vào năm 1789, khi vương không
nghe tin gì từ phái bộ được gởi qua đem lễ vât tặng vua và phó vương
Xiêm, ông viết nhắn tin:
Vả tháng 8 ta đánh Tây tặc vừa yên, về ở
Sài Gòn, có dạy sứ đem lễ vật vào tạ đức Phật vương cùng Nhị vương,
tuy là bạc lễ, dùng thảo tấm lòng. Như sứ ta đã vào đến nơi mà dưng
lễ ấy, hay là chưa vào đến nơi, cớ sao chẳng thấy tiêu [tin] tức tín
hồi [46].
Tóm
lại sau gần mười bốn năm (1774–1788) lưu vong, tình thế nhà Nguyễn
bắt đầu chuyển hướng thuận lợi dẫn đến khôi phục lại Đàng Trong và
sau đó lập ra triều Nguyễn. Trong mười bốn năm này, nhóm Công giáo
thiểu số dần dần thu hút nhiều chú ý trong chính trường vì những
cộng tác của họ phò theo cựu triều, sống còn với Nguyễn vương ngay
cả khi vị vương lưu vong không có một tương lai sáng sủa gì, và nhóm
Công giáo hiện hữu rõ nét hơn trong các thành phần tướng lãnh cai
đội dưới triều Gia Định.
Chuyện giáo sự
Ngoại yên, nội náo có thể nói là tình hình
chuyển biến bên trong triều đình Gia Định. Nếu trong những năm tháng
lưu vong mà triều Nguyễn gọi là những năm tháng “Gia Long tẩu quốc”
là những ngày chia cơm xẻ ngọt theo kiểu Sử ký thuật lại: “Những
người thuộc về vua và những người thuộc về Đức Thầy, thì là như con
một nhà ở chung với nhau,”
[47] thì bây giờ trở nên lục đục nhiêu
khê. Sử gia Tạ Chí Đại Tường đã phân tích giai đoạn lủng củng nội bộ
trong Lịch sử Nội chiến ở Việt Nam đặc biệt trong chương “Dao động
ý thức hệ ở Gia Định.” [48] Nhiều tác giả đã bàn về các dịp đụng độ
trong các nghi thức tôn giáo lạy bái bàn thờ tổ tiên nhất là vụ Đông
cung Cảnh từ chối bái yết Tông Miếu khi mới từ Tây trở về
[49],
nhưng bài nghiên cứu này xin được đóng góp thêm một góc cạnh khác:
tranh chấp giữa nhóm quan võ và nhóm quan văn trong triều. Chuyện
đụng độ giáo–sự trở nên gay cấn hơn khi nó được xen lồng với tranh
chấp quyền lực bên trong.
Trong thời điểm ban đầu thời Nguyễn trung
hưng, nhóm quan võ có vẻ ở thế thượng phong và nắm giữ nhiều quyền
lực. Trong Liệt truyện có thuật lại hạnh tích một vị quan văn của
Hàn lâm viện, Trần Đại Luật, theo chiều chính trị lúc ấy cùng một số
đồng môn khác xin chuyển ngạch qua bên võ. Nhưng không phải là một
chuyển đổi dễ dàng vì ông bị bên võ chê không cho tham dự bàn chiến
thuật mà cười rằng: “Bọn quan văn chưa nghe tiếng súng [đã] tự són
đái trước, đâu được nói đến việc quân lữ chiến trận.”
[50] Qua lời
trích cuộc đối thoại, chúng ta có thể hình dung ra được không khí
tranh chấp quyền lực giữa hai nhóm văn và võ.
Như phần “chuyện chiến sự” trên đã cho
thấy, trong nhóm võ quan không ít thì nhiều đã có sự hiện diện của
nhóm Công giáo hay những người có nhiều thiện cảm với Công giáo vì
nhờ mười bốn năm đồng lao cộng khổ với nhau. Qua tiểu sử của Trần
Đại Luật, hiềm khích và nghi kỵ càng tăng dần vì nhóm quan văn thấy
nhóm Công giáo và nhất là vị giám mục nắm giữ được Đông cung Cảnh
[51]. Trần Đại Luật đã viết mật tấu xin Nguyễn vương trừ khử Công
giáo để tránh hậu hoạ sau này vì “Đa Lộc mang giáo Thiên Chúa để lừa
ngu dân, không có tình thân cha con, nghĩa lớn vua tôi, lại tự cậy
là bảo hộ Đông cung có chút công lao, sinh lòng kiêu ngạo, không sợ
hãi gì, nay như thế, ngày khác lại như thế nào.”
[52] Nguyễn vương
mật triệu Trần Đại Luật và khen: “Ngươi có lời nói thẳng, trẫm không
phải là không tin, nay đánh Đông dẹp Tây về việc dùng người, rất là
việc cần kẻ dối trá và ngu cũng nên dùng, không nên tỏ cho người
biết là hẹp hòi, tạm hãy để đó.”
[53] Không chỉ dựa trên câu nói này
của Nguyễn vương mà thêm vào các hành động sau này khi ông lên ngôi
hoàng đế, Nguyễn vương thật sự cũng có nhiều dè chừng với Công giáo
[54]. Trong thời binh chiến và cần nhờ ngoại viện, Nguyễn Phước Ánh
không có chính sách bài bác Công giáo. Nhưng cách đối đáp của ông
cho thấy thái độ khôn ngoan chính trị của ông, ông cho họ thấy ông
cũng chia sẻ với hàng quan văn nghi kỵ của mình về tôn giáo này. Câu
chuyện ngắn của Trần Đại Luật trong Liệt truyện tình cờ cũng cho
thấy một bạn quan văn đồng môn với Trần Đại Luật tại Hàn lâm viện là
Trịnh Hoài Đức (1765–1825). Trịnh Hoài Đức là một trong hai quan
được cắt đặt để tách ảnh hưởng của vị giám mục trên Đông cung và dạy
lại Đông cung khi đi sứ Tây mới về
[55]. Trần Đại Luật chết sớm khi
mới bốn mươi mốt tuổi. Ngược lại, Trịnh Hoài Đức sau này thăng quan
thượng thư cả bộ Lại và bộ Lễ. Nhóm quan văn đã kiên nhẫn chờ đợi để
hất cẳng và dẹp bỏ từ từ ảnh hưởng của nhóm võ quan “Vọng Các công thần.” Chuyện giáo–sự trở nên rối rắm hơn vì liên hệ dính dáng
nhiều với chuyện chính–sự và chiến–sự trong hàng ngũ khai quốc công
thần của thời trung hưng của nhà Nguyễn.
Những nhân vật khai quốc công thần theo
Công giáo
Phao–lô Hồ Văn Nghị (?–1810)
Linh mục Phao–lô Hồ Văn Nghị không có tên
trong Liệt truyện dành cho các vị “Vọng Các công thần” mà chỉ
được nhắc đến một lần trong Thực lục
[56]. Theo chính sử nhà
Nguyễn, Linh mục Nghị chỉ là một chấm phá nhỏ trong lịch sử vào dịp
Đức giám mục Bá Đa Lộc đem hoàng tử Cảnh qua Tây năm 1783. Bộ lịch
sử gần đây thì lại cho ông là một thừa sai Pháp mang tên Việt
[57].
May mắn là khi so sánh với Sử ký, ông là rường mối để dò tìm thêm
các nhân vật Công giáo “ẩn” trong chính–trường nhà Nguyễn trung
hưng.
Sử ký
thuật lại chi tiết tình cảnh bi đát của cậu Nguyễn Phước Ánh sau khi
Định vương và đoàn hộ giá bị quân Tây Sơn thảm sát năm 1777. Trong
vòng ba tháng trời, cậu thiếu niên này cùng một người hầu trốn trên
một chiếc ghe lênh đênh từ rừng lau này qua rừng lau kia. Sử ký
tiếp với chuyện gặp Linh mục Hồ Văn Nghị:
Tình cờ gặp thuyền ông Phao–lô là thầy cả
bổn–quốc, cũng đang chạy giặc. Bấy giờ ông Nguyễn–anh tuy chưa quen
biết thầy Phao–lô, song đã biết là thầy đạo, thì xưng mình là người
nọ người kia, và xin thầy Phao–lô cứu. Thầy Phao–lô liền chịu và đem
qua giấu trong thuyền mình và chèo thẳng về Hà–Tiên giao người cho
Đức–Thầy Vê–rô. Khi ấy Đức–Thầy đã sang bên Cao–mên, cho nên thầy cả
Phao–lô vội vàng gởi tin cho người biết sự ấy cho kịp
[58].
Qua đoạn này, Sử ký cho thấy cậu hoàng
trẻ này trước đây đã có dịp gặp Linh mục Hồ Văn Nghị dù không biết
thân thế của ông, do đó khi nhận ra ông Nghị là linh mục cậu cảm
thấy an toàn để xưng danh tánh và nhờ giúp. Một điểm khác cũng nên
chú ý là người đầu tiên cậu hoàng này gặp là Linh mục Nghị chứ chưa
phải là vị giám mục thừa sai vì theo Sử ký vị giám mục còn đang
chạy giặc bên Chân Lạp. Sử ký tiếp:
Vậy qua một tháng, thì chẳng còn lẽ nào mà
giấu trong nhà nữa, nên ông Phao–lô phải đưa ông Nguyễn–anh lên trên
rừng nơi vắng vẻ. Đoạn hoặc ông Phao–lô hoặc thầy giảng kia, tên là
ông Toán, thỉnh thoảng lén bới cho mà ăn thôi. Vậy ông Phao–lô chịu
khó mà liệu cách khôn ngoan thể ấy đặng hai ba tháng, thì có công
với ông Nguyễn–anh cả thể lắm. Vì chưng nếu chẳng có thầy cả ấy thì
ông Nguyễn–anh chẳng khỏi phải bắt
[59].
Sau vài tháng ẩn dấu tại Rạch Giá, quân
trinh thám Tây Sơn dò biết được vùng lẩn trốn của cậu, nhưng vừa kịp
Đức giám mục Bá Đa Lộc trở về và đứng ra che chở cậu Nguyễn Phước
Ánh thay cho Linh mục Hồ Văn Nghị
[60]. Sự kiện này được nhắc lại
bởi Thừa sai Julien Faulet (1741–1783) trong bức thư gởi năm 1780:
“Chính cha Phao–lô đã nuôi và che dấu ông hoàng trẻ trong ghe của
mình. Cha cũng giới thiệu ông hoàng bé này với Đức thầy và đạo thánh
của chúng ta.” [61]
Vai trò quan trọng và là cầu nối đầu tiên
của Linh mục Hồ Văn Nghị trong việc liên hệ giữa giai cấp lãnh đạo
nhà Nguyễn và nhóm thiểu số Công giáo được chính Đức giám mục Bá Đá
Lộc ghi lại. Trong bức thư tự minh oan cho mình trước những lời chỉ
trích từ các thừa sai khác về việc vị giám mục đã nhúng tay quá
nhiều vào chuyện chính trị điạ phương và gây lan tiếng xấu cho cả
miền truyền giáo, vị giám mục nói ông chỉ giữ lịch sự và đáp lễ lại
vua quan nhà Nguyễn mà thôi; theo lời vị giám mục, chính Nguyễn
vương mới là bên chủ động. Cùng trong thư đó, Đức giám mục Bá Đa Lộc
dù không nêu đích danh Linh mục Hồ Văn Nghị như trong thư của Julien
Faulet, nhưng vị giám mục đã xác nhận vai trò quan trọng của một
thừa sai gốc Đàng–trong, “un missionnaire cochinchinois;” người đã
“cứu ông hoàng... và sau được mấy người Công giáo thăm nuôi hơn cả
tháng.” [62] Cái lý thú cần chú ý trong lá thư của Đức giám mục Bá
Đa Lộc khi gọi Linh mục Hồ Văn Nghị với danh hiệu “thừa sai” (un
missionnaire) chứ không dùng cụm từ “linh mục bản xứ” (un prêtre
du pays hay là un prête indigene) mà chúng ta hay gặp trong các
bản báo cáo hay thư từ của các thừa sai ngoại quốc thời đó. Nói cách
khác, chính vị giám mục cũng có một niềm kính trọng đặc biệt với
Linh mục Nghị. Theo cách xưng hô, Đức giám mục Bá Đa Lộc xem vị linh
mục này như một đồng liêu chứ không phải là một phụ tá của mình. Đây
là một điểm khác nhiều với cách nhìn thường thấy của các thừa sai
đến các linh mục bản xứ. Nguyễn Phước Ánh cũng nhận ra vai trò quan
trọng của Linh mục Hồ Văn Nghị và nhóm Công giáo tản mát trong vùng
trải dài từ Nam bộ qua đến Chân Lạp. Nguyễn vương đã nhờ linh mục
này kêu gọi nhóm Công giáo hỗ trợ đứng về phía nhà Nguyễn trong
những năm đầu tập tễnh của Nam triều và khi khí thế của Tây Sơn vẫn
còn đang thế mạnh và đang làm chủ tình hình Đàng Trong cũ
[63].
Sử
ký trong phần tóm tắt tiểu sử Linh mục Hồ Văn Nghị khi ông mất chỉ
sau vài tháng nhưng cùng năm khi Đông cung Cảnh qua đời:
Nguyên ông ấy có công cả thể, và có tiếng
khôn ngoan sốt sắng đạo đức lắm. Người làm chơn tay Đức–Thầy Vê–rô
mọi bề như đã nói trước này. Vua thương tiếc ông ấy lắm. Khi nào
Đức–Thầy Vê–rô có việc gì riêng tâu vua, hoặc người chẳng đi đặng,
thì sai ông Phao–lô tâu thay vì mình. Khi ông ấy qua đời, thì dầu
vua dầu các bổn đạo ai ai đều đem lòng thương tiếc lắm
[64].
Trong lời tóm tắt tiểu sử trên, Sử ký
cho thấy Linh mục Hồ Văn Nghị là đường dây liên lạc quan trọng giữa
nhóm Công giáo từ chức sắc cho đến giáo dân và với lớp lãnh đạo
chung quanh Nguyễn vương. Linh mục Hồ Văn Nghị cũng sẽ là chìa khoá
mở ra các cánh cửa trong sử liệu mà ít ai để ý để nhận diện thêm các
nhân vật Công giáo khác trong giai đoạn nhà Nguyễn trung hưng. Hơn
nữa, qua sử liệu chính sử và các tư liệu của các thừa sai bổ sung và
xác tín các diễn tiến được ghi chép trong Sử ký. Điều này củng cố
hơn tính sử liệu chính xác khá cao của tập dã sử 1879 này. Đây là
nguồn sử liệu mới mà bài viết này dùng làm gốc để so sánh với các sử
liệu thường được dùng lâu nay, và triển khai cho việc truy tầm gốc
tích các nhân vật Công giáo khác trong giai đoạn đầu triều Nguyễn.
Phạm Văn Nhân (1740–1811) và Nguyễn Văn Liêm/Khiêm
(1759–1815)
Trong một câu Thực lục vắn vỏi về đoàn
sứ bộ tháp tùng hoàng tử Cảnh và Đức giám mục Bá Đa Lộc nhưng vì nhờ
nhắc đến Linh mục Hồ Văn Nghị, chúng ta có cơ hội gần như chắc chắn
để xác định hai vị “Vọng Các công thần” khác trong thời gian
“chiến sự” đã theo Công giáo. “Bá Đa Lộc đem hoàng cả Cảnh sang nước
Đại Tây, Phạm Văn Nhân và Nguyễn Văn Liêm cho Hồ Văn Nghị phụng
biểu về hành tại ở Vọng Các báo tin, rồi ở lại hầu vua.”
[65] Sử
sách sau này thường chỉ để ý tới vị giám mục và hoàng tử Cảnh và
thường giả định một chuyến đi thông suốt của đoàn sứ Nam qua Pháp
triều. Như đã viết ở đoạn “Chuyện dài chíến sự” ở trên, đoàn sứ
gặp nhiều trắc trở, nghi ngờ và ngăn chận từ chính các quan chức
thuộc địa tại Pondichéry (Tiểu Tây). Gần hai năm sau vụ “gởi con
và thỏi vàng” của đầu năm 1783 Quý Mão, sau cuộc thua tan tành tại
Rạch Gầm Xoài Mút, rồi đến cuối 1784 phái đoàn mới đến được
Pondichéry. Theo thư của Thống chế de Castries, đầu tháng bảy năm
1785, phái đoàn Nam triều vẫn còn kẹt ở Ấn Độ cho đến chừng giữa năm
1786. Đến tháng hai năm 1787, đoàn sứ bộ mới cập bến Lorient của
Pháp quốc [66]. Những điểm mấu này quan trọng, để mở khóa một lá thư
của Đức giám mục Bá Đa Lộc ghi ngày 20 tháng 3 năm 1785
[67].
Nhưng trước khi mở khóa lá thư này, chúng
ta cần có một cái nhìn bao quát hoàn cảnh dẫn đến bức thư đặc biệt
này. Khi đoàn sứ Nam triều đến được Pondichéry, bên cạnh gần hơn kém
ba mươi chủng sinh, một đoàn tùy tùng hộ tống hoàng tử Cảnh và sự
hướng dẫn của Đức giám mục Bá Đa Lộc, Linh mục Hồ Văn Nghị, và Linh
mục Trần Văn Học. Bên quan lại thì có Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn
Liêm, và cậu của hoàng tử là Tống Phước Sóc và vài gia nhân tùy tùng
[68]. Nhưng vì không được ủng hộ đắc lực của toàn quyền Pháp tại
Pondichéry nhất là chi phí cho chuyến đi Pháp này, nên đoàn tháp
tùng ban đầu phải cắt xuống và nhiều người trong đó có cả hai vị
quan, Linh mục Nghị và Linh mục Học
[69]. Theo Sử ký trước khi
phái đoàn “hụt” này quay về lại với Nguyễn vương, họ đã được Đức
giám mục Bá Đa Lộc dạy về đạo và nhận phép rửa tội:
Đầu năm 1786, là Cảnh Hưng tứ thập ngũ
niên, cùng là năm Bính Ngọ, thì người dọn mình đi sang Tây làm cùng
con đầu lòng vua An–nam. Khi ấy Đông cung mới sáu bảy tuổi. Vua cũng
cho bốn người An Nam khác theo giúp con, mà trong bốn người An Nam
ấy thì có em bà Hoàng hậu, tên là Sóc. Lại có hai quan lớn vua sai
làm thầy dạy con. Bấy giờ người ấy chưa có đạo; nhưng mà bỡi đã sẵn
lòng trở lại, thì Đức Thầy Vê–rô làm phép rửa tội cho, cùng ra sức
dạy dỗ cho thuộc kinh mà sinh nên lòng mộ sự đạo
[70].
Nhưng lời văn của Sử ký không rõ, “bấy
giờ người ấy chưa có đạo; nhưng mà bỡi đã sẵn lòng trở lại, thì Đức
Thầy Vê–rô làm phép rửa tội cho,” theo đây thì có thể chỉ có Tống
Phước Sóc nhập đạo Công giáo mà thôi. Rồi khi đoàn sứ bộ về lại Gia
Định năm 1789, Sử ký đề cập vài lần chuyện Đông cung mộ đạo, nhưng
“Đức Thầy biết ý vua và các quan chẳng muốn cho Đông cung theo đạo,
thì chẳng dám dạy dỗ lẽ đạo.”
[71] Vì bị canh chừng dòm ngó, Đông
cung Cảnh “xin Đức–thầy dạy cho biết cách rửa tội, để sau hoặc mình
phải ốm đau mà chẳng có ai có đạo cho rửa tội cho, thì mình đặng bày
cho kẻ khác biết đàng làm phép ấy cho mình”
[72]. Vậy theo Sử ký,
năm 1786, chúng ta chỉ có thể chắc hai chuyện: Tống Phước Sóc đã
được rửa tội, và hoàng tử Cảnh thì không. Nhưng đây là chìa khoá của
bức thư do Đức giám mục Bá Đa Lộc viết ngày 20 tháng ba năm 1785,
giám mục ghi: “Tôi đã đến Pondichéry vào cuối tháng hai của 1784...
Hai vị quan và sáu binh sĩ hộ tống đứa trẻ đã được dạy kỹ lưỡng và
họ sẽ được rửa tội vào đêm vọng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.”
[73]
Vậy chúng ta có thể chắc là mọi người trong đoàn sứ bộ Nam triều đã
gia nhập Công giáo, ngoại trừ hoàng tử Cảnh. Chuyện hoàng tử Cảnh
không có rửa tội trong dịp đó cũng hợp lý và hợp giáo luật. Theo
giáo luật, vì cậu ta còn nhỏ tuổi, thì cậu chỉ được rửa tội khi có
sự đồng ý của cha mẹ hay chỉ trong trường hợp nguy cập đến tính
mạng.
Ngoài đôi
lời vắn tắt từ Sử ký, chúng ta không biết gì hơn về Tống Phước
Sóc. Nhưng Phạm Văn Nhân và Nguyễn Văn Liêm tiếp tục nắm giữ chức vụ
quan trọng sau khi Gia Long xưng đế và lập ra triều Nguyễn. Cho đến
năm 1914, bài vị của Phạm Văn Nhân vẫn còn thấy được thờ trong Thế
Miếu cùng với mười bảy vị mà triều Nguyễn tôn kính vào bậc khai quốc
công thần [74]. Liệt truyện thì còn cho biết thêm là cả hai vị
quan này được làm thông gia với Nguyễn Phước Ánh. Cả hai vị quan
này, mỗi người đều có con trai làm phò mã của Gia Long
[75]. Chúng
ta không biết được đời sống nội tâm và giữ đạo giáo của các gia đình
này trong thời cấm đạo như thế nào vì giáo sử chỉ nói về các vị chịu
tử đạo. Có thể vì thuộc thế giá hoàng tộc của nhà Nguyễn, gia đình
con cháu họ đã âm thầm giữ đạo và tránh được các hạch sách truy nã
mà các thường dân khác phải gánh chịu.
Tống Phước Đạm (?–1794)
Việc cải đạo qua Công giáo của Phạm Văn
Nhân và Nguyễn Văn Liêm không gây nhiều chú ý và xáo động lớn trong
triều Gia–định như trường hợp của Tống Phước Đạm. Sử ký không nói
gì nhiều hay ngay cả nhắc đến Phạm Văn Nhân hay Nguyễn Văn Liêm,
nhưng có nhiều mẩu chuyện của một vị quan lớn, “Ông Giám,” xưa kia
“thuở đầu thì ghét đạo, mà bởi đã nói lẽ đạo với Đức–Thầy nhiều lần,
thì quyết trở lại chịu đạo.”
[76] Sử ký đôi khi lại nhắc đến một
vị khác “Ông Dinh trung.” Nhưng rất có thể hai chức danh này đều
về một người vì Sử ký nhiều lúc đề cập đến cùng những sự kiện khá
tương tự trùng hợp nhưng lúc nói về “Ông Giám”
[77] lúc gọi là
“Ông Dinh trung.” Bên cạnh Sử ký, thơ của vị Thừa sai Jacques
Liot (1751–1811) viết vào tháng sáu 1795 cũng nhắc đến chuyện một vị
quan mới mất cùng tên là “Ông Giám.”
[77] Theo Liệt truyện, khi
Nguyễn vương tái lập lại Nam triều Gia Định năm 1788, vương đã phong
cho Tống Phước Đạm chức “Cai đội Giám quân Trung doanh.”
[78] Và,
Liệt truyện cũng cho biết là Tống Phước Đạm mất vào năm 1794 Giáp
Dần [79]. Năm này trùng với thông tin trong thư của Thừa sai Liot
viết về cái chết của “Ông Giám” vào hè năm sau đó. Thêm nữa, trong
dịp kéo quân ra đánh Phú Xuân, Thực lục ghi Nguyễn vương đã “sai
Đông cung nguyên soái Cảnh quận công trấn thành Diên Khánh, cho Bá
Đa Lộc và bọn thị học đi theo. Khiến Phó tướng Tả quân Phạm Văn
Nhân, Giám quân Trung dinh Tống Phước Đạm... cùng các tướng sĩ đi
theo để điều bát.” [80] Do đó, chúng ta có thể đưa đến xác định là
chức danh “Ông Giám” hay “Ông Dinh–trung” của Sử ký đều là một
người: Giám quân Trung doanh Tống Phước Đạm.
Tống Phước Đạm theo Công giáo vào những
năm cuối đời của ông ta và với vị trí cao trong tân triều, hành động
của ông đã tạo ra nhiều phản ứng mạnh hơn cả việc hoàng tử Cảnh từ
chối bái lạy bàn thờ tổ tiên khi mới đi sứ tây về. Tống Phước Đạm đã
tham gia triều chánh từ thời Nguyễn Phước Khoát (1714–1765) và
Nguyễn Phước Thuần (1754–1777)
[81]. Khi nhà Nguyễn bị kẹt trong thế
gọng kìm tấn công của nhà Trịnh từ bắc xuống và của Tây Sơn từ nam
lên, chúa Nguyễn đã phải bỏ Phú Xuân vào nam. Trong tình hình nguy
cập, Nguyễn Phước Thuần đã cấp cho Tống Phước Đạm lên chức Trung
dinh Giám quân, chức mà sau này Nguyễn Phước Ánh đã phong lại cho
ông khi nắm lại được đất Gia Định
[82].
Để thấy thêm vài trò quan trọng của Tống
Phước Đạm trong tổ chức triều chánh, chúng ta có thể nhìn tổ chức
hành chánh ban đầu của triều Gia Định. Khi mới thành lập, đất Gia
Định được chia làm ba dinh: Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ. Nhưng
vì thấy yếu điểm quan trọng cho cả ba dinh đó, Nguyễn vương lập ra
một dinh mới, Trường Đồn mà sau đổi tên một lần nữa thành dinh Trấn
Định. Và, không ai khác mà chính Tống Phước Đạm được cử ra trấn giữ
dinh này để cai quản mọi công việc từ binh cho đến dân
[83]. Chúng
ta cũng có thể thấy được vị thế của ông dựa theo chức tước triều
đình đã truy tặng cho ông khi mất. Minh–mạng sắc phong ông tước “Tá
vận Công thần, Vinh lộc Đại phu, Hiệp biện Đại học sĩ, Thiếu sư,
kiêm Thái tử Thái sư.” [84] Chỉ trong bốn chữ cuối của tước này,
ông ta được nằm trong hàng nhất phẩm trong cửu phẩm. Và, còn hơn thế
nữa, trong hàng nhất phẩm, lại chia ra mười đẳng cấp: Thái sư,
Thiếu sư, Thái phó, Thiếu phó, Thái bảo, Thiếu bảo, Cần chánh điện
đại học sĩ, Văn minh điện đại học sĩ, Võ hiền đại học sĩ, và Đông
các đại học sĩ [85]. Vậy theo trong mười đẳng cấp trong hàng nhất
phẩm, ông được truy tặng cả hai cái cao nhất là “Thiếu sư” và
“Thái tử Thái sư.” Có thể vì chức vụ cao này, Sử ký hay nói về
chuyện của ông ta hơn là nhắc tới Phạm Văn Nhân hay Nguyễn Văn Liêm
vì có thể vị trí quyền hành ông chỉ sau Nguyễn vương và Đông cung.
Nhưng từ khi gia nhập đạo Công giáo, Tống
Phước Đạm đã quá hăng hái tuyên xưng và biểu lộ thái độ chống lại
các lễ nghi mà ông cho rằng đạo mới của ông đã không cho phép. Sử
ký thuật lại chuyện ông từ chối lạy bàn thờ tổ tiên của nhà Nguyễn
và đôi co với Nguyễn vương. Trong cuộc tranh cãi này, Nguyễn vương
ngạc nhiên vì vị lão tướng này lại không làm các lễ nghi mà chính
Đức giám mục Bá Đa Lộc đã du di cho phép. Tống Phước Đạm cãi lại:
“‘Giám mục nói chẳng có tội sao được?’ Vua rằng: ‘Trẫm hỏi lại Thầy
Giám mục.’” Khi thấy cuộc tranh co không đi đến đâu, Nguyễn vương
phán: “‘Thằng này là nghịch thần.’ Đoạn thì vua nói qua đều khác.”
[86] Tống Phước Đạm mất không lâu sau đó và trước khi Nguyễn vương
lấy lại Phú Xuân. Không như Phạm Văn Nhân hay Nguyễn Văn Liêm có con
trai làm phò mã, ông Phước Đạm không có con nối dòng. Theo Liệt
truyện, vị lão tướng này có “tật ngầm,” thứ nhất là “tính sợ súng”
và thứ hai là “không gần đàn bà.”
[87]
Nhưng nhìn chung qua việc nhiều võ tướng
“Vọng Các công thần” theo Công giáo, chúng ta có thể hình dung một
làn sóng ngầm từ từ hợp lực để tẩy trừ nhóm thiểu số tôn giáo này
ngay trong nội bộ của triều Gia Định. Theo nhãn quan tích cực thì
biện luận chặt chẽ và hợp lý của giáo lý thần học của Công giáo đã
khiến nhiều người tin theo; tiêu cực mà nhìn thì đây là cạnh tranh
nguy hiểm với chính sách của nhà cầm quyền vì khả năng mê hoặc của
tôn giáo này không chỉ trong dân ngu muội mà ngay cả thành phần cột
trụ của triều đình. Nhóm Công giáo thiểu số của “chuyện thời
chiến–sự” trở thành một liên hệ quá khứ bất tiện cho triều mới của
Nguyễn trung hưng.
Khó có thể biết được chính xác con số và
những ai trong triều đình Gia Định và sau đó là triều đình Huế là
dân theo đạo Công giáo vì chính sách tẩy xóa “Gia Tô tả đạo” của các
đời sau vua Gia Long. Để tránh sự phiền phức nhiều người khôn khéo
dấu kín được lý lịch đức tin của mình. Điển hình trong số các vị
được phong tử đạo có những vị làm trong triều lâu năm sau mới bị
“lộ” như vụ Đội trưởng Cấm vệ Phao–lô Tống Viết Bường (1773?–1833)
hay quan Thái bộc Tự khanh Micae Hồ Đình Hy (1808–1857). Trong
nhóm hoàng thân quốc thích, chắc cũng có vài người ẩn danh như bài
nghiên cứu này đã tìm ra người cậu của Gia Long là Tống Phước Sóc.
Các vị công chúa và là con dâu của Phạm Văn Nhân và Nguyễn Văn Liêm
có theo Công giáo hay không? Khó có thể xác tín, nhưng theo phép đạo
thời ấy khá khắt khe, hôn nhân Công giáo chỉ được phép khi cả cô dâu
chú rể đều đã chịu rửa tội. Nhưng trong một bức thư của vị thánh
Thừa sai François Jaccard “Phan” (Ninh) (1799–1838) kể dịp mừng thọ
bốn mươi của Minh Mạng trong địa hạt thần kinh có cho thấy khả thể
các vị vương tôn công chúa đã theo và giữ đạo. Vị thừa sai lúc này
đang được triều đình bổ làm quan thất phẩm thông dịch ở Hành nhân
ty, nhân dịp này đã có tổ chức một buổi lễ công khai cầu nguyện cho
hoàng đế. Trong thư, vị thừa sai khoe với bề trên “nhiều vị quan văn
võ, ngay cả một người cháu trai và người chị của vua, đều trầm trồ
nghi thức uy nghiêm và trang trọng của buổi lễ với số đông người
tham dự chưa từng thấy bao giờ.”
[88] Không thể nói được cách chắc
chắn đây là những người đến xem chỉ vì tò mò, hay là đã tham dự
trong vai trò tín hữu. Nhưng chúng có thể nói là cho đến thời đầu
nhà Nguyễn, nhóm Công giáo chỉ là một “thiểu số ẩn” (invisible minority) trong dân chúng. “Ẩn” là vì trước đây họ chưa đạt tới
được số đông đáng kể để thu hút sự chú ý của giai cấp cầm quyền.
Ngăn cấm cũng đã xảy ra nhưng chỉ là những đợt bách hại và rồi lại
cho tự do hành đạo. Nhưng, từ thời “chiến sự” của những năm tháng
“Gia Long tẩu quốc,” người Công giáo “thiểu số ẩn” trở thành “thiểu
số nổi” (a visible minority). “Nổi” là vì vài người trong nhóm họ
trở thành hay vào được trong nội bộ của giới thống trị như tầng lớp
quan lại và ngay cả vài thành viên trong hoàng phái. Và, đây là hiện
tượng xã hội (a social phenomenon) hay thường xảy ra trong lịch sử
nhân loại, số phận của những nhóm “thiểu số nổi” dễ trở thành tâm
điểm của kỳ thị và phân biệt đối xử từ giới cầm quyền và là nạn nhân
của sách nhiễu bạo động từ những đợt quần chúng tự phát khi tình thế
xã hội bất ổn. Bách hại trở thành chính sách vì nhóm Công giáo đã
trở nên thế lực nổi cộm theo nhãn quan chính trị.
Kết Luận
Chúng ta có những nguồn tài liệu chính sử
rất phong phú từ cuối thời Đàng Trong–Đàng Ngoài tới nay. Đây là
những kho tàng vô giá được biên tu soạn thảo bởi các sử gia được đào
tạo trong các môi trường giáo dục chính thống. Bên giáo sử, truyền
thống đạo đức viết về hạnh các đấng tử đạo thường để ý tới các gương
mà Phúc Âm gọi là những ngọn đèn cháy sáng đáng được “đặt để trên
giá đèn.” Nhưng bài nghiên cứu này cũng mong đóng góp nhỏ để chúng
ta nếm được chút ý vị của những người âm thầm nhẫn nhục sống đức tin
như “men trong đấu bột” dù họ không nằm trong danh sách hiển
thánh. Đó là Linh mục bản xứ Phao–lô Hồ Văn Nghị hay Linh mục Trần
Văn Học, các vị võ quan như Tống Phước Đạm, Phạm Văn Nhân, hay
Nguyễn Văn Liêm, hay những người hoàng thân quốc thích như Tống
Phước Sóc. Nhưng chúng ta cũng thấy, có nhiều sự kiện vẫn cần được
rà soát lại và bổ sung thêm từ các tài liệu trong và ngoài nước.
Nguồn dã sử như, Sử ký Đại nam Việt quấc triều, như bài nghiên
cứu này khai thác, kiểm chứng, và dẫn chứng giúp chúng ta thấy được
những góc cạnh sống động hơn mà chính sử không để ý đến. Chắc còn
nhiều tài liệu gia phả, thông sử và dã sử khác còn được trân giữ
trong các gia đình Công giáo Huế nay rải rác xa gần trong và ngoài
nước, đang chờ đợi được thu tập và hệ thống hoá hơn qua phương tiện
số hóa và vi tính hiện nay, và rồi mong đợi thêm những nghiên cứu
góc nhìn mới từ giới học giả. Đối với tang lễ của Đức giám mục Bá Đa
Lộc có cả một trăm hai chục thước voi trong đoàn rước, bài nghiên
cứu này chỉ xin được góp một phần nhỏ như trong chuyện sĩ tử xem
voi.
Ngô Anh Lân, S.J.
Phụ Lục
Thứ tự niên đại và sự kiện
● Giáp Ngọ (1774): Phú Xuân thất thủ
● Đinh Dậu (1777): Tây Sơn chiếm Gia Định lần một
● Mậu Tuất (1778): Chúa Nguyễn giành lại Gia Định
● Canh Tý (1780): Nguyễn Phước Ánh xưng Vương
● Nhâm Dần (1782): Tây Sơn chiếm Gia Định
lần hai
● Quý Mão (1783): Tây Sơn chiếm Gia
Định lần ba
● Giáp Thìn (1784): Nguyễn
Vương cầu viện Xiêm
● Ất Tỵ (1785): Sứ bộ
rời Pondichéry, Ấn Độ
● Đinh Mùi (1787): Sứ
bộ đến Pháp
● Mậu Thân (1788): Nguyễn Vương
tái lập Nam triều
● Kỷ Dậu (1789): Sứ bộ từ
Pháp về lại Gia Định
● Tân Hợi (1791):
Hoàng tử Đảm (Minh Mạng) ra đời
● Giáp Dần
(1794): Tống Phước Đảm qua đời
● Kỷ Tỵ
(1799): Đức giám mục Bá Đa Lộc qua đời
●
Nhâm Tuất (1802): Năm thứ nhất Gia Long
Thừa sai được nhắc đến trong bài
● Lm. Julien Faulet (1741–1783)
● Lm. Jacques Liot (1751–1811)
● Gm. Joseph
Pierre Pigneau[x] de Béhaine (Bá Đa Lộc)(1741–1799)
Người Việt Công giáo có liên hệ với đầu
triều Nguyễn
●
Lm. Phao–lô Hồ Văn Nghị (? – 1810)
● Nguyễn
Văn Liêm/Khiêm (1759–1815)
● Phạm Văn
Nhơn/Nhân (1740–1811)
● Tống Phước Đạm (? –
1794)
● Tống Phước Sóc(? – ?)
● Lm. Trần Văn Học (? – 1821)
Tên địa dư nước ngoài
● Chân Lạp – (Cao Mên)/Campuchia
● Đại Tây – Pháp quốc
● Tiểu Tây –
Pondichéry, Ấn Độ
● Vọng Các – Bangkok
● Xiêm – Thái Lan
Thư Mục
Adrien Launay, Histoire générale de la
Société des Missions–Étrangères, Tome 2, Téqui, Paris, 1894.
Alexander Barton Woodside, Vietnam and the
Chinese Model, Harvard University Press, Cambrige, Mass., 1971.
Cao Thế Dung, Việt nam Công giáo sử Tân
biên, Quyển II, Thời Phát triển và Bách đạo, Cơ sở Truyền thông Dân
Chúa, Gretna, 2002.
Catherine Marin, Le Role des Missionnaires
Francais en Cochinchine aux XVII et XVIII Siècles, Églises D’Asie,
Paris, 1999.
François Jaccard, “Lettre de M. Jaccard, miss. en Cochinchine, à M.
Langlois, supérieur du séminaire des Missions étrangères,” Annales
de l’Association de la propagation de la foi 5 (1831): 404–407.
L’Institute de recherche France–Asie.
“Pierre Joseph Pigneaux de Béhaine,” tiếp cận ngày 5 tháng 10 năm
2020,
https://www.irfa.paris/fr/fiches-individuelles/pigneaux-de-ba-c-haine.
Jacques Liot, “Lettre de Mons. Liot,
Missionionaire Apostolique de Cochinchine à MM. Boiret et
Descourvieres”, Lettres édifiantes et curieuses, J. P. Cochlan,
Londres, 1797.
Jean Felix Onésime Luquet, Lettres a Mgr l’Évêque de Langres sur la
Congrégation des Missions Étrangères, Gaume Frères, Paris, 1842.
Keith W. Taylor, A History of the
Vietnamese, Cambridge University Press, Cambridge, 2013.
L. Sogny, “Les associes de gauche et de
droite au culte du The Miêu,” Bulletin des amis du vieux Huế 1,
no.2 (Avril–Juin 1914): 121–144.
Léopold Miche Cardière, “Les Français au
service de Gia–Long: Nguyễn Ánh et la mission, documents inédits,”
Bulletin des amis du vieux Huế 13, no.1 (Jan.–Mar. 1926): 1–50.
Louis–Eugène Louvet, Mgr. D’Adran:
Missionnaire et Patriote, Librairie Delhomme & Briguet, Paris, 1900.
Nguyễn Quang Hưng, Công giáo Việt Nam thời
kỳ triều Nguyễn (1802–1883), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2007.
Pierre Pigneau[x] de Béhaine, “Extrait
d’une letter de monseigneur l’évêque d’Adran, vicaire apostolique de
Cochinchine, aux directeurs du séminaire des Missions Étrangères,
écrite de Pondichéry, le 20 mars 1785,” Lettres édifiantes et
curieuses concernant l’Asie, l’Afrique et l’Amérique, avec quelques
relations Nouvelles des missions, et des notes géographiques et
historiques, vol. 4. Sociéte du Panthéon Littéraire, Paris, 1843.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Liệt
truyện. 4 tập, Nxb. Thuận Hoá, Viện Sử học Việt Nam, Huế, 2006.
_______, Đại Nam Thực lục, 10 tập, Nxb.
Giáo dục, Viện Sử học, Hà Nội, 2006.
Stanilas Lefebvre, “Lettre III.” Bulletin
des amis du vieux Huế 13, no. 4 (Oct. – Déc. 1926): 366–368.
_______. “Lettre IV.” Bulletin des amis du vieux Huế 13, no. 4 (Oct.–Déc. 1926): 368–369.
Sử ký Đại Nam Việt Quấc triều [SKĐNVQT],
in lần thứ hai, Tân Định, Sài Gòn, 1885.
Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử Nội chiến ở
Việt Nam từ 1771 đến 1802, Việt Hương, Sài Gòn, 1973.
Trần Mỹ Vân, A Vietnamese Royal Exile in
Japan: Prince Cường Để (1882–1951), Routledge, New York, 2005.
Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. 2
volumes, Cơ sở xb. Đại Nam, Sài Gòn, 1971.
Trương Bá Cần, Lịch sử phát triển Công
giáo ở Việt Nam, Tập 1, Nxb.Tôn giáo, Hà Nội, 2008.
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt nam,
Lịch sử Việt Nam. Tập 4, từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, chủ biên
Trần Thị Vinh, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2017.
Tác giả chú thích:
[1] Tác
giả, Linh mục Giáo sư Ngô Anh Lân, SJ hiện đang giảng dậy trong khoa
Á Châu học tại trường Đại Học Loyola–Marymount (Los Angeles). Tác
giả tốt nghiệp tiến sĩ ngành sử học năm 2016 tại Đại Học Georgetown
với luận án tiến sĩ Nguyễn–Catholic History (1770s–1890s) and the
Gestation of Vietnamese Catholic National Identity.
[2] Tác giả xin chân thành cám ơn ông
Nguyễn Tiến Đạt và Linh mục Giáo sư Trần Quốc Anh đã hiệu đính các
lỗi chính tả và giúp cho câu cú bớt tối nghĩa hơn. Tác giả cũng cám
ơn ông Nguyễn Phước Vĩnh Hượt và ông Ngô Anh Tuấn đã giúp đỡ cung
cấp và hướng dẫn các tài liệu về hoàng tộc. Bài nghiên cứu này là
phóng tác lại từ một chương của luận án tiến sĩ sử học của tác giả,
dưới sự hướng dẫn và góp ý của các giáo sư và ban giám khảo của Đại
học Georgetown: Giáo sư Carol Benedict, Giáo sư Sandra
Horvath–Peterson, Giáo sư James Millward, Linh mục Giáo sư Phêrô
Phan Đình Cho, và Giáo sư Trần Tuyết–Nhung của Đại học Toronto,
Canada.
[3]
Sử
ký Đại Nam Việt Quấc triều (từ đây trở đi ghi là Sử ký), in lần
hai (Sài Gòn: Tân Định, 1885), 117.
[4] “Pierre Joseph Pigneaux de Béhaine,”
L’Institut de recherche France–Asie, tiếp cận ngày 5 tháng 10 năm
2020,
https://www.irfa.paris/fr/fiches-individuelles/pigneaux-de-ba-c-haine.
[5] Sử ký Đại Nam Việt Quấc triều (từ
đây trở đi ghi là Sử ký), in lần hai, Tân Định, Sài Gòn, 1885, tr.
116–117.
[6] Quốc
sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực lục chính biên (từ đây trở đi
ghi là Thực lục), quyển 2, tập I, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2006, tr.
218.
[7] Thực lục, quyển 2, tập I, Sđd, tr. 218; Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại
nam Liệt truyện, (từ đây trở đi ghi là Liệt truyện) quyển 2, tập
II, Nxb. Thuận hoá, Huế, 2006, tr. 36.
[8] Liệt truyện, quyển 1, tập II, Sđd,
tr. 42.
[9]
Lam
Giang và Võ Ngọc Nhã, Đặng Đức Tuấn: Tinh hoa Công giáo Ái quốc Việt
Nam, Tân văn Ấn quán, Sài gòn, 1970, tr. 52.
[10] Pierre Pigneau[x] de Béhaine,
“Extrait d’une letter de monseigneur l’évêque d’Adran, vicaire
apostolique de Cochinchine, aux directeurs du séminaire des Missions
Étrangères, écrite de Pondichéry, le 20 mars 1785,” Lettres édifiantes et curieuses concernant l’Asie, l’Afrique et l’Amérique,
avec quelques relations Nouvelles des missions, et des notes
géographiques et historiques, vol. 4, Sociéte du Panthéon
Littéraire, Paris, 1843, tr. 617–624.
[11] Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược,
vol. 2, Cơ sở xb. Đại Nam, Sài Gòn, 1971, tr. 109–110.
[12] Nguyễn Quang Hưng, Công giáo Việt Nam
thời kỳ triều Nguyễn (1802–1883), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2007, tr.
66.
[13] Tạ Chí
Đại Trường, Lịch sử Nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802, Việt
hương, Sài Gòn, 1973, tr. 91; Trương Bá Cần, Lịch sử Phát triển Công
giáo ở Việt nam, tập I, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2008, tr. 291–292.
[14] Cao Thế Dung, Việt nam Công giáo Sử
Tân biên (1553–2000), quyển II, Thời Phát triển và Bách đạo, Cơ sở
Truyền thông Dân Chúa, Gretna, 2002, tr. 1043–1044.
[15] Trần Mỹ Vân, A Vietnamese Royal Exile
in Japan: Prince Cường Để (1882–1951), Routledge, New York, 2005,
tr. 12–16.
[16]
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt nam, Lịch sử Việt nam, tập 4, từ
thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, chủ biên Trần Thị Vinh, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2017, tr. 450; Keith Taylor, A History of the
Vietnamese, Cambridge University Press, Cambridge, 2013, tr. 370.
[17] Trương Bá Cần, Lịch sử Phát triển
Công giáo ở Việt Nam, tập I, Sđd, tr. 291.
[18] Sử ký, Sđd.
[19] Sử ký, Sđd, tr. 29; Thực lục,
quyển 2, tập I, Sđd, tr. 228.
[20] Léopold Michel Cardière, “Les
Français au service de Gia–Long: Nguyễn Ánh et la mission, documents
inédits,” Bulletin des amis du vieux Huế 13, no.1 (Jan.–Mar.
1926), tr. 1–50.
[21] L. Sogny, “Les associes de gauche et de droite au culte du The
Miêu,” Bulletin des amis du vieux Huế 1, no.2 (Avril–Juin 1914),
tr. 121–144.
[22]
Thực lục, quyển 11, tập I, Sđd, tr. 181.
[23] Thực lục, quyển 12, tập I, Sđd, tr.
191; Thực lục, quyển 2, tập I, Sđd, tr. 204–205.
[24] Sử ký, Sđd, tr. 19.
[25] Liệt truyện. quyển 12, tập II, Sđd,
tr. 311; Alexander B. Woodside, Vietnam and the Chinese Model,
Harvard University Press, 1971, Cambridge, Mass., 219.
[26] Sử ký, Sđd, tr.21, 33–34; Trương Bá
Cần, Lịch sử Phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập I, Sđd, tr. 314;
Stanilas Lefebvre, “Lettre III,” BAVH, vol. 13 (1926), tr. 366;
Stanilas Lefebvre, “Lettre IV,” BAVH, vol. 13 (1926), tr. 368.
[27] Thực lục, quyển 1, tập I, Sđd, tr.
211–212.
[28]
Sử
ký, Sđd, tr., 24; Trương Bá Cần, Lịch sử Phát triển Công giáo ở
Việt Nam, tập I, Sđd, tr. 315.
[29] Adrien Launay, Histoire générale de
la Société des Missions–Étrangères, tome 2, Téqui, Libraire–Editeur,
Paris, 1894, tr. 137–139.
[30] Sử ký, Sđd, tr. 37; Liệt truyện,
quyển 28, tập II, Sđd, tr. 311.
[31] Sử ký, Sđd, tr., 37–38; Thực lục,
quyển 1, tập I, Sđd, tr. 213; Liệt truyện, quyển 28, tập II, Sđd,
tr. 311.
[32]
Thực lục, quyển 2, tập I, Sđd, tr.217.
[33] Thực lục, quyển 2, tập I, Sđd, tr.
216–218; Pierre Pigneau[x] de Béhaine, LEC, vol. 4 (1843), tr.
617.
[34]
Sử
ký, Sđd, tr. 39.
[35] Sử ký, Sđd, tr. 41–42.
[36] Pierre Pigneau[x] de Béhaine,
LEC,
vol. 4 (1843), tr. 621.
[37] Thực lục, quyển 2, tập I, Sđd, tr.
221–223; L. Cadière, “Les français au service de Gia–Long: Nguyễn
Ánh et la mission, documents inédits,” BAVH, vol. 13, no. 1
(1926), tr. 20, plate V; Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử Nội chiến ở Việt
Nam từ 1771 đến 1802, Sđd, tr. 367–368.
[38] Thực lục, quyển 2, tập I, Sđd, tr.
223.
[39]
Sử
ký, Sđd, tr.40; Trương Bá Cần, Lịch sử Phát triển Công giáo ở Việt
Nam, tập I, Sđd, tr. 328.
[40] Louis–Eugène Louvet, Monseigneur
d’Adran: Missionnaire et patriote (Paris: Librairie Delhomme &
Briguet, 1900), tr. 117–118.
[41] Adrien Launay, Histoire générale de
la Sociéte des Missions–Étrangères, tập II, Sđd, tr. 236.
[42] Alexander Woodside, Vietnam and the
Chinese Model, Harvard University Press, Cambridge, Mass.,1971, tr.
17.
[43] Keith
Taylor, A History of the Vietnamese, Sđd, tr. 380.
[44] Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt
nam, Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, tập 4, cb.
Trần Thị Vinh, Sđd, tr. 456–467.
[45] L. Cadière, “Les français au service
de Gia–Long: Nguyễn Ánh et la mission, documents inédits,” BAVH,
vol. 13, no. 1 (1926), 21, plate V; Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử Nội
chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802, Sđd, tr.368.
[46] L. Cadière, “Les français au service
de Gia–Long: Nguyễn Ánh et la mission, documents inédits,” plate
XXIV–XXVI, Sđd, tr. 48; Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử Nội chiến ở Việt
Nam từ 1771 đến 1802, Sđd, tr.381.
[47] Sử ký, Sđd, tr. 39.
[48] Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử Nội chiến
ở Việt Nam từ 1771 đến 1802, Sđd, tr. 288–307.
[49] Thực lục, quyển 196, tập V, Sđd,
tr. 401–402.
[50]
Liệt truyện quyển 16, tập II, Sđd, tr. 328.
[51] Sử ký, Sđd, tr., 88.
[52] Liệt truyện, quyển 16, tập II, Sđd,
tr. 329.
[53]
Liệt truyện quyển 16, tập II, Sđd, tr. 329.
[54] Sử ký, Sđd, tr. 94–95, 140–141.
[55] Liệt truyện, quyển 2, tập II, Sđd,
tr. 58.
[56]
Thực lục quyển 2, tập I, Sđd, tr. 226.
[57] Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt
nam, Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, tập 4, cb.
Trần Thị Vinh, Sđd, tr. 451.
[58] Sử ký, Sđd, tr. 17–18.
[59] Sử ký, Sđd, tr. 17–18.
[60] Sử ký, Sđd, tr. 17–18.
[61] Catherin Marin, Le Role des
Missionnaires Francais en Cochinchine aux XVII et XVIII siècles,
Églises d’Asie, Paris, 1999, tr. 131.
[62] Catherin Marin, Le Role des
Missionnaires Français en Cochinchine aux XVII et XVIII siècles,
Sđd, tr. 132.
[63] Trương Bá Cần, Lịch sử Phát triển Công giáo ở Việt nam, tập I,
Sđd, tr.316.
[64]
Sử ký, in lần hai (Sài Gòn: Tân Định, 1885), 135–136.
[65] Thực lục quyển 2, tập I, Sđd, tr.
218, 226; Trương Bá Cần, Lịch sử Phát triển Công giáo ở Việt nam,
tập I, Sđd, tr. 330; Jean Felix Onésime Luquet, Lettres a Mgr
l’Évêque de Langres, sur la Congrégation des Missions Étrangères,
Gaume Frères, Paris, 1842, tr. 358–384.
[66] Adrien Launay, Histoire générale de
la Sociéte des Missions–Étrangères, tập II, Sđd, tr.236.
[67] Pierre Pigneau[x] de Béhaine,
LEC,
vol. 4 (1843), tr. 623.
[68] Sử ký, Sđd, tr., 44; Thực lục,
quyển 2, tập I, Sđd, tr. 218, 223; L. Sogny, “Les associes de gauche
et de droite au culte du The Miêu,” Bulletin des amis du vieux Huế
1, no.2 (Avril–Juin 1914): tr. 136.
[69] Thực lục quyển 2, tập I, Sđd, tr.
226; Thực lục, quyển 12, tập I, Sđd, tr. 312.
[70] Sử ký, Sđd, tr. 44.
[71] Sử ký, Sđd, tr. 86.
[72] Sử ký, Sđd, tr. 88.
[73] Pierre Pigneau[x] de Béhaine,
LEC,
vol. 4 (1843): 623.
[74] L. Sogny, “Les associes de gauche et
de droite au culte du The Miêu,” Sđd, tr. 137; Thực lục, quyển 27,
tập II, Sđd, tr., 354.
[75] Liệt truyện, quyển 3, tập II, Sđd,
tr., 76; Liệt truyện, quyển 7, tập II, Sđd, tr.143; Liệt truyện,
quyển 13, tập II, Sđd, tr. 251.
[76] Sử ký, Sđd, tr. 86.
[77] Jacques Liot, “Lettre de Mons. Liot,
Missionionaire Apostolique de Cochinchine à MM. Boiret et
Descourvieres”, Lettres édifiantes et curieuses, J. P. Cochlan,
Londres, 1797, tr. 162.
[78] Liệt truyện, quyển 8, tập II, Sđd,
tr. 179.
[79]
Liệt truyện, quyển 8, tập II, Sđd, tr. 180.
[80] Thực lục, quyển 6, tập I, Sđd, tr.
302.
[81]
Thực
lục, quyển 11, tập I, Sđd, tr. 181; L. Sogny, “Les associes de
gauche et de droite au culte du The Miêu,” Sđd, tr. 137.
[82] Thực lục, quyển 12 tập I, Sđd, tr.,
189; L. Sogny, “Les associes de gauche et de droite au culte du The
Miêu,” Sđd, tr. 137.
[83] Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt
nam, Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, tập 4, cb.
Trần Thị Vinh, Sđd, tr. 456–457.
[84] Liệt truyện, quyển 8, tập II, Sđd,
tr. 180–181.
[85]
L. Sogny, “Les associes de gauche et de droite au culte du The
Miêu,” Sđd, tr. 128.
[86]
Sử ký, Sđd, tr. 91–93.
[87]
Liệt truyện, quyển 8, tập II, Sđd,
tr. 181.
[88]
François Jaccard, “Lettre de M. Jaccard, miss. en Cochinchine, à M.
Langlois, supérieur du séminaire des Missions étrangères,” Annales
de l’Association de la propagation de la foi, vol. 5 (1831): 405.
Kính thưa Quý
vị, đặc biệt các bạn trẻ,
Trong số những người thân của chúng ta.
Không phải tất cả đều đã có máy điện toán (vi tính) hoặc có dùng
email, hoặc đã có thể nhận được những thông tin này...
Vì vậy, xin hãy ủng hộ chúng tôi bằng
cách phổ biến thông tin này bằng email hoặc in ra, photocopy và
gởi cho người thân của Quý vị. Đặc biệt xin gởi cho những ai chưa
có sử dụng internet.
Xin chân thành cám ơn
conggiaovietnam@gmail.com
http://www.conggiaovietnam.net
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Máng
cỏ Đêm NOEL 2020
GĐMĐVN/DMV –
Chào
Mừng Giê–su Giáng Trần
|
Hình nền: ngàn ánh sao... Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by conggiaovietnam@gmail.com chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, December 30, 2020
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang