Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Thời
sự GHCG La Mã
Chủ đề:
Bách hại Ky-tô giáo
Tác giả: Gia Pháp
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trong quá khứ, khi xảy ra một
vụ giáo sĩ lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên
trong một giáo phận Công Giáo, thì giám mục của giáo phận đó
thường giải quyết vấn đề một cách kín đáo, chẳng hạn như thuyên
chuyển linh mục đó đến giáo xứ khác, đôi khi giàn xếp cho đến một
giáo phận khác để cho xa đối tượng và xa môi trường cũ với hy vọng
vấn đề được giải quyết.
Vào đề
Vào đầu năm 2002, tờ báo Boston Globe
phơi bày ra những vụ lạm dụng tình dục trong Tổng Giáo Phận
Boston, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Những cuộc điều tra của
những tờ báo khác cho thấy những vụ lạm dụng tình dục trong một số
giáo phận lớn tại Mỹ, rồi đến nhiều giáo phận Mỹ khác. Sau đó nạn
nhân bị lạm dụng tình dục tại những quốc gia khác trên thế giới
cũng đứng ra tố cáo.
Đến khi truyền thông / báo chí Mỹ đồng
loạt phơi bày ra những vụ lạm dụng tình dục trong hàng giáo sĩ,
thì Hội Đồng Giám mục Mỹ không biết phải giải quyết vấn đề lạm
dụng tình dục theo luật đời như thế nào. Trước khoá họp thường
niên của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ vào tháng 6, 2002 tại Dallas,
Texas, có những giám mục triệu tập hàng linh muc trong giáo phận
để hỏi ý kiến xem làm sao để vấn đề khỏi xảy ra và làm sao giải
quyết vấn đề.
Ảnh hưởng của phong trào cách mạng tính (dấu sắc) dục đưa
đến việc lạm dụng tình (dấu huyền) dục
Theo cựu Giáo Hoàng Bê–nê–đích–tô XVI,
thì vấn đề lạm dụng tình dục là do ảnh hưởng của phong trào cách
mạng tính dục “Sexual revolution” (sexual liberation) vào thập
niên 60 của thế kỷ 20. Tại Hoa Kỳ, người ta thấy xuất hiện những
nhóm “hippies, feminists, beatniks, long hairs, gay rights” chống
lại những cách cư xử truyền thống về phái tính và liên hệ giữa
phái tính như nam nữ thì phải cư xử thế nọ, thế kia nơi công cộng.
Chẳng hạn như cách cư xử truyền thống bên Trung Hoa thời Khổng Tử
quy định cho nam nữ nơi công cộng phải “thụ thụ bất thân”, có ảnh
hưởng đến giới Việt nho sĩ thời phong kiến tại Việt Nam, và rồi
cũng ảnh hưởng đến quần chúng Việt Nam một thời gian sau đó.
Phong trào chống chiến tranh Việt Nam
tại Mỹ được manh nha bởi cách thế tường thuật của báo chí / truyền
thông về chiến tranh Việt Nam, cũng ảnh hưởng đến thái độ và hành
động của giới trẻ, bằng cách phản kháng lại những nề nếp, cách cư
xử và ăn bận truyền thống của xã hội.
Đại Ca Nhạc Hội Woodstock 3 ngày từ
15–18, 1969 được tổ chức ngoài trời ở nông trại Max Yasgur, rộng
600 mẫu tây, nuôi và sản xuất sữa bò, gần Bethel, New York, thu
hút gần nửa triệu thành phần trẻ từ khắp nước Mỹ. Người ta thấy
những nhóm hippies, để tóc và râu ria dài, bận quần Jean rách
rưới, trễ tới mông, áo để ngoài quần hoặc không bận áo. Ban nhạc
trình diễn 33 xuất ca nhạc ngày đêm cả khi trời mưa. Mưa bão làm
đầu tóc, mình mẩy khán thính giả ướt như chuột, phải bước đi trong
bùn lầy và dẵm lên phân bò, mà vẫn ở lại tham dự, mặc dầu thiếu đồ
ăn thức uống, thiếu nhà vệ sinh, thiếu trạm ý tế. Nhân viên tình
nguyện và tiếp vận y tế phải đến bằng trực thăng vì đường xá bị
kẹt xe, dài cả chục dặm. Có những trường hợp tham dự viên phải bẻ
bắp ngô mà ăn. Có những vụ hút sách và nghiện ngập xì ke ma tuý bị
cảnh sát tóm cổ và xảy ra 2 vụ chết người. Khu vực dành cho Đại
Nhạc Hội được rào lại, thì tham dự viên phá rào khiến bò đi vào
khu cấm trại mà không gây ra vấn đề giữa người và bò.
Với số lượng tham dự viên đông đảo vượt
quá mức dự tính lúc đầu như vậy, thì kể là thành công vượt bậc về
con số. Gần vào ngày cuối, ban tổ chức phải cho những người đến
sau vào cửa miễn phí, thay vì phải mua vé 18 Mỹ kim một xuất, và
còn kêu gọi trên truyền thanh truyền hình, xin đừng đến dự nữa.
(Những tin tức và dữ kiện về Đại Ca Nhạc Hội Woodstock trong bài
này được tóm rất vắn gọn từ Internet).
Cách mạng tính (dấu sắc) dục đưa đến
những hành động tình (dấu huyền) dục (sex acts). Trên những sạp
báo bên vỉa hè đường phố, người ta thấy đầy dẫy những sách báo đủ
loại phơi bày những hình ảnh khiêu dâm, trác táng bày bán một cách
công khai. Tại những quán “giải trí” bên đường phố như trên Đường
42 tại Thành Phố Nữu Ước, người ta thấy đặt những máy ngó gọi là
“Peep show”. Muốn ngó chỉ cần bỏ vào máy hai mươi lăm xu tiền cắc,
thì một người có thể ngó được những hình ảnh khiêu dâm đủ loại, đủ
kiểu trong vòng mấy chục phút chẳng hạn. Muốn ngó thêm thì nhét
tiền tiếp vào máy. Người ta còn gặp những ma cô sẵn sàng dẫn lối
đưa đường.
Về
phía nhà đạo, thì do những đổi mới của Công Đồng Vaticanô II nhất
là về lễ nghi phụng vụ, cũng khiến một số thành phần trong Giáo
Hội muốn thử nếp sống khác lạ. Trong một vài tuần san của mấy dòng
tu nam tại Hoa Kỳ, người ta thấy xuất hiện những bài viết giới
thiệu việc tìm cảm giác “sensibility” trong giới tu hành.
Chính sách đề phòng và chữa trị
việc lạm dụng tình dục của Hội Đồng Giám mục Hoa Kỳ
Do áp lực của truyền thông / báo chí, vị
Giám Mục Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Mỹ (HĐGMM), người da mầu, lúc
đó cho phép báo chí / truyền thông vào dự phiên họp thường niên
của HĐGMM bàn về cách thế giải quyết vần đề giáo sĩ lạm dụng tình
dục. Từ đó để giải quyết vấn đề giáo sĩ lạm dụng tình dục, HĐGMM
đưa ra một chính sách đề phòng và chữa trị việc lạm dụng tình dục
của nhân viên trong Giáo Hội gồm linh mục đối với trẻ em vị thành
niên. Chính sách bảo vệ được kiểm soát bởi thành phần dân sự trong
một tài liệu gọi là “The Dallas Charter”.
Sau cuộc họp, Chủ Tịch HĐGMM còn bay
sang La Mã đề tường trình vấn đề với Giáo Hoàng Phan-xi-cô và xin
ý kiến giải quyết. Việc giải quyết vấn đề lạm dụng tình dục trong
Giáo Hội Hoa Kỳ sau đó có ảnh hưởng đến việc giải quyết vấn đề lạm
dụng tình dục trong những giáo phận khác tại những quốc gia khác
trên thế giới.
Chủ Tịch HĐGMM lúc đó là Phó Chủ Tịch HĐGMM trước đó. Trong bất cứ
tổ chức nào, hoặc là dân sự, chính quyền hoặc giáo quyền, khi đến
việc bầu chủ tịch, mà thành viên không biết bầu cho ai, thì để cho
tiện, họ có thể bầu cho phó chủ tịch lên làm chủ tịch. Có những
loại phó chủ tịch được bầu; có những loại phó chủ tịch được chủ
tịch mời cộng tác làm phó.
Giả sử vấn đề lạm dụng tình dục được
HĐGMM giải quyết vào thời điểm khác, do chủ tịch khác, thì vấn đề
giáo sĩ lạm dụng tình dục có thể được giải quyết một cách khác,
không bị chi phối nhiều bởi phía dân sự và không bị phơi bày ra
một cách rộng rãi bởi báo chí / truyền thông.
Trong việc điều tra và xét xử vấn đề
linh mục lạm dụng tình dục, người ta đã bỏ qua yếu tố tâm lý.
Những cách thế lạm dụng tình dục vì lý do tâm lý đưa đẩy như cô
đơn, buồn chán, không được trọng dụng, không được đánh giá đúng
mức, lẫn lộn về căn tính phái tính, thì không hẳn là theo đúng
nghĩa lạm dụng tình dục để thoả mãn nhu cầu sinh lý. Việc mà người
ta gọi là lạm dụng tình dục trong trường hợp này có thể chỉ là
những cử chỉ âu yếm và trìu mến để lấp đầy những thiếu thốn về tâm
tình cảm nơi phạm nhân, như là để tìm sự an ủi.
Động chạm đến phần thân thể riêng tư của
trẻ em vị thành niên, cũng có thể là do tính tò mò thúc đẩy, hơn
là lạm dụng tình dục. Tính tò mò này còn thấy nơi cả trẻ con. Có
những trẻ con gái nhỏ khi nhận ra phần thân thể riêng tư của bố
mình, khác của mình, cũng có khuynh hướng nghịch ngợm “của quý”
của bố một cách hồn nhiên.
Ngoài ra khi điều tra và kết tội một
linh mục lạm dụng tình dục trong “toà án” đạo của giáo phận, thì
bị cáo thường không có luật sư để bào chữa và phản biện lại bên tố
cáo. Nếu có luật sư do giáo phận cung cấp, thì luật sư cũng chỉ
ngồi nghe cho có hình thức thôi vì người tố cáo không dự phiên toà
xét xử. Còn khi điều tra và kết tội một linh mục lạm dụng tình dục
đã qua đời, thì người chết không thể hiện về để biện hộ cho mình
được.
Tại sao vấn đề lạm dụng tình dục gần đây mới được đưa ra ánh sáng?
Vấn đề lạm dụng tình dục đã có từ rất xa
xưa trong xã hội loài người, giữa người lớn nói chung với trẻ em,
giữa bố với con, có khi giữa mẹ với con. Trước đây xã hội cũng như
tôn giáo chưa nhận thức rõ được những tai hại về đời sống tâm lý
và tình cảm của nạn nhân bị lạm dụng tình dục nên đặt nhẹ vấn đề
này. Những luật lệ trong xã hội cũng như tôn giáo chống lại việc
lạm dụng tình dục cũng còn lỏng lẻo. Ngoài ra nạn nhân cũng muốn
giữ kín chuyện bị lạm dụng tình dục, nên không muốn cho ai biết,
gồm cả cha mẹ. Có những trường hợp nạn nhân được đút lót tiền bạc
để giữ yên lặng nên không muốn tiết lộ việc bị lạm dụng tình dục.
Những trường hợp khác thì nạn nhân bị đe doạ đến tính mạng, nếu
tiết lộ chuyện bị lạm dụng tình dục, nên đành giữ yên lặng. Sau
một thời gian, nạn nhân bị lạm dụng tình dục một cách đúng nghĩa
lạm dụng trong một thời gian, họ mới tiết lộ cho người được họ tín
nhiệm và cho biết họ cảm thấy nhục nhã, mang mặc cảm tội lỗi vì bị
lạm dụng, khiến đời sống tình cảm của họ không được phát triển một
cách bình thường.
Khi vấn đề lạm dụng tình dục bị báo chí
/ truyền thông phơi bày ra, thì tin tức được người dân tiếp cận
nhanh chóng trong thời đại tin học. Tại trường học, học sinh được
dạy đề phòng khỏi bị lạm dụng tình dục. Những người làm việc với
trẻ vị thành niên phải khai báo là chưa bao giờ bị tố cáo và xét
xử về việc lạm dụng tình dục mới được làm việc với trẻ em. Rồi
giới luật sư vào cuộc bằng cách đề nghị cho nạn nhân kiện tụng.
Giới luật sư nghĩ rằng Giáo Hội Công Giáo giầu có vì thấy có những
cơ sở như nhà thờ, trường học đồ sộ với những lối kiến trúc cổ
kính, lại thêm bảo tàng viện mỹ thuật với những bảo vật đáng giá,
thì càng đòi giá đền bù lớn cho vụ kiện. Do đó sau khi bị kiện
tụng về vấn đề linh mục lạm dụng tình dục, có những giáo phận phải
khai phá sản. Khuynh hướng kiện tụng còn lan rộng đến cả những
lãnh vực khác như việc bác sĩ hành nghề mà người kiện cho là bất
cẩn. Có những luật sư mới ra trường chưa có việc làm, còn đề nghị
giúp kiện miễn phí cho thân chủ để lấy kinh nghiệm. Vì thế có thời
giới bác sĩ có khuynh hướng kình địch giới luật sư.
Bách hại Giáo Hội dưới hình thức
loan tin về việc giáo sĩ lạm dụng tình dục
Bàn đến vấn đề giáo sĩ lạm dụng tình dục
trẻ vị thành niên, thì linh mục Công Giáo có nhiều cơ hội bị cám
dỗ về vấn đề lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên vì linh mục
thường tiếp xúc với trẻ em hàng ngày trong nhà thờ, nơi trường học
của giáo xứ.
Còn nếu tìm hiểu và tìm đọc vấn đề trên báo chí, truyền thông,
người ta đều thấy trong những giáo phái hoặc tôn giáo khác, cũng
có vấn đề giới lãnh đạo tinh thần, hoặc giới tu hành, có gia đình
hoặc không có gia đình, lạm dụng tình dục, gồm cả vấn đề loạn
luân. Điều đó có nghĩa là luật độc thân cho hàng linh mục Công
Giáo, không phải là lý do đưa đến vấn đề lạm dụng tình dục.
Vấn đề người tu hành sống độc thân hay
có gia đình lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên, đều xảy ra trong
các tôn giáo và giáo phái. Tuy nhiên vì Giáo Hội Công Giáo là một
thực thể có tổ chức, có cấp bậc và ảnh hưởng nên báo chí truyền
thông dễ tìm đến “hỏi thăm”. Do đó hành vi lạm dụng tình dục trong
Giáo Hội Công Giáo dễ bị chĩa súng vào. Hỏi thăm về một vụ lạm
dụng tình dục trong giáo hội Công Giáo tại Âu Mỹ thì quá dễ dàng.
Báo chí / truyền thông có thể đặt câu hỏi về một vụ lạm dụng tình
dục ở đâu đó trước một linh mục hay vị giám mục hoặc cả giáo
hoàng. Mà hỏi vị giáo hoàng về một vụ lạm dụng tình dục xảy ra ở
đâu đó trên thế giới, chỉ là câu hỏi “đổng” vì làm sao một vị giáo
hoàng có thể biết hết được các vụ lạm tình dục trong Giáo Hội Công
Giáo, khi đã có giáo quyền địa phương giải quyết. Còn hỏi về việc
lạm dụng tình dục trong những tôn giáo và giáo phái khác tại Âu
Mỹ, thì nhiều khi không biết đâu mà hỏi, nên ít thấy tường thuật
trên báo chí / truyền thông.
Khi truyền thông / báo chí phê phán
những vấn đề lạm dụng, hoặc là lạm dụng tình dục trong một tổ chức
tôn giáo, mà có những cá nhân trong tôn giáo đó phản ứng bất lợi
cho người phê phán, thì người phê phán có thể sợ cho tính mạng mà
phải lẩn trốn như đã xảy tại Anh Quốc trước đây. Điều đó đưa đẩy
cảnh sát phải vào cuộc để bảo vệ người phê phán, khiến báo chí /
truyền thông cũng phải lo sợ cho tính mạng mà không dám tường
thuật, phê phán những vấn đề lạm dụng trong tôn giáo đó nữa. Còn
tường thuật, phê phán hàng linh mục Công Giáo về việc lạm dụng
tình dục trẻ em thì đâu có làm cho phóng viên phải sợ hãi chi đến
tính mạng?
Cùng
một hành vi phạm pháp, mà ký giả tường thuật có khuynh hướng ác
cảm, hoặc chống đối đạo Công Giáo, khiến cho bài viết của họ có
tính cách thiên vị. Người viết báo mà không có cảm tình với đạo
Công Giáo cũng có ảnh hưởng đến tư tưởng của họ đối với đạo Công
Giáo và lời văn họ dùng khi nói về đạo Công Giáo. Cùng một câu
chuyện lạm dụng tình dục, mà người viết báo và làm tin, chống đối
Giáo Hội, thì câu chuyện sẽ khiến cho người đọc có ác cảm với đạo
Giáo Hội.
Báo
chí / truyền thông khai thác vấn đề lạm dụng tình dục trẻ vị thành
niên một cách triệt để. Họ đưa tin hàng giáo sĩ lạm dụng tình dục
ngay cả tại những giáo phận thuộc những quốc gia hải ngoại. Họ
phơi bày vấn đề lạm dụng tình dục trong giáo hội Công Giáo trong
quá khứ xa xưa mà luật báo cáo và điều tra việc lạm dụng tình dục
đã quá hạn (statute of limitations). Dưới áp lực của báo chí /
truyền thông, có những giáo phận còn tự nguyện báo cáo cả tên của
những linh mục đã lạm dụng tình dục trong quá khứ trước hạn phải
báo cáo. Dưới hình phạt bị phơi bày việc lạm dụng tình dục, có
những linh mục đã phải tự kết liễu đời mình như một cách tự phạt
mình. Có những linh mục đã qua đời cũng bị tố cáo lạm dụng tình
dục. Dưới áp lực của báo chí / truyền thông, có những giáo phận
vẫn phải báo cáo.
Chuyên gia Toà Thánh Vatican
nhận định về vấn đề lạm dụng tình dục
Nữ ký giả Inés San Martín của tạp chí
Crux, mới đây có bài báo ra ngày 14 tháng 12, 2019 – do dịch giả
Vũ Văn An đăng trong vietcatholic ngày 14 tháng 12, 2019 với tựa
đề: “Chuyên gia thượng thặng của Tòa Thánh: luật độc thân và
đồng tính luyến ái không gây ra cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục”.
Chuyên gia “thượng thặng” chống lại việc lạm dụng tình dục mà Vũ
Văn An nói đến là Linh mục Jordi Bertomeu
[01].
Bằng những dữ kiện do các Giáo Hội Ky-tô
giáo và không Ky-tô giáo khác cung cấp, Cha Bertomeu viết: “Ngài
trích dẫn Giáo Hội Hợp Nhất ở Úc, một Giáo Hội có khoảng 240,000
thành viên, không có hàng giáo phẩm và chỉ có hàng giáo sĩ nam nữ
có gia đình”. Trong mấy tháng gần đây, Giáo Hội này được nhiều
người chú ý vì 2,500 trường hợp lạm dụng trẻ em. Cha lý luận rằng
“các dữ kiện như thế trái ngược với các dữ kiện của Giáo Hội Công
Giáo, với 466,000 linh mục và 6,000 trường hợp được báo cáo cho Bộ
Giáo Lý Đức Tin”
[02].
Linh mục Bertomeu còn nói: “Mặc dù
Giáo hội nên xấu hổ vì số linh mục đã phạm tội lạm dụng, ngài lưu
ý rằng đó chỉ là một phần trăm nhỏ các giáo sĩ, so sánh với số
người lạm dụng trong xã hội nói chung”
[03].
Cha Bertomeu cũng lập luận rằng: “Luật
độc thân bắt nguồn từ Tin Mừng, như đã được các nghiên cứu lịch sử
chứng minh, chứ không phải là một điều xuất hiện vào thế kỷ thứ 12
để kiểm soát tốt hơn nền kinh tế của các giáo phận”, khỏi rơi
vào tình thế có “các gia đình giáo sĩ”.
[04].
Vấn đề lạm dụng tình dục còn xảy ra với
những người không tu hành mà có gia đình. Về vấn đề này, linh mục
Bertomeu viết “Đúng hơn, đa số những người lạm dụng là những người
đàn ông có vợ”
[05].
Linh mục Bertomeu cho rằng, “Một số cơ
quan truyền thông đã đối xử vô trách nhiệm với hiện tượng vi phạm
hình sự các vị thành niên, đến mức đã cổ vũ cuộc bách hại bừa bãi
tầng lớp xã hội giáo sĩ hoặc không tin tưởng bất cứ linh mục nào
chỉ vì sự kiện ngài là một linh mục”
[06].
Bách hại Ky-tô giáo nói chung và
người Công Giáo nói riêng
Bách hại Giáo Hội dưới hình thức loan
tin về việc giáo sĩ lạm dụng tình dục chỉ là một phần của việc
bách hại Ky-tô giáo nói chung trên toàn thế giới như trong bài
tường thuật của Hồng Thuỷ với tựa đề: “Hội nghị quốc tế về bách
hại Ky-tô hữu” đăng trong Vaticannews.va ngày 29/11/2019. Hội nghị
diễn ra từ ngày 26-28/11, với 650 tham dự viên thuộc 40 quốc gia,
bao gồm nhiều lãnh đạo Ky-tô giáo từ Syria, Iraq, Lebanon. Trong
lời khai mạc Hội nghị, ông Tristan Azbej, Tổng Thư ký Ủy ban về
Ky-tô hữu bị bách hại của Hungary, đã nói: “Chúng ta có 245 triệu
lý do để ở đây. (245 triệu là số Ky-tô hữu trên toàn thế giới bị
bách hại). Đây là cách nhiều người bị bách hại hàng ngày vì niềm
tin Ky-tô giáo của họ.”
[07].
Còn bài tường thuật của Hồng Thuỷ với
tựa đề khác: “ĐTC Phan-xi-cô: Nhiều Ky-tô hữu bị bách hại và hy
sinh vì đức tin” đăng trong Vaticannews.va ngày 11-12/2019, trong
đó Đức Phan-xi-cô nói với 8,000 tín hữu hành hương: “Ngày nay,
trên thế giới, tại châu Âu, rất nhiều Ky-tô hữu bị bách hại và hy
sinh mạng sống vì đức tin, hay bị bách hại bởi những người mang
găng tay trắng, nghĩa là bị loại ra, gạt ra bên lề. Tử đạo là
không khí của cuộc sống Ky-tô hữu, của cộng đoàn Ky-tô giáo. Luôn
luôn có những vị tử đạo ở giữa chúng ta: điều này là dấu hiệu
chúng ta đang đi trên con đường của Chúa Giê-su. Thật là phúc lành
của Chúa khi có người nào đó trong cộng đồng dân Chúa làm chứng tá
tử đạo này”.
[08].
Theo hãng tin Fides của Bộ Truyền giáo số ra ngày 30/12/2019 cho
biết có 29 nhà truyền giáo bị sát hại trên thế giới trong năm 2019
gồm đa số là linh mục, tu sĩ và giáo dân.
Ngay tại Hoa Kỳ, người Công Giáo cũng bị
kỳ thị hàng mấy thế kỷ nay. Theo Wikipedia năm 2012, “Bầu khí kỳ
thị Công Giáo ăn rễ sâu trong thái độ chống Công Giáo do người Tin
Lành Anh Giáo đem đến các thuộc địa Mỹ”
[09].
Qua mấy thế kỷ, người ta thấy được những
định kiến chống Công Giáo trong văn chương và truyền thông Mỹ. Do
đó tác giả Robert P Lockwood viết “Thực ra, dù không luôn được
công nhận rằng, có thiên kiến chống Công Giáo trong báo chí /
truyền thông nói chung. Nhiều phóng viên ý thức được nền văn hoá
tràn ngập thế tục và lý trí”
[10].
Đó là lý do tại sao chính phủ Hoa Kỳ chỉ
thiết lập bang giao với toà thánh Vatican vào năm 1984 dưới thời
Tổng Thống Reagan khi mà những thế lực phản kháng trong Nước như
Quốc Hội, các toà án và các nhóm Tin Lành, không còn chống đối
việc thiết lập bang giao quyết liệt như trước nữa.
Gần đây khi đọc hay nghe tin tức về
những vấn đề xã hội, chính trị... báo chí / truyền thông Mỹ bị tố
cáo là đưa tin khiếm diện, giả tạo và còn là “tin bịa đặt” (fake
news). Trong hậu bán thập niên 20 của thế kỷ 21, đa số giới bình
luận gia người Mỹ gốc Việt còn gán cho báo chí / truyền thông
thiên tả là truyền thông “thổ tả”.
Kết luận
Vấn đề giáo sĩ lạm dụng tình dục trẻ vị
thành niên phải là nỗi đau buồn của người Công Giáo. Điều này phải
nhắc nhở người Công Giáo cầu nguyện cho nạn nhân bị lạm dụng tình
dục, cho giáo sĩ lạm dụng tình dục và cho cả giới báo chí / truyền
thông về cách thế loan tin vấn đề giáo sĩ lạm dụng tình dục. Người
Ky-tô Giáo – gồm người Công Giáo – cũng không quên cầu nguyện cho
người Ky-tô Giáo bị bách hại trên thế giới vì đức tin và cho cả
những cá nhân và tổ chức bách hại Ky-tô Giáo nữa. Người Ky-tô giáo
còn cầu nguyện cho cả người chống đối mình như Đức Ky-tô dạy: “Hãy
cầu nguyện cho người bách hại và bỏ vạ anh em”
(Mt 5:44)
và “Hãy cầu nguyện cho người vu khống anh em”
(Lc 6:28).
Gia Pháp
Nguồn:
https://www.mucvuvanbut.net/bai-viet/bai-viet-cua-tac-gia-trang-chu/5182-bach-h-i-giao-h-i-du-i-hinh-th-c-loan-tin-v-n-d-linh-m-c-l-m-d-ng-tinh-d-c-tr-v-thanh-nien.
[01]. Vũ Văn An.
Chuyên gia thượng thặng của Tòa Thánh: luật độc thân và đồng tính
luyến ái không gây ra cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục:
http://www.vietcatholic.net: Tin Giáo Hội Hoàn Vũ.
14/Dec/2019.
[02]. Ibid như
[1]
[03]. Ibid như
[1]
[04]. Ibid như
[1]
[05]. Ibid như
[1]
[06]. Ibid như
[1]
[07].
Hồng Thuỷ. Hội nghị quốc tế về bách hại Ky-tô hữu:
http://www.vaticannews.va: Thế Giới. 29 tháng mười
một 2019, 14:43
[08]. Hồng
Thuý. ĐTC Phan-xi-cô: Nhiều Ky-tô hữu bị bách hại và hy sinh vì
đức tin:
http://www.vaticannews.va. Đức Giáo Hoàng. 11
tháng mười hai 2019, 11:36.
[09].
Wikipedia. Anti–Catholicism in the United States. Ed. May 2012
[10]. Robert
P. Lockwood. Anti–Catholicism in the media. Catholic League.
https://www.catholicleague.org/anti-catholicism-in-the-media/
Mar 20, 2017.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
Dù T–10
SĐND–QLVNCH
dùng trong thời chiến
|
Hình nền: Lũy Tre Làng. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by psxh chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, February 15, 2020
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang