Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Thời sự Thế giới
Chủ đề:
Vinh danh Phụ Nữ
Tác giả: LBP
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời giới thiệu:
Cám ơn LBP nhiều lắm...
Và xin được thân chuyển bài viết này đến:
– Những trang mạng
mà th quen biết
– Những người bạn có người bạn đời chết trong “tù
cải tạo”
– Những người chị và bạn có chồng từng đi “tù cải tạo”
– Người bạn học là nữ quân nhân, từng bị “tù cải tạo” và còn kẹt lại
quê nhà...
– Những người bạn đang gánh vác gia đình trên đôi vai
còm cõi...
– Và những người bạn đang miệt mài tranh đấu cho tự do
và nhân quyền của VN...
–.......
th
Hôm
nay là ngày 8 tháng 3: ngày phụ nữ. Mến gởi đến bạn-ta-phái-đẹp một
cành hoa hồng!
Không biết tại sao các cụ ta ngày xưa dùng hai chữ “phái yếu” để nói
về người phụ nữ? Người phụ nữ Việt Nam có “yếu” hơn đàn ông Việt
không? Cái đó còn tùy. Nói về thể lực có thể họ yếu hơn nhưng về sức
chịu đựng thì phải nói là họ hơn người đàn ông nhiều lắm. Đó là chưa
nói đến phương diện tinh thần, lòng can đảm.
Không có sức chịu đựng thì làm sao “quanh
năm buôn bán ở mom sông / nuôi đủ 5 con với 1 chồng” như bà Tú
Xương? Cùng thế hệ với bà Tú có một “phái-yếu” khác, bà Thái Thị
Huyên, chánh thất của cụ Phan Bội Châu (ông có hai bà, “bà nhỏ” mất
trước “bà cả”), người mà ông Phan đã kể cho con nghe:
“... Cha ta với Tiên nghiêm (cha) của mẹ
mầy xưa, đều là nho cũ rất nghiêm giữ đạo đức xưa. Mẹ mầy lớn hơn ta
một tuổi. Hai ông đính thông gia với nhau từ khi con còn nên một.
Tới năm mẹ mầy hai mươi ba tuổi (1888), về làm dâu nhà ta. Lúc ấy,
mẹ ta bỏ ta (mất) đã tám năm, trong nhà duy có cha già với em gái
bé. Ta vì sinh nhai bằng nghề dạy trẻ, luôn năm ngồi ở quán phương
xa, cái gánh sớm chiều gạo nước gởi vào trên vai mẹ mầy. Cha ta đối
với con dâu rất nghiêm thiết, nhưng chẳng bao giờ có sắc giận với mẹ
mầy. Cha ta hưởng thọ được bảy mươi tuổi, nhưng bệnh nặng từ ngày
sáu mươi. Liên miên trong khoảng mười năm, những công việc thuốc
thang hầu hạ bên giường bệnh, cho đến các việc khó nhọc nặng nề mà
người ta không thể làm, thảy thảy một tay mẹ mầy gánh cả. Kể việc
hiếu về thờ ông gia, như mẹ mầy là một việc hiếm có vậy...
... Tới ngày ta bị bắt về nước, mẹ mầy
được gặp ta một lần ở thành tỉnh Nghệ, hơn nửa tiếng đồng hồ chỉ có
một câu nói rằng: ‘Vợ chồng ly biệt nhau hơn hai mươi năm, nay được
một lần giáp mặt thầy, trong lòng tôi đã mãn túc rồi, từ đây trở về
sau, chỉ trông mong thầy giữ được lòng thầy như xưa, thầy làm những
việc gì mặc thầy, thầy không phiền nghĩ tới vợ con...’
Hỡi ôi! Câu nói ấy bây giờ còn phảng phất
bên tai ta. Mẹ mầy thật chẳng phụ ta, ta phụ mẹ mầy! Công nhi vong
tư (lo việc chung mà quên việc riêng) chắc mẹ mầy cũng lượng thứ cho
ta chứ.”
(https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1i_Th%E1%BB%8B_Huy%C3%AAn)
“Mẹ mầy thật chẳng phụ ta, ta phụ mẹ mầy!”
Cụ Phan (1867-1940) là nhà nho học, dân “cửa Khổng, sân Trình”: 6
tuổi đã thuộc Tam Tự Kinh, 7 tuổi rào rào Luận Ngữ, đỗ Giải nguyên
năm 19 tuổi. “Xưa” như Cụ (nhất nam viết hữu thập nữ viết vô),
“ngon” như Cụ (2 bà) mà còn biết thốt câu đó, biết nhìn nhận sự
thật. Chả bù với đám đàn ông “Tây-học”... chúng ta (?)! Không biết
có bao nhiêu ông nói được câu đó với đám trẻ trong nhà? Phần tôi thì
chỉ nói được có mỗi... nửa câu: “Bố phụ mẹ mầy.. dài dài: hút bụi,
lau nhà, rửa bát, đổ rác....”!
Mà không chỉ có bà Tú Xương, bà Huyên, bà
Vĩnh Tế (vợ ông Thoại Ngọc Hầu), bà Tồn (vợ ông Bùi hữu Nghĩa), v.v.
Từ rất lâu, đã có những “nàng về nuôi cái,
cùng con / để anh đi trẩy nước non Cao Bằng”, đã “con cò lặn lội bờ
sông / gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”... Những hình ảnh đó
kéo dài cho đến thời đại chúng ta: trước rồi sau 75.
Trong cuộc chiến xâm lăng của miền Bắc,
những người chịu thiệt thòi nhất vẫn là những người Vợ Lính, ở cả
hai miền. Làm vợ lính Cộng Hòa đã khổ, làm vợ bộ đội khổ gấp mấy
trăm lần: cả miền Bắc đều nghèo, đàn ông trai tráng đều bị xua đi B
(vào Nam), nhiều phụ nữ một mình phải cáng đáng hai gia đình: nội,
ngoại, chưa kể còn bị đám đảng viên, công an, tổ trưởng, ngày đêm ve
vãn, mưu toan chiếm đoạt thân xác... Tôi không nói quá đâu. Hãy đọc
lại một số tác phẩm của các nhà văn “phản kháng” bên nhà thời mới
được ông Linh “cởi trói”, cuối thập niên 80’s.
Sau 75, người miền Nam khổ nhưng khổ nhất
phải là những người Vợ Lính Cộng Hòa: khi chồng bị tù cải tạo, phải
lo đi thăm nuôi, con trai bị bắt đi xâm lăng Cao Miên, con gái chết
trên đường vượt biên, v.v. Khổ đến ngần ấy, muốn tự sát chết đi.
Nhưng cuối cùng vẫn không dám, không nỡ. Mình chết, ai nuôi chồng,
ai trông con? Thế là cố gắng sống, cắn răng mà sống, lên rừng mà
sống (như nhà văn Nguyễn thị Thụy Vũ), đi kinh tế mới mà sống, v.v.
Ăn uống cam khổ, sức lực đâu để làm những chuyện đội đá vá trời đó?
Đã rất nhiều lần tôi tự hỏi. Và vẫn không tìm ra câu trả lời!
Việt Nam sau này, có rất nhiều chuyện
“biết rồi, khổ lắm” nhưng mà vẫn phải nói mãi! Một trong những
chuyện đó là chuyện “lấy chồng xứ lạ”. Nhiều bài báo viết về các cô
gái, đa số ở miền tây, phải nhắm mắt lấy chồng Tàu (Đài Loan / Trung
Cộng) hay Đại Hàn, để có tiền nuôi gia đình. Sau đó, bị đánh đập hay
bị cả gia đình chồng cưỡng dâm, cuối cùng phải tự sát! Tại sao đã
quyết định hy sinh giúp gia đình rồi cuối cùng phải tự sát? Có phải
vì “tiền đã trao, cháo (xin lỗi phải dùng chữ này) đã múc”, không
còn cơ hội / phương tiện để gởi tiền về VN nữa, thì sống để làm gì?
So với Thúy Kiều Tàu (Thanh Tâm Tài Nhân), Thúy Kiều Việt đoạn
trường dài dài, truân chuyên lắm lắm!
Nói thế không phải ở hải ngoại không có
chuyện để nói. Mà là có. Có rất nhiều. Nhiều phụ nữ hy sinh cả cuộc
đời, ở vậy, thay cha mẹ nuôi em. Nhiều bà, được chồng bảo lãnh sang
đây rồi “ra riêng với đám con”, vì ông đã “vui duyên mới” từ lâu! Đó
là chưa nói đến nhiều phụ nữ, tay làm, tay bếp, chạy tới, quay lui,
hết lo chồng, sang lo con, bây giờ lo đến cháu!...
Đã rất nhiều lần tôi tự hỏi. Bây giờ đã
tìm ra câu trả lời (có còn hơn không): vỏn vẹn là người phụ nữ, tuy
sức vóc nhỏ bé nhưng có trái tim to lớn vô cùng. Chính trái tim đó
đã bơm sức lực cho họ đứng dậy, sau bao lần gục ngã, để tiếp tục
nuôi sống gia đình.
Ông Hồ Dzếnh ngày xưa “muốn nạm vàng muôn
khổ cực / cho lòng cô gái Việt Nam vui”. Tôi xem như câu đó, Hồ thi
sĩ đại diện cánh đàn ông chúng tôi mà nói, nên không có gì để thêm
vào (chả nhẽ lại bổn cũ soạn lại “tạ ơn em! tạ ơn em”?!)
Chỉ muốn, để bạn-ta-cô-gái-Việt vui hơn
nữa, xin được ghi lại lời bài “Cô Gái Việt” của nhạc sĩ Hùng Lân.
Chúng ta cùng hát với nhau nhé.
Cô
Gái Việt
Lời sông núi bừng vang bốn phương trời
Giục chúng ta
đường phụng sự quyết tiến
Triệu Trưng xưa
đẹp gương sáng muôn đời
Dòng máu thiêng còn
đượm nồng vạn trái tim
Dẫu không cùng tài trai vui tranh đấu
Gánh sơn hà còn trọng hơn xương máu
Dù
thành thị hay thôn trang ai ơi
Lòng hẹn
lòng bạn gái ta xây đời
Chị em ơi! Quê nước chờ mong
Ta sớm lập công
Tô thắm giang sơn Việt Nam
Ngoài những phút quán xuyến tề gia
Hãy
hướng lòng ta đến những ai đang cơ hàn
Kìa cô nhi không chút tình thân
Đây lớp tàn nhân
Năm tháng đau thương thầm
trôi
Cùng cương quyết góp sức đồng tâm
Muôn dân vui một đời vàng sáng tươi
Hùng Lân
Bonne fête 8/3
BP
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by th chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, March 8, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang