Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản mạn Xuân
Chủ đề:
Chào Xuân
Tác giả:
Phạm Cao Dương
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Nói
chuyện tháng Giêng là đề tài tôi viết để gửi đăng trên một số
các báo xuân ở hải ngoại cách đây nhiều năm. Tháng Giêng ở đây
không phải là Tháng Giêng Cỏ Non của Nhà Văn Mai Thảo hay với cỏ
non của Thi Hào Nguyễn Du với “Cỏ non xanh dợn chân trời” mà chỉ
đơn giản là tháng Giêng như là một từ ngữ dùng trong tiếng Việt
như là tháng đầu của mười hai tháng trong một năm.
Chuyện bị mất tên, hay nhẹ hơn, bị đổi
tên ngay từ ngày Việt Nam Tự Do không còn nữa ngày nay đã trở
thành chuyện cũ. Nhưng tất cả đã không biến mất mà đã trở thành
trong hồi tưởng để bất chợt từ một cõi nào đó của tiềm thức trở
về và sống động hơn bao giờ hết. Có điều cần được để ý ở đây là
bị đổi, bị mất hay bị bắt buộc đổi là do một thế lực từ bên
ngoài tạo nên. Người trong cuộc thì không bao giờ chấp nhận hay
chỉ miễn cưỡng chấp nhận. Chuyện Tháng Giêng ở đây không nằm
trong trường hợp này. Sự mất tên hay đang trên đà bị mất tên của
nó không do một kẻ thù nào hết mà do chính những người coi nó là
thân thương tạo ra.
Câu chuyện xoay quanh một số các từ
ngữ từ sau năm 1975, vì lý do này hay lý do khác, hầu như không
còn được dùng nữa. Người ta, đặc biệt là một số các xướng ngôn
viên của các đài phát thanh, đã dùng những từ ngữ khác để thay
thế. Trong số đó có từ ngữ Tháng Giêng, từ ngữ dùng để gọi tháng
đầu tiên của một năm. Thay vì gọi hay đọc tháng này là tháng
Giêng, người ta gọi hay đọc nó là Tháng Một. Lý do có lẽ vì khi
viết thay vì viết chữ Giêng người ta dùng số 1 cho nhanh, gọn và
tiện dụng. Từ đó, tháng Chạp trở thành tháng Mười Hai, viết bằng
số 12, và tháng Một tất nhiên không còn là tháng Mười Một nữa mà
không rõ là tháng nào trong hai tháng, Giêng hay Mười Một. Nhớ
lại những bài học thuộc lòng trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư
của các tác giả Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đỗ Đình Phúc và
Đỗ Thận soạn, xuất bản từ lâu dưới thời Pháp thuộc mà người
thuộc thế hệ tôi hay lớn hơn tôi có dịp học hồi còn nhỏ trong đó
có các câu:
Tháng Giêng ăn tết ở nhà...
hay:
Tháng
Giêng là tháng ăn chơi
để kết thúc bằng:
Tháng
Một, Tháng Chạp nên công hoàn toàn.
Mà thỉnh thoảng tôi vẫn thấy các thầy
cô ở các trường Việt ngữ hiện tại thường nhắc tới, tôi không
khỏi bùi ngùi khi thấy một chuyện bình thường người ta không nên
để xảy ra, vẫn xảy ra. Đây không phải là chuyện bảo thủ hay
không bảo thủ, dù là chuyện liên hệ tới ngôn ngữ, mà ngôn ngữ
vốn có tính chất qui ước và luôn thay đổi. Có điều qui ước hay
không qui ước, thay đổi hay không thay đổi, người nói vẫn không
thể vì lý do gì đi chăng nữa làm mất đi tính cách chính xác và
phong phú của ngôn ngữ mình sử dụng. Một thí dụ điển hình là
người Mỹ, nói riêng, và dân của những nước nói tiếng Anh, nói
chung, cũng ở vào trường hợp tương tự nhưng họ đã không làm như
vậy. Khi viết để cho tiện và không chính thức họ vẫn dùng các
con số 1 cho tháng Giêng, 2 cho tháng Hai... liên tục cho đến số
12 cho tháng Chạp trong cách ghi ngày tháng của họ. Nhưng khi
phải ghi một cách đầy đủ một cách hình thức và tránh nhầm lẫn họ
vẫn viết rõ là January, February... December. Còn khi nói, khi
đọc, chính thức hay không chính thức, họ luôn luôn dùng các
tiếng này chứ không bao giờ dùng các con số để thay thế.
Thoáng đó, nhiều năm đã trôi qua. Vì
bận rộn với cuộc sống thường ngày, tôi không có dịp theo dõi
chuyện này và bây giờ, khi viết bài này, tôi và quý bạn đọc,
chúng ta đang ở vào tháng Giêng của năm mới tây 2019, còn tháng
Giêng của năm mới ta thì chưa tới, nên tôi chưa thể nói là bà
con ta hiện tại có còn cái tật sử dụng tiếng Việt một cách bừa
bãi, cẩu thả, mà tôi nghĩ phần lớn là do lười biếng mà ra, như
vậy nữa hay không. Nói như vậy vì nói tới tháng Giêng tây nhiều
người đã dùng chữ Một, tháng Một và tôi hy vọng các vị này muốn
dành hai chữ tháng Giêng cho tháng đầu năm âm lịch mang nhiều ý
nghĩa liên hệ tới truyền thống Việt Nam xưa hơn. Tuy nhiên nhiều
vị khác cũng cảnh cáo tôi là đừng lạc quan hão, đồng thời thỉnh
thoảng tôi cũng thấy có người đề cập đến vấn đề này như nói đến
một “nỗi buồn tiếng Việt”. Sự trong sáng và phong phú của ngôn
ngữ của chúng ta dường như mỗi ngày một bị lu mờ, thui chột
trước cuộc sống mới nặng về thực tế và lúc nào cũng tất bật, vội
vã. Người ta đã nại đủ cớ, kể cả ngang ngược tự cho mình là đúng
để muốn nói sao thì nói, muốn viết sao thì viết không theo một
nguyên tắc nào cả, nhất là khi mọi người, vì lý do này hay lý do
khác, kể cả lười biếng, thiếu suy nghĩ, dễ dãi chạy theo thời
thượng hay để phá bỏ những gì thuộc một thời xưa cũ.
Bây giờ nói tới chuyện mới. Gọi là
mới, nhưng thực sự thì chuyện này đã xảy ra từ hơn hơn hai chục
năm trước. Hồi đó là năm 1995, hai mươi năm sau khi chế độ cộng
hòa ở Miền Nam không còn nữa. Để tưởng nhớ tới biến cố quan
trọng nhưng vô cùng phức tạp đối với dân tộc Việt Nam này, đài
BBC của người Anh, một dân tộc nổi tiếng là lạnh lùng và thực
tế, khác hẳn với người Pháp, đã phỏng vấn một số người Việt về
sự khác biệt trong cuộc sống của người Việt Nam ở hai miền Nam,
Bắc sau hai chục năm thống nhất chẳng có gì đáng hãnh diện, trái
lại đầy bi thương này. Một trong số những người được phỏng vấn
là Giáo Sư Sử Học Trần Quốc Vượng thuộc trường Đại Học Quốc Gia
Hà Nội. Tôi không nhớ rõ là để trả lời câu hỏi nào Giáo Sư Vượng
đã có dịp đưa ra nhận xét của mình khi đề cập tới tiếng Việt ở
Miền Nam. Đại khái câu nói của ông là ông và nhà văn Nguyễn
Tuân, một nhà văn rất nổi tiếng trong thời tiền chiến với lối
viết tùy bút vô cùng tế nhị, vô cùng bóng bẩy, nặng tính chất
hoài cổ của ông, rất lấy làm đắc ý về một câu nói của đồng bào
Miền Nam là “vậy mà không phải vậy”. Phát biểu thế thôi, Giáo Sư
Vượng đã không giải thích thêm. Người nghe muốn hiểu sao thì
hiểu và áp dụng vào khía cạnh nào của cuộc sống thì áp dụng,
trong đó có cả sự kiện Miền Bắc đã dùng bạo lực xâm chiến Miền
Nam để thống nhất đất nước và tình trạng thống nhất hai chục năm
sau đó. Thay vào đó, với thói quen nói lên sự thực của một người
dạy và viết sử và với bản tính bộc trực, ông đã thêm một chữ
khác hay được dùng ở miền Nam là chữ “nên” khác với chữ “phải” ở
Miền Bắc. Với chữ “phải” này, ông chú thích thêm rằng đó là
“tiếng của cán bộ”. Tôn trọng Giáo Sư Trần Quốc Vượng, giờ này
đã qua đời, và để độc giả được thong thả suy luận, theo đúng với
tinh thần “ra vô thong thả” của người Miền Nam, tôi chỉ thuật
lại nội dung đại khái của cuộc phỏng vấn này và không bàn rộng
hơn nữa. Nhân dịp nói tới tiếng của các cán bộ, tôi lại nhớ tới
hai tiếng đội ngũ được dùng để gọi chung một tập thể nào đó như
đội ngũ thanh niên, đội ngũ cán bộ, đội ngũ y tá, đội ngũ ký
giả... và luôn cả đội ngũ trí thức. Điều tôi cho là bất ổn ở đây
là trí thức mà được xếp thành đội ngũ thì làm sao làm trí thức
được. Cũng vậy, người ta thường dùng hai tiếng “chức năng” cho
mọi trường hợp mà không dùng hai tiếng hữu trách: cơ quan chức
năng, giới chức năng, thay vì cơ quan hữu trách, giới hữu
trách..., từ đó các cán bộ của chế độ khi được trao nhiệm vụ chỉ
lo cho chức năng, quyền hạn và nhất là quyền lợi của cá nhân và
gia đình mình... mà không còn trách nhiệm nữa nên tha hồ lạm
dụng địa vị, quyền thế của mình, vì có làm lỗi thì chỉ bị “điều”
sang chỗ khác, có khi còn tốt hơn chỗ cũ nữa. Còn biết bao nhiêu
những từ ngữ khác như thành viên, tham quan, đăng ký, sâu sắc,
tuyến đường, thập kỷ... Cái gì cũng thành viên dù còn có bao
nhiêu từ ngữ khác như hội viên, đoàn viên, ủy viên, nhân
viên..., rồi lúc nào cũng đăng ký thay vì nôm na ghi tên, ghi
danh, để dành đăng ký cho những gì liên quan tới các sổ sách, sổ
bộ của cơ quan công quyền nhằm lưu trữ lâu dài như đăng bộ...;
đã đường lại còn tuyến, đường bộ, đường sắt, đường thủy là đủ
rồi cần gì phải tuyến với tuyến đường bộ, tuyến đường sắt, chưa
kể tuyến và đường hoàn toàn khác nghĩa nhau. Chưa hết, đã tuyến,
đã đường lại còn trục: tuyến đường trục bắc nam, chưa kể tới sâu
xa và sâu sắc, chất lượng và phẩm chất...
Trở lại chuyện mùa xuân và tháng
giêng. Cũng trong bài học thuộc lòng kể trên, câu thứ hai của
bài này là:
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội
hè...
Hội hè trong sinh hoạt cổ truyền ở
Miền Bắc Việt Nam tượng trưng cho tinh thần và cuộc sống hồn
nhiên, vui tươi, thoải mái, hoàn toàn tự do không bị ràng buộc
của người Việt truyền thống sau những ngày lao động vất vả với
đầy dẫy những lo âu mà trên từ vua chúa, quan lại, dưới đến các
nhà đạo đức tôn sùng Khổng giáo hay các bô lão ở các xã thôn đều
phải tôn trọng. Người ta đã mở hội để không chỉ riêng dân trong
làng vui chơi mà luôn cả dân từ các làng khác hay từ các thành
phố về tham dự.
Mùa
xuân ấy ông tôi lên tận tỉnh
Đón tôi về
xem hội ở làng bên...
Đoàn Văn Cừ (Đám Hội)
Những hội hè này trong suốt thời Pháp
thuộc vẫn đều đặn được mở ra với tất cả những tiết mục mà một số
vượt ra ngoài trí tưởng tượng của người trẻ của thế hệ hiện tại.
Trừ một số hội chùa hay một số hội đền, đa số các hội được người
ta “trẩy” để vui chơi, để gặp gỡ và nếu có phải lễ thì lễ ít hơn
là hội. Chữ “lễ” do đó hầu như không được dùng mà chỉ có chữ hội
hay hội hè hay hội hè đình đám cho cả trăm hội ở khắp trong nước
ở miền núi cũng như khắp miền xuôi, từ hội đền như Hội Đền Hùng,
Hội Đền Kiếp Bạc... hội chùa như Hội Chùa Hương, Hội Chùa Keo...
hội phủ như Hội Phủ Giầy... đến các hội làng. Tất cả đều là
“hội”. Không hề có hội lễ hay “lễ hội”. Lý do rất đơn giản. Đó
là vì hội là mục đích chính và lễ là phụ. Người ta “trẩy hội” là
để vui chơi, để xem hội. Còn lễ chỉ là cái cớ. Có thì càng tốt
mà không lễ thì cũng chẳng sao, không bắt buộc. Người Việt bản
chất rất bao dung về tôn giáo, tín ngưỡng. Không phải chỉ qua
ngôn ngữ bình thường mà qua cả thi ca, sau này là tiểu thuyết...
người ta cũng thấy phản ảnh rõ rệt điều này. Nhưng đó là chuyện
của quá khứ. Sau một thời gian bị lãng quên vì chiến tranh và vì
cách mạng, các hội hè cổ truyền của người Việt, do nhu cầu bảo
tồn truyền thống của dân tộc, nhu cầu phát triển du lịch hay nhu
cầu thuần túy chính trị... đã được mở lại. Đây là một cố gắng
đáng khích lệ. Nhưng từ hội hè theo đúng tinh thần truyền thống
Việt Nam của những biến cố đặc trưng cho một nếp sống đã tồn tại
từ nhiều ngàn năm, đổi sang lễ hội, người ta đã vô tình làm mất
đi ý nghĩa hồn nhiên, căn bản ban đầu của một hình thức biểu
hiện cuộc sống tập thể ở nông thôn thời xưa của người Việt.
Ngôn ngữ là phương tiện để truyền đạt
nhưng không phải chỉ là thuần túy truyền đạt mà còn là một biểu
hiện của tinh thần, của nếp sống và rộng ra là của văn hóa của
người sử dụng và của dân tộc sử dụng ngôn ngữ ấy. Coi là phương
tiện, người ta có thể sử dụng nó một cách tùy hỷ nhưng điều này
chỉ nên áp dụng cho những gì liên hệ tới cuộc sống tạm bợ hàng
ngày. Đối với những phạm vi khác liên hệ tới quá khứ và tương
lai lâu dài hơn và ở một trình độ cao hơn, trong sinh hoạt trí
thức, tâm linh..., người sử dụng phải vô cùng thận trọng hầu
tránh làm mất đi những tính cách chính xác, trong sáng, êm tai
và phong phú, của ngôn ngữ mà mình yêu mến và có may mắn được
dùng vậy. Việc làm nói ra thì dễ nhưng thực hiện và thường xuyên
thực hiện, bắt đầu tự nhắc nhở là nhắc nhở người khác không dễ
chút nào trong khi chờ đợi một cơ quan có thẩm quyền vừa về
chuyên môn, vừa có tính cách đại diên cho toàn thể dân tộc, một
Hàn Lâm Viện Quốc Gia chẳng hạn. Điều này ở Miền Nam thời trước
năm 1975 người ta đã từng bắt đầu thực hiện với sự tồn tại của
một ủy ban soạn thảo quy chế cho viện này trong Hội Đồng Văn Hóa
Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa do Linh Mục Cao Văn Luận, nguyên Viện
Trưởng Viện Đại Học Huế làm chủ tịch. Buổi họp đầu tiên của ủy
ban này rơi đúng vào một ngày sau khi Ban Mê Thuột thất thủ và
Linh Mục Luận, thay vì tuyên bố khai mạc buổi họp, đã buồn rầu
thông báo tin không vui này cho mọi người hiện diện, trong đó có
người viết bài này. Tưởng cũng nên viết thêm là ngoài dự án
thành lập Hàn Lâm Viện, ở Miền Nam còn có Ủy Ban Điển Chế Văn Tự
thuộc Bộ Quốc Gia Giáo Dục mà người viết cũng có chân trong ủy
ban này. Cách làm việc của ủy ban này gồm có hai phần. Một phần
do các nhà chuyên môn của các ngành học đảm trách, phần kia
thuộc các vị túc nho lão thành tinh thông chữ Hán, chữ Việt và
ngôn ngữ học như các giáo sư Nghiêm Toản, Lê Ngọc Trụ... Hai bên
hợp tác với nhau. Một bên vì hiểu rõ về chuyên môn của mình nên
có trách nhiệm tìm kiếm những chữ thích hợp trong tiếng Việt.
Bên kia có nhiệm vụ duyệt lại chữ Hán, chữ Việt và trên bình
diện ngôn ngữ học có chính xác và hợp lý hay không. Cũng vậy với
các tiếng mượn từ tiếng Tầu hay tiếng Nhật, không phải tiếng nào
cũng mượn đại cho nhanh việc, cho đỡ tốn tâm sức, thì giờ.
Bên cạnh Ủy Ban Điển Chế Văn Tự còn có
các đại học lo phần riêng của mình nhằm đáp ứng nhu cầu Việt hóa
và hiện đại hóa chuyển ngữ ở bậc đại học thay thế cho tiếng
Pháp. Nên biết thêm là do thận trọng, ngay từ đầu qua tập Danh
Từ Khoa Học của Học Giả Hoàng Xuân Hãn, người ta đã không dùng
danh từ thuật ngữ để gọi các từ ngữ chuyên môn vì qua chữ thuật
người ta nghĩ ngay đến xảo thuật, ma thuật, quỷ thuật, đến sự
khéo léo để nhất thời đánh lừa tai, mắt mọi người, những gì
thuộc phạm vi hữu hình bên ngoài mà người ta có thể thấy qua
giác quan thay vì trí tuệ, tư duy, trừu tượng nằm sâu trong đầu
óc, trong nội tâm con người; nói cách khác liên quan tới tôn
giáo, triết học, khoa học... Một thí dụ là chữ “cảng”
trong các danh từ nhập cảng và xuất cảng. Chữ cảng không chỉ có
nghĩa là cửa sông, cửa biển hay vũng biển nơi tàu bè có thể ra
vào ẩn náu được mà còn có nghĩa là nơi đó phải được trang bị cho
tầu bè có thể cập bến, có thể rỡ hàng, có kho chứa hàng, có cầu
lên xuống cho hành khách, có cơ quan kiểm soát hàng hóa, hành
khách và thu thuế... mà chữ khẩu không bao hàm những ý nghĩa cần
phải có nếu ta muốn đối chiếu chữ này với chữ “port”
trong tiếng Anh hay tiếng Pháp mà chữ “khẩu”
không có. Chính vì vậy mà chữ “cảng” còn được dùng để gọi
những phi trường quốc tế như Phi Trường Tân Sơn Nhứt. Tôi viết
“Nhứt” với chữ “ư” chứ không với chữ “â” như ở thời Việt Nam
Cộng Hòa và trước đó, mà ngay sau Việt Nam Cộng Hòa không còn
nữa, do sự cao ngạo của những kẻ chiến thắng từ Miền Bắc vô.
Điều này người ta có thể phối kiểm được bằng cách so sánh tên
chính của phi trường này trên các hình ảnh còn giữ được với tên
hiện tại. Nên nhớ tiếng “Nhứt” này có một thời được dùng để nhận
diện người Bắc khi có phong trào phân biệt Nam, Bắc hồi giữa
thập niên 1940, từ đó đã gây khó khăn cho những “người Bắc cũ”,
những người đã vô Nam từ lâu, từ trước năm 1954. Phi Cảng Tân
Sơn Nhứt vì vậy đã được dùng thêm thay vì chỉ dùng Phi Trường
Tân Sơn Nhứt. Những người đã làm công việc đổi tên này vì phải
chăng vì quá say mê chiến thắng đã không quan tâm đến hậu quả
tâm lý của người Miền Nam, đã quên lời người xưa dạy là “Chửi
cha không bằng pha tiếng”.
Vấn đề tuy nhiên còn cần phải được bàn
thảo nhiều hơn nữa. Chính vì vậy, như đã nói ở trên, trong những
năm cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam, người ta không
chỉ mới nghĩ tới mà đã bắt đầu thực hiện việc thành lập Hàn Lâm
Viện qua một ủy ban thuộc Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục với Linh Mục
Cao Văn Luận làm chủ tịch mà người viết có dịp tham gia. Cái dễ
thương của Miền Nam nằm ở đó. Người ta vẫn chiến đấu và người ta
vẫn xây dựng; người nào việc đó nghiêm chỉnh làm việc trong phạm
vi riêng của mình. Người lính làm việc của người lính, thày cô
giáo làm việc của thày cô giáo; nhà văn, nhà thơ, người làm nhạc
vẫn tha hồ sáng tạo. Miền Nam nhờ đó vẫn đứng vững và vẫn phát
triển về mọi phương diện, dù chỉ có hai mươi năm với những thành
tích hiện tại ít ai có thể phủ nhận được. Giáo dục và âm nhạc là
hai thí dụ. Điển hình là cho đến nay nói tới nhạc xuân, người ta
vẫn không thấy một bài nào có thể sánh được chứ chưa nói thay
thế cho bài Ly Rượu Mừng của Phạm Đình Chương và biết bao nhiêu
ca khúc khác mà người ta gọi chung là Nhạc Vàng của một thời
không còn nữa.
Cuộc sống vừa tôn trọng vai trò và
những nguyên tắc cơ bản của lý trí vừa phong phú về tình cảm của
Miền Nam, được thể hiện trong mọi phạm vi sinh hoạt của con
người, khiến cho vùng đất của tự do sau này, dù không còn nữa
nhưng vẫn luôn luôn giữ được những giá trị riêng của nó, giống
như những giá trị của văn minh Hy Lạp, La Mã của thế giới Tây
Phương trước sự xâm nhập của các Rợ Phương Bắc. Làn Gió Nam hiền
hòa, mát mẻ vẫn phần nào đem lại những giờ phút thoải mái cho
mọi người, thay thế cho những đợt gió bấc với những ngày mưa dầm
ẩm ướt và lạnh lẽo, buốt tận xương mà cổ nhân ta, nếu người viết
không nhớ lầm, Vua Lê Thánh Tông, đã một thời diễn tả:
May
được nồm nam cơn gió thổi,
Đàn ta, ta
gảy khúc nam nghe.
hay sau này, dưới thời Trịnh Nguyễn,
Tây Sơn:
Lậy trời cho cả gió nồm,
Cho thuyền Chúa Nguyễn căng buồm thẳng ra.
Phạm Cao Dương
Quận Cam, những ngày gió lạnh cuối năm 2018
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trung tâm lưu trữ các Ngày lễ mừng Bổn mạng BCND/QLVNCH...
|
Hình nền: Xuân Kỷ Hợi. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by ddcb chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật,
December 30, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang