Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề:
chuyện bắc–nam
Tác giả:
Jeanne Kim
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Thân tặng các chị có chồng Bắc
Kỳ Di Cư.
–Jeanne Kim
Người
Sài Gòn chia người Bắc vào Nam thành hai loại, loại vào Nam
năm 1954 và loại vào Nam sau sự kiện 30/4/1975. Sau khi phân
chia như vậy, họ coi người Bắc 54 là một phần của họ, còn
người Bắc 75 là dân xứ lạ.
Thời 1954 người Bắc di cư
vào Nam thường sống từng vùng do chính phủ chỉ định, hướng
dẫn rồi sau đó mới từ từ lan ra khắp nơi. Người miền Nam học
được người Hà Nội nhiều điều: Cần kiệm, lễ giáo, nếp sống
thanh lịch quý phái, và tri thức vì đa số Bắc 54 là trí
thức, thi sĩ, văn sĩ, doanh nhân, và theo công giáo.
Đặc biệt, người miền Bắc 54 đã đem cho miền Nam một di sản
khổng lồ, đó là văn hoá và nghệ thuật mà trước đó miền Nam
hầu như không có. Đổi lại, người miền Bắc vào Nam cũng học
được của người Sài Gòn nói riêng và người miền Nam nói chung
nhiều thứ như: Sự giản dị, chân thật, tốt bụng, phóng
khoáng, không câu nệ bắt bẻ, hay khó khăn. Và cả hai miền
học được của người miền Trung tính chịu thương chịu khó, đùm
bọc giúp đỡ lẫn nhau, cái đùm bọc tình đồng hương. Cả ba
miền thời đó hoà nhập với nhau lúc nào không hay...
Cuối cùng người Nam coi người Bắc 54 đã trở thành người miền
Nam. Ngược lại, dân Bắc 75 mặc dù đã sống trong Nam đến 45
năm (1975–2020), thậm chí đến 100 năm sẽ vẫn mãi mãi là...
người Bắc chứ không thể nào thành người của miền Nam được vì
họ là con người mới xã hội chủ nghĩa, sản phẩm được Tuyên
giáo chế tạo ra... khác hẳn với tính cách của người Nam.
Hồi nhỏ, mỗi lần nghe hai chữ “Bắc Kỳ” tôi tự nhiên thấy
mất cảm tình. Những hình ảnh của các bà, các cô khăn quấn mỏ
quạ, răng đen ánh hạt huyền, còn các ông thì hút thuốc lào
kêu két két, đi đâu cũng đủng đẳng đeo theo cái điếu cày,
hình ảnh của những màn đánh ghen, chửi thề nghe như hát cải
lương mà không hiểu gì, của cái tính keo kiệt dân xứ Bắc là
những gì vẫn thường ám ảnh trong đầu bọn trẻ chúng tôi.
Trong trường gặp mấy cô em “Bắc Kỳ nho nhỏ” là bọn Nam
Kỳ Lục Tỉnh chạy xa. Ăn uống thì một con tôm cõng ba hạt
muối, chém to kho mặn, rau muống luộc chấm mắm tôm cũng xong
một bữa cơm, dư đồng nào dắt vào ruột tượng.
Mấy nơi
dân Bắc Kỳ tụ lại sống chung với nhau như Phú Nhuận, Lăng
Cha Cả, Xóm Mới, Vườn Chuối, Vườn Xoài, Cái Sắn, Hố Nai, Gia
Kiệm thì đến “Việt cộng” trước và sau tháng 4 năm 1975 cũng
phải chào thua!
Nhà thờ mọc lên san sát, xứ này đến
xứ kia sáng sáng chuông nhà thờ thi nhau đổ có muốn ngủ
nướng cũng phải bò dậy. Vậy mà nếu ai đụng đến một chút là
“Tiên sư tổ bố nhà mày, để ông, để bà dạy cho mà biết
nhá!...” Những tài xế lái xe chạy qua ngả Hố Nai, Gia Kiệm
nhiều lần phải toát mồ hôi hột mỗi khi sơ ý để xảy ra tai
nạn.
Trở lên là những hình ảnh tôi có được về người
Bắc Kỳ. Những hình ảnh này dường như nó đã ăn sâu vào tâm
trí tôi trong suốt thời gian còn cắp sách đến trường. Sau
này nhờ ơn ông chồng Bắc Kỳ “giải phóng” mà tôi mới biết
mình sai, và cũng từ đó, tôi yêu, tôi mến người Bắc. Nếu ai
hỏi tôi, thì tôi rất hãnh diện trả lời: “Chồng em Bắc Kỳ 54
đấy!”
Nhớ lại thời còn là nữ sinh St. Paul, đa số bọn
con gái chúng tôi đều mơ mộng các chàng Taberd hay một
trường Tây vì đa số dân ở đó là con nhà giầu, công tử có
nhiều tiền, nói tiếng Pháp, và nhiều chàng còn mang song
tịch Việt–Pháp. Nhưng thói đời dường như trái ngược, phần
đông dân St. Paul chúng tôi đều bị mấy anh Bắc Kỳ “dzớt”. Có
phải là “ghét của nào trời trao của đó” không? Hay tại con
trai Bắc Kỳ dẻo mép, lỳ, và biết tâm lý con gái. Ba tôi
thường nói với chúng tôi phải tránh xa bọn con trai Bắc Kỳ.
Chúng nó nói “con kiến trong lỗ nghe bùi tai cũng bò ra”.
Nhưng nghe rồi thì khổ cả đời!!!
Riêng tôi thì chẳng
lo gì trai Bắc Kỳ theo tán tỉnh, vì cả tuần trong trường với
các Soeur. Đi về đã có tài xế đưa xe đến đón chung với chị
và em gái. Ngoài ra trong nhà còn có hai ông anh một ông đệ
tam, một ông đệ tứ đẳng huyền đai Thái Cực Đạo (Tae Kwon Do)
thì lo gì bị trai Bắc Kỳ tấn công hay bắt cóc. Còn những
ngày nghỉ lại được ba bảo chú tài xế chở về quê ngoại ở Cái
Bè để đùa chơi với sông nước, với vườn trái cây, với đồng
ruộng thẳng cánh cò bay. Đã vậy ông già tôi thuộc loại
nghiêm khắc, đi đứng, giờ giấc luôn phải rõ ràng: đi đâu,
với ai, lúc nào, và bao giờ về. Tóm lại, từ ba má đến các
anh chị tôi, và cả chính tôi “hổng” ưa Bắc Kỳ.
Ghét
Bắc Kỳ nhưng lại lấy Bắc Kỳ. Chuyện tình của tôi với chàng
trai Bắc Kỳ bắt đầu từ một chiều thứ Bảy. Hôm đó, anh Năm
của tôi, thiếu úy tùy viên cho một vị chỉ huy trưởng nào đó
về chơi và dẫn theo một sĩ quan bạn của anh. “Người đâu nước
họ, chẳng nọ thời kia”, vừa gặp tôi là cứ chăm chăm nhìn từ
đầu xuống chân làm tôi thấy mắc cỡ muốn chết. Sau này tôi
mới biết chàng là một trung úy làm trong phòng hành quân và
là bạn thân của anh Năm. Người trông lịch sự, trí thức, và
thêm chất lính nên không đến nỗi tệ. Khổ cái vừa mở miệng ra
đã biết đó là Bắc Kỳ: “Không dám ạ! Vâng! Không dám ạ!” Lại
còn gọi tôi là “bé”. Tôi nghe chàng ta nói thầm với anh Năm:
“Mày cho tao làm em rể mày nha. Em mày xinh gái quá!”
Chuyện gì thì được chứ chuyện “làm em rể” coi bộ khó.
Bởi sau lần đầu ra mắt đó, toàn bộ gia đình tôi đều “chê”
chàng. Thứ nhất, vì tôi đang có chàng võ sĩ bạn của anh Tư
trồng cây si, mà chàng là người Nam. Thứ hai, ba má tôi rất
khó về chuyện tình cảm của các con. Thứ ba, cả nhà tôi đều
không ưa Bắc Kỳ!
Nhưng đúng như lời ba tôi nói, “Bắc
Kỳ nó nói con kiến trong lỗ nghe bùi tai cũng bò ra”. Một
vài tuần sau đó, anh Năm đánh lừa chở tôi đi ăn kem với
chàng và tôi thấy “mê” cái lối nói chuyện và phong cách
người lớn của chàng. Không như những tin đồn về Bắc Kỳ keo,
Bắc Kỳ kẹo kéo, chàng chi cách rất hào sảng, mặc dù mỗi lần
đi chơi như vậy với anh Năm và với tôi, chàng đã phải dành
dụm, và nhịn ăn cả nửa tháng lương. Còn về cái tài thu hút
và kể chuyện thì khỏi nói. Người ta chỉ cần cái miệng, nụ
cười, và ánh mắt là đủ để làm mê mẩn lòng người rồi, nhưng ở
chàng thì có cả ba. Nụ cười và ánh mắt chàng trông rất đa
tình, còn cái miệng thì dẻo như kẹo kéo. “Bé! Bé của anh”,
“Bé muốn gì anh mua tặng bé!”, “Nhìn bé là trái tim anh thổn
thức!”... Một hôm chàng trổ tài nói tiếng Pháp với anh Năm
và tôi. Chàng thừa biết là gia đình tôi ai cũng học trường
Pháp từ nhỏ, nhưng không biết vì cao hứng hay vì để tán
tỉnh, chàng kể câu chuyện tiếng Pháp mà mãi đến hôm nay mỗi
khi nhớ lại, tôi vẫn thấy cái xạo, nhưng lại đã trót yêu cái
xạo của chàng.
Chàng kể là một anh lính nọ trong
phiên gác đêm ở bìa rừng, không biết vì ngủ gật hay vì sợ,
anh nổ súng khiến cả đồn lính nhốn nháo. Cấp chỉ huy của anh
ra hỏi, anh diễn tả bằng một loại tiếng Pháp nhà quê:
“Lúy bớp, lúy pá bớp. Lúy gầm, lúy gừ, lúy măng dê me
xừ, lúy măng dê mỏa, mỏa tia rê lúy”.
Tôi và anh Năm
nghe xong nhìn nhau không hiểu gì. Anh Năm hỏi lại:
Mày nói gì, tụi tao học tiếng Pháp từ nhỏ sao nghe không
hiểu?
Chàng tỉnh bơ trả lời:
– Tại tiếng Pháp
cậu không tới. Này nhá, anh lính đó trả lời vị chỉ huy là
trong bóng đêm anh nhìn thấy một con cọp tiến vào đồn lính
nên anh phải nổ súng. Cọp nghe tiếng súng đã bỏ chạy.
Thấy anh Năm và tôi còn ngơ ngác, chàng lên mặt cắt
nghĩa tiếp:
– Lúy bớp (nó là con bò), lúy pá bớp (nó
không phải bò), lúy gầm, lúy gừ. Trông như bò mà không phải
là bò lại còn biết gầm, biết gừ, biết ăn thịt ông, và ăn
thịt tôi nữa (lúy măng dê me xừ, lúy măng dê mỏa) thì là con
cọp chứ con gì. Vì vậy mà phải bắn nó.
Nghe chàng cắt
nghĩa, anh em tôi cười quá chừng. Thì ra đó là câu truyện
ông thày Pháp văn của chàng đã bịa ra để dạy về động từ
manger (ăn) và động từ tirer (bắn).
Chuyện tình của
tôi và chàng vừa bước vào những chặng đầu êm ả của bốn mắt
nhìn nhau không nói ấy, bỗng nhiên biến cố 30 tháng 4 năm
1975 ập xuống cho cả miền Nam. Chúng tôi mất liên lạc.
Sau khi tốt nghiệp năm đó, tôi về nhà giúp ba má, trông
nom công việc nhà, vì ba tôi không muốn để bọn cộng sản nhòm
ngó. Nếp sống đài các tiểu thư của tôi và anh chị em tôi
chấm dứt từ đây. Dưới những khắc nghiệt của đời sống trong
chế độ cộng sản, năm 1980 ba má lo cho tôi và em trai Út
vượt biên. May mắn chuyến đi tuy vất vả nhưng trót lọt,
chúng tôi qua đến Thái Lan trong tình trạng rất khó khăn.
Phần vì quen lối sống tiểu thư nên hòa mình trong [môi]
trường như vậy thấy khó sống quá. Nhưng rồi cũng phải sống.
Lo lắng về những chuyện gì sẽ xảy ra cho mình và em trai
mình trong những ngày tháng kể tiếp, và hôm đó sau thánh lễ
Chúa Nhật, tôi đang còn nán lại dưới chân đài Đức Mẹ lòng
tràn đầy khổ đau thì bỗng nhiên có ai động nhẹ vào vai. Quay
lại thì là chàng.
– Bé sang đây bao giờ, sao không
thấy đến trình diện Ban Trại Trưởng?
– Mới tới hồi
qua. Ủa mà sao anh cũng ở đây?
– Chuyện dài nhân dân
tự vệ, để mai mốt rảnh anh kể cho nghe. Bây giờ “bé” ở khu
nào? Cần gì cho anh biết nào?
Thì ra sau khi miền Nam
mất, chàng trốn lên Hố Nai rồi Gia Kiệm, và sau cùng xuống
Cái Sắn ở ẩn tìm đường vượt biên. Ba lần thất bại, bị rượt
bắt thoát chết. Lần thứ 4 may mắn qua được Thái Lan. Nhờ gốc
gác nhà binh, lại thêm chút vốn liếng Anh Văn, chàng đang
làm thiện nguyện cho cơ quan thông dịch của trại. Tôi cũng
nhờ có tiếng Pháp, nên được chàng giới thiệu vào làm giúp
thông dịch các hồ sơ đi Pháp. Cũng nhờ ở đây tôi mới khám
phá ra khả năng tiếng Pháp của chàng chỉ là vừa đủ để thi tú
tài Việt. Tiếng Pháp mà sau này tôi vẫn chọc quê chàng là
tiếng Tây “Tây Ninh”. Mỗi lần như vậy, chàng đều chống chế:
“Anh mà không xổ nho như vậy thì sao có người lúc đó tròn
xoe con mắt ngó anh để anh tìm thấy hình ảnh của anh trong
đôi mắt đó chứ?” Nghe mà thấy ghét.
Khi nghe tin tôi
quen lại với chàng ở xứ lạ, quê người, cả nhà đều lo lắng
chỉ sợ tôi bị gạt. Riêng ba má tôi khi nghe anh chị em nói
tôi gặp lại chàng đã phản ứng rất gay gắt: “Thà nó lấy ba
Tàu, Tây đen, Mỹ, Thái, Miên, Lào gì cũng được. Lấy Bắc Kỳ
là tao không ưng.” Có lẽ ông không có thiện cảm với người
Bắc vì ông hay kể cho chúng tôi nghe ở đồn điền Bàu Cá của
ông, hàng đêm vẫn có những người dân di cư chung quanh nhảy
rào vào ăn cắp trái cây, gây thiệt hại nhiều cho ông. Ông
còn nói, làm xui với Bắc Kỳ họ nói gì tao không hiểu. Tao
không biết ăn thịt chó. Tao không ăn được rau muống và mắm
tôm...
Được gia đình chấp thuận hay không, cuối cùng
thì tôi cũng từ giã chàng sang định cư ở Orange County,
California sống với người cậu họ. Tại Mỹ chúng tôi thường
xuyên liên lạc với nhau qua thư từ và điện thoại, nhưng
chuyện tình cảm thì không thể tiến xa được một bước. Tôi vừa
đi làm nhà hàng vừa đi học, còn chàng cũng vừa lao động vừa
đi học. Một sự tình cờ xảy ra khiến cho tình cảm của chúng
tôi đi vào thêm những rắc rối. Số là ông cậu bà mợ của tôi
rất mê nhảy đầm. Tuần nào không đi nhảy thì nhớ. Nhưng đi
nhảy đầm riết kiếm đâu ra tiền, đành bắt tôi trở thành cái
mỏ vàng khai thác. Bởi vì khi tôi đi với cậu mợ thì đương
nhiên có những chàng khác cùng đi, và như vậy cậu mợ tôi
được vào cửa free.
Hồi đó một chàng tự xưng là không
quân theo bám tôi rất sát. Hầu như tuần nào cũng ghé nhà cậu
mợ để đón chúng tôi đi nhảy đầm. Đã có lần chàng hào sảng
đưa cho tôi mấy cái Visa và Credit Card, cho tôi luôn cả
passwords [mật mã] của chàng và nói tôi muốn xài gì tùy ý.
Mợ tôi thấy vậy nói với tôi: “Dại gì mà không xài. Tiền cho
gái mà!”, nhưng tôi không muốn vì trong tim tôi lúc này vẫn
chỉ có chàng. Tôi đã trả lại những thẻ đó, và cầu cứu chàng.
Nghe tôi nói, chàng bảo tôi cho chàng vài ngày để thu xếp
công việc và sang với tôi. Sở làm chàng không có chi nhánh ở
California, nên chàng đành phải làm đơn thôi việc. Nhưng có
một điều khiến tôi lo sợ, đó là nghe rằng ông không quân này
dân Bình Định có võ dữ lắm. Và tôi đã nói với chàng:
– Ông phi công đó có võ anh ơi! Coi ổng cũng ngầu lắm.
– Nó là lính, anh cũng là lính. Nó có võ, anh cũng có võ
chưa chắc ai hơn ai?
Nghe chàng nói chàng có võ, tôi
nghĩ lại vốn liếng tiếng Pháp của chàng, nên hỏi chàng:
– Em hỏi thiệt anh đừng buồn nghe. Anh có võ thiệt
không? Em sợ anh có võ cũng như anh biết tiếng Pháp vậy.
Nghe vậy, chàng không buồn mà còn cười như nắc nẻ ở đầu
dây:
– Tiếng Pháp của anh đâu đến nỗi tệ chứ. Miễn
sao có người học trường đầm nghe mà không hiểu là đủ rồi.
Qua California cỡ chừng 3 tháng thì chàng mới tìm được
việc làm và ổn định nơi ăn chốn ở. Nhờ chàng, tôi tự tin hơn
và nhất định không đi nhảy đầm nữa. Cũng nhờ một vị hảo tâm
đã nhận tôi làm con nuôi giúp đỡ về kinh tế, nên tôi và cậu
Út ra ở riêng để trở lại học full time. Điều này làm phiền
lòng cậu mợ.
Thời gian quen nhau cũng đã dài, và đã
làm hao mòn nhiều kiên nhẫn, tuy nhiên, việc cưới xin vẫn
dậm chân tại chỗ. Cả nhà chỉ có anh Năm là tán đồng, vì anh
biết chàng từ trong đơn vị. Ngoài ra người chống đối nhất
vẫn là anh Tư vì bạn anh Tư chính là người từng trồng cây si
trước cửa nhà tôi, và đến bây giờ anh vẫn còn độc thân. Mấy
năm trước khi có dịp về thăm quê, tôi gặp anh sang chơi và
hỏi anh sao anh không lo lập gia đình. Anh trả lời: “Anh đã
có một người rồi, nhưng người ấy lại bỏ anh đi lấy chồng.”
Tôi rất trân trọng sự chung tình của anh, nhưng đối với tôi
người chồng Bắc Kỳ 54 vẫn là number one.
Sau gần 5
năm chờ đợi, có lẽ ba tôi sợ tôi ế chồng và làm gái già ở
ngoại quốc chăng. Cũng nhờ có ông cậu bên Mỹ nói vô, và anh
Năm ở Việt Nam nói vào, ba tôi cuối cùng cho chúng tôi tổ
chức đám cưới. Sau ngày cưới, chúng tôi thường xuyên thư từ
và điện thoại với ba má tôi, nên lần lần ông đã bị chàng cảm
hóa. Trước khi ông qua đời 10 năm trước đây, ông đã sang Mỹ
và ở với chúng tôi 2 tuần. Mặc dù tôi cũng có các anh chị em
khác ở Mỹ, Pháp, Bỉ, Hòa Lan nhưng ông nhất định dành thời
giờ ở với chúng tôi. Không biết chàng làm gì với ông bố vợ
mà trước khi về lại Việt Nam, lúc chỉ có hai cha con, ông đã
nói với tôi một câu rất yên ủi: “Mày có phước đa. Kiếm
được thằng Bắc Kỳ tốt quá ta. Ba biết vậy gả phức mày cho nó
từ sớm để mày đỡ cực khổ!” Nhưng có lẽ ông ưng ý nhất
là một lần sau khi ăn cơm xong, chàng lao vào bếp rửa bát.
Thấy vậy, ba tôi nói với chàng:
– Việc đàn bà con
gái, sao làm chuyện đó làm gì con?
Nghe ba tôi nói
với chàng bằng tiếng “con” ngọt ngào, thân thương quá khiến
tôi rươm rướm nước mắt. Và chàng đã gọn ghẽ đáp lại:
– “Việc trong nhà là việc chung thưa ba. Con chỉ sợ con
gái ba mệt thôi!”
Nói đến ông xã của tôi, Bắc Kỳ
thứ thiệt. Theo cha mẹ di cư vào Nam năm 1954 bằng tàu há
mồm. Sống và lớn lên ở Gia Kiệm, sau đó lên Sài gòn học và
đậu Tú Tài II ban Toán rồi đi lính làm sĩ quan. Tính tình
cẩn thận và tiết kiệm chứ không keo kiệt. Hồi đầu tôi thường
lẫn lộn mấy chữ tiết kiệm và keo kiệt nên hiểu lầm chàng. Dĩ
nhiên chàng hào hoa và nói năng khéo léo. Thêm vào đó là có
tính khôi hài hết xẩy. Chịu khó và thực tế hơn mấy công tử
Taberd ông xã của vài đứa bạn tôi.
Sau những năm
tháng chung sống, đúng như lời ba tôi đã nhận xét, tôi may
mắn và hạnh phúc vì có người chồng với ý thức trưởng thành
và sự chung thủy tuyệt đối.
Nói “Trai Bắc Kỳ lấy vợ
Nam Kỳ phè cánh nhạn” với tôi chỉ đúng một nửa, vì trong
trường hợp của tôi, người phè cánh nhạn chính là tôi, và các
con. Nói ra sợ mắc cỡ, nhiều hôm công việc bề bộn tôi không
kịp nấu ăn thì chàng là người đầu bếp tốt nhất. Ngoài ra còn
là ủi quần áo cho vợ con nữa. Còn việc rửa chén bát sau bữa
ăn là “chuyện nhỏ” đối với chàng.
Chàng thường nói:
“Vợ cũng như chồng, ai cũng phải có trách nhiệm chung. Trong
gia đình, ai cũng mệt, cũng cực cả, nên làm gì được cho nhau
thì cố mà làm. Tình yêu là cái ‘chó’ gì khi chỉ nói cái
miệng!”. Tôi thích nhất câu nói kiểu Bắc Kỳ này của chàng.
Nói cho đúng Bắc, Trung, hay Nam cũng tùy từng người. Và đó
là lý do tôi vẫn tự hào “Chồng
em là Bắc Kỳ 54”.
Jeanne K
nguồn: bình minh
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by lý trung tín chuyển
Đăng ngày Thứ
Sáu, May 30, 2025
tkd. Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH