Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
qh30t4đ
Tác giả:
Nguyễn Thị Thái Hòa
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Sau ngày mất nước người anh còn
lại bị bắt đi “cải tạo”. Anh tôi cũng như ba tôi trước sau đều
phục vụ tại Tiểu Đoàn 12 Pháo Binh. Tuy là sĩ quan cấp úy, nhưng
không hiểu sao anh tôi lại bị đưa ra Bắc.
Đầu năm 1977 gia đình tôi mới nhận được
tin và xin giấy đi thăm nuôi. Gia đình đơn chiếc, nên tôi phải
thay Mẹ làm “thân cò” lặn lội ra Bắc tìm anh Hai.
Nói là đi tìm vì thực sự tôi chưa biết
đích xác là anh tôi đang ở đâu? Sau tháng Tư Đen, trong miền Nam
cũng như ngoài Bắc nhà tù CS mọc lên như nấm dại. Có những nhà tù
chúng nó dựng lên chưa kịp đặt tên thì những người lính miền Nam
“bị gãy súng” đã đầy ắp và người Tù cũng bị di chuyển liên miên.
Tuy rằng khi nhận tin thân nhân mình ở
chỗ này, nhưng khi ra tới nơi thì họ đã bị chuyển đi nơi khác nên
mỗi khi đi thăm nuôi mà gặp ngay được người nhà của mình đúng như
lời nhắn thì thật là hiếm.
Tôi nghe ngóng, lần mò hỏi thăm mười
mấy người lối xóm và theo họ đi ra Bắc tìm thăm thân nhân. Ai
cũng tay xách nách mang, trên mặt người nào cũng đầy vẻ lo âu mệt
mỏi. Phương tiện di chuyển là xe lửa, xe đò nhưng rất khó khăn
nên phải mất hơn mười ngày mới ra tới Hà Nội. Chưa ra tới nơi,
chưa kịp gặp thân nhân thì những giỏ quà của chúng tôi bị bọn
công an dọc đường tịch thu hơn phân nửa. Có người mất sạch!
Trong đoàn người đi tìm thăm thân nhân
này có tôi là trẻ nhứt, ốm yếu nhứt. Hỏi thăm đủ nơi, đủ chỗ, có
khi mất thêm đôi ba ngày nữa mới tìm tới được nơi nhốt thân nhân
của mình. Cũng là may mắn, một số người đi chung tìm được thân
nhân của họ, tôi thì tìm được nơi anh tôi bị giam giữ là một vùng
đất xa tít tuốt trên Cao Bằng–Lạng Sơn.
Tới nơi thì trời đã sẩm tối, đoàn
người ngồi chờ trong một cái chòi tranh phía ngoài trại tù. Đâu
chừng một giờ sau, một gã công an xuất hiện. Với cái giọng Nghệ
An trọ trẹ nặng như đeo đá, gã gọi từng người, trình đủ thứ giấy
tờ, hạch hỏi đủ thứ chuyện, rồi đến cái màn lục xét những giỏ đồ
thăm nuôi, và sau cùng mới gọi người tù ra.
Tôi sốt ruột vì ai cũng được gọi gặp
thân nhân mà tên của anh tôi thì chẳng nghe... Lo âu, mệt & đói,
làm hai mắt hoa lên, đầu óc nặng trĩu, hết đứng lên ngồi xuống,
trong lòng như lửa đốt. Thấy những người cùng đoàn đang khóc
mừng, tíu tít hỏi thăm thân nhân họ, trong lòng tôi cứ như bị kim
châm.
Ngơ ngác
chưa biết tìm ai để hỏi. Bỗng có một gã công an đến gần tôi ra
lịnh:
– Người
nhà của cô bị nhốt chỗ khác, xách đồ đi theo tôi...
Như có sức mạnh vô hình, tôi quên mệt.
Rất nhanh, đứng dậy xách hai giỏ đồ đi theo.
Trời tối như mực. Gã công an mang súng
đi trước với cái đèn pin nhỏ:
Quanh co một đỗi khoảng chừng năm mười
phút cách nhà tù. Tôi hỏi:
– Thưa ông, gần tới chưa?
Gã không trả lời [mà] lầm lủi đi
tiếp.
Thêm một
đoạn nữa cũng đâu chừng năm phút gã dừng lại, tôi nghe như có
tiếng nước chảy của một con suối nhỏ, một tên đứng phía dưới
khoát nước lên nói:
– Ê, dừng lại đây đi!
Có tiếng xì xào của vài tên công an nữa
đang chờ sẵn ở đó. Chúng nó hỏi gã dẫn đường:
– Tới rồi à?
Gã công an dẫn đường ra dấu cho tôi
đứng lại.
Tôi
sốt ruột hỏi:
– Dạ thưa ông chừng nào thì tới chỗ anh tôi ở?
Chúng nó phá lên cười rồi nói:
– Gấp gì, đằng nào cô cũng gặp người
nhà mà, ở đây “ủng hộ” chúng tôi một tí đi.... đã!
Chúng nó kéo dài chữ “đã” ra và cười hô
hố...
Tôi chưa
kịp phản ứng gì thì chúng đã xúm lại, giựt hai giỏ xách đồ của
tôi liệng ra xa, lột áo quần, đè tôi xuống, hai thằng trong bọn
chúng đứng phía trên đầu tôi, mỗi thằng một bên, dùng hai chân
đạp mạnh lên hai cánh tay giang thẳng của tôi cho một thằng khác
hãm hiếp.
Sau
mỗi một thằng, chúng nó bắt tôi xuống con suối nhỏ đó rửa ráy,
rồi leo lên cho thằng khác làm tiếp.... Giữa núi đồi hoang vu,
giữa đồng mông hiu quạnh; kêu trời, trời chẳng thấu; kêu đất, đất
chẳng nghe.
Với bản năng sinh tồn tôi cắn răng mềm người chịu đựng, nước mắt
ứa ra nhưng không dám kêu la, không dám kháng cự mặc cho một lũ
“đười ươi” sáu, bảy thằng “phóng uế” lên thân xác mình... Lòng
thầm mong sao cho chóng qua tấn tuồng bỉ ổi này!
Trước khi kéo nhau đi, chúng vỗ vai
nhau cười ngả nghiêng, cười thỏa mãn, cười man rợ, giọng cười của
lũ ác quỷ hiện hình, một tên trong bọn chúng quay lại hăm dọa:
– Liệu mà câm mồm lại nhá...
Khi chúng bỏ đi, tôi lăn mình xuống
suối để rửa cho hết những vết dơ trên người. Mặc lại áo quần, mò
mẫm trong bóng tối tìm lại hai giỏ đồ...
Lạnh lẽo, run rẩy, toàn thân tôi đau
đớn vô cùng, hai cánh tay tôi như muốn gãy nát, tôi không đi nổi,
tôi lết từng đoạn, nhắm hướng mà lết và không biết bao lâu, khi
lết tới được trại tù thì trời cũng gần sáng.
Tôi mong mặt trời lên, mong nhìn thấy
được anh Hiệp của tôi mong trao được giỏ quà và để theo kịp đoàn
người thăm tù trở về Nam.
Vậy mà chờ cũng gần tới trưa chúng nó
mới cho gọi anh Hiệp ra.
Bằng cái giọng rất đểu cáng, một tên
công an vờ vịt nạt nộ tôi:
– Đi đâu cả đêm qua bây giờ mới mò tới?
Hết giờ thăm nuôi rồi biết chửa?!
Rồi chúng nó bảo là đã qua giờ thăm
nuôi, nên tôi chỉ được đứng bên ngoài hàng rào kẽm gai 15 phút và
được gởi giỏ đồ ăn lại.
Có gã công an dẫn đường đêm qua đứng
gần đó, hai con mắt cú vọ của nó gờm gờm nhìn tôi...
Dù tôi không được nói... nhưng nhìn
thần sắc thiểu não, nhìn bộ đồ nhàu nát lấm sình đất chưa kịp khô
trên người tôi, anh Hiệp cũng đoán được chuyện gì đã xảy ra cho
em gái mình.
Tôi biết đêm qua, khi tấm thân của tôi bị vùi dập bởi loài quỷ đỏ
thì lòng dạ anh Hiệp cũng nôn nóng từng giây chờ gặp tôi. Anh
Hiệp nhìn tôi, hai mắt đỏ rực, những tia máu trong mắt anh như
muốn nổ tung. Anh cắn chặt vành môi. Tay đấm mạnh vào ngực, rồi
nghiến răng, hai con mắt như tóe lửa quay qua nhìn tên công an.
Hai chữ “trời ơi” của anh không thoát
ra khỏi cổ họng, mà sao tôi nghe rõ mồn một, như xoáy vào tim óc
tôi, nghe như tiếng rên siết của trái tim anh.
Tôi biết anh Hiệp đau khổ đến cùng độ.
Anh nhìn tôi với ánh mắt đau đớn, thương xót đứa em gái bất hạnh
khốn khổ của mình.
Hai anh em chỉ cách nhau có một hàng
rào kẽm gai, mà sao như cách xa ngàn dặm không sao vói tới. Một
tay anh bấu vào hàng rào kẽm gai đến chảy máu, tay khác cố thò ra
ngoài tỏ dấu muốn nắm lấy tay tôi. Đầu anh gục xuống sát hàng dây
kẽm gai miệng thì cứ rên siết có một câu: Ti ơi, Ti ơi...
Tôi không nói được gì hết, chỉ nhìn anh
mà khóc. Tiếng khóc uất nghẹn của tôi như một lời xác nhận khiến
anh Hiệp càng đau, càng điên thêm. Rồi thì anh té nhào xuống,
ngất đi. Bạn Tù khiêng anh vào trong. Tôi đứng chết trân nhìn
theo, khóc nghẹn, tôi thấy máu trong lòng bàn tay anh tươm ra.
Trời hỡi, trời ơi.
Bọn công an đuổi tôi về. Tôi không muốn
về. Tôi kêu gào, tôi van xin chúng cho tôi được ở lại với anh
tôi.
Những
người đi chung trong đoàn, thấy hoàn cảnh thê lương của tôi, họ
thương hại, họ dỗ dành, an ủi, họ bảo nhau cố nán lại chờ tôi về
cùng. Họ xúm lại dìu tôi đi.
Tôi đành phải theo họ ra về mang theo
tủi hờn và nét mặt đau đớn của anh Hiệp...
Đó là lần gặp gỡ sau cùng của anh em
tôi.
Trở về
nhà, tôi sống trong những ngày tháng đau đớn trên thân xác. Kinh
hoàng trong tâm tưởng. Âm thầm đau khổ. Không dám than thở với
ai, kể cả người mẹ thân yêu của mình.
Trời hỡi, trong đoàn người cùng đi thăm
chồng, thăm cha, thăm anh em của họ, tại sao chỉ có mình tôi trở
thành nạn nhân của loài quỷ đỏ? Tại sao lại là tôi? Tại sao lại
là tôi chứ? Tại sao tôi phải nhận chịu tai họa ghê tởm đó?
Có ai hiểu thấu tâm trạng của một người
đàn bà trẻ yếu đuối sa cơ thất thế, khi rơi vào tay những tên
công an độc ác!
Nhưng trong muôn ngàn cay đắng, tôi
thầm tạ ơn Trời Đất, vì đã không có một giọt máu nào của loài quỉ
dữ thành hình trong tôi. Tôi chỉ biết lấy đó làm điều an ủi...
Và rồi mỗi lần đến kỳ thăm nuôi, trong
lòng tôi cứ đắn đo, lo lắng, suy nghĩ.
Những đôi mắt cú vọ của những tên công
an khốn kiếp, cái cảm giác kinh hoàng cứ lẩn khuất trong tâm
tưởng không thôi... Nhưng mà trời hỡi, tôi không thể không đi,
bởi hình ảnh ghẻ lở ốm đói của những người tù mà tôi được nhìn
thấy làm tôi chạnh lòng, tôi đau xót, nghĩ rằng biết đâu anh của
mình cũng sẽ như thế nên tôi không nỡ, nên lại tất tả ngược xuôi
mua sắm và chuẩn bị cho lần ra đi tới. Tôi không thể ích kỷ, tôi
nhớ tới anh Lộc anh Kính, hai người anh tôi đã chết cho tôi được
sống trong Tết Mậu Thân 1968.
Hai tháng sau cái đêm đốn mạt đó, tôi
ra thăm lần nữa thì mới hay anh Hiệp đã bị bắn chết ngay tại hàng
rào sau trại chỉ vài hôm sau khi tôi ra về. Về sau bạn tù của anh
kể lại: Khi tôi ra về rồi, một lúc sau thì anh Hiệp tỉnh lại. Lầm
lì mấy ngày không nói. Trong một buổi “học tập chính trị” anh tôi
đã không giữ được bình tĩnh, chửi bới công an khốn kiếp, lợi
dụng, hiếp dâm thân nhân của tù cải tạo, thì ngay tối hôm đó anh
tôi bị lôi ra khỏi chỗ nằm. Không ai biết anh Hiệp bị đưa đi đâu.
Đang đêm họ nghe hàng loạt tiếng súng.
Họ đoán trước được số phận của anh tôi.
Sáng sớm hôm sau, trước giờ “lao động”
Bạn Tù thấy xác anh Hiệp nát bấy bên cạnh hàng rào sau lưng trại
tù. Chúng phao tin là anh âm mưu trốn trại nên bị bắn hạ.
Họ được lịnh bó chiếu chôn cất anh...
Vô tình và oái oăm, Bạn Tù chôn anh
ngay trên phần đất mà tôi bị hãm hiếp hai tháng trước.
“Anh Hiệp ơi, Anh Hiệp ơi...”
Bạn Tù của anh để mặc tôi kêu gào, rũ
rượi bên nấm mồ mới đắp sơ sài của anh. Trước mặt mấy tên công
an, họ không dám nói lời an ủi tôi, họ không dám khóc anh.
Hơn một tuần lễ ở lại trong buôn làng
của người Nùng, sau mọi thủ tục tiền và vàng lo lót, chúng chịu
để yên cho tôi mướn người đào mộ lên, mướn họ đem xác anh tôi đi
thiêu.
Có lẽ
vì có tính toán trước giùm tôi, nên Bạn Tù chôn anh rất cạn.
Khi thấy xác anh Hiệp được cất lên, tôi
có cảm tưởng như anh tôi bị chôn sống như những người trong gia
tộc hồi Tết Mậu Thân...
Thêm một lần phải chứng kiến cái cảnh
nát lòng này.
Trời hỡi, những cái chết đau thương vẫn không buông tha những
người ruột thịt thân yêu của tôi!
Đêm hôm đó, giữa núi rừng lạnh lẽo, cô
đơn ngồi nhìn đống lửa thiêu rụi thi thể anh tôi. Đống lửa cao
ngất trời. Lửa hỏa ngục ở trần gian. Lửa thiêu đốt thân xác người
anh thân yêu của tôi. Lửa đang đốt cháy trái tim tôi.
Tôi thấy nét mặt anh tôi ẩn hiện trong
ngọn lửa... Nét mặt rạng rỡ của tuổi thanh niên. Nét mặt sạm nắng
của thời lao vào bom đạn. Dáng dấp anh trong bộ đồ lính trận,
giọng nói ồ ề mỗi lần về phép. Từ đầu thềm nhà đã lên tiếng gọi:
– Ti ơi, anh về nè.
Anh Hiệp ơi, sao không là Mẹ, là Ba, là
ông bà Nội, không là ai khác, mà gọi con Ti đầu tiên?
Trước khi bị bắn gục anh cũng gọi “Ti
ơi” có phải không?
Trời ơi, cho tới bây giờ, tôi vẫn không
thể nào quên được đôi mắt đỏ ngầu của anh tôi, vẫn không quên
được cái âm thanh thê thiết của bốn chữ “Trời ơi, Ti ơi”. Cho tới
bây giờ tôi vẫn nghe rõ, rõ lắm.
Nhưng mà tiếng tôi gọi “Trời ơi, anh
Hiệp ơi” thì không ai nghe thấy hết...
Cho đến bây giờ tôi vẫn không thể nào
quên được nét mặt đau đớn tột cùng của anh tôi khi biết đứa em
gái nhỏ bé của mình bị hãm hiếp....
***
Khi viết lại những dòng chữ này, tôi
thương, tôi nhớ vô cùng những người anh thân yêu của tôi. Những
người anh cùng chung huyết thống. Những người anh bất hạnh, vắn
số của tôi đã chết cho tôi được sống.
Anh tôi bị bắn chết đau đớn, chết không
kịp trối trăng chỉ vì lên tiếng phản đối những tên công an quỷ dữ
đội lốt người, đã hãm hiếp em gái mình.
Từ Cao Bằng–Lạng Sơn, mang tro cốt của
anh Hiệp trở lại Huế. Tôi định gửi anh lại trong phần đất hương
hỏa của Gia Tộc ở Phủ Cam, để cho anh nằm chung với những người
anh khác. Sẽ về Long Khánh nói dối mẹ rằng Anh Hiệp vẫn còn sống.
Nhưng không ngờ trên sân ga Huế, lũ
công an mọi rợ xét giỏ xách của tôi, chúng đổ tung hai trái bầu
khô mà người Nùng cho tôi để đựng tro cốt của Anh Hiệp xuống đất
chỉ vì nghi tôi dấu vàng trong đó. Tìm không thấy vàng, chúng nó
đá hai trái bầu khô văng xuống đường rày xe lửa rồi bỏ đi.
Tôi quỳ, tôi bò xuống thềm ga mong hốt
lại được phần nào tro cốt của anh tôi. Nhưng mà xác anh bay trong
gió. Xác anh bị lôi theo bước chân của những người qua lại, vô
tình.
“Anh
Hiệp ơi, đừng đi. Đứng lại đi anh Hiệp...”
Tôi khóc, tôi kêu xin anh tôi.
Nước mắt tôi rơi theo mớ xương tro cốt
tung tóe khắp nơi. Xác anh lẫn trong tóc, bám trên khuôn mặt đầy
nước mắt của tôi. Trong lòng hai bàn tay của tôi chỉ còn được một
ít thôi...
Trời hỡi, cũng trên sân ga này, tôi đã từng ôm xác của Linh, đứa
em khờ dại của tôi. Chỉ chưa đầy một năm sau, tôi lại ôm mớ hài
cốt không trọn vẹn của anh Hiệp với một trái tim tan nát...
Bao nhiêu năm tháng qua rồi, nước mắt
không bao giờ rửa sạch những nỗi đau trong lòng vì cái chết đau
thương của anh Hiệp. Người anh đau khổ, người anh yêu dấu, người
anh rất tội nghiệp của tôi.
***
Năm năm trời ngược xuôi trên nhiều nẻo
đường từ Nam ra Bắc vì thương cha già và những người anh sa cơ
thất thế lọt vào tay quỷ dữ, tôi cố gắng làm tròn bổn phận của
một đứa con, của một đứa em, mặc dù thân xác tôi chịu nhiều đắng
cay tủi nhục. Đau đớn lắm, nhưng tôi không cho phép mình ngã qụy
khi những người thân yêu của tôi đang cần tôi.
Mỗi lần nhìn người mẹ có quá nhiều đau
khổ, tôi không dám mở lời, tôi đành câm nín. Tôi tự nhủ phải đứng
vững vì mẹ. Tôi không nỡ để mẹ bị đọa đày thêm trong nỗi đau khi
biết đứa con gái độc nhứt mà bà thương yêu trân quý phải hứng
chịu những oan khiên khốn khổ...
Giờ đây, tôi tin là các anh của tôi
luôn phù hộ cho tôi, đứa em gái bất hạnh, lắm nỗi truân chuyên
của họ nên tôi mới vượt qua mọi thăng trầm, mọi nỗi gian nan mà
sống cho đến ngày hôm nay.
Thực tình, tôi không muốn khơi lại
những vết đau cũ. Một đoạn đời hơn 35 năm sau ngày mất Nước,
không đủ làm tôi nguôi ngoai, những vết đau vẫn còn mưng mủ, vẫn
còn làm tâm trí tôi nhức nhối không thôi.
Với tôi, hình ảnh những người thân yêu
có thể để ngủ yên trong tâm trí. Nhưng những hành động bỉ ổi man
rợ của bè lũ cộng sản và tay sai thì không thể tha thứ và không
được quên!
Gia
đình tôi, bản thân tôi chỉ là một trong muôn vạn những gia đình
nạn nhân khác, nhưng khi viết lại những câu chuyện đau thương của
chính mình, và gia đình tôi như một lời tâm sự, nhắc nhở, tôi
mong nó được xem như một lời báo cáo cho những thế hệ sau tôi về
chế độ phi nhân phi nghĩa của cộng sản mà hơn 40 năm trước đã có
những lớp người trẻ cùng trang lứa tôi, các anh tôi, vì mù quáng,
vì non dại vô tình bị gạt gẫm đã chạy theo chúng...
Tôi muốn tát vào mặt những người ăn cơm
Quốc Gia thờ ma cộng sản. Những người bán rẻ lương tâm mình cho
Ác Quỷ. Bởi vì tôi thấy những đau khổ, oan khiên trong quá khứ
của tôi vẫn còn dính chặt trên khuôn mặt hắc ám của bè lũ tác tạo
ra nó.
Còn một
điều đốn mạt nữa là ra tới hải ngoại này mà phải hít thở cùng một
bầu không khí với những kẻ cơ hội chủ nghĩa, đón gió trở cờ, phải
nhìn thấy những khuôn mặt bẩn thỉu của những người tự xưng là trí
thức háo danh, tham lợi, biết cộng sản là độc ác, vô luân mà vẫn
chạy theo chúng, làm ngơ trước đau khổ của đồng loại...
Tôi đã trải qua mọi đọa đày, khổ ải,
hiểm nguy, thiệt thòi, mất mát từ thể chất tới tinh thần.
Lớn lên trong chiến tranh nên sợ hãi
bao phủ trọn không gian, thời gian của tuổi thơ. Mới chín, mười
tuổi đầu, tai đã sớm nghe những lời rên siết, than van của ông
bà, cha mẹ, đã được dạy phải tránh né người này, phải xa lánh
người kia, mà chẳng hiểu tại sao? Mắt đã sớm nhìn thấy những xác
người cháy đen sau mỗi lần xóm làng bị đạn pháo kích mà không
hiểu từ đâu? Trái tim non nớt của tôi biết đau rất sớm mà không
biết vì nguyên nhân nào? Tâm trí đặc quánh những sợ hãi. Đầu óc
đã biết phân vân tự hỏi, tại sao người ta lại giết nhau.
Không ai giải thích cho trẻ con những
việc làm của người lớn!
Tuổi thơ của tôi có rất nhiều đêm thảng
thốt, giật mình khi nghe tiếng đại bác vọng về. Tuổi thơ của tôi
là giữa đêm khuya ngơ ngác khi bị lôi tuột xuống giường đẩy vào
hầm trú ẩn. Tuổi thơ của tôi đã nhìn thấy những chiếc quan tài
phủ cờ chở về trong xóm...
Tuổi thanh xuân của tôi gắn liền với
hình ảnh những thi thể không trọn vẹn được lôi lên từ những mồ
chôn tập thể của Tết Mậu Thân. Phải nhìn thấy những xác người bê
bết máu, xác trẻ thơ vô tội, xác người sình thúi, lúc nhúc những
ruồi bọ trên những con đường mà thường ngày mình đến trường.
Những giấc mơ trong tuổi thanh xuân của
tôi là những đôi mắt mở trừng, những con mắt oán hờn, trách móc,
của những người anh bị bắn chết trong nhà của ông bà nội...
Tuổi thanh xuân của tôi đặc kín những
lo âu, buồn phiền, sợ hãi, nghi ngờ...
Tôi đã sống như con ốc thu mình trong
vỏ. Dè dặt với mọi người. Không dám đối diện những người bạn của
các anh mình. Những người cùng lớp cùng trường, ăn cùng mâm, ngủ
cùng chiếu. Mới hôm qua là bạn, nay là thù, đứng về phía bên kia
hàng ngũ của lũ Quỷ Đỏ, quay lại cầm súng sát hại những người anh
thân yêu ruột thịt của mình...
Cái chết là lẽ đương nhiên của con
người, vì đâu có ai sống hoài. Thân xác nào rồi cũng phải nằm
ngay ngắn trong qua tài, dưới ba tấc đất, nhưng nào ai muốn trở
thành những thân xác co quắp, không toàn hình hài, bị vùi chung
nhau một hầm!
Chỉ có bọn cộng sản ác độc vô luân mới hành xử như thế với đồng
loại của mình...
Tâm trí tôi đau đớn theo từng cái chết
đau thương của từng người thân trong gia đình. Thân xác tôi là
cái giá phải trả để đổi lấy giỏ quà thăm nuôi, từng viên thuốc,
cho những người thân yêu trong gia đình đang mang thân tù tội.
Người dù đã chết trong đau đớn tủi
nhục, bây giờ thân xác họ cũng đã thoát ra khỏi cảnh đời ô trọc
này rồi. Nhưng người còn sống, không sao tự giải thoát mình khỏi
những vết thương đã quá ăn sâu trong da thịt, trong tâm hồn...
Nhắc lại chuyện đã qua chỉ thêm đau lòng. Nhưng mà khổ nỗi, tôi
không thể nguôi ngoai!
Brisbane
Thái Hòa
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tqh chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, March 5, 2025
Ban Kỹ Thuật
Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang