Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
ma tù khổ sai
Tác giả:
Hoàng Thế Định
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Viết để
tưởng nhớ những chiến hữu đã chịu đày đọa thể xác lẫn tinh thần
trong các trại giam Cộng sản, một địa ngục trần gian, nơi mà con
người phải cam chịu những nỗi nhục nhã còn đớn đau và tàn tệ hơn
cả cái chết.
Kể từ sau 1975, cứ độ sau Tết, ở vùng núi thuộc tỉnh Quảng Trị
này tiết trời nắng ráo và ấm áp, có năm đã thấy nắng gắt và nóng
rát, thế mà năm nay, đã đến giữa tháng 3 mà trời vẫn còn mưa dầm
dề và lạnh.
Ở
trong tù, thiếu ăn, thiếu mặc và nhất là cô đơn làm cho con người
cảm thấy cái lạnh càng buốt giá thêm. Tại trạm xá dành cho tù
binh thuộc Đoàn 76 của bộ đội Cộng sản, thường khi chỉ khoảng 10
tới 12 bệnh, mà nay 20 giường đã đầy. Giường của bệnh nhân tù
được làm kỹ lưỡng hơn chỗ nằm của tù binh bình thường ở các trại
giam, giường bệnh là 3, 4 tấm ván ghép lại, chiều dài 1 mét 8,
rộng 8 tấc, các tấm ván được lắp đặt trên 6 ống đạn. Ống đạn bằng
sắt là loại để chứa các đầu đạn súng đại bác 155ly của Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa, vất ngổn ngang trên chiến trường trước đây;
và tù binh phải đi tìm nhặt các ống đạn đó đem về cho trại giam.
May mắn cho tù nhân nào kiếm được và giấu riêng cho mình 1 thùng
chứa đạn đại liên 60ly, thùng có nắp đậy kín có thể chứa đồ ăn
khô mà không sợ chuột bọ rúc rỉa. Tù nhân thì nằm trên những tấm
sắt gọi là “ghi” mà trước đây quân đội miền nam và đồng minh dùng
làm sân bay. Mỗi tấm ghi sắt dài chừng 4m rưỡi, ngang chừng 6
tấc được móc vào nhau làm thành hai thảm sắt trải suốt hai bên
chiều dài của mỗi căn nhà mà họ gọi là lán, giữa là lối đi. Họ
tộng 50 tù binh vào mỗi lán; ăn, ngủ, “họp đội” để chỉ trích phê
bình, đấu tố nhau, hoặc ngồi nghe nhồi nhét chủ nghĩa Cộng sản.
Về mùa đông, thảm sắt toát ra hơi lạnh buốt tận xương, tù nhân
nằm co quắp,tựa lưng vào người bên cạnh hầu truyền hơi ấm cho
nhau; mỗi tù nhân chỉ được hưởng 6 tấc chiều rộng cho mỗi chỗ
nằm của mình. Đến mùa nắng nóng, nhất là vào những tháng 5 và 6
với ngọn gió khô và nóng rát từ Nam Lào thổi sang, thì những tấm
thảm sắt gọi là giường ngủ, hừng hực lên hơi nóng như những vỉ
sắt nướng những tấm thân tù với da bọc xương và đẫm mồ hôi nhễ
nhại, nồng nặc.
Sau hơn 2 năm lao động khổ sai với
những bữa ăn là vài khúc sắn (củ mì) khô khan muốn tắc nghẹn ở cổ
họng, tối ngủ trên những tấm ghi sắt mà chúng tôi thường chua
chát gọi đùa là những tấm nệm có điều hòa không khí theo nhiệt độ
bên ngoài; tình cờ tôi được chuyển đến trạm xá tù thuộc Đoàn 76.
Trạm xá tù gồm có 3 nhà, cái lớn nhất
dành cho bệnh nhân, được cất trên một khoảng đất ở giữa lưng
chừng đồi, vị thế cao cách mặt ruộng tới 20 mét. Nhà thứ nhì nhỏ
nhất nằm cách phòng bệnh nhân chừng 10 mét trên triền dốc đi
xuống, nhà được ngăn đôi một bên là phòng chứa thuốc và đồ dùng
tối thiểu để phục vụ bệnh nhân, phần còn lại là chỗ ngủ với 2
giường riêng biệt, một của anh y tá và một của tôi. Nhà thứ ba
dựng ngay ở chân đồi, là nơi dành cho 2 bác sĩ khác, 3 y tá và 2
người phục vụ ăn uống, căn chính được đặt 1 cái chảo lớn để nấu
cơm, canh.
Một
trạm xá mà có 3 bác sĩ, 4 y tá và 2 người phục vụ, tưởng như là 1
bệnh viện nho nhỏ, kỳ thật thì các y tá và bác sĩ đều phải lao
động tay chân để phục vụ cho trạm xá như trồng rau, khoai, sắn;
lại cộng thêm việc nuôi heo cho bộ đội quản lý tù. Dù sao thì mức
độ lao động nơi đây không bằng 1 phần 5 tại các trại tù. Khám
bệnh và ghi thuốc điều trị chỉ được thực hiện vào 2 buổi sáng thứ
hai và thứ năm. Chỉ 1 y tá được cắt cử cấp thuốc và chích thuốc
cho bệnh nhân tù và được miễn lao động tay chân. Sở dĩ họ đưa về
đây đến 3 bác sĩ vì họ muốn thiết lập 1 phòng giải phẫu nhỏ hầu
có thể cấp cứu các tù binh bị tai nạn khi đi lao động, vì những
vùng được chọn làm khu vực canh tác là những bãi chiến trường
trước đây, nên rải rác khắp nơi là những bãi mìn hoặc lựu đạn
chưa nổ. Chúng tôi đã nhiều lần giải phẫu cho những người dân địa
phương bị thương vì đạp phải mìn cóc thuộc phía Cộng sản hoặc
cuốc phải lựu đạn hoặc đầu đạn M72 thuộc phía đồng minh. Có vài
bệnh nhân bộ đội thuộc trong Đoàn 76 yêu cầu chúng tôi mổ cho
họ, chúng tôi phải làm và với điều kiện họ phải viết giấy cam kết
và 1 y tá của họ tham gia cuộc giải phẫu, vì chúng tôi không muốn
bị “chụp mũ” cái tội giết cán bộ.
Tôi đến trạm xá này được chừng 6 tháng
thì 2 anh bác sĩ Hiền và Thông cùng với Quý, tên anh y tá ở cùng
nhà với tôi, được thả tự do. Tôi ở một mình trong căn phòng. Thật
là thích thú cho tôi khi được tự do ngồi viết thư về gia đình,
hoặc ngồi gảy đàn guitare những lúc buồn nhớ nhà. Về sau này
tôi nhớ lại quãng thời gian đó, thật buồn cười; đi ở tù mà lại
mang đàn đi cùng. Hồi đó khi nhận được giấy gọi là “đi cải tạo”
họ ghi “trại viên nhớ đem theo dụng cụ thể thao hoặc nhạc cụ”.
Thế là tôi đã ngây thơ cả tin đem đàn theo, hóa ra đến lúc này
lại có dịp cầm lại đàn.
Một đêm vào khoảng hơn 11 giờ, tôi đang
ngồi viết bản dự trù thuốc cần thiết cho những ngày tới bỗng nghe
một tiếng thét lớn. Giữa đêm thanh vắng, từ một địa điểm cao, lại
ở trong một thung lũng hẹp, xung quanh toàn đồi khá cao vây bọc,
tiếng thét vang xa trong đêm khuya rồi vang vọng lại nghe thật
hãi hùng. Tôi biết ngay là xuất phát từ căn nhà bệnh nhân nên
xách vội cây đèn chạy ngay lên. Một đám bệnh nhân tù đang xúm
quanh một người nằm xóng xoài giữa đất trên lối đi thông ra bên
hông trạm xá. Anh em bệnh nhân giạt ra hai bên khi thấy tôi đến.
Tôi quỳ xuống đưa cây đèn dầu gần mặt và nhận ra là Thảo. Sau khi
khám xét, tôi thấy tim mạch cũng như nhịp thở của Thảo không có
gì đáng quan ngại, nhưng rõ ràng là Thảo đã ngất xỉu. Thảo còn
rất trẻ, mới 22 và là chuẩn úy trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,
anh được chuyển đến trạm xá vì bệnh trĩ. Hai chứng bệnh thường
xảy đến cho hầu hết anh em tù nhân là đau răng và bệnh trĩ. Bị
bệnh trĩ là vì tù nhân bị buộc phải lao động khổ cực không ngừng
nghỉ, nhất là phải gánh hoặc vác nặng quá sức chịu đựng của mình.
Còn bệnh hư răng là do không có điều kiện vệ sinh răng. Lại vì
quá đói, trong khi đi lao động ở rừng sâu, anh em tù gặp gì có
thể ăn được là bỏ vào mồm cho khỏi bị lả người. Có anh đã từng
giấu vào trong túi quần một nửa con rắn được hun khói vội vàng,
chờ đêm đến đói bụng, nằm trùm chăn nhai ngấu nghiến...
Anh em vực Thảo lên giường, tôi chích
cho anh một ống thuốc trợ tim, Thảo tỉnh lại ngay, có lẽ vì chất
thuốc đau xé thịt. Tôi hỏi chuyện gì xảy đến cho anh thì Thảo
chỉ lắc đầu quầy quậy, mắt đảo nhìn xung quanh dáng sợ sệt, rồi
anh kéo tôi lại gần và nói nhỏ:
– Khó nói lắm anh Định ơi, em thấy lạ
lắm, lạ lắm.
Thường ngày Thảo không phải là người nói lắp, thế mà bây giờ với
một câu ngắn như vậy mà một hồi lâu anh mới nói xong, rõ ràng là
có điều gì thật khiếp đảm xảy đến với anh ta.
Tôi đang hỏi Thảo thêm mấy câu thì các
anh em bệnh nhân đưa mắt làm hiệu, tôi nhìn ra cửa chính, 1 bộ
đội quản lý tù đang cầm đèn bấm rọi sáng bực cấp để bước lên. Ông
ta hỏi, giọng trịch thượng:
– Anh nào gây huyên náo vậy?
Mọi người im lặng, tôi không biết trả
lời sao hơn là nói rằng Thảo la hoảng trong khi ngủ mê.
Trạm xá tù nằm cách trạm xá của bộ đội
quản lý trại giam thuộc Đoàn 76 chừng 50 thước, tiếng thét quá
lớn dĩ nhiên họ biết ngay là phát xuất từ đâu.
Sáng hôm sau, khi tôi đang cuốc đất
trồng rau khoai thì Thảo ngừng tay nhổ cỏ cho đám rau muống cạn
gần đó, bước lại gần tôi, rồi sau khi đã cẩn thận nhìn quanh
không có ai khác, anh nói nho nhỏ; lần này thì Thảo không còn
nói lắp nữa:
–
Anh Định ơi! Em nói thật với anh là đêm qua em đã thấy ma. Cũng
như mọi đêm, trước khi ngủ, em ra ngoài đi tiểu, vừa ngang cửa
thì rõ ràng con ma đứng chận ngang. Mà con ma này cụt một chân
anh ạ. Đầu tiên em tưởng là một anh nào vừa ở ngoài bước vào,
nhưng không phải, khi em giơ cao cây đèn dầu lên để xem thử ai
thì nó biến mất như một làn khói bay tạt ngang. Em không dựng
chuyện đâu!
Luật lệ được đặt cho tù nhân là ban đêm khi ra ngoài phải cầm đèn
và tự nói “Tôi đi tiểu” hoặc “Tôi đi cầu”, dù không có bộ đội
canh phòng gần đó.
– Anh tin em nói thật! Đến giờ đó mà em
còn thức à?
Thảo phân trần:
– Như anh biết, sau khi mổ trĩ, em ít
khi ngủ được vì đau và lại có kích thích như muốn đi cầu hoặc đi
tiểu thành ra thường khi đến quá nửa đêm em mới chợp mắt.
– Có ai trong lán cùng thấy như em
không?
– Em
không rõ, em không dám nói chuyện này với ai cả ngoài anh.
Tôi hiểu Thảo không dám phổ biến về sự
thật anh đã gặp, chỉ sợ quản lý tù lại gán cho anh cái tội “phao
tin đồn nhảm”, “xuyên tạc hoặc hù dọa mọi người với ý đồ không
tốt”. Đó là những câu mà họ thường trắng trợn gán ép tội lên
chúng tôi, dù chúng tôi chẳng làm điều gì sai trái. Họ tìm đủ mọi
cách để đánh đập tra tấn chúng tôi, họ trả thù vì trong thời gian
chiến tranh, bản thân họ hoặc gia đình, bạn bè đã gặp gian khổ
khó khăn hay mất mát sinh mạng vì bom đạn từ phía chúng tôi.
Tôi an ủi Thảo rồi bảo anh lên lán nghỉ
ngơi, vì tôi biết đêm qua Thảo đã mở chong mắt chờ trời sáng.
Tù nhân la hét kinh hoàng giữa đêm
khuya là chuyện rất thường xảy ra trong các trại tù vì ngày ngày
tù nhân bị hành hạ từ thể xác đến tinh thần. Biết rằng tù nhân
nào cũng chỉ ngày đêm trông đợi được về với gia đình vợ con; bộ
đội giam giữ tù đưa ra chiêu bài: “người nào lao động tốt sẽ được
tha sớm”, thế là nhiều tù nhân đã dốc hết sức, làm việc không
ngơi nghỉ, thân mòn sức kiệt. Họ còn dụ dỗ: “người nào khai báo
thật thà về lý lịch bản thân cũng như bạn hữu, bà con; thì sẽ
được xét tha tội, về với gia đình”, dụng ý của họ là ngoài việc
khai ra tất cả sự thật về mình, còn tố cáo những lý lịch hoặc
việc làm của người khác; hầu họ có thể bắt nhốt thêm những người
mà họ xét ra nguy hiểm cho chế độ của họ. Bao nhiêu năm tháng
trôi qua, ngày về với gia đình vợ con vẫn biền biệt; không ai
biết được hạn định tù của mình là bao lâu, vì vậy mà anh em tù
chúng tôi thường chua chát gọi là “Án cao su”. Đã thế mà thần
kinh lại luôn bị căng thẳng vì phải trải qua quá nhiều lần thẩm
vấn, lặp đi lặp lại mãi việc kê khai lý lịch.
Buổi sáng đang đứng tập họp từng hàng
điểm danh để đi lao động khổ dịch bỗng bị kêu tên bước ra khỏi
hàng. Tù nhân không biết chuyện gì sắp xảy ra cho mình. Họ nói:
“Những anh vừa được gọi tên sẽ ở lại trại để cán bộ làm việc”.
Nghe đến hai chữ “làm việc”, người tù nào cũng run sợ đến tái
xanh mặt, vì đó là hai chữ để gọi cho việc thẩm vấn. Phải chăng
có người nào đó tố cáo mình làm chuyện gì hay nói câu gì mà họ
gán cho cái tội “phản động” hoặc giả biết đâu rằng trong lúc ngủ
mơ mình đã chửi bới Cộng sản. Ngoài ra tù nhân còn lo lắng cho vợ
con, gia đình đang sống gian khổ, thiếu thốn mọi mặt ở quê nhà.
Vợ thì ngày ngày thay chồng lo kiếm sống cho cả bầy con nheo
nhóc, đêm lại phải đi họp tổ, họp đội, xóm phường để nghe những
lời phê bình kiểm điểm, hoặc phải nhận những lời chỉ trích dù
mình chẳng làm điều gì sai trái. Con cái thì không được học hành
đầy đủ và cho dù chúng có học rất giỏi cũng không được vào đại
học chỉ vì 1 lý do đơn giản: “Cha là ngụy quân ngụy quyền”. Xem
ra cuộc sống của dân chúng thật sự chỉ là một nhà tù rộng lớn
không hơn không kém.
Những đêm kế tiếp, mọi người đều nghe
tiếng thét hãi hùng của Thảo vang trong đêm vắng, và lần nào cũng
thấy anh ta nằm té xỉu. Mấy đêm đầu thì bộ đội quản lý tù còn
xuống kiểm tra, về sau họ không màng đến nữa.
Mấy hôm sau, trạm xá tiếp nhận thêm 3
bệnh nhân tù. Hai người bị sốt rét và 1 người bị cây ngã đè lên
chân trong khi đi đốn cây trong rừng. Cả 3 đều được di chuyển từ
công trường Sông Mực thuộc tỉnh Thanh Hóa. Số là mấy tuần trước
đây, 5 trại tù thuộc tổng trại tù Đoàn 76 mà mỗi trại chứa 500
tới 600 tù binh, phải cử phân nửa nhân số lên đường ra Thanh Hóa
để tham gia chương trình làm đập thủy điện Sông Mực. Thoạt nghe
cái tên cũng đủ hiểu dòng sông ở đó đen như thế nào. Hẳn là đen
như số phận của những con người đang bị tù đày. Đoạn sông sẽ được
chắn để làm đập thủy điện được bao bọc toàn là rừng già dày đặc.
Tù binh ở trong rừng đó với những căn nhà lá tự tạo thô sơ. Họ ra
lệnh cho tù binh phải đốn tất cả cây trong vùng. Với điều kiện
sống hết sức khắc khổ, lại thiếu hụt mọi phương tiện so với 1 dự
án quá lớn là làm đập thủy điện. Không có bất cứ kỹ thuật cơ khí
nào, tất cả chỉ nương tựa vào sức của tù binh đang tàn tạ và một
số ít nhân lực địa phương. Người dân cũng ốm o gầy còm không khác
gì tù nhân bao nhiêu. Về sau, khi đập thủy điện hoàn tất, 2,000
tù binh trở về lại trại tù cũ. Vài ngày sau buổi khánh thành “đập
thủy điện”, một trận mưa lớn ập tới, đập đã vỡ tan tành, trôi
theo dòng nước đen như mực.
Anh bệnh nhân tù bị cây gỗ đè nhưng may
mắn không đến nỗi tàn phế mà chỉ có 1 chân bị sưng phù, tuy thế
không bị gãy xương. Thấy anh dùng một cành cây làm nạng để chống
mà đi, tôi vội kiếm cho anh ta 1 cặp nạng gỗ mà trước đây số anh
em tù binh đi gỡ ghi sắt ở sân bay trực thăng thuộc Bệnh Viện
Giải Phẫu Dã Chiến số 18 của Mỹ (18th Surgery Hospital) tại thôn
Ái Tử thuộc tỉnh Quảng Trị; đã mang về mấy thùng nạng gỗ.
Hai anh bệnh nhân sốt rét thì sau 1 bữa
ăn thật no và được chích mỗi người một mũi thuốc Quinine, vừa
đặt lưng xuống chiếu đã ngủ ngon lành như trẻ thơ.
Tâm, tên anh tù binh trẻ bị cây đè còn
lần mò xuống đồi múc nước giếng tắm rửa, rồi mới trở lên lán ngủ.
Tâm theo đạo Catholic, anh luôn đeo thánh giá dưới cổ, nhưng khéo
léo che đậy để bộ đội quản lý tù không nhận ra. Sáng hôm sau, vừa
thức dậy Tâm vội hỏi người nằm cạnh:
– Anh bạn, tôi mới đến nên không biết
rằng ở đây cũng có người đi nạng như tôi, đêm qua anh ta đến thức
tôi dậy và hỏi mượn tôi 1 cái nạng.
Người nằm cạnh Tâm nói:
– Không! Có ai trong lán đi nạng gỗ như
anh đâu! Người đó thế nào, anh tả xem!
Tâm dùng cùi chỏ chống ngồi dậy, kể
rành mạch:
–
Anh ta mặc bộ đồ tù màu xanh, tôi thấy rõ là anh ta cụt một chân.
Anh ấy vén màn tôi lên và nói, giọng cộc lốc: “Mi đau có một
chân, cần chi tới 2 cái nạng, tao cần 1 cái”. Nói rồi anh giật 1
cái nạng trên đó tôi có máng cái khăn lau mặt còn ướt. Anh ấy vứt
cái khăn lên chiếc gối tôi nằm. Chiếc gối còn ướt một chéo đây
này.
Năm sáu
anh bệnh nhân vừa dừng lại nghe câu chuyện của Tâm, cùng ồ lên
một lúc. Mọi người đều thấy chỉ còn 1 cái nạng gỗ. Cả bọn kéo
nhau đi ra sau lưng trạm xá lục tìm khắp nơi, cuối cùng họ thấy
chiếc nạng gỗ của Tâm nằm dài trên đường mòn nhỏ. Con đường mòn
này len lỏi giữa đám tranh rậm rịt và cao quá đầu người nối dài
lên đến đỉnh đồi, trên đó có 3 nấm mồ. Không ai dám nhặt chiếc
nạng gỗ đó.
Sự
kiện ma xuất hiện trong khu vực trạm xá tù không còn là chuyện
phải giữ kín nữa vì hằng đêm tất cả bệnh nhân đều thấy ma. Và
không phải là 1 ma cụt chân mà là có tới 3 bóng ma. Người ta
không còn nghe tiếng Thảo thét kinh hoàng về khuya nữa, vì Thảo
nghĩ ra cách để không phải bước ra khỏi lán để đi tiểu về đêm:
anh thủ 1 cái thùng sắt nhỏ có nắp đậy, ngồi trong màn và tiểu
vào thùng rồi đậy kín xong để xuống đất. Không những một mình
Thảo thực hiện như vậy, mà tất cả bệnh nhân trong trạm xá đều làm
y một cách.
Tôi hỏi từng bệnh nhân thì ai cũng trả lời giống nhau: Đêm đêm,
cứ vào khoảng nửa khuya, có 3 “người” bước vào phòng bệnh nhân
bằng lối cửa hông. Họ mô tả chi tiết từ áo quần cho đến cách đi
đứng của từng “người”. “Người thứ nhất” cụt một chân, mặc bộ áo
quần tù màu xanh. Tôi gặng hỏi họ là tại sao họ biết rằng “người”
ấy cụt một chân. Một anh đáp ngay:
– Người đó đi với một cái nạng gỗ nện
lọc cọc trên nền đất, ống quần phía bên nạng gỗ dẹp lép và đong
đưa không như phía chân khỏe, còn dáng đi khập khiễng không
giống “hai người kia”.
Một anh khác tiếp lời:
– “Hai người kia” dáng thấp hơn. Một
“người” mặc một bộ đồ trận của quân đội mình, “người còn lại” thì
chỉ mặc có quần đùi và áo 3 lỗ màu trắng.
Có 1 bệnh nhân tên Quyền, anh là em vợ
của người anh họ của tôi vì vậy tôi xem anh ta như người trong
gia đình. Tôi thường gọi Quyền đến chỗ tôi ở để uống trà. Một
lần, Quyền nói:
– Anh Định ơi, có lẽ em phải xin anh
cho xuất viện, mặc dù vết mổ của em chưa lành hẳn. Em thấy ở đây
không ổn, mọi anh em trong lán ít ai ngủ được vài giờ mỗi tối,
vì các bóng ma cứ xuất hiện thường xuyên. Có lần em đánh bạo bật
lửa lên thì thấy 3 “người” ấy giống như bay xuyên qua vách ngăn
giữa phòng bệnh và phòng ăn.
Ngược lại với Quyền, nhiều anh bệnh
nhân tuy bệnh đã lành vẫn mong được ở lại trạm xá thêm vài ngày.
Ở đây dù phải đối diện với sự kinh dị về những bóng ma, nhưng các
bóng ma đó chẳng làm hại ai; còn hơn là trở về các trại lao động
khổ sai quá cực khổ và căng thẳng.
Qua lời Quyền nói, tôi chợt nghĩ ra
cách để các bóng ma không xuất hiện gần anh em: “để một ngọn đèn
dầu chính giữa lán, ma tất không dám vào chỗ có ánh sáng”. Thế mà
phương pháp đó thật hữu hiệu, từ đó các bóng ma chỉ xuất hiện ở
phòng ăn kế bên. Tuy anh em không thấy nhưng lại vẫn nghe tiếng
“lọc cọc” đi lại của “người cụt chân”.
Trời có vẻ dễ chịu hơn, không còn mưa
lạnh như trước, nhưng vẫn còn nhiều mây. Một đêm, khoảng 10 giờ,
tôi cầm đèn dầu bước lên phòng bệnh nhân để xem có anh em bệnh
nhân nào cần gì không. Tất cả đều yên lặng, chỉ nghe vài tiếng
thở đều của những bệnh nhân đã ngủ say. Tôi bước xuống bực cấp.
Mảnh trăng lưỡi liềm trắng đục khuất dần sau chòm cây ở vùng đồi
bên kia. Về phòng, tôi lên giường nằm một lát rồi mới vói tay kéo
màn muỗi xuống rồi thò đầu ra khỏi màn để thổi tắt ngọn đèn dầu.
Ánh sáng dạ quang trên mặt đồng hồ tôi đang đeo chỉ đúng 10 giờ
15. Tôi là người tù duy nhất được ban giám thị trại giam cho phép
đeo đồng hồ, vì cần dùng trong việc theo dõi nhịp tim, nhịp thở
của bệnh nhân. Trời không có gió mà sao tôi thấy một góc màn muỗi
lay động.
Bỗng
nhiên cái giường tôi đang nằm như được nhấc bổng lên chừng 1, 2
tấc rồi lắc lư một cách lạ lùng. Tôi đã từng di chuyển trên rất
nhiều phương tiện khác nhau, từ máy bay đủ loại, trực thăng cho
đến loại tàu lớn nhỏ, có khi ngồi trên chiếc xuồng nan rất nhỏ và
nhẹ; nhưng tôi chưa bao giờ có cảm giác nào giống như kiểu chao
đảo của chiếc giường hôm nay. Tôi chợt nghĩ ngay tới “họ”, những
bóng ma. Từ bao lâu nay, mặc dù tất cả bệnh nhân tù đều thấy và
kể rành mạch về 3 bóng ma nhưng tôi ngạc nhiên không biết tại sao
mình chưa bao giờ được chứng kiến. Tôi vẫn thường dùng lý luận
khoa học để giải thích mọi hiện tượng, vì vậy mà tuy vẫn tin
rằng anh em bệnh nhân không bịa chuyện, lòng tôi vẫn hoang mang
vì chưa lý giải được sự kiện. Phải chăng giờ đây hiện tượng cái
giường lắc lư là do các hồn ma tạo ra để chứng tỏ với tôi là có
sự hiện diện của họ. Tôi bắt đầu sợ, nhưng vẫn giữ được bình
tĩnh. Tôi tự nói thầm: “Nếu thật sự có sự hiện diện của các anh,
thì xin cho cái giường lắc mạnh vài lần rồi ngưng”. Lập tức, cái
giường của tôi lắc mạnh đến độ tôi phải níu chặt hai tay vào hai
thành giường. Vài giây sau cái giường không lắc nữa, nhưng vẫn
bay lơ lửng. Biết là các hồn ma có thật và đang ở gần tôi, người
tôi như cứng đờ lại. Tuy thế trí não tôi vẫn sáng suốt như
thường, tôi cố gắng chắp hai bàn tay mình thành búp hoa sen và để
trên ngực rồi niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Thế là chiếc
giường lập tức đứng yên trên đất. Tôi vẫn giữ tư thế cầu nguyện
như thế một lúc sau mới thôi. Tôi vén màn muỗi bước ra, thắp đèn
sáng, nhìn quanh, tôi uống nước ừng ực vì cổ họng khô rát vì sợ.
Trong đời tôi chưa có lần nào gặp chuyện lạ lùng như đêm ấy. Tôi
chẳng dám kể cho anh em bệnh nhân nghe sự việc xảy đến cho tôi
đêm đó, chỉ ngại họ thêm khiếp đảm.
Một hôm có một bệnh nhân từ trại tù số
5 chuyển đến trạm xá. Trại 5 giam giữ những anh em nghĩa quân,
địa phương quân, và hạ sĩ quan thuộc các đơn vị khác. Mặc dù là
cấp bực thấp, các anh em đó vẫn bị đi tù vì họ bị gán cho là
thành phần “có nợ máu với Cộng sản”. Tên anh ta là Lê Phược, 1
nghĩa quân viên. Nhiều năm về sau, chúng tôi gọi đùa anh ta là
“Đại tá nghĩa quân viên Lê Phược” vì số năm tù của anh ấy ngang
bằng với các cấp tá. Thật ra thì trong Nghĩa Quân không có cấp
bực. Năm 1997 tôi có gặp Phược tại tiểu bang Tennessee, gia đình
anh định cư tại đó.
Phược nổi tiếng về bạo gan, bạo gan
trong chiến đấu. Vừa đến trạm xá, anh hỏi ngay người nằm bên
cạnh:
– Tôi
nghe nói ở đây có ma, tôi muốn xem ma ra sao. Trên đời này tôi
chẳng sợ gì ráo.
Mấy anh bệnh nhân xung quanh chợt nghe
liền hỏi đùa:
– Vậy chớ anh không sợ vợ à?
Phược gãi đầu:
– Thì... cũng có khi sợ vợ chứ, ấy là
tại mình làm sai quấy, lăng nhăng với gái này nọ.
Một anh chen vào:
– Vợ mình thì mình sợ, chứ mình không
sợ vợ người khác là được rồi!
Thế là cả bọn cùng cười rân. Đến bữa
cơm chiều, thấy ba bốn người bận rộn dọn dẹp một chỗ nằm để làm
thành bàn ăn, Phược ngạc nhiên:
– Kế bên này có phòng ăn, tại sao mình
không cùng qua bên đó ngồi cho thoải mái?
Cả bọn nhìn nhau, Tâm nói:
– Anh có nghe rằng ở đây có ma nhưng
anh không biết phòng bên đó là nơi mà “họ” thường xuyên xuất
hiện.
Một anh
khác thách thức:
– Anh muốn thấy ma, cứ sang bên đó mà
nằm!
Phược nói
giọng quả quyết:
– Ăn xong, tôi dọn sang bên đó ngủ cho
các bạn xem. Đơn vị tôi thường đi hành quân về ban đêm, có khi
tôi ôm xác đồng đội chờ trời sáng mới di chuyển, thế mà có thấy
ma hoặc ai hiện hồn lên đâu!
Giữ lời hứa, Phược sang phòng ăn và
chọn 1 chỗ nằm. Gọi là phòng ăn, nhưng người ta cũng để sẵn 4
giường bệnh, phòng khi bệnh nhân nhiều quá số giường ở phòng
bệnh.
Phược
chọn chỗ nằm sát vách và gần cửa ra vào. Mặc dầu nói với anh em
là mình lớn gan không sợ ma, nhưng khi chỉ có một mình với gian
phòng rộng, bốn bề im lặng và tối đen; Phược cũng thấy rờn rợn
trong người. Anh thắp cây đèn dầu và vặn thật thấp ngọn, chỉ để
ánh sáng vừa đủ tỏa quanh anh ta chừng vài mét. Phược cố gắng
ngủ, nhưng sao mắt anh cứ mở chong. Bỗng anh nghe tiếng lộp bộp
từ xa đang tiến về phía phòng ăn. Phược yên tâm vì nghĩ đó là
tiếng chân của các bộ đội quản lý tù đi tuần tra hằng đêm. Anh
chợt nghĩ ra rằng sở dĩ họ đi về phía anh vì thấy còn ánh đèn
trong phòng ăn. Phược vói tay vặn thật thấp ngọn đèn và nằm lắng
nghe. Anh không muốn bị rầy la vì chong đèn trong giờ ngủ. Nhưng
không phải, vì anh không thấy ánh đèn bấm. Khi đi kiểm soát tù
nhân, anh bộ đội nào cũng bấm đèn rọi chiếu khắp nơi. Khi tiếng
lọc cọc đến gần, Phược nghĩ là tiếng nạng gỗ của bệnh nhân bộ đội
ở phòng bệnh của họ nằm không cách xa trạm xá tù bao nhiêu. Phược
lại đoán không đúng nốt; tiếng nạng gỗ đang dừng ngay trước phòng
ăn. Phược nằm im không dám thở mạnh. Anh luồn bàn tay phải thật
êm xuống dưới gối anh và cầm chặt con dao nhỏ. Tù nhân nào dường
như cũng có tự tạo 1 con dao không nhọn mũi (vì là luật trại tù
cấm tất cả vật nhọn) và vừa đủ sắc để gọt sắn hoặc khoai trong
bữa ăn. Từ nhỏ, Phược thường nghe người ta nói rằng nếu thấy ma
thì mình cầm bất cứ kim khí gì trong tay, ắt ma sẽ biến mất. Vì
vậy mà Phược đã để sẵn con dao nhỏ dưới gối anh nằm. Không phải
là ma cụt chân. Phược chỉ thấy 1 người dáng nhỏ con đang bước
thẳng về phía anh. Người ấy đến và vén màn muỗi lên rồi vỗ vào
chân Phược và nói:
– Anh bạn! Cho tôi hỏi điều này.
Phược nghe giọng lạ; không phải giọng
của người miền Trung. Anh cố nhìn vào mặt người đó nhưng không
thấy rõ, chỉ thấy người ấy mặc bộ đồ trận của QLVNCH. Phược hỏi:
– Anh hỏi gì mà giữa đêm hôm khuya
khoắc như thế này?
Người ấy thản nhiên ngồi xuống bên mép
giường và thân mật quàng tay qua vai Phược:
– Nhờ anh bạn chỉ hộ tôi đường về Sài
Gòn!
Phược lấy
làm lạ là tại sao trong giờ phút này người ấy lại hỏi vớ vẩn như
thế. Phược nghĩ: “hay là người này là tù vượt ngục và đang tìm
đường đi”. Phược cố gắng nhìn vào mặt người lạ, nhưng ngọn đèn
không đủ sáng. Trong lúc đó thì 2 người đứng bên ngoài cùng bước
vào. Tiếng nạng gỗ lọc cọc lại vang lên. Phược từ từ luồn tay
thật êm vặn lớn ngọn đèn dầu, thì bỗng dưng người đang ngồi cạnh
anh đứng bật dậy và cùng với 2 người kia lướt nhanh xuyên qua
vách đất.
Phược muốn la lên nhưng cổ họng anh nghẹn cứng, người anh trơ ra,
không cử động được. Một lúc sau anh mới cất tiếng lên được, anh
gọi:
– Tụi bây
ơi! Tụi bây ơi! Qua giúp tau một tay!
Vài anh bệnh nhân vẫn còn thức, nghe
tiếng la, cầm đèn bước sang, họ giúp anh dọn đồ đạc trở lại phòng
bệnh. Khi họ hỏi anh việc gì xảy ra thì anh nói là hãy đợi đến
sáng mai sẽ thuật lại.
Sáng hôm sau, Phược, Quyền, và vài anh
bệnh nhân lớn tuổi khác đến gặp tôi. Họ thuật lại mọi chuyện ma
xảy ra từ bấy lâu trong khu vực trạm xá và hỏi tôi có sáng kiến
gì trong sự việc vừa lạ lùng vừa khó xử này. Tôi an ủi họ:
– Tôi tin là các bạn nói sự thật về
những gì đã thấy. Tôi cũng đoán biết những bóng ma đó là ai. 2
trong số 3 người đó đều do tôi tẩn liệm xác họ.
Cả mọi người cùng ồ lên một lúc. Quyền
hỏi:
– Thật
thế hả anh Định? Thế sao không nghe anh nói cho ai biết?
– Tôi kể ra thì phỏng ích gì? Chỉ làm
các anh thêm sợ mà thôi. Bây giờ thì mọi người đều thấy, tôi mới
nói. “Người thứ nhất” mà các anh mô tả cụt 1 chân đó chính là anh
Đại úy Đ.R. trước đây ở trại 1. Vào cuối tháng 10 năm vừa rồi
(1977), anh ấy bị tai nạn do đạn trái sáng nổ, mảnh nhôm xuyên
da thịt cắm sâu vào ống xương đùi mang theo cả cỏ rác, đất bụi...
Dĩ nhiên anh ấy bị nhiễm trùng rất nặng, nhất là bị viêm thối
xương đùi. Vết thương rộng và sâu, hơn nữa anh ấy cũng gầy nên
với ngón tay trỏ, tôi có thể sờ đến xương. Ống xương vụn nát mất
hết ba phần tư chiều dày và viêm tới tủy, tôi biết là khó cứu vãn
được chân đó. Trong điều kiện thiếu thốn đủ thứ nhất là thuốc
men, phòng mổ thì đơn sơ và chỉ giải quyết những trường hợp ít
phức tạp, không thể vá xương hoặc đóng nòng vào tủy xương, vân
vân, vì vậy mà tôi đề nghị với ông bác sĩ bộ đội của Đoàn 76 là
để cho tôi giải phẫu và cắt bỏ chân mới hy vọng cứu mạng anh ta.
Ông ta nói với tôi là ông sẽ trình bày với cấp chỉ huy Đoàn 76,
nghĩa là đoàn trưởng và chính ủy đoàn (trưởng đoàn về chính trị).
Như anh em biết, trạm xá này là điểm điều trị chót cho anh em tù
binh chúng ta. Họ không muốn đưa bệnh nhân tù ra ngoài cái Đoàn
76 này. Trong khi chờ đợi quyết định, tôi hết sức chữa trị cho
anh ấy trong khả năng sẵn có ở đây. Vài ngày sau, ông bác sĩ của
Đoàn 76 nói với tôi là họ không đồng ý cắt bỏ chân anh ta. Tôi
thật sự không hiểu họ nghĩ hay biết gì về sự nghiêm trọng của
tiến trình viêm xương và viêm tủy xương như thế nào. Thế là hằng
ngày tôi phải chùi rửa vết thương anh ấy với nguồn mủ màu vàng
và lục từ trong xương, tủy chảy ra.
Anh em nhớ là trước đây ở bệnh xá hoặc
các quân y viện của quân đội của chúng mình hồi trước thường dùng
nước oxy già (Hydrogen peroxide) nạo sạch máu mủ nơi vết thương,
rồi dùng nước sodium chloride mà anh em mình thường gọi là nước
biển, để rửa sạch vết thương. Bây giờ ở đây, mọi thứ đều thiếu
thốn, mình phải chế biến đủ cách. Tôi hòa nước muối loãng, đun
sôi, xong để nguội rồi lọc qua bông gòn để rửa vết thương. Vết
thương khá rộng nên có thể rửa đến tận xương. Xong rồi dùng tấm
vải thưa quấn bột trụ sinh Penicillin và Streptomycin và nhét sâu
tận xương đùi cho anh ta, đồng thời cũng chích thịt 2 loại trụ
sinh ấy. Ở đây chỉ có 2 loại đó. Dù đã tận tình chữa trị, bệnh
chẳng thuyên giảm tí nào. Thân thể anh Đ.R. càng ngày càng tiều
tụy. Mỗi tuần hai lần đi lãnh thuốc cho bệnh nhân toàn trạm xá,
tôi đều tường trình với họ về tình trạng bệnh và thân thể ngày
càng gầy mòn của anh Đ.R., và mọi lần tôi đều yêu cầu giải phẫu
cho anh ấy, nhưng vẫn không được chấp thuận. 3 tuần sau, thân thể
anh ta chỉ còn da bọc xương. Tôi nói với ông bác sĩ Đoàn 76 là
anh ta sắp chết. Ông ta đến nhìn anh Đ.R. một chốc rồi bỏ đi, vài
giờ sau ông ấy trở lại và bảo tôi sửa soạn dụng cụ để giải phẫu
cho anh ấy. Lúc đó thì tôi từ chối, tôi biết rằng anh ấy sẽ không
còn đủ sức để chịu đựng 1 cuộc mổ lớn. Tôi không muốn bệnh nhân
chết trên bàn mổ dưới lưỡi dao của mình. Tôi nói với ông ta: “Đã
quá muộn! Anh ấy sẽ chết trên bàn mổ thôi!”
Ông ta giận dữ nhìn tôi: “Mày không mổ
thì tao mổ”.
Một thiếu úy y tá dưới quyền ông ta phụ cho ông tiến hành giải
phẫu. Tôi làm nhiệm vụ gây mê. Tôi quá buồn chán và căm hận vì
không được chủ động trong việc liên quan tới sinh tử của anh em
tù nhân chúng mình.
Vừa cắt lìa chân anh Đ.R., ông bác sĩ
Đoàn 76 ra lệnh đem chôn cái chân ngay. Tôi gói cái chân trong 1
khăn vải mổ và trao cho 1 anh y tá tù đứng bên ngoài. Vừa khâu
da ở vết mổ xong thì hiệu lực của thuốc mê cũng vừa dứt. Anh
Đ.R. đã tỉnh nhưng tim anh yếu lắm, huyết áp không đo được. Tôi
vẫn đứng phía trên đầu bàn mổ, anh nhìn lên tôi rồi từ từ nhắm
mắt. Tôi đã từng chứng kiến cái cách nhắm mắt của những bệnh nhân
đang lìa đời. Tôi lay hai vai vừa réo gọi tên anh. Anh Đ.R. khó
khăn mở mắt ra, lờ đờ đảo quanh rồi nhắm lại, lần này anh đi
luôn. Trong phòng vẫn còn đầy đủ những người tham dự ca mổ. Tất
cả đều im lặng. Anh y tá và tôi thay phiên nhau làm hô hấp nhân
tạo nhưng chẳng có gì thay đổi, tôi quyết định chích thuốc kích
thích tim–mạch trực tiếp vào cơ tim anh ấy, nhưng tất cả cố gắng
đều vô hiệu. Mọi người lần lượt bỏ ra ngoài. Trong phòng mổ chỉ
còn xác anh Đ.R. và tôi. Bên ngoài vang lên giọng sang sảng của 1
người mà tôi nghĩ là cấp cao trong Đoàn 76 (về sau tôi mới biết
là chính ủy Đoàn 76). Ông ta ra lệnh phải chôn anh Đ.R. ngay
trong đêm ấy. Ông bác sĩ bộ đội bước vào bảo tôi:
– “Anh ra đào cái chân lên để cùng chôn
anh ta một thể. Trại 3 sắp mang hòm sang”.
Cuối tháng 10, trời vừa mưa vừa lạnh.
Một anh y tá và tôi đi ra chỗ chôn cái chân. Nhờ có cây đèn pin
mượn của bác sĩ Đoàn 76, chúng tôi tìm đến đúng chỗ không khó
khăn. Anh y tá cầm đèn pin. Chỉ vài lát cuốc, tôi đã thấy ngay
cái chân trần. Tôi ngạc nhiên hỏi anh y tá:
– “Lúc tôi trao cho anh thì có cái khăn
mổ bọc ngoài, mà sao bây giờ cái chân lại như thế kia?”
– “Cán bộ bảo tôi phải trả lại cái khăn
mổ”.
Họ muốn
chôn cơ phận của 1 con người như chôn 1 khúc xương bò không kém.
Anh y tá không dám nhìn cái chân lìa xác trắng bệt, nhầy nhụa.
Biết thế, tôi phải quyết làm nhanh, thò tay cầm cái chân lôi lên.
Dù đã qua lần bao tay phòng mổ, tôi vẫn nhận ra cảm giác mềm
nhũn của da thịt người đã lạnh ngắt. Tôi nhờ anh y tá gỡ hộ tấm
áo mưa trên người tôi trải lên đám cỏ gần đó, rồi đặt cái chân
anh Đ.R. lên và gói lại. Vì cái chân khá nặng, tôi đành phải ôm
sát vào người và chạy vội vào khu nhà mổ. Nhờ dòng nước mưa xối
xả từ mái tranh, tôi rửa thật sạch đất, cỏ còn dính vào cái chân
anh ấy. Trở lại phòng mổ, chúng tôi lo sửa soạn liệm anh Đ.R.
Tôi nói anh y tá trở lại phòng bệnh và tìm trong hành trang của
anh ấy 1 bộ áo quần. Vừa tắm rửa cơ thể anh ấy xong thì anh y tá
cũng vừa bước vào và trao cho tôi 1 bộ quần áo tù màu xanh đậm
còn mới tinh. Thật là vất vả cho anh y tá và tôi khi mặc áo quần
cho anh Đ.R. Với người bệnh dù là hôn mê, giúp họ mặc áo quần vẫn
dễ dàng hơn là với 1 xác chết. Chúng tôi vừa đặt anh Đ.R. vào hòm
thì ông chính ủy Đoàn 76 đến và ra lệnh:
– “Các anh phải giải quyết nhanh lên!”
Không ai bảo ai, anh em tù chúng tôi
lúc đó đều hiểu rằng họ muốn giấu nhẹm càng nhanh càng tốt những
việc làm sai sót và kém cỏi của họ. Trời vẫn mưa như trút nước.
Với mấy cây đèn bấm mà mấy ông quản lý trại tù rọi đường, chúng
tôi vác hòm anh Đ.R. lần từng bước đường đất đỏ trơn lầy, từ từ
tiến lên ngọn đồi phía sau lưng trạm xá. Khi gần đến đỉnh đồi,
đoàn người phải len lỏi giữa đám tranh dày chi chít và cao quá
đầu người. Dù có 2 chiếc dù của mấy bộ đội quản lý tù che trong
lúc chúng tôi đào huyệt, nước mưa vẫn xối vào, thế là chúng tôi
chia làm 2 tốp; 2 người đào và 2 người tát nước ra khỏi huyệt. Dù
đất đỏ lẫn với sỏi đá, chúng tôi cũng đào được 1 cái huyệt sâu.
Cuối cùng thì mọi việc rồi cũng hoàn tất. “Đó là chuyện về cái
chết của anh đại úy Đ.R.”
Quyền hỏi tôi:
– Thế còn hai người kia? Người mặc áo
quần trận của lính mình và người mặc áo ba lỗ với quần lót?
– Như hồi nãy tôi có nói, tôi đã tẩn
liệm cho bác sĩ Vũ Đức Giang, anh Giang với tôi là bạn sơ giao,
thế nhưng chúng tôi rất hợp ý nhau về phương diện âm nhạc. Anh ấy
là 1 bác sĩ Thủy Quân Lục Chiến chỉ mới ra trường được vài tháng.
Giang giã từ mẹ và người yêu rồi cùng đơn vị chuyển ra địa đầu
giới tuyến tại tỉnh Quảng Trị. Anh đã bị bắt làm tù binh khi
Quảng Trị thất thủ. Năm 1977, ngày 30 Tết Đinh Tỵ, anh ấy tự tử
bằng thuốc Chloroquin. Lúc đó tôi được ông bác sĩ thuộc Đoàn 76
cử sang trại 3 để cấp cứu anh Giang, nhưng đã quá muộn. Tôi đã
xin quản lý trại 3 cho tôi được ở lại vài giờ để lo phần cuối
cùng cho anh bạn trẻ xấu số. Đêm đó, tôi đã nhờ dược sĩ Thuận nằm
cạnh Giang lấy trong túi xách của Giang 1 bộ áo quần lính quân
đội Việt nam Cộng Hòa để liệm cho anh ta. Tôi chỉ đích danh bộ
quần áo trận đó vì nhớ 1 lần trong khi đi lao động, Giang đã tạt
ngang thăm tôi trong bộ áo quần lính trận của quân đội mình.
Không hiểu vì sao Giang lại có bộ áo quần trận bộ binh mà không
là Thủy Quân Lục Chiến. Sáng mồng 1 Tết Đinh Tỵ, một số anh em tù
binh trại 3 đã gánh quan tài của Giang lên chôn ở đồi tranh phía
sau trạm xá này.
Còn người thứ ba thì tôi hoàn toàn
không quen biết, chỉ nghe nói anh ta tên là V. Ban quản lý trại
tù số 3 nói rằng anh V. tự tử, nhưng các anh em bạn tù tẩn liệm
cho anh ấy trong đó có nhiều người kinh nghiệm về quan sát tử
thi, đã quả quyết rằng V. không phải tự tử chết. Ngoài ra họ còn
thấy trên cơ thể anh ta có nhiều vết bầm tím ở những vùng có cơ
quan quan trọng bên trong, chứng tỏ rằng anh ấy đã bị quản lý tù
đánh đến chết. Hầu hết tù nhân ở trại 3 đều nghe rõ tiếng đánh
thùm thụp trong phòng biệt giam vẳng ra và những tiếng kêu rên
của anh V. Phòng biệt giam này như các anh em đều biết rằng trại
tù nào cũng có; phòng được làm bằng các mảnh tấm ghi sắt sân bay
ghép lại thành khối vuông, mỗi chiều chừng 2 mét, nóc và đáy
cũng bằng loại ghi sắt này; vì thế mà anh em tù binh chua chát
gọi phòng đó là “hộp cá”. Họ muốn để phòng kỷ luật này giữa
nắng mưa hầu hành xác tù nhân bị phạt. Hơn thế nữa, người bị phạt
chỉ được ăn 1 bữa mỗi ngày với vài khúc sắn. Họ đặt phòng biệt
giam đó ngay giữa sân trống để răn đe tù nhân. Cũng chính vì vậy
mà mọi người đều nghe tiếng nhiều bộ đội quản lý tù thay phiên
nhau đánh đập anh V. cho đến chết. Họ đã dùng dây lưng quần của
V. thắt vào cổ anh rồi treo lên nóc phòng biệt giam, vì vậy mà
khi đưa vào tẩn liệm chỉ thấy anh V. mặc một chiếc áo tròng 3 lỗ
và quần lót.
Cả 3 người tù binh xấu số kể trên đều được chôn kề nhau trên đỉnh
đồi tranh nằm sau lưng trạm xá. Anh em tù binh đặt tên cho ngọn
đồi đó là “Đồi Tranh Ba Mộ”.
Một anh bệnh nhân khá lớn tuổi từ trại
tù số 5 ngồi im lặng nghe chăm chú, giờ mới lên tiếng:
– Tôi nghĩ là mình phải trình bày sự
kiện này với ban giám thị trạm xá, xem họ có ý kiến gì không.
Những anh em bệnh nhân khác thúc giục:
– Đúng vậy, mình phải kể cho họ rõ mọi
chuyện, đây là sự thật mà!
Tôi phân bày:
– Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về vấn đề
này. Nhiệm vụ của tôi là phải chăm lo sức khỏe cho tất cả anh em
bệnh nhân tù chúng ta. Sự kiện xảy ra thuộc tâm linh nhưng ảnh
hưởng nhiều tới sức khỏe của anh em, tôi tự nghĩ phải làm cái gì
đây.
Thấy tôi
trầm ngâm suy nghĩ, Quyền hỏi tôi:
– Anh nghĩ là họ không tin chuyện này
hay sao?
Tôi
gật đầu:
– Như
anh em rõ, người Cộng sản vô thần, họ không chấp nhận chuyện linh
hồn hoặc ma.
Nhiều anh em nghe tôi nói đến đây thở dài và nghĩ rằng chuyện
này rồi sẽ chẳng có lối thoát.
Tôi an ủi họ:
– Đừng chán nản! Đó là tôi giải thích
theo mình suy luận, sự thật thì mình chưa biết họ ra sao. Dù gì
đi nữa thì vì sức khỏe của bệnh nhân, tôi sẽ phải trình bày với
ban quản lý trạm xá, các anh em cứ yên tâm đi!
Buổi chiều sau giờ ăn, tôi đi thẳng đến
phòng của ông trưởng trạm xá. Ông này cũng là bác sĩ cho cả Đoàn
76, đoàn quản lý tù binh. Tôi trình bày với ông tất cả sự kiện
xảy ra trong khu vực bệnh nhân tù. Tôi nói một hơi không ngừng
nghỉ, chỉ sợ ông ta cắt ngang hoặc giận dữ gạt bỏ câu chuyện.
Nhưng không, ông ta vừa chăm chú nghe vừa nhíu mày ra chiều suy
nghĩ. Khi nói xong, tôi ngồi im lặng chờ đợi phản ứng của ông ta.
Ông ta cũng ngồi yên, mặt nhìn ra bên ngoài. Một lúc sau, ông từ
từ quay lại nhìn thẳng vào mặt tôi, tôi nín thở chờ đợi, ông ta
nói không có vẻ gì gay gắt:
– Các anh nghĩ là có ma? Thế các anh
định làm gì?
–
Thưa cán bộ... (Tất cả tù binh bị bắt buộc phải gọi tất cả những
người Cộng sản giam giữ mình là cán bộ.)
Tôi tần ngần một chốc rồi thay vì trả
lời trực tiếp câu hỏi của ông ta, tôi lại trình bày về cách thức
ứng phó:
– ...
Hồi tôi còn nhỏ, ba tôi có kể cho tôi những mẩu chuyện tương tự
như vậy, và kinh nghiệm của những người giáp mặt với hiện tượng
như thế, họ khuyên là nên khấn vái, nghĩa là nói với những hương
linh hay là hồn ma đó.
Ông ta kinh ngạc hỏi:
– Làm sao mà các anh nói chuyện được
với ma?
Tôi
mạnh dạn thuyết phục:
– Người ta thường lập một lễ nhỏ ngay
mộ của những người có linh hồn đi vất vưởng mà người ta gọi là
ma, thực hiện một cuộc tảo mộ nghĩa là làm sạch cỏ dại trên mộ
và vùng xung quanh rồi thắp nhang đèn trên những nấm mồ, cuối
cùng là một người đại diện đứng ra nói đôi lời với các linh hồn
đó.
Ông ta
chắp tay sau lưng đi đi lại lại trong phòng ra chiều suy nghĩ
lung lắm. Một không khí im lặng bao trùm giữa hai người. Chợt ông
ta quay phắt lại:
– Tôi để cho các anh làm cái lễ đó
nhưng không được phổ biến sự việc ra các trại. Anh nào sau này
hết bệnh trở về lại trại của mình liệu mà giữ mồm! Tôi mà biết ra
anh nào phát ngôn bừa bãi về sự việc này tôi sẽ trị đích đáng.
Tôi mừng rỡ hứa hẹn:
– Tôi sẽ nói lại với tất cả anh em bệnh
nhân hiểu. Tôi nghĩ rằng họ không dại gì để nói chuyện đó với
người khác. Thưa cán bộ, chúng tôi xin được gởi người phục vụ đi
chợ mua một ít nhang.
– Được! Nhớ là không được gây ồn ào!
Chỉ cho vài người khỏe theo anh ra mộ mà thôi!
Tôi dạ dạ mấy tiếng rồi bước vội đi,
những sợ ông ta đổi ý. Tôi vui mừng báo tin cho anh em bệnh nhân
và không quên nhắc lại lời của ông bác sĩ trưởng trạm xá đã căn
dặn.
Đêm đó
tôi không ngủ được, vì mãi lo sắp sẵn lời sẽ phải nói trước mộ
của các bạn tù xấu số.
Tôi đã từng nghe nhiều người nói rằng
có một số người chết oan, nghĩa là không đáng mà phải chết, thì
linh hồn của họ cứ mãi quanh quẩn với người thân hoặc quấy phá
người đã hãm hại họ. Về sau, khi đã ra khỏi tù, tình cờ tôi đọc
được một số sách viết về những hiện tượng siêu hình; những gì
“xảy ra sau cửa tử”. Những tác giả uy tín và một số nhà tu hành
đã viết rằng “có nhiều người đã chết nhưng thể vía của họ hay còn
gọi là linh hồn, không biết mình đã chết; vì vậy ‘họ’ cứ mãi
quanh quẩn nơi mình đang ở, hoặc có người lúc còn sống đang làm
dở dang việc gì, bị chết đột ngột, tâm linh họ vẫn còn đeo đuổi
công việc đó. Và họ chỉ hết xuất hiện khi được biết rằng họ đã
chết.”
Điều
làm tôi không khỏi thắc mắc là tại sao 1 người sĩ quan cao cấp và
là đại diện cho Cộng sản lại chấp thuận cho chúng tôi là những tù
binh thực hiện điều mà trên nguyên tắc là trái với lý thuyết vô
thần của họ. Thế rồi 1 ý tưởng chợt lóe lên trong đầu tôi: “Phải
chăng chính họ đã thấy và bị quấy nhiễu bởi những hồn ma đó? Nếu
quả họ đã đụng chạm với ‘ma’ này thì hẳn là tư tưởng duy vật
của họ không khỏi bị lung lay”.
Ngày hôm sau, như đã bàn định trước với
tất cả bệnh nhân tù, sau bữa ăn chiều, chúng tôi sẽ ra viếng “Đồi
Tranh Ba Mộ”.
Hai anh y tá và tôi mỗi người xách theo 1 cái cuốc và 1 cây rựa
(1 loại dao có bản rộng và dày dùng đi rừng đốn cây) dẫn đầu đoàn
người. Nhờ mấy cây rựa, chúng tôi chém tranh dạt ra 2 bên để tạo
được 1 lối đi nhỏ cho những bệnh nhân tù theo sau. Sườn đồi với
cỏ tranh rậm rịt và cao quá đầu người gây không khí nóng hầm và
ngộp thở làm 3 anh em chúng tôi ướt đẫm cả mồ hôi.
Gần đến đỉnh đồi, tranh không còn cao
như bên dưới; tôi chống cuốc nghỉ xả hơi, vừa quay lại nhìn đoàn
người đi sau: 1 đoàn người lố nhố nối đuôi nhau thành chuỗi dài,
người chống nạng, kẻ chống gậy dìu nhau đi. Mặc dầu tôi đã căn
dặn là chỉ có người nào đủ khả năng đi ngược sườn đồi mới được
tham dự buổi tảo mộ, nhưng tất cả anh em bệnh nhân tù ai cũng
muốn chính mình đến tham dự để tỏ tấm lòng của mình đối với các
bạn tù không may mắn.
Lên đến đỉnh đồi, 1 quang cảnh thật là
thê lương diễn ra trước mắt chúng tôi; bóng chiều đã ngả, nắng
vàng nhợt nhạt chiếu nghiêng trên 3 ngôi mộ đất đỏ với mấy ngọn
cỏ dại bạt theo chiều gió, 1 chiếc nón lá đã rách tơi tả vẫn còn
giữ nằm nghiêng trên mộ bác sĩ Vũ Đức Giang. Mấy tháng trước đây,
người yêu của Giang và mẹ của anh ấy đã vượt dặm đường dài từ Sài
Gòn đến đây thăm mộ anh, sau khi 2 người phụ nữ khóc cạn hết nước
mắt, trước khi từ giã, cô gái đã để lại chiếc nón của mình cùng
với chiếc khăn tay trắng cột vào giải nón màu xanh lơ. Ngày ấy,
cô đã cẩn thận đặt một viên đá khá nặng vào lòng chiếc nón lá hầu
giữ chiếc nón được giữ nguyên tại chỗ cho dù gió mưa.
Mọi người im lặng đến độ có thể nghe cả
tiếng gió reo vun vút trong đám hoa tranh lay động. Để phá tan
bầu không khí quá buồn thảm, tôi lên tiếng kêu gọi anh em làm
sạch sẽ 3 ngôi mộ để có thể tiến hành việc quan trọng cuối cùng.
Các bệnh nhân sức yếu thì bẻ các cành cây làm chổi quét lá khô,
người khỏe hơn thì thay phiên nhau giúp 2 anh y tá và tôi cuốc bỏ
cỏ dại và tranh mọc khắp vùng quanh khu mộ. Chỉ trong vòng 30
phút, quang cảnh đỉnh đồi trông đã sáng sủa. Mọi người thở phào
ra nhìn ngắm công trình mình vừa làm, anh thì đứng anh thì ngồi
bệt giữa đất lau mồ hôi. Tôi bật lửa thắp nhang, ba bốn anh xúm
lại quanh tôi che gió để tôi có thể đốt cháy được bó nhang. Mùi
nhang thơm ngát, khói nhang trắng đục mỏng manh bay là đà tỏa
khắp vùng đồi tranh. Tôi cắm vào mỗi ngôi mộ 3 cây nhang, số còn
lại được giữ giữa hai lòng bàn tay chắp lại như hình đóa hoa sen
chưa nở, rồi quỳ gối và cúi đầu trước 3 ngôi mộ. Tôi đã không yêu
cầu mọi người phải quỳ như tôi, nhưng không ai bảo ai, tất cả anh
em tù nhân hiện diện lúc đó đều quỳ gối sau lưng tôi, người thì
chắp tay, người thì khoanh tay trước ngực hết sức thành khẩn.
Thay vì chỉ khấn vái thầm, tôi đã nói
bình thường như đang trực tiếp nói chuyện với 3 người bạn tù dưới
mồ:
– Tôi là
Hoàng Thế Định, đại diện cho các anh em có mặt nơi đây kính chào
các anh. Chúng tôi biết rằng các anh vì mến anh em chúng tôi mà
tìm đến, nhưng các anh cũng thông cảm cho rằng âm–dương cách
biệt, các anh không may đã qua đời, xin các anh để cho các anh em
bệnh nhân tù chúng ta được yên tĩnh tịnh dưỡng và điều trị,
riêng các anh em y tá và bản thân tôi được yên ổn làm nhiệm vụ
đối với anh em bệnh nhân. Chúng tôi xin thành tâm cầu nguyện
hương hồn của các anh được siêu thoát. Xin chào từ biệt các anh.
Mọi người đều lâm râm khấn nguyện tùy
theo lễ nghi tôn giáo của họ.
Tôi đứng dậy và vái lạy từng nấm mồ,
tất cả anh em đều lần lượt làm theo. Chúng tôi còn đứng tần ngần
một hồi rồi yên lặng xuống đồi, không ai nói một lời nào, mỗi
người theo đuổi ý nghĩ riêng mình. Khói nhang vẫn còn vờn bay hòa
lẫn trong đám hoa tranh trắng ngà phất phơ trong gió.
Sáng hôm sau mọi người thức dậy, cảm
thấy khoan khoái vì đã qua một đêm được ngủ yên giấc mà không bị
quấy rầy như trước. Và cũng từ đó, tất cả bệnh nhân và những
người phục vụ trạm xá tù này không còn thấy hiện tượng những hồn
ma của 3 người bạn tù xấu số ấy xuất hiện nữa.
Hoàng Thế Định
Nguồn:
blog người phương nam
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by kb chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, September 28,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang