Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
bút
Chủ đề:
Hoa Kỳ
Tác giả:
Điệp Mỹ Linh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Vừa
rời chiếc xe buýt của công ty du lịch Trafalgar, tôi chú ý ngay đến
một nhóm đàn ông lớn tuổi, người Nga, ngồi bên trái lối đi, cạnh con
kinh đào. Mỗi ông mang một nhạc cụ nhà binh như saxophone, trumpet,
clarinet, v.v. Không hiểu có phải vì nghe những tiếng thầm thì bằng
Anh ngữ của du khách hay không mà bỗng nhiên cả ban nhạc đều đứng
lên, cử hành Quốc Ca Hoa Kỳ.
Nhóm du khách và tôi đều dừng bước, ngạc
nhiên, vì đây là lãnh thổ của Nga. Du khách Mỹ để tay phải lên lồng
ngực bên trái. Nhìn các nhạc công, tôi nghĩ, có lẽ họ là những người
lính trẻ nhất của trận thế chiến thứ II. Tôi cảm thấy nao nao buồn.
Những người lính già nua, yếu đuối đang cố kéo chút hơi tàn để tìm
sự sống qua bản Quốc Ca của kẻ thù xưa, vì lương hưu của cựu chiến
binh Nga rất thấp!
Bản nhạc dứt. Du khách vui vẻ lấy tiền cho
vào cái xắc nhỏ được đặt trước mặt các nhạc công. Các nhạc công ngồi
xuống, đồng tấu tiếp nhạc khúc America, the Beautiful. Tôi đứng
lặng, lòng đầy xúc động.
Niềm xúc động trong tôi lần này cũng dạt
dào như năm 1977, khi Xuân Nguyệt – con gái lớn của tôi – lúc đó là
học sinh lớp 8, được trao tặng giải nhất toàn tiểu bang Arizona về
bài luận văn “What Makes America Beautiful?”
Gia đình tôi được giúp phương tiện để đưa
Xuân Nguyệt từ Yuma, Arizona, đến Phoenix nhận phần thưởng trong một
buổi lễ vô cùng long trọng. Đó là lần đầu tiên tôi nghe bản America,
the Beautiful được cả hội trường đồng ca. Tự dưng tôi khóc. Nhưng
rồi âm điệu và lời ca của bản nhạc khiến lòng tôi lắng xuống. Tôi
trầm tĩnh lại để nhận những vòng tay thân ái và những lời chúc mừng
của những người Mỹ quanh tôi. Theo những lời chúc mừng của những
người chưa quen này, tôi hiểu những người này nghĩ rằng tôi xúc động
vì thành quả của con gái tôi. Điều đó chỉ đúng một phần; vì, ngoài
sự hãnh diện của một người Mẹ, những giọt nước mắt của tôi còn mang
nặng niềm âu lo và sự lạc lõng trước một tương lai đầy thử thách mà
tôi không hiểu tôi có thể vượt qua được hay không!
Hơn 26 năm qua,
với tất cả hy sinh và nỗ lực, gia đình tôi đã vượt qua được nhiều
trở ngại. Các con/dâu/rể của tôi hiện đang đem tất cả khả năng và
kiến thức đã học hỏi/đã hấp thụ tại đất nước này để góp công xây
dựng một nơi mà ai cũng hơn một lần ước mơ được nhìn tận mắt sự văn
minh và phồn thịnh.
Riêng tôi, ngoài sự văn minh và phồn
thịnh, nước Mỹ còn có những công dân với trái tim rất vĩ đại.
Chỉ có những trái tim vĩ đại mới có thể
thực hiện những chuyến bay đầy thực phẩm/đầy thuốc men cùng những
phái đoàn y tế tình nguyện sang Phi Châu cứu đói. Chỉ có những trái
tim vĩ đại mới sáng tác và hát say sưa nhạc khúc We Are The World để
quyên góp hiện kim gửi sang Phi Châu cứu đói. Chỉ có những trái tim
vĩ đại mới đưa nhiều phái đoàn y dược sĩ, dụng cụ y tế sang Nga cứu
giúp khi lò nguyên tử của Nga – tại Chernobyl – bùng nổ. Chỉ có
những trái tim vĩ đại mới có thể thực hiện những chuyến bay khẩn cấp
để di chuyển hằng mấy trăm em bé mồ côi ra khỏi Việt Nam vào cuối
tháng Tư năm 1975. Chỉ có những trái tim vĩ đại mới cứu giúp hết đợt
di dân này đến đợt di dân khác.
Trong số triệu triệu di dân đó có gia đình
tôi. Gia đình tôi xin biết ơn:
Cựu Thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến và bà
Michael Z. Smith, người đã bảo trợ chúng tôi từ Camp Pendleton. Ông
bà Smith có ba người con: Michael, hiện là Đại úy Không Quân Hoa Kỳ
và cô con gái nuôi, người Nhật, Kristin cùng với bé Heather. Hiện
nay ông Smith là một mục sư ở California.
Ông bà Collins. Ông Collins từng tham chiến tại Việt Nam. Ông được
một gia đình Việt Nam che chở trong khi Việt Cộng ruồng bắt. Ông
Collins bảo vì Ông mang ơn người Việt cho nên Ông thương và muốn
giúp đỡ người Việt với tất cả nhiệt tình. May mắn cho chúng tôi, vì
chúng tôi là gia đình Việt Nam duy nhất tại thành phố Yuma.
Ông bà Collard, người đã thật lòng thương
yêu gia đình tôi như ruột thịt. Ông bà thường vui vẻ và hãnh diện
giới thiệu với mọi người rằng chúng tôi là con và cháu của ông bà.
Tôi không hề biết ông Collard là một cựu
chiến binh thế chiến thứ II; vì không bao giờ Ông nhắc nhở hoặc đề
cập đến cuộc chiến khốc liệt đó. Đến khi Ông Collard qua đời, người
bạn đồng ngũ của Ông đọc điếu văn, tôi mới biết ông Collard có mặt
trong trận Trân Châu Cảng. Chính ông Collard đã cứu giúp nhiều
người, kể cả người đang đọc điếu văn, rời khỏi chiến hạm... và Ông
là người vượt thoát sau cùng.
Sự hiểu biết của tôi về quân nhân Hoa Kỳ
trong trận Trân Châu Cảng hoặc Normandy chỉ căn cứ theo sách vở và
phim ảnh cho nên rất mơ hồ/rất hạn hẹp. Nhưng sự hiểu biết của tôi
về sự hy sinh và lòng quả cảm của người lính Mỹ trong cuộc chiến
tranh Việt Nam thì khá tường tận – tường tận hơn cả những cuốn sách
viết về chiến tranh Việt Nam mà tác giả chưa bao giờ có mặt tại
chiến trường Việt Nam. Do đó, tôi nhận thấy, dù cuộc chiến kết thúc
một cách tức tưởi, thiếu công bằng, nhưng cũng phải chấm dứt; vì máu
của người Việt – cả hai miền Nam Bắc – và máu của người Mỹ đã chan
hòa trong từng thước đất nơi quê hương nghèo khó của tôi.
Sau khi miền Nam bị bức tử, hạm đội Hải
Quân Việt Nam Cộng Hòa đã di tản hơn 30 ngàn người Việt thoát khỏi
hiểm họa cộng sản. Nhưng nếu không có sự hiện diện của Đệ Thất Hạm
Đội Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương cũng như không có sự giúp đỡ vô điều
kiện của nhân dân Hoa Kỳ thì số người tỵ nạn khổng lồ như chúng tôi
sẽ về đâu?
Nương
vào lòng nhân ái của người Mỹ, chúng tôi vào Mỹ với thái độ biết ơn
và lòng tự tin để vươn lên.
Người Việt, qua bao thử thách cam go, đã
vươn lên, đã góp công xây đắp và bảo vệ đất nước này.
Khi cuộc chiến Trung Đông bùng nổ, năm
1992, tôi đã đau buồn và lo sợ khi đưa tiễn một độc giả trẻ và thân
thiết nhất của tôi – Hải Quân Đại úy Hoàng Quốc Tuấn, tòng sự trên
hàng không mẫu hạm USS Independence – ra khơi, tiến về vùng lửa đạn
của Persian Gulf. Trong lá thư gửi về từ vùng Vịnh, Tuấn viết: “...
Người lính Hoa Kỳ được huấn luyện để bảo vệ Hòa Bình chứ không phải
để gây chiến...” Theo tinh thần cao cả đó, biết bao thanh niên nam
nữ Vietnamese–American đã tốt nghiệp hoặc đang thụ huấn tại các quân
trường lừng danh của Hoa Kỳ như West Point Academy, Naval Academy,
Air Force Academy, v.v.
Ngoài những tham gia đáng kể về quân sự,
giới trẻ Việt Nam cũng đã và đang xây đắp đất nước này trong tất cả
mọi lãnh vực như truyền thông, giáo dục, y tế, khoa học, khoa học
không gian, v.v.
Giới trẻ Việt Nam có những đóng góp lớn lao như vậy thì những nỗ lực
của thế hệ di dân Việt Nam đầu tiên cũng không nhỏ. Thử nhìn bản đồ
của các thành phố lớn như Los Angeles, Orange County, San José,
Houston, v.v. thì sẽ thấy: Từ những vùng đất hoang tàn cách nay 20
năm, bây giờ đã trở thành những vùng thương mại sầm uất do người
Việt khai thác. Và trong các hãng, xưởng, văn phòng, biết bao người
mang họ Nguyễn, Lê, Trần...
Khi những đóng góp của người Việt vào đất
nước này mỗi ngày mỗi thăng tiến thì bỗng dưng sự phá hoại từ đâu ùa
đến, phủ chụp xuống ngay lòng đất nước mà gia đình tôi đã âm thầm
nhận là quê hương thứ hai!
Tin Nữu Ước và Hoa Thịnh Đốn bị máy bay
tấn công đến với tôi trong lúc tôi cùng nhóm du khách dùng cơm trưa
sau những giờ thăm viếng thành phố Minks. Tôi ngồi bất động, lòng
đầy phẫn uất. Nếu bảo rằng tôi không lo sợ thì không hẳn đúng; nhưng
niềm lo sợ trong tôi bây giờ khác hẳn với sự hãi sợ của đứa bé gái –
giữa thập niên 40 – theo Cha Mẹ ra “vùng giải phóng” và thấy những
chiếc máy bay mang cờ tam tài (cờ Pháp) bắn phá những làng mạc xác
xơ. Những chiếc máy bay đó bắn vào tất cả những vật thể nào di động;
vì vậy nông dân không dám ra đồng, súc vật bị giết hại, sinh sản
không kịp và con người thì đói và thiếu thốn mọi bề.
Hơn hai mươi năm sống yên lành tại miền
Nam nước Việt và hơn hai mươi năm sống thanh bình trên đất Mỹ, tôi
cứ ngỡ rằng bom đạn đã xa tôi, không còn cơ hội làm tôi sợ hãi nữa.
Nhưng không! Trên màn ảnh TV, một tòa nhà của The World Trade Center
bốc khói và một chiếc máy bay lao thẳng vào tòa nhà thứ hai. Cả hai
tòa nhà lần lượt sụp xuống trong khi niềm phẫn uất trong tôi dâng
cao như những cuộn khói đen ngòm thoát ra từ The Twin Towers! Tình
cảm trong tôi chẳng khác gì nỗi đau xót của tôi cách nay hơn một
phần tư thế kỷ, khi Việt Cộng pháo kích ồ ạt vào Sài Gòn – thủ đô
miền Nam Việt Nam!
Là một phụ nữ được giáo dục chỉ để nuôi
con và phục tòng chồng, ngày đó, trước thảm trạng của quê hương Việt
Nam, tôi chỉ biết viết những dòng ca ngợi tinh thần chiến đấu can
cường của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa và tôn vinh lòng hy sinh vô
bờ của những người Mẹ, người vợ và người con.
Bây giờ, trước sự đổ nát và thiệt hại nhân
mạng một cách phi lý và tàn bạo tại Nữu Ước và Hoa Thịnh Đốn, tâm
hồn tôi bị chấn động mạnh và tôi muốn viết ra những ý nghĩ thầm kín
của tôi về một nơi chốn mà gia đình tôi âm thầm thọ ơn. Ý nghĩ này
làm cho cuộc du lịch giảm thiểu nhiều phần thích thú. Cuộc du lịch
này chỉ vì sự tò mò của tôi, muốn tìm hiểu về một nước Nga cộng sản.
Nước Nga rộng lớn nhưng môi người Nga
không đàn hồi cho nên người Nga không biết cười. Thức ăn của người
Nga thường là những miếng thịt dai dừ – mà không ai đoán được và
cũng không ghi trong thực đơn là thịt gì – được tẩm trứng hoặc bột
rồi chiên, không mùi vị, ăn đệm với khoai tây. Lâu lắm, may ra mới
có một bữa thịt gà. Thức ăn của Mỹ như các loại kẹo, ice cream và
sản phẩm của hãng Coca Cola được bày bán khắp nơi. Tôi cũng thấy vài
nhà hàng McDonald’s và Pizza Hut. Sản phẩm tiểu công nghệ của Nga
như thủy tinh và đồ gỗ thì tuyệt đẹp, vì được làm bằng tay. Hệ thống
Metro của Nga tại Moscow rất tối tân, dù đã được hoàn tất cách nay
nửa thế kỷ. Cứ 30 giây – vâng, 30 giây – thì một chuyến tốc hành đến
và một chuyến đi ngược lộ trình với chiếc kia. Trong sinh hoạt hằng
ngày, người Nga không ăn mặc giản dị, xềnh xoàng như người Mỹ. Những
buổi trình diễn ballet, skate on ice làm tôi say mê bao nhiêu thì
những màn vũ dân tộc và những bản dân ca cũng khiến hồn tôi giao
động bấy nhiêu. Âm hưởng dân ca của Nga mang nặng niềm thống thiết
của dân du mục.
Dân Nga rất kiêu hãnh về Red Square, vì đó là biểu tượng của thủ đô.
Khi thấy trong hình và phim ảnh, tôi cũng nghĩ Red Square rất vĩ
đại. Nhưng sau khi thấy tận mắt, tôi nghĩ – không phải vì định kiến
chính trị – Red Square không là gì cả; vì thiếu sự hài hòa giữa
thiên nhiên và nhân tạo. Khu vực Red Square được lát bằng gạch, trên
triền đồi thoai thoải, diện tích khoảng một phần ba của công trường
Thiên An Môn. Phần cao nhất của Red Square là tòa nhà của chính phủ
và mộ của Lenin. Chân đồi bên này là ngôi nhà thờ với những chóp cao
hình tròn, chạm trổ và sơn phết rất rực rỡ. Chân đồi bên kia chỉ là
một lối đi rộng lớn. Lối đi này, vào những dịp diễn hành để phô
trương lực lượng, được Hồng Quân Nga cũng như thiết giáp và các cơ
giới nặng dùng làm lối ra. Bây giờ, trên lối ra này, người ta xây
một ngôi nhà trên cao, phía dưới để trống vừa đủ cho bộ hành và xe
hơi nhỏ ra vào. Lối vào Red Square, phía nhà thờ, cũng được chận lại
bằng nhiều dãy trụ xi–măng, với mục đích không cho thiết giáp và cơ
giới nặng vào điện Cẩm–Linh.
Trước điện Cẩm–Linh, ban đêm, trong khi
những cặp tình nhân trẻ thủ thỉ bên nhau những lời mặn nồng thì
những người Nga lớn tuổi lại chậm bước, lòng hướng về một thủ đô đã
đổi tên: St. Petersburg.
St. Petersburg là một thành phố mang nặng
di tích lịch sử của Nga Hoàng. St. Petersburg không chinh phục được
cảm tình của tôi nếu không có ngôi nhà thờ cổ còn hằn vết đạn của
thời Hitler xâm lược và những bức tranh đầy sinh động của Ivan
Aivazovsky, Wassily Kandinsky, Pavel Filonov, v.v.
Những dòng sông ở St. Petersburg đã để lại
trong hồn tôi rất nhiều lưu luyến. Những dòng sông im lìm, nhẫn
nhục, chỉ biết len lỏi trong từng ngõ ngách của thành phố trước sự
kiêu căng thách đố âm thầm nhưng lố bịch của từng dãy lâu đài nguy
nga. Lúc xuôi theo dòng Neva, trong khi mọi người lưu ý đến mấy
chiếc cầu dựng đứng – vào những giờ nhất định – để tàu thủy có thể
đi qua, thì tôi chỉ nghĩ đến những gì tôi đã thấy trên đoạn đường
loang lở sau khi vào biên giới Nga.
Trên đoạn đường loang lở đó tôi đã thấy
những xóm nhà lụp xụp. Thỉnh thoảng tôi mới thấy một chiếc xe hơi cũ
thật cũ đậu dưới tàng cây, không biết xe còn sử dụng được hay không.
Nơi khoảng sân hẹp, mỗi nhà thường cất một cái chòi nhỏ, mái và
chung quanh được bọc ny–lông, để trồng hoa màu. Tôi cũng thấy người
dân quê canh tác bằng tay chứ không bằng máy.
Những hình ảnh nghèo khó này cứ theo tôi
mãi.
Nhưng khi
đến Minsk, mọi hình ảnh đều bị đẩy lùi về quá khứ, chỉ còn trong tôi
nỗi xót xa của một người vừa biết nơi mình nương náu hơn hai mươi
năm qua đang bị xâm phạm nặng nề! Từ Minsk đến Riga, tôi thấy các
thành phố đều treo cờ rũ và mọi người dân địa phương có vẻ sốt ruột,
dán mắt vào TV hoặc ngóng tin tức từng giờ. Điều làm cho tôi xúc
động nhất là hôm 14–09, lúc 12 giờ trưa, tại khách sạn Scandic thuộc
thành phố Helsinki của nước Finland, ban giám đốc đã yêu cầu mọi
người đứng nghiêm, dành năm phút mặc niệm để tưởng nhớ những nạn
nhân của khủng bố tại Hoa Kỳ.
Trong khi đứng nghiêm tôi vẫn bị những lời
tường trình của xướng ngôn viên đài truyền hình CNN – từ chiếc TV
lớn treo nơi góc phòng khánh tiết – chi phối. Tôi đau đớn, xốn xang
trong lòng như ngày xưa, năm 1968, hay tin Việt Cộng tấn công và
cưỡng chiếm thành phố Huế, quê Ngoại của tôi.
Sau khi Huế được quân lực Việt–Mỹ giải
tỏa, tôi nôn nóng muốn trở về để nhìn sự tang thương và đổ nát của
quê Ngoại. Bây giờ, tại phi trường Helsinki đợi máy bay để sang
Frankfurt, tôi cũng nôn nóng muốn trở về một nơi mà tôi gọi là nhà –
Home. Nhưng bà nhân viên hãng hàng không Lufthansa, sau khi nhìn vé
máy bay và thấy rõ ràng tôi không phải là một người da trắng, tóc
màu, đã khẳng định:
– Bà có vé. Tôi sẽ ghi tên bà vào danh
sách, nhưng sẽ không có chỗ cho bà. Bà phải chờ, vì đây là chuyến
phản lực 747 đầu tiên từ Đức vào lục địa Hoa Kỳ.
– Vé của tôi mua từ lâu, tại sao bây giờ
tôi phải chờ? Và chờ đến bao giờ?
– Rất tiếc, tôi không biết bà phải chờ đến
bao giờ. Khi nào có chỗ chúng tôi sẽ thông báo cho bà. Hiện tại,
chúng tôi có rất nhiều hành khách ứ đọng từ mấy ngày qua. Và chuyến
bay này, từ Helsinki đến Frankfurt để về Nữu Ước, chỉ dành ưu
tiên...
Không đủ
kiên nhẫn chờ bà ấy nói hết câu, tôi cắt ngang:
– Tại sao tôi mới rời nhà chỉ có hai tuần
mà nay tôi không thể trở về, hả?
Bà ấy ngạc nhiên, nhìn tôi, gằn giọng:
– Nhà?
Tôi đáp với giọng nghèn nghẹn như sắp
khóc:
– Vâng. Nhà
của tôi.
– Cho
tôi xem thẻ thông hành.
Chỉ nhìn thoáng qua Passport, bà ấy thay
đổi thái độ ngay:
– Vâng. Bà là công dân Mỹ. Bà ưu tiên đi
chuyến bay này.
Tôi cúi xuống xách hành lý, lòng âm thầm tạ ơn nước Mỹ, nơi đã cho
tôi hiểu thế nào là giá trị thực tiễn của tự do, dân chủ và công
bằng. Và trên tất cả mọi điều, nước Mỹ đã cho tôi cơ hội thể hiện
tinh thần tự lập của một phụ nữ./.
Điệp Mỹ Linh
http://www.diepmylinh.com
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
Dù T–10
SĐND–QLVNCH
dùng trong thời chiến
|
Hình nền: Lũy Tre Làng. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by psxh chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật,
September 15, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang