Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Tản mạn Cuộc đời khốn nạn
Tác giả:
Tràm Cà Mau
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Sau một hồi nói chuyện qua
điện thoại, Dung báo cho tôi:
“Bác biết chuyện gì xảy ra cho ba cháu
chưa?”
“Chưa.
Chuyện gì?”
“Ba cháu đã vào chùa, xuống tóc đi tu từ hơn nửa năm nay. Ba cháu
hiện tu ở một chùa gần thành phố bác ở. Ba cháu không cho ai biết
chuyện ông đi tu. Dấu, không cho biết tu ở chùa nào. Cháu mới tìm
ra. Cháu định tháng tới qua thăm, và rủ bác cùng đi luôn. Gặp bác
chắc Ba cháu mừng lắm.”
“Bác cũng mong gặp ba cháu. Lâu rồi, ba
cháu và bác chưa gặp lại nhau. À, tại sao ba cháu có quyết định
đi tu? Sao lại phải dấu chuyện tu hành. Ði tu, chứ có phải đi tù
đâu mà dấu diếm. Còn mẹ cháu thì sao?”
Dung ậm ừ, như không muốn nói. Một lúc
sau mới trả lời:
“Mẹ cháu vẫn bình thường. Vẫn oai phong
như cũ. Thật ra ba cháu không cho ai biết tu nơi nào, vì sợ mẹ
cháu đến phá đám. Bốn tháng trước, ba cháu tu tại một chùa gần
West Virginia, mẹ cháu đến làm ồn ào, bắt ba cháu trở về. La mắng
cả sư cụ, xỉ vả ông ta đủ điều, còn phao vu lên rằng sư cụ đồng
tính luyến ái với ba cháu. Thiệt tình! Mẹ cháu nói rằng, ba cháu
đức mỏng, đừng tu làm chi cho phí công. Lỡ có lên được niết bàn,
cũng chỉ đi bưng ống nhổ cho thiên hạ, vì kém công đức. Về địa
ngục, may ra còn được đi làm thơ ký, gác gian, đỡ nhọc nhằn hơn,
bởi tội lỗi cũng không nhiều lắm. Nhà chùa khuyên ba cháu đi tìm
nơi khác tu. Ý họ muốn đuổi khéo. Ba cháu ra đi, như đi trốn.
Thật buồn.”
Tôi cười khà khà, rồi an ủi Dung, người con gái út của bạn cũ:
“Thôi, cháu đừng buồn. Ði tu để giải
thoát khỏi mọi khổ đau, hệ lụy. Biết đâu rồi Ba cháu cũng thành
một thứ Phật nho nhỏ nào đó. Cháu biết không, ngày xưa Ðức Thích
Ca Mâu Ni nửa đêm cũng trốn hoàng cung ra đi, bỏ lại vợ con, ngai
vàng, để tìm đạo. Trường hợp ba cháu, sao cũng có phần tương tự.”
“Thôi, để gặp bác, cháu sẽ nói nhiều
hơn. Không chừng bác có thể khuyên ba cháu trở về. Ba cháu chỉ
còn có bác, người bạn thân nhất, chưa buồn giận ba cháu thôi. Ba
cháu thường hay nhắc đến bác với giọng thân thiết lắm.”
Hai tuần sau, tôi lên phi trường San
Francisco đón Dung, con gái út của Hùng, người bạn cũ từ thời còn
cắp sách đến trường. Hai bác cháu từ nhiều năm không gặp, đã nhận
ra nhau ngay. Dung giống mẹ của cháu thời còn con gái. Nhỏ nhắn,
trắng trẻo, mặt hơi xương, có nụ cười toét hai vành môi ra đến
mang tai, nụ cười tinh nghịch, dí dỏm. Ba mẹ của Dung là bạn cũ
ngày xưa. Thật ra, mẹ Dung là em gái của bạn tôi. Tôi biết bà từ
khi mũi xanh còn hít vào trồi ra và dùng tay áo quẹt mũi. Bà xem
tôi như ông anh trong gia đình, hay vòi vĩnh bánh quà.
Dung ôm ngang người tôi và nói:
“Lạ thật, bác không thay đổi gì cả,
cháu nhận ra bác ngay. Tóc bác còn dày và đen. Ðầu ba cháu hói
láng, chỉ còn cái vành tóc thưa sau đầu thôi”.
Tôi cười với cháu:
“Ðầu bác cũng ‘phồn vinh giả tạo’ cháu
à. Bác nhuộm tóc. Còn ba cháu, có tóc đâu mà gọi xuống tóc đi tu?
Ông ta đã láng như sư cụ từ lâu rồi mà!”
Hai bác cháu cùng về trên con đường xa
lộ có xe cộ nêm cứng và khói bụi lù mù. Cái giọng nói nhão nhẹt,
ướt rượt kéo dài những tiếng sau cùng của Dung, làm tôi nhớ đến
bà Thu, mẹ của Dung. Bà là người con gái út trong một gia đình
toàn anh trai, nên được cưng chiều, và nhõng nhẽo với các anh,
với cha mẹ, và cả với mọi người chung quanh. Bà thông minh, học
giỏi, ganh đua với bạn bè, không chịu thua ai. Khi lên đại học,
bà đỗ ba cái bằng cử nhân cùng một năm. Thông minh, học giỏi nên
bà thường kiêu hãnh. Bà lạm bàn cả chuyện chính trị, kinh tế.
Nhiều khi bà nói hăng say đến nước bọt đóng trắng bên mép. Mỗi
lần có vấn đề lâm vào một cuộc tranh luận với bà, tôi thường
thoái thác:
“Thôi, anh chịu thua cô. Khi nào cô cũng có lý hơn người khác cả.
Tội gì tranh luận thắng cô, để cô nhè nước mắt ra, ai dỗ cho
được.”
“Thua
phải có chầu phở, bún bò gì chớ. Thua không thôi ai mà chịu cho.”
Rồi bà cười hăng hắc thích thú, không
giữ gìn ý tứ gì cả.
Tôi liếc nhìn qua cô cháu gái đang
ngồi, hai tay đan nhau, tôi nói:
“Cháu giống mẹ cháu quá. Từ dáng điệu
cho đến giọng nói.”
Dung có vẻ không bằng lòng sự so sánh
của tôi. Mặt cháu hơi buồn. Im lặng một lát, Dung nói nho nhỏ:
“Không giống đâu bác à. Mẹ cháu cứng
rắn lắm. Cháu mềm yếu, có lẽ cháu giống ba cháu nhiều hơn.” Tôi
nói nho nhỏ:
“Ðúng. Mẹ cháu cứng rắn. Bác biết điều đó từ thời bà còn nhỏ.
Nhưng có chết ai đâu?” Dung nói nhỏ như hơi thở:
“Có. Chết một đời ba cháu.”
Hai bác cháu im lặng cho đến khi về đến
nhà. Vợ tôi đón và thân mật ôm lấy Dung: “Trời, cháu giống hệt mẹ
cháu.” Dung lại thoái thác:
“Không giống đâu bác.”
Vợ tôi không hiểu ý nói tiếp:
“Giống hệt như đúc ra từ một khuôn. Từ
dáng điệu, cử chỉ, giọng nói, ướt và ngọt như mật đổ ra đầy bàn.
Thôi cháu thay áo quần, tắm rửa đi rồi ăn cơm. Ðường xa, bay
nhiều giờ mệt nhọc. Tiếc hai thằng con trai của bác lấy vợ sớm
quá, không thì cháu về làm dâu nhà bác cũng vui.”
Trong bữa ăn tối, Dung đưa nhận xét:
“Hai bác sao hạnh phúc quá. Tâm đầu ý
hợp. Bác trai nói gì, bác gái cũng đồng ý vui vẻ. Bác gái nói gì,
bác trai cũng phụ họa, thân mật. Ba mẹ cháu không được như vậy.
Mẹ cháu khi nào cũng đầy cả uy quyền. Khi nào cũng khích bác, chê
bai. Ba cháu có khi im lặng đến rợn người.”
Vợ tôi nói với cháu:
“Cãi nhau làm chi hở cháu? Vợ chồng
tranh hơn thua làm chi? Hơn cũng chẳng được cái gì, khi thua lại
bực mình, và gia đình mất vui. Ngày xưa, bác cũng thích cãi vã,
hay cằn nhằn, nhưng rồi học được trong sách vở, học được từ bạn
bè, thay đổi dần dần, và thấy không khí gia đình vui vẻ, thân
mật, ấm cúng hơn. Hạnh phúc gia đình phải tạo ra, không phải tự
nhiên nó đến với mình. Trồng cây cũng phải tưới bón đều đặn, hạnh
phúc gia đình cũng phải xây dựng, chăm bón không ngừng.”
Dung nhìn vợ tôi với ánh mắt hơi buồn
và hỏi:
“Mục
tiêu tối thượng của con người trên thế gian này là đi tìm hạnh
phúc, thế nhưng sao không có một ngôi trường nào mở ra, để dạy
cách sống hạnh phúc cho mọi người? Trường dạy về khoa học, nhân
văn, xã hội có quá nhiều. Nhưng cái môn học quan trọng nhất là
sống sao cho hạnh phúc, lại không có một ngôi trường nào cả, cũng
không là một bộ môn nhỏ của những trường lớn. Sao vậy hở bác?”
Nghe câu hỏi ngộ nghĩnh, tôi cười:
“Có chứ, có khắp nơi, như nhà chùa, nhà
thờ, đền thánh. Ở những nơi đó, các vị tu sĩ cũng giảng dạy tín
đồ, sống sao cho hạnh phúc. Tìm hạnh phúc cho riêng mình, và đem
hạnh phúc rải rắc cho những người bất hạnh chung quanh. Kinh điển
dạy con người làm lành, tránh ác. Ðem kiếp sau ra hù dọa, để ngăn
ngừa cái ác, cái xấu. Phải biết kiêng, biết sợ một cái gì đó, mới
dễ dàng ngăn cản cái xấu trong mỗi người bùng dậy. Ngoài ra, còn
có những khóa hội thảo, sách viết về hạnh phúc cũng tràn đầy trên
thị trường, đọc không hết, sợ không đủ tiền để mua. Ngay cả kinh
Phật, kinh Thánh, kinh Koran cũng là những cuốn sách dạy về hạnh
phúc đó cháu à.”
“Không. Cháu muốn nói đến một ngôi
trường chính thức, để người ta theo học một cách nghiêm chỉnh. Có
cấp bằng, có thi cử đàng hoàng. Có học kỹ mới thấm, chứ đọc qua,
nghe qua, sẽ mau quên lắm, và chỉ biết lơ mơ, nhớ lơ mơ cho nên
không thi hành những điều học được. Bởi vậy, nên trên thế gian
này, chính con người làm khổ con người nhiều nhất. Con người gây
rắc rối cho con người nhiều nhất. Bác có đồng ý không?”
Tôi nhìn Dung, tuổi trẻ sao có những ý
nghĩ chín chắn, lạ lùng. Chuyện gì đã xảy ra trong đời cháu, để
cháu có những suy tư đó? Dung ngần ngại nhìn hai vợ chồng tôi và
tiếp:
“Bác
không đồng ý rằng chính con người gây tai vạ, gây khổ đau cho con
người nhiều hơn thiên tai, thú dữ và các thứ khác sao? Từ tranh
chấp thế giới, chiến tranh, cho đến tranh chấp chính trị, tranh
chấp quyền hành. Con người bày ra để làm khổ nhau, trong lúc đó,
khi nào cũng hô hào, tuyên bố rằng nhân danh hạnh phúc, để tạo ra
những khổ đau, khó khăn cho người khác. Cháu thấy trong các cơ sở
chính phủ, cơ sở kinh doanh thương mãi, và cả những người hành
nghề tư nữa, lâu lâu cũng có một khóa tu nghiệp. Ðể người ta ôn
lại nghề nghiệp, và theo kịp các kỹ thuật tân tiến, để khỏi thụt
lùi và lạc hậu. Nhưng không có lớp tu nghiệp nào về hạnh phúc gia
đình. Ðể người ta nhắc nhở và dạy bảo đúng cách làm cha mẹ, làm
con cái, làm anh em, làm chồng làm vợ. Không trường, không lớp,
cho nên mỗi người tự học lấy, tự tìm lấy, có người may mắn học
được những điều hay, tốt, có người thiếu may mắn, không học được
gì cả, hoặc học được toàn điều xấu xa, mà không biết đó là xấu,
nguy hại, phá vỡ hạnh phúc họ đang kiếm tìm. Cháu nghĩ phải có
những khóa tu nghiệp thường xuyên về gây dựng hạnh phúc, bắt mỗi
người làm cha, làm mẹ, làm con, làm chồng làm vợ, phải tham dự
hàng năm, hoặc hàng hai năm một lần. Ðể đừng quên, để nhắc nhở,
để học thêm. Bởi cuộc đời này, tiền bạc, danh vọng, tiếng tăm,
cũng chỉ để tìm kiếm và vun xới cho hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc
gia đình mà thôi. Quan trọng như vậy, sao thiên hạ không đặt
thành vấn đề. Những người cầm quyền, nhân danh đem lại hạnh phúc
cho nhân dân, cũng không có một ngân khoản, một cơ quan chính
thức nào chăm lo cho vấn đề quan trọng này.”
Tôi nói đùa: “Hay cháu mở một cơ sở
kinh doanh, một trường đại học dạy hạnh phúc gia đình, hạnh phúc
cá nhân. Kêu gọi các nhà đầu tư, bán cổ phiếu sinh lời. Một ngôi
trường đại học mới, cho tất cả mọi công dân, là môn học bắt buộc,
phải tu nghiệp hằng năm, nếu không sẽ bị phạt vạ.”
Cả ba chúng tôi đều cười vui vẻ. Dung
nói tiếp trong ánh mắt tinh nghịch:
“Phải đó bác à. Gia đình lục đục, li
dị, con cái hư hỏng, gây tội ác, vợ chồng giết nhau, tốn kém ngân
sách của quốc gia nhiều lắm, dân chúng phải đóng thuế để trang
trải cho cái thiếu hạnh phúc trong xã hội. Phí tiền quá. Bác nói
trường đại học? Cháu nghĩ rằng, phải mở lớp từ sơ đẳng trở đi. Vì
cháu thấy nhiều gia đình, nhiều người lớn tuổi, có đủ thứ bằng
cấp, bằng cấp cao, nhưng xử thế như một kẻ không có chút hiểu
biết nào về ý niệm hạnh phúc. Phải xem họ như những kẻ thất học
về bộ môn xây dựng hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc cho người chung
quanh. Có thể họ thông thái về khoa học, nhân văn, xã hội, nhưng
họ như một kẻ thất học về thứ quan trọng nhất, thứ mà họ cố công
theo đuổi trong đời người, là sống cho hạnh phúc.”
Vợ tôi tròn mắt ngạc nhiên nhìn Dung.
Buổi tối trước khi ngủ, vợ tôi thầm thì:
“Khổ đau nào đã làm cho con bé chừng đó
tuổi có những ý nghĩ lạ lùng kia? Tội nghiệp. Trường dạy hạnh
phúc? Ðâu phải vô lý. Ðời cũng là một trường học, phải vấp ngã,
phải đớn đau, mới nhận chân ra ý nghĩa, tìm được vài phần chân
lý.”
Tôi thao
thức nghĩ đến bà nội tôi, học vấn của bà rất ít, chỉ đọc được năm
ba chục chữ nho. Bà dạy con, dạy cháu qua ca dao, tục ngữ, ngạn
ngữ. Việc nào cũng có một câu thích ứng, khôn ngoan để nói ra.
Nhắc đi nhắc lại mãi, làm nó len vào ký ức của con cháu, không
thể quên, không phai được. Những câu như:
“Lời
nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Chồng giận thì vợ làm ngơ, đừng đổ thêm dầu lửa vỡ nhà thiêu.
Một câu nhịn chín câu lành.
Thương người
như thể thương thân.
Ðiều mình không
muốn đừng làm cho người khác.
Anh em như
thể tay chân.
Ðược mùa chớ phụ môn
khoai.
Vân vân và vân vân.”
Trong đầu bà tôi, có cả một kho tàng ca
dao, những câu nói khôn ngoan của người xưa, mỗi ngày bà nhắc đi
nhắc lại cho con cháu nghe, như những lời hướng dẫn cách ứng xử
trong cuộc đời thường. Ông anh con bác tôi, thường chế nhạo bà,
sửa câu nói của bà, để cười, và nói thầm với tôi: “Một lần nhịn,
chín lần nó cưỡi lên đầu mình. Anh em như thể râu ria. Ðược mùa,
tội gì đớp môn khoai...” Ðó là thời anh còn nhỏ, lớn lên, tôi
cũng nghe anh dạy con cái bằng những ca dao của bà tôi thường nói
ngày xưa.
Buổi
sáng thứ bảy, sau bữa điểm tâm, tôi chở Dung lên chùa thăm ba của
cháu. Trời mát, nắng vàng, cỏ cây xanh tươi. Xa lộ vắng, ít xe,
tay lái khoan thai, và trí óc thư dãn. Tôi vặn nhạc. Tiếng nhạc
vui tươi, dồn dập, như đổ thêm nguồn sống đất trời.
“Trời đẹp quá bác nhỉ. Nhạc vui làm
tinh thần hăng hái thêm. Có khi nào bác nghe nhạc buồn không?
Nhạc Việt Nam mình, nhiều bài nghe buồn đứt ruột, buồn đến rã rời
thân xác, mềm nhũn tâm trí ra.”
“Có, thỉnh thoảng bác cũng nghe nhạc
buồn. Ðể khơi một chút đau đớn, một chút nhớ thương, đưa hồn đi
lạc về kỷ niệm xa xưa. Cũng như một chút khoái lạc trong xa xót
mênh mang. Nhưng chỉ thoáng chốc thôi và không thường xuyên. Hai
bác thường ngày nhắc nhủ nhau rằng, chuyện không vui nên quên
liền đi, chuyện bực mình đừng than vãn, ráng nói với nhau những
chuyện vui, những lời tử tế.”
Dung tròn mắt: “Lạ thật, chưa ai dạy
cho cháu những điều bác vừa nói. Ba mẹ cháu ít khi nói chuyện với
nhau bằng giọng tử tế. Có thể nào bác khuyên khéo ba cháu trở về
với gia đình không? Mẹ cháu buồn lắm, cứ ngẩn người ra, cháu sợ
mẹ buồn rồi phát bệnh, thì khổ lắm.”
“Ðể xem, bác không dám hứa, khi thuận
bác sẽ nói.”
Hai bác cháu vào chùa. Chùa nguyên là một căn nhà được thiết kế
lại, phòng khách lớn làm niệm Phật đường. Có một tượng Phật ngồi
với cái đầu quá to và dài so với thân mình. Phần nhà xe được nới
rộng, che mái chạy dài ra ngoài sân sau, làm trai phòng. Sư cụ
đưa chúng tôi ra sau vườn. Hùng, bạn tôi, bố của Dung, mang bà-ba
màu tro nhạt, đang ngồi giặt áo quần bằng tay, bên vòi nước. Hùng
ngẩng đầu lên nhìn, với vẻ ngạc nhiên. Hai tay anh còn dính đầy
bọt xà-phòng. Anh vội vã đứng dậy, ôm chầm Dung và tôi vào hai
vòng tay mừng vui, nói: “Khỉ. Ai cho các người tới đây quấy rầy
kẻ tu hành!”
Tôi trả lời:
“Phật có cấp giấy phép cho tôi đến thăm ông. Ðừng lộn xộn. Tu là
bỏ hết bạn bè, bỏ con cái hay sao?”
Bạn tôi xả xà-phòng bộ áo quần nâu, rồi
treo lên dây phơi nắng, như ngày xưa còn ở Việt Nam. Dung nhìn
theo bố với ánh mắt thương cảm:
“Ở đây không có máy giặt hay sao?”
“Chùa không có. Chỉ giặt một bộ thôi,
giặt tay cho mau. Ba chỉ có hai bộ quần áo để thay đổi. Hai ngày,
thay ra phải giặt liền.”
Hùng đưa chúng tôi vào trai phòng, ngồi
trên băng dài nói chuyện. Trà đậm chát trong bình thủy được rót
ra ba chén nhỏ. Hùng cười, nụ cười rất hiền và đầy thương mến,
hỏi Dung:
“Cả
nhà vẫn bình thường chứ?”
Dung nhìn bố, chớp mắt, buồn buồn,
giọng hơi hạ xuống:
“Không bình thường ba ạ. Mẹ con xuống
tinh thần, và mong ba trở về sớm.”
Hùng nhìn con gái, rồi nhìn tôi. Hơi
lúng túng, sau một tiếng thở dài, Hùng nói một hơi dài:
“Dung à. Nhân sẵn có bác đây, ba
nói ra cho con nghe, cũng để bác chia sẻ tâm sự của ba. Ba muốn
nói với bác từ lâu, nhưng chưa có dịp. Ðời ba, có ba lần sung
sướng nhất, xem như chết đi sống lại. Lần thứ nhất là ra khỏi
trại tù cộng sản. Thoát tù, ai không sung sướng cho được? nhất là
thứ tù không có án, không có thời hạn giam giữ. Lần thứ hai là
khi vượt biển, đặt chân lên đất Mã Lai, dù bị dân họ đánh đập,
xua đuổi, nhưng thấy được ánh sáng tự do trước mắt. Mừng đến
khóc. Và lần thứ ba, ra khỏi chính nhà mình, vào chùa đi tu. Ba
thấy mình như một kẻ mang án chung thân thoát được ngục tù. Trong
ba lần đó, đem so sánh, thì lần sau cùng này xem như sung sướng,
khoan khoái nhất. Ba là một kẻ nhu nhược, hèn nhát. Ba tên là
Nguyễn Hổ Hùng, ba xấu hổ với cái tên của mình. Chẳng có hùng hổ
tí ti nào cả. Ðáng ra, phải đổi thành Nguyễn Dun Dế mới đúng.
Chính ba cũng tự khinh mình. Tại sao? Tại vì ba thương các con,
không muốn các con thấy gia đình lục đục, mất hạnh phúc. Không
muốn gieo vào tâm trí non nớt của các con những muộn phiền về một
gia đình thiếu hòa thuận. Nó sẽ có thể ảnh hưởng đến suốt đời,
ảnh hưởng tới việc học, tới tương lai sau này của các con. Nhưng
ba cũng đã làm gương xấu cho các con về sự bất lực, yếu đuối, bị
ức hiếp, chèn nén mà nín lặng chịu đựng. Mẹ con đã ức chế ba
trong mấy chục năm nay. Nói ra thì xấu hổ, nhưng có thực, ban đầu
chỉ vì muốn yên nhà yên cửa nên chịu nhịn, nhưng dần dà về sau,
nó thành nỗi hèn nhát, sợ hãi. Cái sợ nó xâm chiếm trong ba,
không biết từ bao giờ, nhưng lo sợ thường trực. Sợ mẹ con. Khi
nào cũng nơm nớp sợ. Nghe tiếng mẹ con ho cũng giật mình, nghe
tiếng dép của mẹ con, trong lòng cũng không yên. Nghe tiếng mẹ
con nói gì đó với ai, cũng lo vì lỡ mẹ nói với ba, mà ba không
nghe kịp, sẽ có gây gỗ, có lôi thôi. Trở thành phản xạ có điều
kiện, như con chó trong thí nghiệm tâm lý, cứ nghe tiếng chuông
là chảy nước miếng. Ba sợ mẹ con gây gỗ, khóc lóc, cằn nhằn, nói
những điều khinh bạc làm ba đau đớn, gán cho ba những tội lỗi ba
không hề sai phạm. Sự lấn ép của mẹ con, mỗi ngày một chút, từ
từ, tiệm tiến, nhưng vững chắc và quá đáng.
Ngay từ khi ba mới bảo lãnh được cho mẹ
và các con từ trại tỵ nạn đến Mỹ, mẹ con ngày đêm khóc lóc, tra
hỏi ba làm gì trong bao nhiêu năm, mà không mua được căn nhà,
phải đi ở thuê. Mẹ con còn nói rằng ba không gởi tiền về nuôi gia
đình. Không gởi tiền về, làm sao mẹ sống phong lưu, đi nghỉ mát
hàng tháng ở Vũng Tàu, Đà Lạt. Rồi đi vượt biển mấy lần mất tiền,
bị lừa. Không gởi tiền về làm sao mà đi vượt biển được. Hồi ba
mới đến Mỹ, tiếng Anh tiếng u còn ấm ớ, nghe không được, nói
không ra hơi, phải đi làm lao động chân tay, lương tối thiểu.
Công việc khi có, khi không. Làm một lúc ba việc, ba nơi khác
nhau. Ngày đi làm thợ gói hàng, tối đi làm an ninh canh gác, thứ
bảy chủ nhật theo các nhóm người xứ Nam Mỹ đi hái trái ớt, hái
dâu cho các nông trại. Trời nóng như lửa đốt trên lưng. Làm việc
lãnh lương theo khối lượng dâu, ớt hái được. Cong lưng trên ruộng
dâu suốt ngày, cái lưng đau như muốn gãy đôi. Hai tay đen kịt như
nhúng bùn vì màu nhựa cây, phải chờ lột da mới hết màu đen đủi.
Mỗi đêm chỉ ngủ có ba bốn giờ. Bao nhiêu tiền làm được gom góp
gởi về cho mẹ con, hy vọng có ngày gia đình sớm đoàn tụ. Ba chỉ
ăn mì gói, hột gà, gà kho quanh năm. Nhà cũng không dám thuê, chỉ
chia phòng ở trọ. Thế mà mẹ con cứ khóc lóc, cả ban ngày, ban
đêm, những khi đi chợ, đi chơi, hỏi tiền để đâu cả. Ðem cho con
bồ nào. Những dằn vặt này, kéo dài cho đến gần cả chục năm cũng
chưa dứt. Ba khổ tâm lắm, giải thích cách nào mẹ con cũng không
nghe, không chịu hiểu. Ban đầu thì không hiểu, nhưng về sau, giả
vờ không hiểu. Ba cũng thông cảm, vì không phải chỉ mình ba bị ở
trong hoàn cảnh này, nhiều bạn bè ba cũng phải chịu cái dằn vặt
tương tự của những người vợ qua sau. Hỏi sao ai cũng mua nhà, mà
ba không mua được. Tiền để đâu? Con biết, phải cả hai vợ chồng
cùng đi làm, và làm công việc có đồng lương kha khá, mới gồng
mình lên mua được căn nhà. Chứ mới qua Mỹ, chưa có việc chuyên
môn, chưa công việc lương khá, và bao nhiêu tiền dể dành, cứ lo
chuyển về Việt Nam cho vợ con cả. Lấy gì để mua nhà. Ai bán cho.
Ngân hàng nào cho vay. Có mua được, cũng làm sao đủ tiền trả hàng
tháng? Mẹ con than vãn, so sánh với những gia đình khác. Khi nào
cũng thở dài, thở ngắn, cằn nhằn và chê bai. Ba cũng đã làm hết
sức mình, nhưng không làm sao cho mẹ con bằng lòng. Có lẽ ba cũng
có phần lỗi, vì không đủ tài cán, không đủ may mắn để làm ra thật
nhiều tiền, và có những phương tiện vật chất như mẹ con mong
muốn.
Trong
nhà, ba như một tù nhân, một tên đầy tớ, một tên nô lệ. Mẹ con
như một bà chủ, một bà mẹ chồng khắc nghiệt đời xưa, luôn luôn
dòm ngó, phê bình, nạt nộ ba. Ba co rúm người lại trước cái nhìn
quắc mắt của mẹ con. Trong bữa ăn, nếu ba vô tình làm rớt hạt
cơm, hay chút thức ăn ra bàn, mẹ con mắng ba xối xả, chê bai và
nói những lời tàn nhẫn trước mặt con cái, trước mặt bà con, họ
hàng. Bởi vậy, nên trong mỗi bữa cơm, trong lòng ba cũng không
yên, cũng lo lắng sợ vô tình làm rớt giọt canh, rơi cọng rau. Mất
hết cả tự nhiên, mất hết cả sinh thú trong khi ẩm thực. Lo lắng,
khi nào cũng lo lắng không nguôi. Còn mẹ con nhiều lần làm đổ cả
tô canh, làm rớt cả dĩa thức ăn ra sàn nhà, vỡ tan tành, cũng
không ai dám nói một lời nhỏ. Những lúc này, ba chỉ an ủi mẹ con
rằng không can gì, ai cũng có lúc sẩy tay. Nói lời an ủi, cũng sợ
bị quật lại bằng những câu nói đau lòng.
Khi ba quét nhà, lau chùi bàn ghế, mẹ
con cũng đưa mắt dòm ngó vào các hốc kẹt để tìm cọng rác bỏ sót,
đưa ngón tay quẹt vào góc bàn, xem có còn bụi bám hay không. Ðể
rầy rà ba, chê ba cẩu thả, làm biếng. Và bắt ba phải quét lại,
chùi lại. Khi ba rửa chén bát, mẹ con cũng đứng chỉ huy và cằn
nhằn, tại sao không rửa cái này trước, cái kia sau, và giảng giải
về cách tổ chức công việc cho khoa học. Ba đã từng rửa chén bát
nồi niêu ở nhà hàng, cả ngàn cái mỗi ngày, chưa có ông chủ bà chủ
nào chê bai than phiền cả. Những khi ba đang dở tay làm một công
việc gì đó, như đang đứng trên thang cưa cây, hoặc sơn lại bức
tường, mà mẹ con nhờ làm việc khác, dù việc nhỏ nhặt đến đâu,
cũng phải buông tay để làm ngay, không làm liền sẽ có ồn ào, làm
liền thì mẹ con lại chê bai trách mắng ba tại sao không dẹp cái
thang, tại sao còn để thùng sơn đó. Việc gì ba làm, mẹ con cũng
trách móc, uống nước chưa xong, mẹ con cũng lườm mắt hỏi sao
không cất cái ly ngay, và chê ba làm biếng. Cất con dao vào chạn,
mẹ con cũng kiếm cớ để phàn nàn, nhăn nhó. Áo quần đang thay,
chưa cất kịp, cũng la hoảng lên. Con biết hết những điều đó. Ba
nhắc lại cho bác nghe, để bác biết cho tình cảnh của ba. Mỗi lần
lái xe cho mẹ con đi đâu, như cả một cực hình, dọc đường, cứ thế
mà mẹ con ra rả than vãn đủ chuyện, chê trách ba đủ điều, bới móc
chuyện xưa từ mấy chục năm trước để mắng mỏ ba, dù cho ba không
hề sai phạm. Khi lái xe trên đường, mẹ con như ông tướng ra lệnh,
với giọng hách dịch sai bảo, lái mau, lái chậm lại, quẹo phải,
quẹo trái. Chưa nghe mẹ con ra lệnh với cái giọng dịu dàng bao
giờ. Ba là chồng, không phải tài xế, cũng không phải đứa nô lệ.
Nói với tài xế với giọng hách dịch như
vậy, họ cũng bỏ việc, hoặc mắng lại cho nhục nhã. Mỗi khi lái xe,
ba vừa bực mình vì những lời khó nghe của mẹ, vừa lo lắng sợ đi
lạc đường. Nếu chỉ lạc đường một đoạn ngắn, mẹ con làm như trời
đất long lở, làm như ba phạm tội sát nhân không bằng. Mấy lần,
người khác bất cẩn, cọ quẹt vào xe mình, thế mà ba lãnh đủ, bị mẹ
con cằn nhằn, xỉ vả, nhiếc móc ba cả năm trời. Rồi thỉnh thoảng
cũng còn nhắc lại. Rồi những khi mẹ con đọc báo, xem truyền hình,
thấy những chuyện xấu xa xảy ra trong xã hội, mẹ con xỉ vả, chửi
bới, trách móc, làm như chính ba là kẻ tội phạm. Đến khi ba phát
cáu, gắt lên, mà mẹ con cũng không tha, cứ tiếp tục hành hạ ba
bằng những ngôn từ không tử tế. Vào tiệm ăn, bao giờ mẹ con cũng
giận ba, vì không lấy đũa muỗng kịp thời cho mẹ, vì không lấy đủ
khăn giấy, hoặc pha trà cho mẹ con quá đầy, quá vơi. Chưa bao giờ
đi ăn tiệm chung với mẹ con, mà ba được quyền lựa chọn món ăn
mình thích. Bởi vậy, những buổi trưa đi làm, ba thích ngồi ăn một
mình trong tiệm, thấy lòng thanh thản, nhàn nhã, và sung sướng
lắm. Thế nhưng nhiều khi mẹ con cứ bắt ba bới cơm theo, để tiết
kiệm tiền. Mỗi sáng đi ra khỏi nhà, đến sở, ba cảm thấy bình yên,
sung sướng, và thấy bạn bè, đồng nghiệp tử tế với mình quá. Ngồi
trong sở, ba thấy vui hơn ngồi trong chính ngôi nhà mình. Trong
sở, ba được xem như người cẩn thận, chăm chỉ, thường được giao
cho phụ trách những dự án khó khăn. Thế nhưng, mẹ con xem ba như
người cẩu thả, làm biếng, cái gì ba làm, mẹ cũng chê bai. Mỗi
buổi chiều tan sở, ba nấn ná để về nhà chậm hơn, lái xe chậm hơn,
vì về đến nhà, tự nhiên cái nỗi lo sợ dâng lên trong lòng. Mở cửa
nhà, mà lòng không vui, nghe tiếng mẹ con nói đã giật mình, hoảng
hốt. Có khi về nhà, phải đi nhè nhẹ, sợ mẹ con biết ba đã về. Mỗi
đêm, ba cũng không có quyền thức đêm đọc sách, xem truyền hình,
mẹ con ra lệnh đi ngủ, phải gấp gấp thi hành. Không thì tru tréo
lên, làm ầm nhà ầm cửa. Ba như một đứa bé hai, ba tuổi, phải tuân
phục tuyệt đối. Ba đọc sách, xem truyền hình, mẹ con cũng kiểm
soát, cũng bảo phải đọc loại sách này, sách kia, phải xem đài
này, đài kia. Không cho ba xem, đọc những sách, những chương
trình truyền hình ba thích. Ðêm nằm ngủ bên mẹ con, cũng không
dám trở mình nhiều, sợ mẹ con mất ngủ, thức giấc dậy phàn nàn,
cau có. Cái lo đi cả vào giấc ngủ, nhiều đêm ác mộng thấy bị mẹ
con dằn vặt, cằn nhằn. Ngay cả bây giờ, xa mẹ con vạn dặm, những
giấc ác mộng đó vẫn chưa thôi.
Áo quần của ba, cũng phải mặc những thứ
mẹ con mua, ba không có quyền lựa chọn áo quần cho ba. Tự mua cái
áo, sẽ có chuyện rầy rà, mỗi lần đem cái áo đó ra mặc, mẹ con
kiếm cớ chỉ trích, gây gỗ, và nói những lời đau lòng khó nghe.
Bởi vậy, có những cái áo ba không dám đụng đến. Ba phải mặc những
thứ áo quần mẹ mua cho, dù không ưa, không thoải mái.
Mỗi khi mua xe, mua nhà, là ba không
dám có ý kiến, cứ đưa ý kiến ra, trước hết sẽ bị chê bai, khích
bác. Nếu không, thì sau này, có bất cứ chuyện gì nhỏ nhặt xảy ra
cho căn nhà, cho chiếc xe, mẹ con níu lấy ba để đổ lỗi, làm tình
làm tội từ năm này qua năm kia. Khổ lắm. Ba cứ để cho mẹ con toàn
quyền quyết định. Làm gì thì làm. Nhưng cũng có khi chẳng được
yên đâu. Nếu có chuyện bất trắc, mẹ con trách cứ ba vô trách
nhiệm, để mẹ con phải gánh vác một mình. Những khi trong nhà có
thứ gì hư hỏng, ba phải sửa chữa, và làm với nỗi lo lắng bất an,
sợ sửa không được, mẹ con chê bai, nhục mạ, nói những lời hỗn láo
khó nghe. Nếu kêu thợ sửa những thứ lặt vặt, thì mẹ con cứ lải
nhải ba bất tài, vô dụng, vụng về.
Mẹ con phong tỏa kinh tế, không cho ba
giữ tiền, mỗi khi tìm thấy tiền trong túi ba, mẹ con gây gỗ, ồn
ào. Hàng tháng, khi nhận được kết toán chương mục của ngân hàng,
mẹ con dò tìm, hạch xách hỏi ba với giọng tra vấn, tại sao có mục
này, tại sao có mục kia, trong lúc chỉ có mẹ con ký ngân phiếu và
lấy tiền mà thôi. Ba bảo cứ đến hỏi ngân hàng, còn ba không biết.
Nói thế cũng bị mắng mỏ, rằng không biết gì cả. Mẹ con sợ ba gởi
tiền giúp đỡ những người bà con bên quê nhà. Ðã giữ hết tiền, mà
mẹ con khi nào cũng xa gần chửi bới bà con, bạn bè ba, là ăn bám,
làm biếng, tham lam. Khi ba nghèo khó, ba chịu ơn không biết bao
nhiêu người, khi có chút tiền bạc, khá lên, thì không ai nhờ vả
ba được một xu nào. Ba tự xấu hổ với lương tâm. Có những bà con
bên nhà đau yếu, khó khăn, ba phải mượn tiền bạn bè để gởi về
giúp đỡ. Ba còn nợ của bác đây mấy ngàn đồng, đã nhiều năm, chưa
trả được một xu. Ba đợi đến sang năm, đủ tuổi lãnh non tiền an
sinh xã hội, rồi thanh toán luôn.
Ba sợ nhất những khi bị thất nghiệp.
Mỗi lần thất nghiệp phải chịu đựng sự dày vò của mẹ con. Mẹ con
chê bai ba, đổ cho ba nhiều tội, cho rằng vì ba vô trách nhiệm,
làm biếng, nên bị cho nghỉ việc. Mẹ con nói rằng, nếu ba khá hơn,
người ta cho người khác nghỉ, chứ không phải ba. Mẹ con đằn vặt
ba ngày đêm, và thúc hối ba đi tìm việc, làm như ba không muốn
tìm ra việc. Chưa xong, mẹ con còn bêu rếu, đi đâu, gặp ai, cũng
rêu rao ba bị cho nghỉ việc vì kém cỏi. Dù cho cái sở của ba làm
có bị phá sản, mẹ con cũng đổ lỗi cho ba. Những khi này, mẹ con
cho rằng ba ăn bám vào vợ. Ba tin rằng, đời ba chưa hề ăn được
của mẹ con một miếng cơm nào. Có ăn của mẹ con được một miếng
cơm, thì e cũng phải hộc ra ba bụm máu.
Ba còn nhớ cái thời mẹ con được công ty
cho một chức vụ nhỏ, làm trưởng toán, có ba người nhân viên làm
việc dưới quyền. Cái thời này, mẹ con càng hùng hổ hơn. Làm như
bà xếp, kẻ chỉ huy tất cả mọi sự. Miệng phán ra toàn mệnh lệnh.
Ba càng sợ hãi hơn. Bà con quen biết cũng phải khó chịu lây.
Một điều, cho đến ngày nhắm mắt, ba
cũng còn ân hận, là chuyện bà nội con. Ông nội con mất khi ba còn
bé. Bà buôn tảo bán tần, nuôi ba học hành đến nơi đến chốn. Có
nghề nghiệp vững vàng, có chút địa vị trong xã hội. Biết bao
nhiêu công phu, khó khăn, hy sinh để nuôi nấng ba. Thế nhưng, khi
ba bảo lãnh được bà nội qua đây, mẹ con hất hủi, dằn vặt, nói
nặng, nói nhẹ, để bà không sống nổi với con cháu, phải về lại bên
quê nhà. Rồi bà mất, mà ba không về được. Ba khổ tâm lắm lắm.
Không có gì bù đắp, không có gì chuộc lại những mất mát trong
lòng ba. Ba hèn nhát, để vợ đối xử với mẹ như vậy. Không ai có
thể dung thứ cho ba cả. Ba có tu mấy mươi kiếp cũng không chuộc
lại được tội của ba. Ba biết bà nội đứt ruột đứt gan khi thấy ba
đớn hèn, sợ mẹ con như sợ cọp dữ. Ba đã nói, cái sợ như một phản
ứng có điều kiện, nó nhập vào trong tiềm thức, ăn sâu vào trong
não bộ. Lý trí không điều khiển được cái nỗi sợ trong lòng.
Còn chuyện vợ chồng, thì cái sợ nó che
khuất cả tình thương yêu. Ðiều sau đây, đáng ra ba chỉ nói riêng
với bác, nhưng con có thể nghe để học kinh nghiệm cho đời sống
gia đình tương lai. Vợ chồng không còn tình yêu say mê, những khi
gần gũi thể xác, thì cũng chỉ như một việc trả nợ quỷ thần, làm
cho xong bổn phận, và khó khăn lắm mới có thể khởi đầu. Nhiều khi
ba tưởng mình đã bị bất lực.
Bạn bè gần của ba, ai cũng biết và
tránh không muốn đến nhà. Cái thái độ của mẹ con làm họ khó chịu.
Những khi có bạn bè từ xa đến thăm, ba lo lắng lắm. Mẹ con chỉ
nấu giúp bình trà, hay làm một tô mì gói, cũng than vãn, cằn nhằn
rằng không có sức để hầu hạ bạn của ba. Có khi mẹ con không ra
chào họ. Khách cũng buồn vì nghĩ chủ nhà không muốn tiếp họ. Sau
khi khách về, lòng ba lo lắng lắm, sợ sóng gió dậy lên trong gia
đình.
Bà con
xa gần bên nội đều lánh mặt, không muốn giao tiếp với gia đình
mình, vì thái độ thiếu lịch sự của mẹ con. Gia đình bên nội khinh
ba bạc nhược, hèn nhát. Họ đúng. Nhưng con biết nguyên nhân sâu
xa nào, làm ba trở thành yếu đuối, bạc nhược như vậy? Có lẽ vì ba
mồ côi cha sớm, suốt một đời ba tha thiết tình phụ tử mà không
có. Ba không muốn các con phải thiếu mất tình thương của cha,
hoặc của mẹ trong khi tuổi còn thơ ấu. Ba thấy nhiều gia đình,
cha mẹ li tán, con cái bơ vơ đau khổ tội nghiệp lắm, có đứa phải
bỏ học, những đứa khác có thể thành công trong cuộc đời, nhưng
vết thương, niềm đau trong lòng không bao giờ vơi lấp được. Ðó là
lý do chính yếu. Bởi vậy, nên ba nguyện khi nào các con học xong,
kiếm được việc làm tốt, ba vào chùa tu, rũ sạch lo âu phiền muộn.
Ðể hết nhà cửa, tiền bạc, tài sản lại cho mẹ con, ba không cần
mang theo một xu. Ba đã già, đời không còn bao năm nữa, tại sao
lại phải sống trong lo âu, sợ hãi, bực bội, không vui? Ba muốn
những năm ngắn ngủi còn lại trong đời mình, thành những ngày
tháng thảnh thơi, dễ chịu, thong dong, không bị kềm kẹp, không bị
kiểm soát, không bị dằn vặt, đay nghiến bởi bất cứ ai. Ba bây giờ
như kẻ bị tù chung thân, đã thoát được ngục tù. Con đừng bắt giam
lại, tội nghiệp ba lắm.”
Hùng bưng trà, chiêu một hơi dài cạn
chén, nở một nụ cười thỏa mãn, có lẽ vì đã nói ra được hết nỗi
niềm chất chứa trong lòng từ lâu. Tôi thở dài. Dung thì nước mắt
rưng rưng, mũi phập phồng, nắm chặt lấy tay bố.
Tôi đưa tay vò cái đầu láng bóng của
Hùng và nói đùa:
“Cái đầu của ông trơn quá, e bụi cũng
không bám vào được. Không ngờ đời ông cay đắng đến thế. Ngày xưa,
khi còn sinh viên, mỗi lần biểu tình, bãi khóa, ông đi đầu cầm
biểu ngữ, la hét hùng dũng lắm, chẳng sợ trời đất gì cả. Ra làm
việc, ông cũng chẳng coi thượng cấp ra một ký-lô nào. Thế mà lớn
lên, chỉ sợ vợ thôi. Thiệt đời cũng lạ.”
Chúng tôi cùng cười. Dung đưa tay lau
nước mắt và hỏi:
“Ở đây ba thấy sao? Có dễ chịu không? “
“Thiên đường! Ba sung sướng lắm. Trong
lòng ba nhẹ nhàng, cái niềm lo âu đè nặng mấy mươi năm nay nó
tuột đi, nhẹ bỗng lâng lâng. Mỗi sáng thức dậy, vui sướng. Sống
từng giờ khắc không có một chút lo âu, lòng yên ổn. Chỉ riêng cái
ý thức mình hết lo, hết sợ hãi, cũng đã sung sướng lắm rồi.”
Dung ngập ngừng: “Con hỏi, ba có tin đi
tu sẽ được... cái gì đó, để mai sau về niết bàn hay... gì gì ấy
không?”
Hùng
cười: “Ba chẳng tin cái gì cả. Có lẽ chết là hết, tan thành tro
bụi. Nhưng đọc kinh Phật, ba tìm được rất nhiều an ủi, thanh thản
cho tâm hồn, cởi ra được nhiều sân si còn ẩn náu trong mình. Càng
đọc, càng thấy mình nhẹ nhàng, thanh thoát. Chỉ có thế thôi.”
Buổi trưa, tôi mời Hùng ra tiệm ăn cơm
chay, Hùng không chịu, và mời ở lại ăn cơm chùa. Chúng tôi ăn vào
lúc gần một giờ chiều. Cơm ba món, canh bí đỏ, rau luộc, và dưa
kho. Tôi ăn được ba chén đầy. Tôi nói với Hùng:
“Cơm ngon quá. Món ăn thanh đạm, giản
dị, nhưng rất ngon. Tôi làm một lúc ba chén đầy. Ở nhà, chỉ ăn
được hai chén đã là nhiều lắm.”
Hùng cười, nụ cười lém lỉnh thân thiết
ngày xưa khi chúng tôi còn đi học, và trả lời:
“Ðể cho đói đến đắng miệng, thì ăn cơm
nguội cũng ngon. Ðây cũng như chủ trương của nhà chùa. Không khi
nào dọn cơm đúng bữa, phải dọn cơm cho khách thập phương càng trễ
càng tốt.”
Tôi
chèo kéo và năn nỉ lắm, Hùng mới chịu theo chúng tôi về nhà thăm,
ở lại đêm chơi. Hùng mang áo cà sa vàng, cổ quàng một chuỗi hạt
màu nâu, đem theo một bộ áo quần ngủ. Về đến nhà, vợ tôi mở cửa,
chắp tay vái, và nói:
“Bây giờ chúng tôi phải kêu anh bằng gì
cho đúng nhỉ? Thượng tọa, đại đức hay thầy...”
“Chẳng thượng tọa, đại đức gì cả. Tôi
mới vào tu, chẳng có chức vị gì. Tôi cũng chẳng cần chức vị. Ði
tu để tìm thanh thản cho tâm hồn. Tránh đau phiền nơi tục lụy.
Ðược vậy, đã xem như đốn ngộ rồi.”
Vợ tôi rót nước, pha trà, và dọn bánh
mời khách. Chúng tôi ngồi nói chuyện xưa, hàn huyên, nhắc đến bạn
bè cũ. Kẻ mất người còn. Nhắc đến những kỷ niệm xưa, khi chúng
tôi còn đi học, còn ở tỉnh lỵ nhỏ. Rồi vợ tôi lấy xe ra đi. Một
lúc sau xách về nhiều bao thức ăn, rau, cải, tàu hũ, nước tương,
chao. Chúng tôi phụ mang vào trong bếp.
Buổi tối, khi vợ tôi mời vào bàn ăn,
thấy trên bàn dọn sẵn gần chục món chay khác nhau, màu sắc xanh
đỏ, ngon lành. Có món canh khổ qua dồn thịt chay, chả cua chay
vàng ruộm, thịt gà xào sả ớt chay, thịt heo hầm chay, giả cầy
chay, miến xào, xà lách bát bửu, cá trê nướng chay, tôm kho nước
dừa chay.
Hùng
có vẻ ái ngại, nói:
“Ðể chị phải mất công mệt nhọc như thế
này, tôi áy náy quá. Ðáng ra tôi phải nói trước, chỉ cần cho tôi
chai nước tương tưới vào cơm ăn cũng đủ rồi.”
Vợ tôi cười vui vẻ:
“Thôi, anh đừng khách sáo. Mấy khi tôi
được dịp ôn lại cách nấu cơm chay của mẹ tôi ngày xưa. Tôi phải
cám ơn anh mới phải, nhờ có anh đến chơi, tôi mới có cơ hội nấu
đồ chay. Ngày mai, có cháo gà ăn điểm tâm. Cháo gà đặc biệt lắm,
cháo chay, nếu không nói trước, thì tưởng như cháo gà thật.”
Tôi cười: “Ðã
ăn chay rồi, còn vọng mặn. Kìa, con cá chiên kia là chay hay mặn,
sao giống thế, còn dĩa tôm kho này nữa. Toàn cả lừa mị thánh
thần.”
Vợ tôi
cười nói: “Ðấy, thế gian này đầy cả giả dối. Ngang nhiên lừa mị
thánh thần rồi còn hiu hiu tự đắc. Không chừng, biết bị đánh lừa,
mà mấy ổng lại khoái!”
Khi mở bia mời khách, vợ tôi mới biết
không còn nước đá trong ngăn lạnh. Bên ngoài trời đổ mưa tầm tã,
vợ tôi hơi bối rối, rồi chạy vào lấy dù ra xe đi mua nước đá. Tôi
ngăn lại, cả Hùng cũng cản, vì uống bia không có nước đá càng
ngon, cũng chẳng sao. Vợ tôi cười:
“Các anh uống bia không có nước đá mất
ngon đi”.
“Nhưng trời mưa to quá, vả lại, đi làm chi cho ướt át, khổ thân.”
“Ðể em đi, lỗi tại em không làm đá sẵn,
và quên để bia vào tủ lạnh. Các anh và cháu chờ nhé.”
Hùng áy náy nhìn theo vợ tôi đang xách
dù mở cửa nhà xe ra đi. Mười lăm phút sau, vợ tôi chạy về với nét
mặt vui vẻ, hớn hở, mang theo một bịch nước đá lớn. Bỏ nước đá
vào ly của Hùng và tôi, vợ tôi nhẹ nhàng:
“Không có nước đá, bữa ăn cũng mất ngon
phần nào, uổng công tôi làm bếp.”
Vợ tôi tắt đèn điện, bưng ra ba đế đèn
cầy, ánh sáng vàng tỏa ra trong nhà ấm cúng. Chúng tôi nâng đũa.
Hùng cười đùa:
“Bây giờ tôi mới hiểu câu nói ‘Thân
trai mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu’. Này ông Nguyên, ông
có vợ hiền, gia đình thật ấm cúng hạnh phúc. Không tu mà được
hưởng phước đấy.”
Tôi đùa lại: “Không phải trong nhờ, đục
chịu đâu. Có đục cũng phải gạn lọc cho thành trong. Phải ‘Dạy con
từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.’ Ðể trễ quá, chỉ
còn có nước vô chùa lánh nạn như ông mà thôi.”
Dung nói giọng nhão nhẹt: “Lánh nạn đâu
cần phải vào chùa hở ba? Lánh nạn thì ở đâu chẳng được? Sao ba
không qua Hawaii hoặc về Florida ở, vừa ấm áp vừa vui.”
Hùng trả lời: “Vào chùa, xem như dứt
khoát, mình dễ làm quen với kinh kệ hơn. Ở ngoài còn ham cái
khác, còn vọng động. Nhưng mục đích chính, để các con được dễ
dàng trong chuyện nhân duyên, Ba không muốn các con mang tiếng có
cha mẹ li dị. Ba đi tu, không ai có thể dị nghị các con. Người ta
nghĩ ba làm việc tốt. Bây giờ các con lớn rồi, ba có cơ hội để
sống thêm ít năm trong yên bình tâm trí, không ái ngại. Nếu từ
đầu, không vì các con, thì ba đã lấy quyết định dứt khoát ngay.
Ba đâu phải là một kẻ ngu đần để cắn răng chịu đựng mấy mươi năm
nay. Khi nào các con có gia đình hết rồi, và nếu ba không tìm
được an nhiên tự tại trong khi ở chùa, ba sẽ xét lại việc đi tu.
Nhưng hiện nay, như ba đã nói với con, là thiên đường đã tìm
thấy, không cần phải chờ qua kiếp sau, hoặc đi đâu xa vời.”
Dung thở dài nói như khóc:
“Con biết ba khổ lâu nay, nhưng không
ngờ trong lòng ba khổ đến thế. Con thương mẹ, nên mù quáng, không
thấy hết uẩn khúc trong ba. Con qua đây để thăm ba, cũng định để
thuyết phục ba trở về với mẹ. Nhưng bây giờ, con tin, ba ở lại tu
hành cũng đúng, không có lý do gì để ba phải chịu đựng cay cực
nhiều hơn nữa.”
Ngày chủ nhật, vợ chồng tôi đưa Hùng và
cháu Dung đi thăm San Francisco. Chúng tôi đi bằng xe điện tốc
hành, rồi lấy xe buýt, ra bến tàu, đi thăm cầu Golden Gate đỏ
chói phơi mình một nửa ngoài nắng, một nửa chìm trong mây mù.
Chụp mấy tấm hình kỷ niệm. Về phố Tàu ăn “tỉm xấm” và qua thăm
vườn Nhật. Buổi tối đi nghe nhạc hòa tấu đến khuya mới về đến
nhà. Chúng tôi pha trà, ngồi nói chuyện cho đến khuya.
Hùng cảm động nói với vợ tôi:
“Bây giờ, tôi tin hạnh phúc gia đình có
thật trên đời này. Ở nhà anh chị hai hôm, đi chơi với anh chị
suốt ngày, mà chưa hề nghe vợ chồng gay gắt nhau một lời. Người
xướng, người họa, vui vẻ, hòa đồng, khi nào cũng ngọt ngào, tử
tế, dịu dàng. Ðời sống thật hạnh phúc. Khi đủ ăn, đủ mặc, không
túng thiếu, mà cuộc sống có hạnh phúc, thì đâu cần đi tìm thiên
đàng cho xa xôi.”
Dung nhìn vợ tôi và hỏi: “Bác cho con
một lời khuyên, sau này làm sao để tạo được một gia đình hạnh
phúc?”
Vợ tôi
cười và trả lời: “Cả hai người đều phải biết cho nhiều hơn
nhận. Ðừng đòi hỏi ai phải có bổn phận đối với mình. Nên luôn
luôn tự hỏi mình đã làm được gì cho người khác chưa, đừng hỏi tại
sao người khác chưa làm việc này, việc kia cho mình. Biết chấp
nhận và thương cả cái ưu điểm, lẫn khuyết điểm của người mình
thương”.
Tràm Cà Mau
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
Dù T–10
SĐND–QLVNCH
dùng trong thời chiến
|
Hình nền: Lũy Tre Làng. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Văn Nguyên Dưỡng chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật,
October 27, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang