Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
2AE Song Sinh
Tác giả:
Dennis A. Chu
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Linh mục Nguyên Khải vừa lên
tới chân núi Yên Tử thì trời mưa tầm tã. Núi Yên Tử thuộc xã Uông
Bí, tỉnh Quảng Ninh, là một dải núi cao nằm ở phía đông bắc Việt
Nam. Mặc dù Cha Khải có mang theo chiếc ô, vừa che mưa che nắng
vừa làm gậy phòng thân, nhưng đụng phải cơn mưa giông, sấm sét
rền trời buộc ông phải lách mình vô sơn động núp mưa. Vừa bước
vào cửa động Cha Khải suýt dẫm phải con rắn hổ mang bành dài
khoảng 6m nằm chắn ngang đang nuốt con rắn lục to bằng hai ngón
tay. Đúng lúc đó con chim bồ câu trắng sà xuống đậu trên cành
muỗm gần chỗ Cha Khải đứng.
Con bồ câu vẫn nhận ra ông. Nó kêu cúc
cúc, đưa cặp mắt màu hồng tươi lúc ngúc cái đầu nhìn ông. Như
những lần trước, khi Cha Khải vừa tới lưng chừng núi ghé am cổ tự
Bảo Sái thăm sư Lâm Mộc là con bồ câu xuất hiện như đại diện nhà
sư chào đón khách phương xa. Lần nào cũng thế, Cha Khải nhẹ nhàng
vuốt đầu nó, thì thầm với nó đôi câu xong là nó bay đi ngay. Năm
ngoái, lúc nghỉ chân nơi am Ngọa Vân, Cha Khải đã kịp thời cứu
con bồ câu thoát khỏi móng vuốt chim ưng. Lúc đem nó vô chùa, sư
Lâm Mộc thấy đốm lông xám trên đỉnh đầu chim nên sư đặt tên là
Lam câu và nuôi dưỡng nó đến nay.
Chùa Bảo Sái, xưa kia là một cái am thô
sơ được Thiền sư Bảo Sái, đệ tử của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân
Tông, dựng nên. Vì am cổ tự nằm cheo leo bên vách núi Yên Tử
nhiều lần bị sụt lở vì mưa bão, về sau trải qua những biến đổi
thăng trầm dần hồi am được trùng tu thành chùa mang tên của Thiền
sư Bảo Sái.
Theo dòng thời gian mãi đến cuối thập niên 1930, một hôm chùa Bảo
Sái tiếp nhận một đạo sư lang thang lạ mặt. Trang phục của sư
thật giản dị, nhiều phần chắp vá và rách rưới. Ông mang đôi giầy
vải, cổ đeo tràng hạt lớn, trên vai quàng một tấm vải nâu, râu
ria lờm xờm. Cái thân hình hộ pháp trông dữ tợn nhưng ánh mắt
thật hiền từ, nồng ấm. Điểm nổi bật ở ông là uyên thâm đạo pháp.
Đó là nhà sư Lâm Mộc, đến rồi đi, như
con giao long ẩn hiện rầy đây mai đó. Sư vân du khắp nơi, hoằng
pháp khắp xứ Bắc kỳ, mùa mưa mới âm thầm trở về chùa.
Sư Lâm Mộc là một cao tăng không chủ
trương ở chùa. Ngay từ thuở thiếu thời, chịu ảnh hưởng cuộc sống
cách mạng chống thực dân Pháp của bố mẹ nên sau một thời gian dài
ẩn tu thành tựu tì kheo sư Lâm Mộc đã vân du hoằng pháp đó đây,
coi trời đất là nhà, trần gian là chỗ tạm dung. Hằng năm vào mùa
mưa, sư Lâm Mộc mới trở về chùa Bảo Sái náu mình trong kho củi ở
khu vườn đá phía sau chùa. Thỉnh thoảng vào trung tuần tháng Sáu,
linh mục Nguyên Khải từ giáo phận Vinh lặn lội đường xa vượt núi,
đội mưa ghé thăm sư Lâm Mộc vấn an sức khoẻ, thăm hỏi sự tình.
Sư Lâm Mộc và linh mục Nguyên Khải có
cùng một huyết thống. Hai ông là con sinh đôi của nhà cách mạng
Nguyễn Khúc Thụ, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, mẹ là bà Đỗ
Thị Nâu thuộc đội hậu cần của Đảng trưởng Nguyễn Thái Học. Năm
1930, ông Nguyễn Khúc Thụ hy sinh tại Yên Bái trong cuộc Tổng
Khởi Nghĩa rạng mồng 10 tháng 2 năm 1930, chiều cùng ngày bà Nâu
bị mật thám Pháp treo cổ trong nhà bếp của Cô Giang, người bạn
đời chung thủy của Đảng trưởng Nguyễn Thái Học.
Cuôc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân
Đảng thất bại, Nguyễn Thái Học cùng 12 nghĩa sĩ bị đưa lên đoạn
đầu đài ở Yên Bái. Hai hôm sau, Cô Giang, tức nữ chí sĩ cách mạng
Nguyễn Thị Giang, đã âm thầm trở về làng Thổ Tang tự sát bằng
khẩu súng lục của Nguyễn Thái Học đã tặng cô ở đền Hùng ngày nào.
Riêng Cô Bắc, em ruột của Cô Giang, cùng các nghĩa sĩ bị bắt đi
tù 5 năm cấm cố. Nguyễn Thị Bắc qua đời năm 1943, khi mới 35
tuổi.
Lúc 13
anh hùng Việt Nam Quốc Dân Đảng bị xử chém thì một số đồng đảng
thân
cận của Nguyễn Thái Học may mắn chạy thoát khỏi sự săn đuổi của
mật thám Pháp. Trong cuộc săn đuổi đó có hai người thanh niên
tuổi vừa 20, cũng là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, hoạt động
tích cực cho mục đích đấu tranh giành độc lập dân tộc, tức nhà sư
Lâm Mộc và linh mục Nguyên Khải sau này.
Để tránh bị sát hại, hai ông đã phải
thay tên đổi họ, chia tay nhau được các nghĩa sĩ bí mật gởi vào
nương náu nơi cửa Phật ở Sầm Sơn và nhà thờ Chúa ở Ninh Bình.
Dòng đời cứ thế trôi mau. Thỉnh thoảng
các nghĩa sĩ sống sót âm thầm trở về chốn thanh tu vấn an hai vị
tu sĩ, nhưng dần hồi không còn thấy họ trở lại nữa. Dù vậy, cả
nhà sư và linh mục đều nương vào đấng tối cao để sống còn. Họ
không để oán thù dầy xé hoặc đau buồn quật ngã, vẫn hành trì đạo
pháp.
Mười năm
sau, lúc sư Lâm Mộc đi hóa duyên ngang qua nhà thờ đá Phát Diệm
tình cờ gặp Cha Nguyên Khải vừa từ giáo phận Vinh trở về nhà
Chúa. Sư và Cha vừa giáp mặt nhau trước cửa Chính Tòa, cả hai đều
sửng sốt trố mắt nhìn nhau như thể hai ông đang nhìn vào chính
bản thể mình. Là anh em sinh đôi nên họ giống như hai giọt nước,
ngay cả các giáo dân của Cha Khải cũng ồ lên kinh ngạc. Từ khi
trở thành tu sĩ, hai ông đều đi khắp nơi vừa truyền bá đạo pháp
vừa âm thầm dò la tung tích người thân, kết cục cả Cha và Sư
không thể ngờ lại có ngày tri ngộ ở Giáo xứ này.
Thoáng nhìn qua, sư Lâm Mộc biết ngay
đây là sư đệ thất lạc của mình lúc chạy
loạn, nhưng sư rất trầm tĩnh, âm thầm niệm hồng danh đức Phật thế
tôn. Còn linh mục Nguyên Khải, qua những hoạt động mục vụ của nhà
thờ, bản tánh thoáng hoạt hơn, Cha buột miệng nói rất khẽ: “Lạy
Chúa tôi! Sư huynh...”.
Từ đó, khi có dịp thỉnh thoảng Sư xuống
núi hoặc Cha lên núi vấn an nhau. Là bậc tu hành của đấng đại trí
đã giác ngộ, Cha Nguyên Khải và Sư Lam Mộc lấy đức báo oán, lấy
bác ái của trí nhân làm hướng đi và lấy máu mủ tình thâm mà thăm
hỏi sự tình.
Tuy nhiên, cuộc chiến tranh Đông Dương do Đảng Cộng Sản Việt Nam
lãnh đạo chống thực dân Pháp tạo nên cảnh loạn lạc, đói kém, bệnh
tật và chết chóc khiến sự đi lại của công chúng bị trở ngại và
hạn chế rất nhiều.
Năm 1954, sau khi quân Pháp thất thủ
tại Điện Biên Phủ, Hiệp Định Genève được ký kết chấm dứt chiến
tranh Đông dương, chia đất nước ra làm hai tại vỹ tuyến 17, đưa
đến cuộc di cư vĩ đại vào miền Nam Việt Nam từ tháng 8-1954 đến
tháng 5-1955.
Trong những cộng đồng Thiên chúa giáo miền Bắc dưới thời Pháp
thuộc, các linh mục giữ vai trò lãnh đạo về dân sự và tinh thần.
Nhận thức được viễn cảnh không tươi sáng do Việt Minh lãnh đạo,
các Cha đã kêu gọi các tín đồ di cư vào Nam. Cuộc di cư 1954 là
một cuộc di cư lịch sử của khoảng một triệu người dân miền Bắc
(đa số là người Công giáo) đã ra đi trên những chuyến tàu há mồm
do Mỹ và Pháp thực hiện.
Trong tất cả những chuyến tàu di cư
không tiền khoáng hậu đó không có mặt linh mục Nguyên Khải và sư
Lâm Mộc.
***
Tôi, người được nghe kể câu chuyện này
mà tâm không ngớt dao động. Năm ngoái
từ Huế, nhóm Phật tử chúng tôi đã làm một cuộc hành hương ra Hà
Nội, từ đó đi xe đò ra Ninh Bình dài khoảng 90km ghé thăm nhà thờ
chính tòa Phát Diệm (còn gọi là nhà thờ đá), hôm sau vượt núi Yên
Tử lên viếng chùa Bảo Sái.
Điểm đặc biệt của nhà thờ đá Phát Diệm
được khởi công xây cất từ năm 1875, tuy là nhà thờ Công giáo
nhưng lại kiến trúc theo hình thể chùa chiền.
Viếng nhà thờ Phát Diệm, cá nhân tôi
chỉ là khách thập phương không có ý dò hỏi, hay mạo muội tìm kiếm
dấu vết của linh mục Nguyên Khải. Nhưng chiêm ngưỡng giá trị trăm
năm của nhà thờ đá tôi có cảm tưởng như Cha Khải vẫn bàng bạc đâu
đó, trong nhà nguyện, trên tường đá hay dưới chân tượng Đức Mẹ
Hằng Sống.
Còn
chùa Bảo Sái, sau nhiều công trình trùng tu trải dài theo năm
tháng, nay đã được mở rộng, gồm chánh điện, nhà Tổ, tượng Phật Bà
Quán Thế Âm, tượng Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông nhập niết
bàn, tượng Thiền sư Bảo Sái, tượng hổ, giếng thiêng và vườn đá
phía sau chùa.
Khi lần vào vườn đá, tôi đứng lặng
trước biến thiên của dòng đời. Nhà củi, nghe nói nơi nhà sư Lâm
Mộc từng cư ngụ, không còn nữa. Tuy vậy, cái nền đất hoang phế cỏ
mọc vẫn không phủ lấp hết những thanh củi dựng theo chiều đứng
của mô đất. Những thanh củi rêu phong, mục nát, có vẻ như cam
chịu nhưng vẫn đứng nghiêng mình theo tuế nguyệt dần qua.
Ở đời có nhiều bậc anh hùng vì nước mà
hy sinh, trong đó có những người sống âm thầm như chiếc bóng và
chết đi trong vô danh. Nhưng cũng có những người vì hoàn cảnh
buộc phải rời khỏi vòng gươm giáo, như sư Lâm Mộc và linh mục
Nguyên Khải, với tấm lòng nhân ái mang lại lợi ích cho người,
tặng cho đời những suy nghĩ tốt lành, những việc làm dễ thương,
họ không là Thánh nhân thì cũng thành nhân.
Dennis A. Chu
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
Dù T–10
SĐND–QLVNCH
dùng trong thời chiến
|
Hình nền: Lũy Tre Làng. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by psxh chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy,
October 26, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang