Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tạp Ghi
Chủ đề:
thăm lại địa danh xưa
Tác giả:
Lê Lô
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Những ngày cuối tháng 4
năm 2005, tôi đến Cổ thành Quảng Trị.
–Lê Lô
Từ
hướng Nam, tôi đi trên con đường tráng nhựa mà ba mươi ba năm
trước, các nhà báo gọi nó là Đại Lộ Kinh Hoàng. Nơi đây cách thị
xã Quảng Trị 10 cây số. Bên trái con đường là bãi cát trắng lẫn
với màu đất đen. Những cụm nhà mái tôn rải rác bên đường dưới
ánh nắng gần trưa. Không một bóng người. Bên phải con đường là
bãi cát vàng khô khốc, thỉnh thoảng gió thổi thốc từng cơn,
những cụm cát tung lên xòa ra trong nắng. Một căn nhà xập xệ
chắp lại bằng những miếng tôn cũ trên đó có dòng chữ bằng sơn
trắng “Sửa xe, vá ép”, nơi cửa, một ông già ở trần ngồi trên bậc
thềm, tay cầm quạt lá, tay kia chống cằm nhìn bâng quơ ra con
đường nhựa vắng người.
Ngày 1 tháng 5 năm 1972,
hàng vạn đồng bào từ Quảng Trị tản cư vào Huế. Cuộc tản cư và
rút lui hỗn loạn đã biến đoạn Quốc lộ 1 ở quận Hải Lăng thành
con đường xương máu khi quân Bắc Việt phục kích và nã pháo vào
đoàn người di tản.
Bao nhiêu xác người đã nằm xuống và
con đường hôm nay đìu hiu thưa thớt. Ai đã khiêng cất xác họ, ai
đã rửa chùi những đống máu, lau đi những óc não tung bày, ai sắp
lại những gan ruột phơi ra trầy trụa, ai đã đạp trên xác họ trên
đường chạy loạn rồi gục xuống ở bước chân kế tiếp, chồng lên
người đã chết, người chết sau ngã trên người chết trước. Nhất
tướng công thành. Những thường dân vô tội. Những chiến sĩ vô
danh. Tôi chưa đến tuổi lính vào những ngày máu lửa đó, vào
những ngày máu xương đến phải gọi nó là Đại Lộ Kinh Hoàng. Bây
giờ, Đại Lộ Kinh Hoàng mang tên Lê Duẩn. Tôi đang đi trên nó một
buổi sáng vắng lặng yên bình, nhưng chợt ớn lạnh từng cơn như vô
hạn oan hồn chồm lên quấn lấy hỏi han. Cơn gió đồng lướt thướt
thổi qua.
Tôi trèo lên xe, nói chạy nhanh đi vào thị xã.
Tới một ngã ba, người tài xế rẽ phải vào đường Trần Hưng Đạo. Đó
là một con đường nhỏ hơn, có một chứng tích duy nhất còn sót lại
của thị xã Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa, trường Bồ Đề. Người ta
nói số bom đạn đổ xuống thị xã trong 81 ngày đêm, kể từ ngày 30
tháng Ba năm 1972, có sức công phá mạnh gấp bảy lần trái bom
nguyên tử thả xuống Nhật trong thế chiến hai. “Một viên gạch
cũng bể làm tư,” người Quảng Trị nói rứa, chỉ riêng ngôi trường
Bồ Đề còn đứng vững với bốn bức tường lỗ chỗ vết đạn bom. Đến
một ngã tư, lại rẽ phải. Cổ thành Quảng Trị nằm phía tay trái,
cách quốc lộ chừng hai cây số. Ở góc tường đầu tiên, rêu và cây
dại mọc dày nhưng các vết đạn xoáy sâu vào lớp gạch tường đo đỏ
vẫn còn hằn dấu rõ.
Tôi nhớ như in bức ảnh chụp mấy người
lính cắm cờ vàng ba sọc đỏ trên cổ thành đổ nát năm nào. Bây giờ
người ta cho xây lại phần trên cổng thành, màu xám xi măng còn
rất mới, có vẻ lạc lõng và chênh vênh trên dãy tường thành cũ
kỹ. Bên trong thành, một con đường bê tông chạy thẳng từ cổng
đến một cái đài cao xây theo hình một nấm mộ lớn, có bốn lối đi
dẫn lên đài. Giữa trung tâm đài có một lư hương lớn, và một cái
cột cao vút lên dựng bên cạnh một mái nhà mô phỏng một cổng tam
quan.
Tôi đứng trên đài cao nhìn xung quanh. Trừ các con
đường nội bộ trong thành, còn lại là bãi cỏ xanh, các ghế đá
công viên, ở một khoảng sân người ta trưng bày một hỏa tiễn
chống máy bay, một chiếc xe nhà binh của Trung cộng, một cái nhà
bảo tàng di tích chiến tranh. Lúc đó có một đám người tụ họp
trên đài đang đốt hương. Một anh thợ quay phim đang chĩa ống
kính vào một người đang khấn vái, xung quanh ông ta một đám
người vây quanh có vẻ kính cẩn. Đó là một quân nhân đầu bạc
trắng, ngực mang đầy huy chương, vai mang lon trung tướng. Viên
trung tướng cắm nhang xong, đứng huyên thuyên gì đó, có một
người đàn ông trọng tuần kính cẩn đứng bên cạnh ông ta ghi ghi
chép chép cái gì đó. Viên tướng về hưu bước xuống đài, đầu ngẩng
cao kiêu hãnh, mọi người lục tục đi sau.
Tôi đứng lại một
mình. Những tường thành như có một luồng khí lạnh tuôn ra làm
sởn da. Có tài liệu nói rằng trong trận ác chiến giành lại Cổ
thành, Quân đội Việt Nam Cộng Hoà chết gần mười ngàn người, bộ
đội cộng sản cũng chết khoảng con số đó. Trong Cổ thành này, xác
người có thể sắp bên nhau dày đặc mặt đất trong thành. “Một viên
gạch cũng bể làm tư”. Đó là một nhận xét có vẻ đơn giản nhưng
thật kinh hoàng. Nhưng giờ đây người ta không coi đó là một trận
địa đau khổ và mất mát, những người ở đây coi đó là một chiến
thắng. Nếu có mất mát thì đó là cuộc hy sinh của riêng những
người thắng trận sau cùng. Mấy năm trước tôi có coi một đoạn
phim tài liệu 45 phút do Sở Văn hóa Thông tin Quảng Trị thực
hiện với lời bình của Võ Nguyên Thủy, con của đại tướng Võ
Nguyên Giáp. Họ chiếu các mũi tiến công của bộ đội cộng sản vào
Cổ thành khởi từ ngày cuối của tháng Ba năm 1972, những trận
giao tranh ác liệt, các cảnh máy bay B52 rải bom. Khi bộ đội
phải bỏ chạy qua bờ Bắc của sông Thạch Hãn, họ bình luận “quân
ta tổn thất khá nặng nề”. Mười ngàn người chết nhưng chỉ “khá
nặng nề”, và cơ bản thì trận chiến mùa hè 1972 vẫn là “một thắng
lợi lớn góp phần vào công cuộc giải phóng miền nam”. Các nhà
quân sự cộng sản chỉ cần gây tiếng vang, họ khát danh vọng bất
kể mười ngàn lính nằm xuống để đổi lấy 81 ngày đêm giành dựt
từng tấc đất một cách tuyệt vọng, bất kể hàng vạn dân thường gục
xuống do những màn pháo kích bừa bãi từ trong núi nã xuống Đại
Lộ Kinh Hoàng. Những điều đó không được nhắc đến trong cả cuốn
phim tài liệu... Chỉ thấy chiến thắng, chiến thắng, và chiến
thắng!
Một người bạn chụp hình chuyên nghiệp kể rằng vào
đây mà không khấn vái thì khi rửa phim chỉ thấy một màu trắng
xóa. Tôi tin điều đó. Trên đài tưởng niệm có một lư hương rất
lớn, nhưng lư hương đó chỉ dành cho những người thắng trận cuối.
Không có một lư hương chung cho tất cả những linh hồn vô danh
lẩn khuất nơi đây, để những người sống có thể thắp hương cầu
nguyện cho tất cả, không một ai.
Tôi không thể đốt hương
để cắm vào cái lư hương riêng biệt này. Vì thế tôi chọn cắm một
nén hương vào hư không.
Nhà bảo tàng có hai tầng. Từ
ngoài cửa chính đi vào có một sảnh chính bề ngang độ sáu, bảy
thước, dài chừng mười mấy thước. Cách bức tường cuối sảnh độ một
thước người ta dựng một tấm kiếng trong suốt hình vuông. Đằng
sau tấm kiếng, sát tường là một ngọn đèn điện được gói bên ngoài
một lớp giấy nửa xanh nửa vàng, dưới ngọn đèn chắc có giấu một
cái quạt nhỏ thổi ngược lên để lớp giấy màu vàng luôn bay phần
phật như ngọn lửa. Đó là ngọn lửa giả tượng trưng ngọn lửa
thiêng. Trên tấm kiếng trong suốt có viết tên các đơn vị bộ đội
đã tham gia chiến dịch “giải phóng thành cổ” năm 1972. Viên
tướng về hưu đang đứng trước tấm kiếng giảng giải gì đó, khuôn
mặt ông ta đỏ gấc, tay chỉ chỉ vào tên các đơn vị bộ đội được
ghi theo một thứ tự nào đó từ trên xuống dưới, ông to tiếng nên
gân cổ nổi lên từng lằn. Thì ra ông tướng về hưu đang kể lại các
trận đánh trong Cổ thành, trung đoàn nào đánh trước, sư đoàn nào
đánh sau. Rồi ông cố tỏ ra bất mãn trước đám người vây quanh,
nói rằng cách ghi tên các đơn vị bộ đội tham gia trận đánh là
không đúng. Ông nói rằng đúng ra phải ghi theo thứ tự đơn vị nào
vào (chiếm) trước chứ không thể ghi “đại trà” như thế này được.
Ông đòi phải tổ chức một “hội thảo khoa học” về vấn đề này.
Tôi đi lên tầng trên. Tầng này trưng bày các hiện vật và
hình ảnh các bộ đội đang đánh nhau, sơ đồ Cổ thành, mô hình trận
đánh. Trong ngổn ngang chiến tích, đạn, bom, và súng cối đã rỉ
sét có một cái bàn vuông nhỏ bên trên lộng kính, phía trong mặt
kiếng có hai lá cờ vàng ba sọc đỏ xếp ngay ngắn, một vài món
quân trang quân dụng và năm tấm hình căn cước của năm người lính
Việt Nam Cộng Hòa. Có một mẩu giấy ghi chú đây là chiến lợi phẩm
mà bộ đội tịch thu được trong Cổ thành hồi 1972. Các hiện vật ở
tầng này sơ sài, cách trưng bày lộn xộn và thiếu chuyên môn.
Không gian trưng bày một trận chiến ác liệt với bao mất mát bị
lấn lướt bởi chủ đề chủ đạo “chiến thắng”, biểu tượng qua tấm
hình một anh bộ đội ngồi ôm súng cười rất tươi giữa cảnh hoang
tàn đổ nát của Cổ thành.
Tôi đi xuống tầng dưới. Ông
tướng về hưu vẫn còn thao giảng trước ngọn lửa giả làm ngọn lửa
thiêng bất diệt. Ở gần cửa lớn ra vào có một nhà vệ sinh thông
với sảnh chính, cách chỗ ông tướng khoảng năm thước. Nhà vệ sinh
thông không có cửa nên vào trong vẫn nghe tiếng người nói bên
ngoài. Mùi hôi xông lên nghẹt thở khi bước vào căn phòng này,
sàn gạch bầy nhầy nước bẩn và trơn trợt. Ngay phía trên tường ở
ba cái bồn bằng sứ trắng dành cho đàn ông, có một dòng chữ bằng
sơn xanh nằm ngang tầm mắt: “Giữ vệ sinh chung xin tiểu ngay vào
bồn”. Mấy người đang vào nhà vệ sinh đồng loạt áp dụng chiến
thuật “đánh nhanh rút lẹ”, tất cả im lặng, nghe rõ giọng nói hào
sảng của ông tướng về hưu thao thiết vọng vào. Có lẽ các đoàn
tham quan trước không quen sống tập thể nên nhà bảo tàng mới
phải ghi khẩu hiệu thiết tha như vậy.
Rời Cổ thành chúng
tôi băng qua sông Thạch Hãn, đến ngã ba rẽ vào Đường số 9.
Đường 9 Nam Lào.
Mùa
xuân năm 1971 Việt Nam Cộng Hòa mở cuộc hành quân Lam
Sơn 719 tấn công qua biên giới Lào để phá hủy các căn cứ của Bắc
Việt. Trục lộ hành quân chính là Đường số 9 bắt đầu từ hướng cực
Đông là thị trấn Đông Hà.
Tôi đã đọc nhiều tài liệu về
con đường này, và giờ đây tôi đang đi trên Đường 9, bắt đầu từ
thị trấn Đông Hà. Mới hơn 10 giờ sáng nhưng cả thị trấn vắng vẻ
như không có nhiều người. Đường 9 Nam Lào bây giờ đã tráng nhựa
và khá rộng để hai chiếc xe [vận] tải tránh nhau dễ dàng. Con
đường này sẽ qua Cam Lộ, Cà Lu, Khe Sanh, Làng Vei, Lao Bảo cho
đến biên giới Lào. Đường 9 Nam Lào chỉ có trong mường tượng từ
ký ức qua các tài liệu thời chiến, hình dung các cuộc chuyển
quân, những người lính gian khó, các trận đánh dữ dội, những con
gió lào oi bức, có những khúc đường hẹp phải dùng xe ủi đất mở
đường, cây cối hai bên um tùm. Bây giờ đây trước mắt là một con
đuờng buồn, một thị trấn lặng lẽ, những căn nhà hai bên đường
không đóng cửa, nhìn suốt vào trong cũng không thấy người. Lời
của một bài hát vào năm 1972 vang lên “... anh đã về Gio Linh,
Cam Lộ, Đông Hà...”. Dưới ánh nắng trải đều dù không thấy dấu
vết sót lại của những ngày chiến tranh khốc liệt, ít nhất cũng
như vậy trong con mắt dân sự, nhưng từng vùng đất đi qua đều gợi
lên ký ức chiến tranh vì nó nổi danh vì chiến tranh, những cái
tên ngọt ngào nhưng đau khổ như Cam Lộ, như Khe Sanh. Bây giờ
bên phải là núi, bên trái là dòng sông Đak–rông lấp lánh nắng
mai ở Cây số 46 của Đường 9 (tính từ đoạn bắt đầu ở thị trấn
Đông Hà). Có một cái cầu treo bắc ngang sông giữa hai đầu núi,
cầu Đak–rông, đoạn đầu của Đông Trường Sơn. Bên kia cầu là Đường
14A đưa vào A Lưới và A Shầu (người Mỹ đọc là A Shau), đèo Mạ
Ơi, những quả đồi đầy tan tác thời chiến như Hamburger, Bastone.
Năm 1969 quân đội Hoa Kỳ quyết định mở
chiến dịch giải tỏa Thung Lũng A Shau với sự tham dự của nhiều
đơn vị Thủy Quân Lục Chiến, Thiết giáp, Không quân, và bộ
binh... Tờ mờ sáng ngày 10 tháng Năm/1969, Chiến dịch Apache
Snow bắt đầu. Giờ H là 7 giờ 30.
Đã gần giữa trưa, hai
bên cầu trẻ con người thiểu số tan học tung tăng đi về hướng A
Shau. Tất cả bọn chúng mặc áo quần màu đen, chân đất, nước da
đen xoắn khoẻ mạnh nhưng khuôn mặt hốc hác, trông chúng thật ngô
nghê và lạc lõng trên con đường tráng nhựa và cây cầu treo đẹp
đẽ mới khánh thành. Dưới kia là sông chảy, bên này là núi, bên
kia là những ngọn đồi xanh nối nhau dưới bầu trời xanh trong,
một con đường láng nhựa, một cột mốc đánh dấu Đường Trường Sơn.
Ngày 9 tháng 2 năm 1968, một tiểu đoàn quân
Bắc Việt tấn công Đồi 64 do Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trấn giữ,
tràn ngập nhiều vị trí phòng thủ.
Ngang Khe Sanh, chúng
tôi băng ngang ngã ba dẫn vào căn cứ (quân sự) Khe Sanh để đi
thẳng lên Lao Bảo. Khúc đường này đang xây dựng lở dở, bụi đỏ mờ
mịt, nhà cửa hai bên đường tràn ngập bụi đỏ. Nắng khô khốc tưởng
chừng cả vùng này rất khó tìm ra một giọt nước. Thỉnh thoảng các
xe đò mang bảng số Lào chạy ngược chiều chở các đoàn khách du
lịch hướng về Quảng Trị. Đến trung tâm chợ biên giới Lao Bảo thì
trời đã đứng bóng. Đây là một chợ biên giới gồm một khách sạn
khá lớn xây sát sườn chợ gồm hai khu nhà tròn và một khu ăn uống
bình dân. Một đứa bè chạy ra mời ăn cơm: “Mi có chi ăn?”. Thằng
bé nhanh nhẩu: “Chi cũng có đủ”. Khu ăn uống bình dân chỉ có hai
quán bán cơm và toàn thức ăn khô, “có đủ” ba món là cá nục kho,
cá ngừ kho, và cà pháo dầm nước mắm. Như vậy cũng đủ ăn một buổi
trưa biên giới, mua sắm một ít hàng lậu tuôn từ Lào qua. Mấy
tháng trước, tôi mướn một chiếc xuồng ba lá trốn công an biên
phòng để vượt biên từ Châu Đốc qua chợ Gò nằm bên kia đất Cam
Bốt. Chợ Gò nhộn nhịp, người bán xởi lởi tỏ rõ phong độ ngang
tàng của sông nước miền Nam. Ở Lao Bảo, người bán khô khan ít
nói như cái nóng của miền Trung. Cả khu chợ hàng hóa nhiều và
trật tự hơn chợ Gò nhưng có cái không khí trầm trầm lặng lẽ.
Chúng tôi lên xe chạy ngược về con đường bụi đỏ. Bên trái, những
quả đồi nằm chịu trận dưới mặt trời bốc lửa. Đến Làng Vei, nằm
nửa đường từ đoạn Lao Bảo – Khe Sanh, chúng tôi ngừng xe để ngắm
dòng sông chảy dịu dàng bên dưới.
Rạng sáng ngày
7 tháng 2 năm 1968, bộ đội Bắc Việt có chiến xa yểm trợ
tấn công và tràn ngập trại Lực Lượng Đặc Biệt ở Làng Vei.
Đoạn từ Làng Vei về lại Khe Sanh bằng phẳng, bên trái có vài
nương rẫy của đồng bào thiểu số. Chúng tôi băng qua trung tâm
Khe Sanh đã qua trưa, ngôi chợ lồng vắng vẻ như cả thị trấn đều
ngưng hoạt động, đến ngã ba thì rẽ trái vào Căn cứ (quân sự) Khe
Sanh.
Ngày 23 tháng 2 năm 1968, quân Bắc
Việt pháo 1,300 quả đại bác vào Khe Sanh trong 8 tiếng đồng hồ.
Mười lính Mỹ chết.
Đường đi phi trường Tà Cơn, một phi
trường quân sự của Mỹ thời chiến, hẹp hơn Đường 9 nhưng cũng đã
tráng nhựa bằng phẳng. Phi trường nằm cách đường cái chừng cây
số, có cổng rào và trạm gác thu phí tham quan. Trên bãi sân ngổn
ngang cỏ mọc người ta trưng bày một trực thăng UH và hai trực
thăng chuồn chuồn.
Ngày 11 tháng 2 năm 1968,
hai vận tải cơ C–130 đáp xuống Khe Sanh. Một chiếc nổ tung vì
trúng đạn pháo kích.
Mấy ngày rồi, ngày 25 tháng 4 năm
2005, Bộ Quốc phòng Mỹ nói họ đã xác định được danh tánh bốn
quân nhân Mỹ chết trên Đồi 665 vào đầu tháng 5/1967, và hài cốt
của bốn người lính này đã được đưa về Mỹ. Sau 37 năm nằm yên
trong vùng đất Khe Sanh, bốn quân nhân chết trong độ tuổi 20 đã
trở về quê hương, được vinh danh ở Nghĩa trang Quốc gia
Arlington. Còn những ngọn Đồi 471, 552, 665, 689... thì vẫn xanh
cỏ mọc. Còn bao nhiêu xương cốt của Mỹ, của Nam, của Bắc Việt
Nam vùi sâu nơi ấy.
Con đường rời Khe Sanh từ hướng Tây,
băng qua đèo Ai Lao để về lại Cam Lộ trông hùng vĩ hơn. Nhiều
đoạn đèo đang được thi công nâng cấp, đất cát lổn nhổn trộn với
bụi đỏ bay mịt trời. Mấy cái cần cẩu đang nâng lên hạ xuống ở
một cây cầu đang xây mới cạnh chiếc cầu cũ bắc ngang một vực sâu
ngay một khúc quành gắt như cùi chỏ. Đoạn đường này hẹp, nếu có
một chiếc xe đi ngược chiều thì không biết tài xế sẽ xoay xở ra
sao. Lấp lánh dưới sâu là dòng nước đã gần cạn trong mùa khô.
Trời trong và xanh. Ngang một đoạn đèo gặp một đoàn người đang
im lặng đi giữa đường, dẫn đầu là một người đàn ông mặc áo dài
màu xanh đậm. Ông này xách một cái phèng la cũ, vừa đi chậm rãi
vừa thỉnh thoảng gõ một tiếng “pheeng...”.
Kế đến là bốn
người đàn ông gánh một cái quan tài. Một đám tang giữa trưa.
Trên quan tài người ta dựng bốn cái cây đứng để chống một tấm
nhựa che nắng cho tấm hình của người chết, ảnh một cô gái trẻ để
trước quan tài. Những người đưa đám đều để đầu trần, có người đi
chân trần trên mặt đường nóng chảy nhựa. Đám tang lặng lẽ nhưng
tươm tất dưới mặt trời gay gắt, bóng chiếc quan tài in xuống nền
đường che nắng được một vài người đi khép nép ven hông quan tài.
Đoàn người đi chầm chậm trên đèo Khe Sanh – Cam Lộ, tiếng phèng
la điểm nhịp vang lên rồi tan dần vào vách núi. Một người trẻ
hôm nay sắp được chôn. Trong một vùng đất còn nhiều người mất
xác.
Lê Lô,
8/2005
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by batkhuat nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ
Tư, June 4, 2025
tkd. Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH