Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy bút
Chủ đề:
ngược dòng thời gian
Tác giả:
Nguyễn Diễm Nga
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trong
lòng tôi, họ là những người cha can trường.
Có thể
lúc ấy, họ vẫn là những chàng trai độc thân mang nợ nước
trên vai và nợ tình trong tim, cầm súng lên đường xông pha
vào chiến tuyến.
Có thể lúc ấy, họ đã là những người
cha nhưng chưa hề biết mặt đứa con thơ của mình còn đang nằm
trong bụng mẹ.
Họ đã mạnh mẽ gạt tình riêng, từ biệt
vợ dại con thơ ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng “Tổ Quốc –
Danh Dự – Trách Nhiệm” vang vang trong tâm tưởng của những
người trai thời chiến.
Đã có lúc tôi từng muốn lịch
sử ngủ yên!
Quay ngược dòng ký ức để làm gì khi lúc
ấy chúng tôi chỉ là những đứa trẻ?
Không ai yêu thích
chiến tranh, nhưng nếu hiểu rõ về một cuộc chiến, hiểu rõ
được sự can trường của những người lính Việt Nam Cộng Hoà,
hiểu rõ được “tầm vóc” của họ trong đôi mắt và suy nghĩ từ
những ngòi bút chân chính khắp nơi trên thế giới, tôi tin
mình sẽ trưởng thành hơn.
Hôm nay, tôi muốn viết về
cảm xúc của mình khi đọc bài viết “Heroic Allies” của tác
giả Harry F. Noyes III. Tác giả là một cựu chiến binh Hoa Kỳ
từng chiến đấu tại Việt Nam trong quân chủng Không Quân. Sau
cuộc chiến trở về, ông lấy được văn bằng cao học về Nghiên
Cứu Á Châu từ trường Ðại Học Hawaii. Bài này (Heroic
Allies) được đăng
trong tạp chí Vietnam, số tháng 8, 1993.
“They were
small, talked in sing–song squeaks, put a smelly fish sauce
on their food, and often held hands with each other.”
Ông Noyes bắt đầu bài viết của mình bằng một câu như
vậy: “Họ (người lính VNCH) vóc dáng nhỏ con, nói chuyện
líu lo như chim hót, ưa thêm nước mắm vào mọi món ăn, và
thường hay nắm tay nhau.”
Chính những điều lạ
lẫm, thiếu hiểu biết về xứ sở, về văn hoá của một đất nước,
một dân tộc với những con người xa lạ này đã khiến cho đa số
những người lính viễn chinh Mỹ khó lòng thông cảm với những
người mà họ bất đắc dĩ gọi là “đồng minh”, những người lính
Việt Nam Cộng Hòa.
Và rồi từ sự thiếu thông cảm này dẫn
đến những kỳ thị, những đánh giá thiếu công bằng cho Quân
Đội Miền Nam Việt Nam, đồng thời cũng là hình thức bao biện
cho sự bỏ rơi “đồng minh” một cách phũ phàng, nếu không muốn
nói là “vô nhân đạo” của Quân Đội Hoa Kỳ.
Ví dầu tình bậu muốn thôi
Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra.
Tôi nhớ đến hai câu ca dao trên và bất giác mỉm cười
chua chát. Ôi, những câu ca dao Việt sao mà đúng từ ngàn xưa
cho tới ngàn sau.
Những điều ông Noyes viết, không
phải chúng ta chưa từng nghe, từng đọc trước đây về những
tội danh mà truyền thông Mỹ đã “gieo tiếng dữ” cho Quân Đội
Miền Nam Việt Nam như “bất tài, phản trắc, và hèn nhát, v.v.
và v.v.” Tuy nhiên, ông đã lập luận gãy gọn và đưa ra những
bằng chứng hết sức xác đáng “từng quan điểm một” để so sánh
và phân tích vị thế và khả năng tác chiến của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hoà với những đội quân khác trên thế giới bao gồm
Quân Lực Hoa Kỳ thời chiến tranh Ðộc Lập của Hoa Kỳ
(American War of Independence) với nước Anh Vĩ Đại (The
Great Britain) vào cuối thế kỷ 18.
Theo ông Noyes,
trong cuộc Chiến Tranh Cách Mạng (Revolutionary War) ấy,
Quân Đội Mỹ đã có nhiều thuận lợi hơn Quân Đội Miền Nam Việt
Nam ở những điểm sau:
• Quy mô của cuộc chiến ấy nhỏ
hơn và dễ chi phối hơn (khác với Chiến Tranh Việt Nam tuy
chịu tiếng là “nồi da xáo thịt” nhưng thực chất chính là một
cuộc đối đầu giữa hai khối tư tưởng chính trị gây ảnh hưởng
toàn cầu: Chủ Nghĩa Tư Bản và Chủ Nghĩa Cộng Sản.)
•
Quá trình thuộc địa Hoa Kỳ đã giúp hình thành được những
chính quyền tự phát địa phương, cho phép đất nước này hun
đúc nên những vị lãnh tụ tài ba thật sự (trong khi Miền Nam
Việt Nam chỉ là một nền Cộng Hòa đang phát triển, mới vừa
thoát khỏi ách thuộc địa Pháp lại phải lao đầu ngay vào một
cuộc chiến sinh tử với một đối thủ hùng mạnh được cả một
khối Cộng sản hỗ trợ phía sau).
• Quân Anh không quá
ngoan cố như Cộng Sản Bắc Việt.
• Quân đồng minh Pháp
thời bấy giờ đã không bỏ rơi nước Mỹ non trẻ như kiểu người
Mỹ bỏ rơi Miền Nam Việt Nam.
Chúng ta hãy cùng với
ông Noyes điểm qua một vài trận đánh sau đây để ngậm ngùi
chịu tiếng oan “bất tài, phản trắc, và hèn nhát” cùng với
những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà:
Trận
Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968, Cộng Sản Miền Bắc tưởng
rằng sẽ đập tan được ý chí chiến đấu của Nam Việt. Tuy
nhiên, thay vì bỏ cuộc, Quân Đội Miền Nam Việt Nam đã kháng
cự mãnh liệt và hữu hiệu: không một đơn vị nào tan rã hay
tháo chạy. Ngay cả cảnh sát cũng chiến đấu, họ đương đầu với
quân chính quy đối phương trang bị bằng vũ khí hùng hậu với
chỉ bằng những khẩu súng cầm tay. Dựa theo báo cáo, sau trận
này, tinh thần chiến đấu của người miền Nam dâng cao, số
người xin đăng lính cao đến nỗi chính quyền của quốc gia này
phải đình hoãn bớt việc thu nhận thêm tân binh.
Trong
cuộc Tổng Tấn Công năm 1972, lực lượng trú phòng của Quân
Đội Miền Nam Việt Nam bị vây hãm tại An Lộc đã giữ vững được
vị trí của mình trước một lực lượng ghê gớm của quân thù cả
về người lẫn hỏa lực kinh hồn của đại pháo và hỏa tiễn.
Chúng ta đã đọc rất nhiều, đã nghe rất nhiều những hồi ký về
Trận An Lộc từ những nhân chứng sống người Việt. Thiết tưởng
nay dưới một góc nhìn khách quan của một nghiên cứu gia
người Mỹ đã từng góp mặt trong cuộc chiến, liệu nỗi oan của
họ có rửa được chăng?
Sau trận này, ông Noyes kể đã
được tiếp xúc với một Cố vấn Mỹ để nghe tường thuật lại mẩu
chuyện một tiểu đội lính VNCH trong vùng được lệnh thanh
toán ba chiến xa, đã hành động như thế nào. Họ hạ được một
chiếc, rồi quyết định tìm cách bắt sống hai chiếc còn lại.
“Theo tôi nhớ thì họ chộp được một chiếc còn một chiếc bỏ
chạy, thế là mấy người lính chạy bộ rượt theo đến cuối
đường.”
Ông Noyes cho rằng việc thi hành thượng lệnh
của mấy người lính này có thể không đúng tác phong quân kỷ,
nhưng lối hành xử cho thấy tinh thần chiến đấu cao của họ và
thế chủ động mà mọi binh sĩ VNCH đều có.
Cho đến năm
1975 khi Quốc Hội Mỹ đã quyết định không ra tay cứu giúp
VNCH thêm nữa về cả nhiên liệu lẫn đạn dược, thế mà một đơn
vị quân VNCH tầm cỡ một sư đoàn đã cầm chân được bốn sư đoàn
BV trong suốt hai tuần giao tranh ác liệt tại Xuân Lộc. Một
chọi bốn! Theo ông Noyes, chỉ riêng một trận này thôi sự anh
dũng còn nổi bật hơn bất kỳ một chiến công nào có thể tìm
thấy trong chiến sử Hoa Kỳ. Nhưng... ngậm ngùi thay, đội
quân Miền Nam sau đó đành phải lui binh vì Không Quân của họ
không còn bom để yểm trợ.
Đến đây, tôi muốn bạn hãy
đọc một đoạn bằng nguyên bản tiếng Anh của ông Noyes:
“Remember:
The United States had cut aid to South Vietnam drastically
in 1974, months before the final enemy offensive. As a
result, only a little fuel and ammunition were being sent to
South Vietnam. South Vietnamese air and ground vehicles were
immobilized by lack of spare parts. Troops went into battle
without batteries for their radios, and their medics lacked
basic supplies. South Vietnamese rifles and artillery pieces
were rationed to three rounds of ammunition per day in the
last months of the war.
The situation was so bad that
even the North Vietnamese commander who conquered South
Vietnam, General Van Tien Dung, admitted his enemy’s
mobility and firepower had been cut in half. Aside from the
direct physical effect, we must take into account the impact
this impoverishment had on South Vietnamese soldiers’ morale.”
Bởi vì tôi e sợ bạn sẽ không tin tôi nếu như lược dịch
những điều này qua tiếng Việt.
Tôi đã khóc khi đọc
đến đây!
Tôi đã khóc cho một quân đội bất hạnh khi
hình dung ra ông ngoại tôi, bố tôi, các chú bác của tôi, hai
cậu tôi cùng biết bao đồng đội của họ đã phải chiến đấu
trong một hoàn cảnh tồi tệ như vậy. Bởi vì có hai thứ mà một
người lính cần nhất trên mặt trận đó là vũ khí và tinh thần.
Tinh thần thì vẫn cao ngất, nhưng vũ khí và sự hỗ trợ từ
“đồng minh” thì cạn kiệt. Thương thay!
Hai luận điểm
quan trọng nhất mà ông Noyes đã dùng để minh chứng cho ý chí
chiến đấu kiên cường của quân nhân Miền Nam và để thấy rõ sự
thất bại và đổ lỗi của người Mỹ tại Việt Nam như sau:
Thứ nhất: Chiến tranh Việt Nam đã khởi sự khoảng bảy năm
trước khi lực lượng Hoa Kỳ chính thức đổ bộ và sau đó lại
tiếp tục thêm chừng 5 năm sau khi quân Mỹ rút đi. Quân đội
Miền Nam Việt Nam đã–vẫn–và luôn luôn kiên cường chiến đấu,
không ai khác hơn!
Thứ hai: Quân đội Miền Nam Việt
Nam bị thương vong một phần tư triệu binh sĩ trên chiến
trường. Theo “tỉ lệ dân số” thì tương đương hai triệu lính
Mỹ chết (một con số gấp đôi tổn thất của Mỹ trong tất cả các
chiến tranh gộp lại).
Vì vậy, nếu cho rằng Quân Đội
Miền Nam hèn nhát và không chịu chiến đấu thì tại sao họ lại
hy sinh nhiều như vậy?
Tuy nhiên còn có một luận điểm
nữa trong bài viết mà ông Noyes đã nói đến không chút tránh
né khiến cho tôi vô cùng vì nể đó là khi ông phân tích về sự
“bất tài và hoảng loạn, về động thái ‘bỏ chạy’ trên chiến
trường”.
Ông dẫn chứng bằng những mẩu chuyện sau:
“Khi một phụ nữ Anh hỏi viên công tước xứ Wellington
rằng lính Anh có bao giờ bỏ chạy trên chiến trường không?”
Viên công tước đáp, “Ngoài chiến trường người lính
nào cũng có bỏ chạy cả, thưa bà.”
Cuộc Nội Chiến
(Civil War) của nước Mỹ cũng đã cho thấy sự can trường lẫn
sợ hãi liên tục trồi lên sụt xuống. Những đơn vị của cả hai
phe Confederate lẫn Union đều có lúc xông pha rất hăng hái
và rồi có lúc phải “bỏ chạy” trước hỏa lực kinh hồn trước
khi tập hợp lại tiếp tục chiến đấu. Họ cũng có lúc giao động
chạy tán loạn nơi một chiến trường quá đẫm máu.
Hoặc
như trong Thế Chiến Thứ Hai, khi cảm tử quân Nhật vừa tấn
công vừa hò hét đã khiến cho một đơn vị bộ binh Hoa kỳ hoảng
hốt “bỏ chạy”, trong khi đơn vị thứ hai trụ lại quyết chiến
và sau khi tiêu diệt đội cảm tử quân Nhật gồm 10 tên thì mới
biết đa số quân Nhật không có vũ khí.
Ông kết luận
rằng, nếu một biến cố đơn thuần không thể đem ra mà gán cho
cả quân lực Hoa Kỳ là hèn nhát, thì thỉnh thoảng có sự tan
hàng của một vài người lính hay tướng lãnh VNCH cũng không
có nghĩa là tất cả chiến binh miền Nam đều hèn nhát.
Riêng tôi, tôi tự hỏi: tấm gương của Ngũ Hổ Tướng tuẫn tiết
trong giờ phút thứ 25 cùng với biết bao Quân Dân Cán Chính
Miền Nam Việt Nam kiên cường ở lại cùng quê hương, sẵn sàng
đối mặt với sự trả thù hèn hạ của Cộng Sản trong các trại tù
từ Nam ra Bắc, những điều này mang ý nghĩa gì đối với truyền
thông một chiều của nước Mỹ?
.....
Văng vẳng đâu
đây lời tình ca ai viết sao tôi nghe như một câu hỏi ray
rứt:
Em ru gì, lời ru cho đá núi
Đá núi tật
nguyền, vết sẹo thời gian...
Biết bao giờ thời
gian mới xóa nhoà và xoa dịu vết thương chiến tranh trong
lòng họ, những người cha can trường của thế hệ chúng tôi?
Nguyễn Diễm Nga
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by batkhuat nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ
Sáu, May 30, 2025
tkd. Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH