Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
tản mạn thơ
Tác giả:
Hoàng Hải Thuỷ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Tôi có
cảm tình với Thi sĩ Quang Dũng.
Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tế
Hanh, Thanh Tịnh, Hoàng Cầm, Nguyễn Bính đều có thơ ca tụng Hồ
Chí Minh; Quang Dũng không một lời thơ nhắc đến.
Tôi thấy Thơ về Kháng Chiến 1946–1954,
Thơ Quang Dũng là Nhất.
Tôi 15 tuổi năm 1946. Tôi có 4 năm đi
kháng chiến. Gọi là “đi kháng chiến,” viết rõ là tôi – như rất
nhiều thiếu niên cùng tuổi – đi làm liên lạc viên, mang thư tay
của cơ quan, đi chân đất mang thư đến những cơ quan kháng chiến
khác. Nhờ vậy tôi có 4 năm sống với nhân dân miền quê, tôi cảm
được Thơ Quang Dũng.
(Chiến tranh
Việt Pháp 1946–1954: tình hình chiến sự rất nặng
trên đất Lào. Người Việt thời ấy quen nghe tin, quen đọc trên báo
những tin về những trận đánh diễn ra ở Xieng Khuang, Savannakhet,
Paksé, Seno...)
Năm 1954 ở Sài Gòn tôi mới được biết
trọn vẹn những bài Thơ Hay Nhất của Quang Dũng.
Tây
Tiến
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao
sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về
trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút
cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên
cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông
mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên
súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai
linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch
cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Doanh trại bừng lên Hội Đuốc Hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man
điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn
thơ
Người đi
Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau
nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc
mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng
gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội
dáng Kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo
bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm
lên khúc độc hành
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên
Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa
chẳng về xuôi.
—Phù Lưu Chanh
Đôi
Mắt Người Sơn Tây
Em ở Thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt
bao lần quê Bất Bạt
Chiều xanh không
thấy bóng Ba Vì
Vừng trán em vương trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
Tôi thấy
xứ Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ em
nhớ thương
Từ
độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn thôi
lại nối điêu tàn
Đất đá ong khô nhiều
ngấn lệ
Em có bao giờ lệ chứa chan
Mẹ tôi em có gặp đâu không
Những xác già nua ngập cánh đồng
Tôi
cũng có thằng em còn bé dại
Bao nhiêu
rồi xác trẻ trôi sông
Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn
khuây
Cho nhẹ
lòng nhớ thương
Em mơ cùng ta nhé
Bóng ngày mai quê hương
Đường hoa khô
ráo lệ
Bao giờ
trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn
ngắm lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh
Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm
trăng
Bao giờ
tôi gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình
chắc nở hoa
Đã hết sắc mầu chinh chiến
cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta.
Đôi
Bờ
Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai?
Sông xa từng lớp lớp mưa dài
Mắt kia em
có sầu cô quạnh
Khi chớm heo về một sớm
mai?
Rét mướt
mùa sau chừng sắp ngự
Bên này em có nhớ
bên kia
Giăng giăng mưa bụi quanh phòng
tuyến
Hiu hắt chiều sông lạnh bến Tề
Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa
Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ
Thoáng hiện
em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện
một đêm mơ
Xa
quá rồi em người mỗi ngã
Bên này đất
nước nhớ thương nhau
Em đi áo mỏng buông
hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào?
Nhiều người Việt thuộc Thơ Quang Dũng.
Nhưng viết về Thơ Quang Dũng, CTHĐ tôi không thể không kể những
bài Tây Tiến, Đôi Bờ, Đôi mắt người Sơn Tây...
oOo
Quang Dũng viết về Tây Tiến:
Tôi nhập ngũ đúng ngày Cách mạng tháng
Tám thành công. Năm đó tôi hai mươi sáu tuổi. Trước cách mạng,
tôi học Ban Trung học trường Thăng Long. Tốt nghiệp, tôi đi dạy
học tư ở Sơn Tây để kiếm sống.
Những ngày đầu vào quân đội, tôi nhận
công tác ở Phòng công vụ Bắc Bộ. Phòng này do anh Nguyễn Văn Chân
phụ trách. Tôi làm phái viên của phòng, có nhiệm vụ đi thu mua vũ
khí ở vùng Hà Nam – Sơn Tây. Thấy tôi có chút học thức, lại yêu
mến văn chương, anh Chân giới thiệu tôi lên chiến khu làm công
tác báo chí. Tôi trở thành phóng viên tiền phương của tờ báo
Chiến đấu thuộc Khu II.
Thời đi học tôi rất mê Đường Thi Tam
Bách Thủ, nhất là những bài dịch của nhà thơ Tản Đà. Tôi cũng say
mê thơ mới, tôi thích thơ Thế Lữ hơn cả, đặc biệt là bài Nhớ
Rừng. Nhà văn tôi ái mộ là Thạch Lam. Thạch Lam không chỉ viết
văn mà còn dịch những bài thơ văn xuôi của Pháp. Và có lẽ tôi
tiếp thu được gì ở thơ ca Pháp ngày ấy, là do đọc các bản dịch
này. Khi làm công tác báo chí tôi lại càng thấy thích văn phong
của Thạch Lam. Hà Nội ba mươi sáu phố phường của Thạch Lam là một
tập bút ký giàu chất thơ.
Tôi ở báo Chiến Đấu đến đầu năm 1947
thì được điều đi học Trường bổ túc trung cấp quân sự Sơn Tây.
Những tháng học ở trường, tôi nhớ mãi
hình ảnh vị giáo sư quân sự người Nhật như một kiểu mẫu sĩ quan
mà chúng tôi mơ ước và kính nể. Giáo sư có tên Việt Nam là Lâm
Sơn. Đại tá Lâm Sơn. Ông là sĩ quan Nhật sau Thế Chiến II không
chịu về Nhật. Giáo sư lên lớp bằng tiếng Nhật, có người thông
ngôn. Giọng ông sang sảng nghe đầy uy quyền. Kỷ luật trong trường
quân sự hồi đó rất nghiêm khắc, nếu như bây giờ có thể gọi là
“quân phiệt.” Giờ học đã đành, giờ nghỉ cũng rất “khuôn phép.” Có
lần tôi ra quán uống cà phê về muộn, cảnh vệ bắt được, cứ lo như
ngày nhỏ trốn học bị thầy bắt được. Sáng thứ hai đầu tuần, sau
lúc chào cờ, đại tá bắt tôi bò bốn vòng quanh cột cờ. Tôi bò một
cách tự giác, bởi nghĩ rằng: đã mặc áo lính tất phải chịu nhữnh
hình phạt như thế, nếu mình phạm kỷ luật.
Có lần Bác Hồ đến thăm trường. Tôi nhớ
Bác còn nói cho chúng tôi nghe một cuốn sách viết về chiến tranh
du kích. Vốn giàu óc tưởng tượng về hành động chiến đấu của người
lính, tôi rất thú hình ảnh người du kích. Bác nói: “lại vô ảnh,
khứ vô hình”, nghĩa là đến và đi không ai thấy. Chỉ nội mấy cái
âm chữ Hán, đọc lên nghe đã xuất quỷ nhập thần rồi, chưa nói đến
việc vận dụng nó vào chiến thuật quân sự.
Sau lớp học, tôi về Trung đoàn Tây
Tiến, tức là Trung đoàn 54. Anh Tuấn Sơn làm Trung đoàn trưởng.
Tôi ở đại đội bộ, làm đại độ trưởng. Tiểu đoàn 212 của tôi là
tiểu đoàn trước đây đã từng làm náo động các sân bay Cát Bi, Bạch
Mai... bây giờ chuyển sang nhận nhiệm vụ Tây Tiến.
Tây Tiến là chiến dịch tiến quân từ Khu
III, Khu IV lên Khu X tức là Tây Bắc, vùng Điện Biên Phủ. Đây là
chiến dịch có ý nghĩa chiến lược. Năm 1945 khi khắp nơi nổi dậy
cướp chính quyền thì nhân dân vùng này nhiều nơi vẫn chưa được
giác ngộ cách mạng. Năm 1946, Trung đoàn Sơn La có đánh vào Tây
Bắc, nhưng mới chỉ có ý nghĩa thăm dò. Đầu năm 1947 ta thành lập
Trung đoàn Tây Tiến đầu tiên, gồm các chiến sĩ tình nguyện của
Khu III, Khu IV và tự vệ Thành Hà Nội trước thuộc Trung đoàn Thủ
đô. Đợt Tây Tiến đầu tiên, ta đánh sâu nhưng phải rút lui ngay,
vì lực lượng địch tập trung và mạnh. Tôi đi đợt hai. Nhiệm vụ của
chúng tôi là mở đường qua đất Tây Bắc. Một nhiệm vụ không kém
phần quan trọng là công tác dân vận gây dựng cơ sở, tranh thủ sự
giác ngộ của nhân dân. Vì thế đi đôi với chức vụ đại đội trưởng,
tôi còn được cử làm Phó đoàn tuyên truyền Lào–Việt.
Chúng tôi xuất phát từ Sơn Tây. Lúc đầu
đi bằng ô–tô, những xe ô–tô chở khách của những hãng xe Con Thỏ,
Trung Hà, Từ Đường, Mỹ Lâm... đều được xung công làm nhiệm vụ
quân sự. Chúng tôi đi qua đường số 6, qua suối Rút. Thị trấn Hoà
Bình năm ấy còn tự do. Sau, chúng tôi chuyển sang hành quân bằng
đôi chân, thực sự nếm mùi Tây Tiến: xuyên rừng, ngủ rừng. Những
cái dốc thăm thẳm “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, những chiều
“oai linh thác gầm thét”, những đêm “Mường Hịch cọp trêu người”,
rồi rải rác dọc biên cương những “nấm mồ viễn xứ”... những cảnh,
những tình tôi mô tả trong bài thơ Tây Tiến là rất thực, có pha
chút âm hưởng Nhớ Rừng của Thế Lữ, tôi viết “Tây Tiến đoàn quân
không mọc tóc”. Hồi ấy trong đoàn chúng tôi rất nhiều người sốt
rét đầu rụng hết tóc. Trong điều kiện gian khổ, thiếu ăn, kiệt
sức, bộ đội chết vì sốt rét rất nhiều. Chúng tôi đóng quân ở nhà
dân, cứ mỗi lần nghe tiếng cồng nổi lên, lại tập trung đến nhà
trưởng thôn để tiễn một người vĩnh biệt rừng núi. Tiếng cồng ở
Tây Tiến nghe buồn đến nẫu ruột. Kể chuyện lại, bây giờ tôi vẫn
nghe văng vẳng tiếng cồng.
Đối với miền Tây, gay nhất là thuốc, vì
đường tiếp tế rất khó. Tôi nhớ có lần được thuốc từ Khu II gửi
lên. Cụ Thi Sơn trong Mặt trận Liên Việt tặng thuốc (nguyên cụ
Thi Sơn là tướng của ông Đề Thám). Trong buổi lễ trao thuốc long
trọng này, Anh Hồng Thanh, chính uỷ Trung đoàn, đã thay mặt bộ
đội nhận thuốc. Anh còn làm cả thơ. Tôi còn nhớ mấy câu:
Một buổi sớm mọi người đều hoan hỉ
Từ bệnh nhân đến bác sĩ đều vui
Vì được
tin kháng chiến chiến Khu II
Vừa gửi
tặng 3,000 viên thuốc sốt...
Không hiểu cảm động vì có thuốc hay vì
nghe thơ, mà anh Hồng Thanh đọc thơ xong, ai cũng rưng rưng nước
mắt...
Tôi
muốn gợi thêm một ý của bài thơ Tây Tiến để nói lên cái gian khổ,
thiếu thốn ở miền Tây. Ngay cả khi nằm xuống, nhiều tử sĩ cũng
không có manh chiếu liệm. Nói “áo bào thay chiếu” là cách nói của
người lính chúng tôi, cách nói ước lệ của thơ trước đây để an ủi
những đồng chí của mình đã ngã xuống giữa đường.
Bài thơ Tây Tiến tôi làm khi về dự Đại
hội Toàn quân ở Liên khu III, làng Phù Lưu Chanh (tên một tổng
của tỉnh Hà Nam thời Pháp.) Tôi làm thơ rất nhanh, làm xong đọc
trước Đại hội, được mọi người hoan nghênh. Nhân có Nguyễn Huy
Tưởng, đại biểu Hội Nhà Văn ở Việt Bắc về dự, lúc đi, tôi gửi anh
bài thơ đó. Sau anh Xuân Diệu cho in ngay ở Tạp chí Văn nghệ. Hồi
đó tấm lòng và cảm xúc của mình ra sao thì viết vậy. Tôi chả có
chút lý luận gì về thơ cả. Dẫu sao bài thơ Tây Tiến có cái hào
khí của lãng mạn một thời gắn với lịch sử kháng chiến anh dũng
của dân tộc... Từ Tây Tiến trở đi tôi làm nhiều thơ. Những bài
Đường mười hai, Ngược đường số 6, Đôi mắt người Sơn Tây là những
bài thơ mà tôi thích.
Cuối năm 1948, sau chiến dịch Tây Tiến,
tôi về làm trưởng tiểu ban tuyên huấn của Trung đoàn 52... Rồi
làm trưởng đoàn Văn nghệ Liên khu III.
Tháng 8 năm 1951, tôi xuất ngũ. Còn cái
trung đoàn Tây Tiến của tôi, hình như sau này được phân chia, bổ
sung để thành lập sư đoàn 320 thì phải.
Quang Dũng
CTHĐ Sao Y Bản Chính.
CTHĐ: Tuổi hoa niên tôi ngất ngư vì
những lời Thơ Đôi Bờ, Quán bên đường, Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn
Tây...
Tôi
dành bài Thơ Quang Dũng làm tôi, trong tuổi già Tám Bó, cảm động
nhất để kết thúc bài Viết ở Rừng Phong Tháng Năm 2015.
Quang Dũng làm bài Thơ này năm 1970.
Theo tôi, đây là bài Thơ Cuối Cùng của ông.
EM HAI MƯƠI TUỔI
Em mãi là hai mươi tuổi
Ta mãi là mùa xanh xưa
Những cây ổi thơm
ngày ấy
Và vầng hoa ngâu mưa thu
Tóc Anh đã thành mây trắng
Mắt Em dáng
thời gian qua
Ngày nay ngày nay
Chuyện đẹp qua đi
Thời gian gấp ruổi
Còn lại chúng ta
Em mãi là hai mươi tuổi
Ta mãi là mùa
xanh xưa
Giữ trọn tình người cho đẹp
Ơi! Con đường xưa
Những mùa trút lá
Cành bàng mồ côi
Cổng cũ rêu phong
Ý đợi người
Ơi! Con đường xưa
Men vườn ổi thơm
Em tuổi hai mươi
Yêu Anh hào hiệp
Bỏ Em Anh đi
Đường hai mươi năm
Dài bao chia ly
Có những vợ chồng
Không là trăm năm
Mà tình thương yêu
Sông ơi! Dài sao
Rộng ơi! Biển cả
Thôi Em nước mắt
Đừng rơi lã chã!
Em mãi là hai mươi tuổi
Ta mãi là mùa xanh xưa
Giữ trọn tình
người cho đẹp.
oOo
CTHĐ: Năm 1949, tôi được Ban Tình Báo Đặc Biệt Gia Lâm cho lên Việt Bắc học Khóa Huấn Luyện Kháng Chiến II. Vị giáo sư trưởng của Trường là Đại tá Lâm Sơn. Người thông ngôn là anh Châu. Đại tá và bà vợ – ông bà không có con – và anh Châu, ở thôn bên cạnh trường. Đại tá – trạc 50 tuổi – bận sơ–mi trắng cộc tay, quần ka–ki, đi botte, đi ngựa. Anh Châu cũng vậy. Ngựa hai ông đi là ngựa Tây, cao, khỏe, đẹp. Trong khóa học có một sĩ quan Nhật trẻ tuổi dạy Judo. Năm ấy tôi nghe các anh trong trường nói Đại tá Lâm Sơn là Tư Lệnh Quân Nhật ở đảo Hải Nam. Nhật bại trận, ông không chịu về nước.
oOo
Có con chim đậu nhành dây điện
Lại nhớ
ngày xưa chuyện chúng minh.
Em đã đi
rồi, chim gọi nắng,
Em còn nghe tiếng
nữa bao giờ!
Ôi... Cảm khái cách gì!
Hoàng Hải Thuỷ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by batkhuat nguyễn chuyển
Đăng ngày Thú Bảy, July 13, 2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang